Ngày Mai

CHƯƠNG 8: PHỤC SINH



Trên thế giới này, nỗi sợ phá hủy nhiều thứ hơn là niềm vui có thể kiến tạo.
– Paul MORAND
 
o O o
 
– Từ ngày niên thiếu em gái tôi đã… đã hay có biểu hiện tâm tính thất thường và đa sầu đa cảm, một tính cách mà tôi gọi là “chứng tâm thần chu kỳ”.
Daniel Lovenstein nói giọng đều đều không âm sắc. Thấy Matthew vật nài, cuối cùng anh ta đã đồng ý để anh vào nhà và kể cho anh câu chuyện về Emma.
– Tinh thần con bé dao động thất thường lắm, – Lovenstein nói tiếp. – Hôm nay con bé còn như người phụ nữ hạnh phúc nhất thế gian, tràn trề nhiệt huyết và đầy ắp dự định. Ngày hôm sau, nó đã buồn bã ủ ê và thấy mọi sự đều vô nghĩa. Sự luân phiên xen kẽ giữa hai trạng thái sảng khoái và trầm uất ấy ngày càng đẩy nhanh tốc độ. Những năm gần đây, tôi thấy rõ là con bé mắc chứng rối loạn nhân cách. Suốt nhiều tháng trời, anh có thể cảm giác là con bé ổn, nhưng vẫn luôn diễn ra các đợt tái phát càng lúc càng nặng hơn.
Anh ta dừng lại vài giây để nhấp một ngụm trà. Hai người đàn ông ngồi đối diện trong hai chiếc ghế bành nhồi chần. Căn phòng chìm trong khung cảnh mờ tối, âm u và lạnh lẽo, như bị ám bởi vong hồn của Emma.
– Chủ yếu là những mối quan hệ yêu đương đã khiến con bé hẫng hụt, – Daniel Lovenstein thổ lộ bằng giọng cay đắng. – Emma rung động quá dễ dàng trước đàn ông nhưng nỗi thất vọng cứ nối tiếp nhau và chỉ ngày càng chua xót thêm thôi. Ròng rã suốt nhiều năm, con bé không chừa cho chúng tôi bất cứ thứ gì: những cơn cuồng loạn, những mưu toan tự vẫn, những vết rạch trên da thịt, những đợt điều trị dài ngày trong bệnh viện tâm thần… Con bé chưa bao giờ được chẩn đoán chính thức là rối loạn lưỡng cực nhưng tôi thì dám chắc nó mắc chứng đó.
Những điều bí mật càng được hé lộ, Matthew càng cảm thấy khó chịu bởi nỗi oán hận của ông anh trai dành cho em gái mình rõ rành đến thế. Nhưng trong câu chuyện này phần nào mới là thật? Lovenstein không ngần ngại đưa ra những giả thiết mà theo những gì Matthew hiểu, chưa bao giờ được xác nhận về mặt y học.
Daniel cúi xuống vơ lấy những bức ảnh nằm trên mặt bàn thấp.
– Cách đây ba tháng, trong dịp hè, con bé đã nối lại quan hệ với một trong những người tình cũ. Chính là gã này, anh ta vừa nói vừa chỉ người đàn ông xuất hiện cùng Emma trong những tấm hình. Đó là một gã người Pháp, François Giraud, người thừa kế một vườn nho thuộc Bordeaux. Gã đó đã khiến con bé đau khổ nhiều. Thêm một lần nữa, Emma đã quá khờ. Con bé tin rằng lần này gã kia đã sẵn sàng bỏ vợ. Dĩ nhiên là gã kia không đời nào làm thế, thế là con bé lại tự vẫn một lần nữa và lần này thì…
Lời giải thích của anh ta bị cắt ngang bởi tiếng sủa đột ngột của chú chó giống Shar-pei.
– Nó là chó của Emma đúng không? – Matthew đoán.
– Đúng vậy, Clovis. Con bé quấn quýt với nó lắm. Theo Emma, đó là “nhân vật” duy nhất không bao giờ phản bội nó.
Matthew còn nhớ Emma đã nhắc tới chuyện này trong những bức mail gửi anh, cô đã dùng đúng những từ ngữ đó.
– Tôi không muốn gợi lại những ký ức đau xót đâu, anh Lovenstein, nhưng Emma mất trong hoàn cảnh nào vậy?
– Con bé lao vào đoàn tàu đang chạy, tại White Plains, ngày 15 tháng Tám năm ngoái. Dĩ nhiên là dưới tác dụng của một mớ hỗn độn các loại thuốc. Nói gì thì nói, trong căn hộ của nó chỗ nào cũng la liệt hộp thuốc: nào là thuốc điều trị động kinh benzodiazépine, thuốc ngủ và đủ loại rác rưởi khác…
Đang mải miết gợi lại những ký ức đau thương, Lovenstein đột nhiên đứng bật dậy để thông báo cuộc nói chuyện đã kết thúc.
– Tại sao anh lại tha thiết muốn nói chuyện với em gái tôi? – Anh ta hỏi trong khi tiễn Matthew ra cửa.
Nhất định không cho anh ta biết những lý do thực sự, Matthew tránh trớ bằng cách đặt cho anh ta một câu hỏi mới:
– Tại sao anh lại thanh lý tất cả những đồ dùng cá nhân của Emma?
Lý lẽ đó khiến Lovenstein chạm nọc.
– Để xóa sạch quá khứ! Để thoát khỏi Emma chứ sao nữa! – Anh ta hăng hái đáp. – Những ký ức bào mòn tôi, khiến cho tôi chết dần chết mòn. Chúng trói tôi vào đống đổ nát của một quá khứ đã từng hủy hoại tôi không ít!
Matthew gật đầu.
– Tôi hiểu, – anh nói khi bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà.
Nhưng trong thâm tâm, anh đang nghĩ chính xác điều ngược lại. Anh biết rằng cuộc chiến đấu này là viển vông. Ta không thể chỉ bằng một nhát chổi mà quét sạch đi ký ức. Ký ức vẫn ở lại trong chúng ta, nấp trong bóng tối, rình đúng thời khắc chúng ta mất cảnh giác để hiện ra với sức mạnh tăng gấp bội.
 
