Nếu Như Được Làm Lại

CHƯƠNG 9



Khi đến tòa soạn, Andrew quyết định không thay đổi bất cứ điều gì trong thói quen hằng ngày của mình. Anh cần lùi lại một chút để đánh giá tình hình và suy ngẫm thật kỹ trước khi quyết định bất cứ chuyện gì. Vả lại, khi còn niên thiếu, anh từng đọc vài cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng có nhắc đến những chuyến du hành về quá khứ và nhớ lại rằng thay đổi tiến trình sự việc có thể gây ra những hậu quả tai hại.
Anh dành cả ngày trời chuẩn bị cho chuyến đi tới Argentina lần thứ hai mà anh từng thực hiện trong cuộc đời trước đây. Anh dự định dù sao vẫn sẽ tự cho mình quyền được thay đổi khách sạn ở Buenos Aires, khách sạn anh từng lưu trú đã gây cho anh những ấn tượng rất tồi tệ.
Anh trao đổi ngắn gọn vài câu với Freddy Olson, người ngồi ngay cạnh bàn làm việc của anh. Vì đố kỵ nên tay đồng nghiệp này không ngừng tìm cách tống khứ anh ra khỏi ban biên tập, nếu không thì cũng cố gắng đánh cắp của anh những chủ đề anh đang làm.
Andrew nhớ rất rõ lý do cuộc cãi vã giữa họ bởi chúng đã từng xảy ra. Thây kệ trật tự thế giới, Andrew đã chủ động kết thúc mọi chuyện. Anh đuổi khéo Olson, nhờ đó mà tránh cho tổng biên tập phải rời khỏi lồng kính của mình để bắt anh chịu nhục khi xin lỗi tên ngu đần đó trước mặt tất thảy các đồng nghiệp.
Chung quy lại thì Andrew cũng không đi chính xác từng mi li mét một theo mỗi bước chân anh từng đi, anh tự nhủ như vậy khi tiến lại bàn làm việc. Có thể anh sẽ nghiền nát vài con côn trùng từng sống sót sau những buổi chạy bộ buổi sáng trên thảm cỏ ở công viên River Park trong vòng hai tháng trước… hai tháng tới, anh cải chính thầm trong đầu.
Ý nghĩ bất chấp tiến trình sự việc không hề khiến anh phiền lòng. Anh vẫn còn chưa cầu hôn Valérie – anh sẽ chỉ thực hiện việc này ba ngày sau khi cô nhắc lại chuyến đi đến Buenos Aires của anh – anh vẫn chưa làm trái tim cô tan vỡ, và vì thế vẫn chưa cần gì phải xin cô tha thứ. Nếu như không có khả năng là cuối cùng anh sẽ hết đời trong vũng máu, trong khoảng sáu mươi ngày tới, thì chuyến ngược trở về quá khứ rốt cuộc chỉ toàn những lợi ích hay ho.
Khi Valérie gọi cho anh vào lúc 18h30, anh đã phạm lỗi vụng về hứa với cô sẽ ngay lập tức tới gặp cô tại rạp chiếu phim trước cả khi cô đề nghị với anh như vậy.
– Làm sao anh biết rằng em sẽ rủ anh đi xem phim? Cô ngạc nhiên hỏi.
– Anh không biết, anh ấp úng, tay quắp chặt cây chì viết. Nhưng đó là ý hay đúng không? Trừ phi là em thích ăn tối ở nhà hàng hơn?
Valérie suy nghĩ trong giây lát rồi quyết định chọn đi ăn tối.
– Anh đặt bàn ở Omen nhé.
– Tối nay anh thật có khiếu, em cũng đang nghĩ đến đúng quán đó.
Cây chì viết của Andrew gãy tan trong lòng bàn tay anh.
– Có nhiều tối như vậy lắm chứ, anh nói. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong khoảng gần một giờ nữa nhé. Rồi anh hỏi về vụ thanh tra y tế diễn ra như thế nào, dù đã biết rõ câu trả lời.
– Không phải thanh tra nữa, Valérie đáp, viên thanh tra bị tai nạn ô tô trên đường đến. Em sẽ kể cho anh khi chúng ta ăn nhé.
Andrew gác máy.
– Mày phải tỏ ra tinh tế hơn chút nữa trong những tháng tới, nếu như không muốn bị nghi ngờ, anh khẽ giọng tự nhủ.
– Loại nghi ngờ gì đó? Freddy Olson ngó đầu qua vách ngăn ngăn cách giữa bàn hắn ta và bàn của Andrew.
– Nói cho tôi biết đi, Olson, có phải mẹ anh chưa từng giải thích cho anh biết rằng nghe lén ngoài cửa thật chẳng lịch sự chút nào à?
– Tôi chẳng nhìn thấy cái cửa nào sất, Stilman, anh là người có óc quan sát tinh tế đến thế cơ mà, anh chưa từng nhận ra rằng chúng ta đang làm việc trong một không gian mở à? Anh chỉ cần nói nhỏ hơn chút nữa thôi. Anh tưởng rằng nghe mấy mẩu trao đổi của anh khiến tôi thấy thích thú lắm à?
– Tôi chẳng giây phút nào nghi ngờ chuyện đó cả.
– Thế thì, lúc nãy ngài nói đến loại nghi ngờ nào vậy, ngài phóng viên được thăng cấp?
– Cái nhận xét nho nhỏ này của anh chính xác là có nghĩa gì thế?
– Ồ, thế đấy anh Stilman, ở đây ai mà chẳng biết rõ là anh đã thành tay chân thân cận của Stern. Anh muốn gì nào, chúng tôi chẳng thể chống lại một dạng chủ nghĩa nghiệp đoàn kiểu vậy đâu.
– Tôi biết là tài năng báo chí của anh khiến anh không chắc mình có thuộc về nghiệp đoàn nghề nghiệp của chúng ta hay không và tôi cũng chẳng buộc tội anh đâu, nếu tôi cũng kém cỏi như anh. Olson à, tôi chắc cũng nghi ngờ như vậy thôi.
– Thật nực cười! Nhưng tôi chẳng nói về chuyện đó, Stilman, đừng ra vẻ ngốc nghếch hơn là mình vốn thế đi.
– Thế anh định nói về cái gì hả Olson?
– Stilman, Stern, hình như cũng hơi có chung nguồn gốc thì phải?
Andrew chăm chú quan sát Freddy. Anh nhận thấy rằng trong cuộc đời trước đây – và suy nghĩ kiểu này dường như vẫn quá phi lý với anh đến nỗi anh khó lắm mới quen nổi – cuộc cãi vã với Olson diễn ra sớm hơn, vào thời điểm Olivia Stern vẫn còn ở văn phòng. Thế nhưng giờ thì cô đã đi khỏi cách đây tầm hơn nửa tiếng rồi, cũng như phần lớn các đồng nghiệp của anh, họ đã ra về vào quãng 18h. Trình tự mọi chuyện, do các hành động của anh tác động, giờ đang dần thay đổi và Andrew rút ra kết luận rằng thật sai lầm nếu không tranh thủ tận dụng hiện tượng này. Anh tát một cái như trời giáng vào mặt Freddy Olson, hắn ta lùi hẳn lại, miệng há hốc.
– Cứt thật, Stilman, tôi sẽ kiện anh, hắn ta vừa xoa xoa má vừa đe dọa. Khắp quanh nơi này có đầy các thể loại camera an ninh.
– Cứ làm đi, xin cứ tự nhiên, tôi sẽ giải thích lý do tại sao anh bị ăn tát. Tôi chắc rằng đoạn video đó có thể sẽ thành công vang dội trên internet.
– Anh chẳng thể thoát tội dễ dàng đến thế đâu!
– Anh không biết mình đoán chuẩn thế nào đâu! Thôi được rồi, giờ tôi đang có hẹn và anh đã làm tôi mất kha khá thời gian rồi đấy.
Andrew vớ lấy áo vest rồi vừa lao vào thang máy vừa giơ ngón tay thối lên với Freddy, hắn ta vẫn đang xoa má. Trong buồng thang máy dẫn thẳng xuống tầng trệt, Andrew vẫn còn nổi giận với gã đồng nghiệp đó, nhưng rồi anh tự nhủ rằng tốt hơn hết mình nên dịu lại trước khi gặp mặt Valérie, anh hẳn sẽ vô cùng khó khăn khi phải giải thích cho cô điều vừa xảy ra.
 
°
 
Ngồi ngay ở quầy nhà hàng Nhật thuộc khu SoHo, Andrew khó khăn lắm mới tập trung lắng nghe những điều Valérie nói. Lý do là vì anh đã biết tỏng toàn bộ cuộc trao đổi của họ rồi. Và trong lúc cô kể về ngày làm việc của mình, anh nghĩ cách tận dụng tối đa tình huống này sao cho ít phải bối rối nhất.
Anh vô cùng tiếc vì lúc nào cũng coi thường chuyên mục thời sự tài chính. Thử nghĩ mà xem, hẳn anh sẽ kiếm đủ để tạo lập một gia tài nho nhỏ nếu như có để tâm đôi chút đến vấn đề này. Nếu anh nhớ rõ tỷ giá trên thị trường chứng khoán trong vài tuần tới, vốn từng là quá khứ với anh, anh hẳn có thể thu lợi cực lớn bằng cách sử dụng khoản tích lũy của mình. Nhưng chẳng làm gì anh chán bằng thị trường chứng khoán phố Wall cùng các chỉ số của nó.
– Anh không hề nghe lấy một từ em nói. Em có thể biết anh đang nghĩ gì không?
– Em vừa mới nói với anh về Licorice, một trong những con ngựa mà em yêu nhất, đang bị viêm gân rất tồi tệ và em e rằng đây là những ngày cuối cùng nó phục vụ trong lực lượng cảnh sát cưỡi ngựa; em cũng đã nói rõ rằng viên sĩ quan… ôi anh quên béng mất tên anh ta rồi… tóm lại là, tay kỵ sĩ sẽ không an tâm nếu như phải loại trừ con nghẽo của mình.
Valérie sững sờ nhìn Andrew mà không nói năng gì.
– Cái gì vậy, Andrew lên tiếng hỏi? Đó chẳng phải là những gì em vừa nói đó sao?
– Không, đó không phải là những gì em vừa nói với anh mà chính xác là những gì em sắp sửa nói với anh đấy. Chuyện gì xảy đến với anh ngày hôm nay vậy, anh đã nuốt trọn quả cầu pha lê thay vì bữa sáng à?
Andrew gượng cười.
– Có lẽ em hơi đãng trí hơn em nghĩ rồi, anh chỉ có mỗi việc là nhắc lại lời em nói mà. Sao em có thể nghĩ là anh biết tất thảy những điều đó?
– Đó chính xác là câu mà em đang muốn hỏi anh đây!
– Có lẽ em đã nghĩ về chuyện đó quá nhiều đến nỗi anh có thể nghe thấy ngay cả trước khi em cất tiếng, điều đó chứng tỏ rằng chúng ta quả là có thần giao cách cảm, vừa nói anh vừa mỉm cười quyến rũ.
– Anh đã gọi đến văn phòng em, anh gặp Sam và anh đã tra hỏi anh ta.
– Anh không hề biết gã Sam nào và anh thề với em là anh không hề gọi tới văn phòng em.
– Đó là trợ lý của em.
– Em thấy đó, anh chẳng hề có quả cầu pha lê nào, anh cứ tưởng anh ta tên là John hay gì gì đó đại loại thế. Chúng ta có thể chuyển chủ đề khác được không? Andrew gợi ý.
– Thế còn anh, ngày hôm nay của anh thế nào?
Câu hỏi này khiến Andrew chìm sâu vào dòng suy nghĩ.
Anh đã chết trong khi chạy bộ tập thể dục buổi sáng, rồi lại thức dậy sau đó một chút ở cách nơi bị sát hại khoảng tầm một dặm, và rồi còn ngạc nhiên hơn nữa là vào thời điểm cách ngày bị tấn công những hai tháng. Kể từ đó, anh sống lại ngày hôm nay, gần giống như cái ngày mà anh đã trải qua trong quá khứ.
– Chuyện dài lắm, anh đáp ngắn gọn, ngày của anh dài lắm, có thể nói rằng anh cảm thấy mình đang trải qua ngày này lần thứ hai!
 
°
 
Sáng hôm sau, Andrew chỉ có một mình trong thang máy cùng nữ tổng biên tập. Cô đứng ngay sau anh, nhưng qua ánh phản chiếu từ cửa thang máy anh có thể nhìn thấy cô đang quan sát anh vẻ rất lạ lùng, cô nhìn theo kiểu người ta chăm chú quan sát bạn trước khi thông báo cho bạn một tin xấu. Anh đợi một lúc rồi bắt đầu mỉm cười.
– À này, anh nói như thể mình đang tiếp tục cuộc trò chuyện dang dở, trước khi mà gã xuẩn ngốc Olson kịp đi mách lẻo, tôi đã cho hắn một cú bạt tai ngay trước khi tan sở làm vào tối qua.
– Anh đã làm gì cơ? Olivia thốt lên.
– Tôi nghĩ là cô đã nghe được chính xác đó. Thành thực mà nói, tôi nghĩ rằng cô đã biết rõ chuyện này rồi.
– Thế sao anh lại làm chuyện đó?
– Chẳng có gì liên quan đến tòa soạn cả, cô cứ an tâm, và nếu như tay u mê kia có khởi kiện thì tôi đảm bảo mình sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm.
Olivia nhấn nút tạm dừng rồi ấn nút xuống tầng trệt, thang máy dừng khựng lại rồi lao xuống dưới.
– Chúng ta đi đâu vậy? Andrew hỏi.
– Đi uống cà phê.
– Nếu là cà phê thì tôi sẽ mời cô, không bàn cãi gì cả, Andrew đáp trong lúc cửa thang máy mở ra.
Họ ngồi vào bàn trong quầy bán cà phê. Andrew đi lấy hai cốc cà phê mocaccino và tranh thủ mua một chiếc bánh sừng bò kẹp giăm bông.
– Tính anh mọi khi đâu có thế, Olivia Stern lên tiếng.
– Đó chỉ là một cái tát thôi, có quan trọng gì đâu, đáng đời hắn ta.
Olivia nhìn anh rồi đến lượt cô bắt đầu mỉm cười.
– Tôi nói điều gì buồn cười lắm hả? Andrew hỏi.
– Lẽ ra tôi phải giảng bài đạo đức cho anh, phải nói với anh rằng những hành động như vậy là không thể chấp nhận nổi và có thể anh sẽ phải chịu phạt đình chỉ công tác một thời gian, nếu không muốn nói là bị đuổi việc, nhưng tôi không thể làm như vậy.
– Vậy điều gì ngăn cản cô?
– Vì tôi cũng muốn cho tên Olson đó một cái tát hệt như thế.
Andrew tránh không đưa ra bất cứ lời bình luận nào và Olivia lại tiếp tục liền ngay sau đó.
– Tôi đã đọc hết ghi chép của anh, tốt lắm, nhưng chưa đủ. Để có thể công bố được câu chuyện của anh, tôi cần thứ gì đó thật chi tiết cụ thể, những lời chứng không thể bác bỏ cũng như các bằng chứng… tôi ngờ là anh đã cố tình tiết giảm trong bài viết của mình.
– Sao tôi lại phải làm thế chứ?
– Bởi vì anh đang vớ được một mẻ cực lớn và anh không muốn tiết lộ tất cả cho tôi vào thời điểm này.
– Cô gán cho tôi cái ý định kỳ cục quá.
– Tôi đã học được cách hiểu anh, Andrew à. Có đi có lại, tôi chấp thuận đề nghị của anh, anh sẽ quay lại Argentina, nhưng để tôi xác nhận việc bao trọn chi phí cho anh thì anh sẽ phải thỏa mãn trí tò mò của tôi. Anh đã lần ra dấu vết của người đàn ông đó, đúng không nào?
Andrew nhìn thật chăm chú sếp mình trong giây lát. Kể từ khi dấn thân vào cái nghề này, anh đã học được cách không nên tin tưởng bất cứ ai. Nhưng anh biết rằng nếu mình không tiết lộ thứ gì đó, Olivia sẽ không để anh quay trở lại Buenos Aires, và như cô đã từng tiên đoán, vào hồi đầu tháng Năm, anh còn lâu mới kết thúc được cuộc điều tra của mình.
– Tôi nghĩ là mình đang đi đúng hướng, anh vừa đặt tách cà phê xuống bàn vừa nhượng bộ.
– Và như các ghi chép của anh đã ám chỉ, anh nghi ngờ hắn ta có tham gia hành vi phi pháp này chứ?
– Rất khó có thể khẳng định bất cứ điều gì. Có rất nhiều người bị liên lụy trong những vụ việc như thế này, và để cho ai đó mở miệng quả chẳng phải là chuyện dễ dàng. Đó vẫn còn là một chủ đề nhức nhối đối với phần lớn người dân Argentina. Vì rằng chúng ta đang tâm sự nên tôi có thể biết tại sao cô lại thiết tha cuộc điều tra này đến vậy không?
Olivia Stern nhìn phóng viên của mình chằm chằm.
– Anh đã tìm ra hắn ta đúng không nào? Anh đã tóm được Ortiz đúng không?
– Cũng có thể nói là như vậy… nhưng tôi cũng đồng tình với cô, tôi vẫn còn chưa có đủ cơ sở để có thể cho in câu chuyện này, và chính vì vậy mà tôi cần phải quay trở lại đó. Cô có đồng ý với tôi về việc cô vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi không…
Olivia liền đứng bật dậy rồi ra hiệu rằng anh có thể kết thúc cái bánh của mình một mình.
– Đó là ưu tiên tuyệt đối của anh, Andrew à, tôi yêu cầu anh phải dốc toàn bộ một trăm phần trăm sức lực cho vụ này. Anh có một tháng không hơn không kém.
Andrew nhìn tổng biên tập rời khỏi quán cà phê. Hai luồng suy nghĩ ào đến choán ngợp tâm trí anh. Anh hoàn toàn chẳng quan tâm đến những lời đe dọa của cô ta vì biết đích xác rằng mình sẽ lại quay trở lại Buenos Aires vào cuối tháng và anh sẽ đưa cuộc điều tra đi đến hồi kết đúng hạn. Trong cuộc trò chuyện vừa rồi, Olivia không hề cho anh thời gian để phản kháng và anh đã phải suy nghĩ về điều này hai lần trước khi nói, đồng thời cũng liên tục tự vấn về điều cô xem như đã biết và điều cô vẫn còn chưa biết tới.
Và vì những lẽ đã rõ, anh không hề có chút ý niệm nào về chuyện mình đã đưa cho tổng biên tập xem những ghi chép của mình, cả trong cuộc đời hiện tại cũng như trong cuộc đời vốn đã kết thúc trên lối đi của công viên River Park. Mặt khác, anh chắc chắn trước kia mình chưa từng có cuộc trao đổi như thế này với cô.
Và trong lúc quay trở lại văn phòng, Andrew tự nhủ rằng có lẽ anh không nên tát Freddy Olson vào tối hôm trước. Từ giờ trở đi, anh phải thật cẩn thận để không làm thay đổi trình tự một số sự việc.
 
°
 
Andrew tranh thủ quãng thời gian nghỉ để đi bộ dọc đại lộ Madison và dừng lại trước quầy kính của một tiệm nữ trang. Tuy cũng không có nhiều tiền gì cho cam, nhưng lời cầu hôn của anh còn mãnh liệt hơn lần đầu tiên bội phần. Anh đã cảm thấy mình có đôi chút nực cười khi không thể tặng một món nữ trang nho nhỏ theo nghi lễ vào lúc anh quỳ gối xuống cầu hôn ở tiệm của Maurizio.
Anh bước vào cửa hàng rồi chăm chú ngắm nhìn các tủ kính. Anh phải chịu là đúng trước lẽ hiển nhiên, người ta đâu thể chơi đùa dễ dàng đến thế với trình tự các sự kiện. Cuộc sống có một trật tự nhất định không dễ gì đảo lộn. Anh nhận ra chiếc nhẫn mà Valérie đã chọn lúc họ cùng nhau tới mua trong số khoảng chục chiếc khác. Ấy thế mà Andrew không chút nghi ngờ về việc chuyện này không hề xảy ra ở tiệm kim hoàn này.
Nhưng anh nhớ rất rõ giá của chiếc nhẫn này. Chính vì thế mà khi tay bán nữ trang tìm cách làm cho anh tin rằng cần phải trả giá gấp đôi, Andrew đáp lại chắc nịch:
– Viên kim cương này nặng gần 0,95 carat, và dù rằng thoạt nhìn thì nó cũng khá là sáng đấy, nhưng đó là mẫu chế tác cũ rồi và nó bị lẫn khá nhiều tạp chất nên trị giá của nó không vượt quá phân nửa số mà ông vừa đòi tôi đâu.
Andrew chỉ việc nhắc lại nguyên si lời tay bán nữ trang trước đã giải thích khi anh mua chiếc nhẫn này cho Valérie. Anh còn nhớ như in phản ứng của vị hôn thê đã khiến anh xúc động sâu sắc. Anh chờ đợi cô sẽ chọn một viên đá có chất lượng tốt hơn, nhưng khi lồng chiếc nhẫn vào ngón tay, Valérie đã nói với người bán hàng rằng như thế này là quá đủ với cô.
– Thế nên tôi chỉ thấy có hai lời giải thích hợp lý mà thôi, Andrew tiếp tục. Hoặc là ông đã nhầm về thông số tham chiếu khi nhìn giấy ghi giá, tôi sẽ không chê trách gì ông đâu khi mà mấy cái chữ bé li ti và khó đọc như thế kia, hoặc là ông đang tìm cách lừa phỉnh tôi. Thật tiếc là chuyện này lại khiến tôi muốn viết một bài ngăn ngắn về những trò bịp của các tay chủ tiệm kim hoàn. Tôi đã nói với ông rằng tôi là phóng viên của tờ The New York Times chưa nhỉ?
Người bán hàng liền kiểm tra lại nhãn ghi giá, nhíu mày rồi thẹn thùng thông báo rằng ông ta quả thật đã nhầm, chiếc nhẫn này có giá trị đúng như giá mà Andrew đã trả.
Vụ mua bán đã được kết thúc theo đúng trình tự và Andrew trở ra đại lộ Madison với một món nữ trang nho nhỏ xinh xắn ở đáy túi áo veston.
Vụ mua bán thứ hai trong ngày là chiếc khóa số để anh khóa ngăn kéo bàn làm việc của mình lại.
Lần mua bán thứ ba là một cuốn sổ giả da có đai chun. Anh mua không phải cho những ghi chép liên quan đến bài báo của mình mà là một cuộc điều tra khác giờ đã là ưu tiên số một của anh: tìm ra, nhiều nhất là trong vòng năm mươi chín ngày, danh tính kẻ đã sát hại anh và ngăn không cho hắn đạt được mục đích.
Andrew bước vào Starbucks Coffee. Anh mua tạm thứ gì đó bỏ bụng rồi ngồi xuống một chiếc ghế bành da và bắt đầu suy nghĩ về tất cả những kẻ những muốn lấy mạng anh. Những suy nghĩ kiểu này khiến anh thấy khó chịu kinh khủng. Vậy là anh đã bỏ qua những gì trong cuộc sống của mình để tới mức phải tiến hành dạng “kiểm kê” kiểu này.
Anh ghi lại tên của Freddy Olson. Ta chẳng bao giờ biết một đồng nghiệp cùng phòng có thể thực sự làm những gì, cũng như sự ghen tỵ có thể dẫn đến đâu. Nhưng rồi Andrew thấy yên tâm ngay tức thì, Olson thực sự là một tay hèn nhát nhu nhược và hơn nữa cả hai chưa bao giờ thượng cẳng chân hạ cẳng tay trong cuộc đời trước kia.
Anh cũng nhận được những lá thư đe dọa ngay sau khi bài báo phanh phui vụ buôn bán trẻ em ở Trung Quốc được đăng. Bài báo của anh hẳn đã làm đảo lộn cuộc sống của rất nhiều gia đình Mỹ có liên quan đến vấn đề này.
Trẻ con thật thiêng liêng; tất thảy các bậc cha mẹ trên thế giới đều sẽ nói với bạn điều này, họ sẵn lòng làm tất cả để bảo vệ con cái mình, thậm chí là giết người.
Andrew tự hỏi điều chính bản thân mình sẽ làm nếu như anh nhận nuôi một đứa trẻ và có một tay nhà báo nào đó gán cho anh tội vô tình tiếp tay cho dạng hoạt động phi pháp này khi khẳng định rằng đứa trẻ mà anh nhận nuôi có thể đã bị cướp khỏi tay bố mẹ đẻ thật sự của chúng.
– Mình có lẽ sẽ hận đến tận cuối đời kẻ nào đã mở chiếc hộp Pandora[1] này ra, Andrew lẩm bẩm.
[1] Trong thần thoại Hy Lạp, chiếc hộp Pandora là chiếc hộp do các vị thần trên đỉnh núi Olympus đã tặng cho nàng Pandora – người phụ nữ đầu tiên đến thế giới loài người. Nàng Pandora đã được các vị thần dặn kỹ rằng không được mở chiếc hộp đó ra. Nhưng vì tò mò, Pandora đã mở chiếc hộp ra và những gì chứa trong chiếc hộp kỳ bí đó đã khiến cho tất cả những điều bất hạnh tràn ngập khắp thế gian: thiên tai, bệnh tật, chiến tranh…
Sẽ phải làm gì khi biết rằng sớm hay muộn đứa trẻ bạn nhận nuôi sẽ khám phá ra sự thật, khi mà sự thật giờ đây đã được đông đảo công luận biết đến? Cùng lúc làm tan vỡ trái tim của cả nó lẫn bạn khi đưa nó trở lại gia đình hợp pháp của nó ư? Sống trong dối trá và đợi cho đến khi nó bước sang tuổi trưởng thành, nó sẽ trách bạn đã nhắm mắt làm ngơ trước vụ buôn bán bất hợp pháp tồi tệ bậc nhất này ư?
Khi viết bài báo này, Andrew mới chỉ lường trước được số ít những hệ lụy của những phát hiện như thế này. Có bao nhiêu ông bố bà mẹ người Mỹ đã vì anh mà phải đắm chìm trong tình cảnh đau lòng đến xé ruột này? Nhưng chỉ có sự việc là đáng kể, nghề của anh là làm sáng tỏ sự thật; ta chẳng bao giờ có thể phán xét một sự vật hay một hiện tượng theo quan điểm của riêng mình cả, như bố anh vẫn từng nói.
Anh liền gạch tên Olson trong sổ rồi đánh dấu phải đọc lại ba lá thư nặc danh đe dọa lấy mạng mình.
Rồi anh nghĩ đến cuộc điều tra ở Argentina. Nền độc tài chuyên chế thống trị từ năm 1976 đến 1983 đã không ngần ngại cử những tay sát nhân ra ngoài biên giới để trừ khử những kẻ chống đối chế độ hay những ai có nguy cơ tố cáo các thủ đoạn phạm tội đó. Thời thế giờ đã thay đổi, nhưng một số phương pháp vẫn luôn ăn sâu bám rễ vĩnh viễn trong tâm trí những kẻ gàn dở nhất.
Vụ điều tra này hẳn đã gây phiền toái cho không chỉ một người. Giả thiết rằng một tay cựu quân nhân, một tay phụ trách ESMA[2], hay kẻ phụ trách một trong những trại bí mật nơi nạn nhân của các vụ mất tích cưỡng bức bị đưa đến đó để rồi bị tra tấn và sát hại, là có khả năng xảy ra, nếu không phải là khả dĩ.
[2] Viện Kỹ thuật Hàng hải trong chế độ độc tài cuối cùng đã che giấu một trong những nhà tù bí mật lớn nhất nước. (Chú thích của tác giả.)
Trong cuốn sổ tay kia, Andrew bắt đầu chép lại tên của tất cả những người mà anh từng phỏng vấn trong chuyến công tác đầu tiên. Vì những lý do hiển nhiên, các ghi chép trong chuyến đi thứ hai không hiển hiện trong đó. Khi trở lại Buenos Aires, anh sẽ chú ý để nêu cao cảnh giác hơn nữa.
– Vẫn như mọi khi thôi, mày lúc nào cũng chỉ nghĩ đến công việc và công việc, anh vừa khẽ giọng tự nhủ vừa lật từng trang trong sổ tay.
Thế còn tay bạn trai cũ của Valérie thì sao? Cô chưa từng nói gì về hắn ta, hai năm chung sống không phải là chuyện tầm phào. Một tay bị đá phắt một cái vì kẻ khác có thể trở nên hung hãn lắm chứ.
Nghĩ về tất cả những kẻ có thể muốn trừ khử mình khiến anh ăn mất cả ngon. Andrew đẩy đĩa thức ăn ra rồi đứng dậy.
Trên đường quay về văn phòng, Andrew xoay xoay món nữ trang nho nhỏ ở đáy túi mình, đồng thời gắng không xem xét tới, dù chỉ trong giây lát, giả thiết vừa mới lướt qua tâm trí anh.
Valérie sẽ không đời nào có khả năng thực hiện một hành vi kiểu này.
– Mi thực sự chắc về điều đó chứ? Lương tâm vừa thổi qua anh một luồng gió độc khiến máu anh đông cứng lại.
 
°
 
Thứ Năm của tuần đầu tiên kể từ khi anh sống lại – cụm từ này luôn làm anh khiếp sợ mỗi khi nhắc đến – Andrew, chưa bao giờ thấy việc trở lại Buenos Aires lại cấp thiết đến vậy, liền bắt tay ngay vào việc chuẩn bị thật kỹ lưỡng đến tận những chi tiết cuối cùng cho chuyến hành trình của mình. Cuối cùng anh cũng hủy ý định thay đổi khách sạn, bởi anh từng có những cuộc gặp gỡ mang tính chất quyết định với cuộc điều tra của mình ở đây.
Cô gái phục vụ quầy bar, một cô Marisa nào đó, đã tin tưởng đưa cho anh địa chỉ một quán cà phê là nơi tụ tập thường xuyên của các cựu thành viên ERP, Lực lượng vũ trang cách mạng nhân dân, và các Montoneros từng sống sót qua một nơi giam giữ nào đó. Họ cũng chẳng đông đảo gì cho cam. Cô cũng liên hệ giúp anh một cuộc gặp gỡ với một trong những Bà mẹ của quảng trường tháng Năm, những người phụ nữ có con bị đặc nhiệm quân đội bắt đi và không bao giờ xuất hiện trở lại; những người phụ nữ bất chấp chế độ độc tài, đã sải bước trên vỉa hè của quảng trường tháng Năm trong nhiều năm ròng với tấm panô dán ảnh những người mất tích.
Marisa vô cùng khêu gợi và vẻ quyến rũ của cô không thể khiến Andrew dửng dưng. Quả nhiên vẻ đẹp của phụ nữ Argentina không hổ danh là một huyền thoại.
 
°
 
Simon đã gọi cho anh vào lúc 11h để rủ anh đi ăn trưa. Andrew không còn nhớ về cuộc gặp gỡ này nữa. Có thể trong lúc ăn anh sẽ nhớ lại cuộc trò chuyện giữa họ.
 
°
 
Ngay khi Simon thao thao kể với anh về người phụ nữ đã gọi cho mình ngày hôm trước – bạn anh từng gặp cô ta trong kỳ nghỉ thể thao mùa đông – Andrew liền nhớ ra rằng bữa ăn trưa này chẳng có gì quan trọng cả. Không biết đã bao nhiêu lần rồi, Simon luôn say đắm một cô nào đó vì ngoại hình nổi bật chứ không hẳn là vì trí tuệ của cô ta. Còn Andrew thì chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng quay trở lại với bài báo của mình, anh liền cắt ngang lời bạn nói và thẳng thừng tuyên bố rằng Simon đang đâm đầu vào ngõ cụt.
– Cậu đã kể rõ ràng với tớ rằng cô nàng sống ở Seattle và cô nàng ghé qua New York bốn ngày, đúng không nhỉ?
– Chính xác, chính tớ là người nàng chọn gọi điện để nhờ đưa nàng đi thăm phố phường, Simon đáp lại ngay tức thì, vẻ rạng ngời hạnh phúc hơn bao giờ hết.
– Tuần tới, chúng ta sẽ lại ngồi cùng nhau tại chính chiếc bàn này và cậu sẽ lại nói với tớ về tâm trạng cực kỳ điên tiết mà cậu đã tự chuốc lấy. Người đẹp tìm kiếm một thằng đần như cậu để đưa nàng đi chơi trong vòng ba ngày, để thanh toán mọi chi phí và cho nàng một mái nhà để ngủ. Buổi tối khi trở về nhà cậu, nàng sẽ viện cớ là mệt đến chết lên được và diễn với cậu cái vở em muốn lắm nhưng không đành lòng rồi ngủ khò ngay tức thì. Và toàn bộ phần thưởng chỉ là cậu có quyền hôn phớt lên má nàng vào ngày nàng khởi hành.
Simon há hốc mồm.
– Em muốn lắm nhưng không đành lòng là cái quái gì vậy?
– Cậu muốn tớ vẽ tranh miêu tả cho cậu chắc?
– Thế sao cậu lại biết tất cả chuyện đó?
– Tớ biết tuốt, thế thôi!
– Cậu đang ghen ăn tức ở thì có, thật đáng thương.
– Kỳ nghỉ Giáng sinh của cậu đã kết thúc được năm tháng rồi, vậy trong thời gian đó cậu có tin tức gì của nàng không?
– Không, nhưng rốt cuộc, cậu thấy đó, với khoảng cách giữa Seattle-New York…
– Tin tớ đi, nàng ta đã nhòm lại cuốn danh bạ địa chỉ và thả mối hú họa thôi, Simon thân mến của tớ à!
Andrew thanh toán tiền ăn. Cuộc chuyện trò này đã đưa anh về với kỳ nghỉ Giáng sinh và kỷ niệm về một sự việc từng xảy đến với anh vào ngày hôm sau đêm Giáng sinh, khi đó anh đã bị chiếc ô tô đang rời khỏi đồn cảnh sát trên phố Charles đâm phải. Tiến hành điều tra nghiệp vụ báo chí vốn là nghề của anh, nhưng một cuộc điều tra tội phạm lại đòi hỏi những khả năng đặc biệt hơn nữa. Sự giúp đỡ của một cảnh sát, ngay cả khi người đó không còn làm trong ngành, có thể trở nên vô cùng hữu ích với anh. Anh tìm trong sổ tay số điện thoại mà một thanh tra Pilguez nào đó đã ghi lại cho anh.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.