o O o
 
Từ: Matthew Shapiro
Tới: Emma Lovenstein
Chủ đề: Chúng ta nói chuyện nhé
Ngày: 21 tháng Mười Hai 2011-13g45p03g
Emma thân mến,
Nếu cũng đang ngồi trước màn hình máy tính, cô vui lòng báo cho tôi biết nhé. Tôi nghĩ hai ta cần nói chuyện về việc đã xảy tới với chúng ta. Matt
 
o O o
 
Từ: Matthew Shapiro
Tới: Emma Lovenstein
Chủ đề:
Ngày: 21 tháng Mười Hai 2011-13g48p14g
Emma,
Tôi hiểu tình huống này khiến cô lo lắng và không biết phải nghĩ sao. Nó cũng khiến tôi lo sợ, nhưng chúng ta thực sự cần bàn bạc để cùng giải quyết.
Mong hồi âm của cô.
Matt
 
o O o
 
Matthew nhấp chuột để gửi bức mail thứ hai tới Emma. Anh bồn chồn đợi một phút dài dằng dặc, hi vọng cô gái sẽ hồi âm ngay tức khắc.
Gặp Daniel Lovenstein xong, anh ta đã lái chiếc Camaro quay về Boston, nhưng chỉ vài ki lô mét sau, anh dừng lại trước một tiệm ăn nhanh nằm ven bờ sông Charles. Brand New Day vốn là một toa ăn cũ mạ crôm, chốn thường xuyên lui tới của cả những người đi dạo lẫn đám sinh viên Harvard sau giờ thực hành bơi xuồng. Yên vị trên một trong những băng ghế bọc vải giả da, Matthew lấy máy tính xách tay ra để kết nối mạng.
Cả đời anh chưa bao giờ cảm thấy rối bời đến thế, chưa bao giờ cảm thấy những niềm xác tín của mình bị lung lay đến thế. Những bằng chứng dồn tích lại: ngày tháng ghi trên những bức email, đoạn băng do Vittorio cung cấp, lời chứng của anh trai Emma tiết lộ về cái chết của em gái… Mọi thứ đều vun vào khuyến khích anh tin vào điều không thể tin nổi: nhờ chiếc laptop này, anh có thể liên lạc với một cô gái, lúc này đã qua đời, nhưng một năm trước khi còn đang sống vẫn nhận được những bức mail anh viết trong hiện tại.
Làm sao chuyện đó có thể xảy ra? Anh không tự lý giải nổi, nhưng ngay lúc này anh đã có thể rút ra vài quy tắc. Anh lấy chiếc bút và cuốn sổ tay luôn mang theo trong túi ra rồi tốc ký vài nhận xét để tư duy thêm phần sáng tỏ.
1- Emma Lovenstein nhận được email của mình với khoảng thời gian chênh lệch đúng một năm.
2- Chiếc laptop mình mua tại buổi bán thanh lý là phương tiện liên lạc duy nhất giữa mình và cô ấy.
Matthew ngẩng lên khỏi cuốn sổ tay và tự hỏi về hiệu lực của quy tắc thứ hai này. Sự thể là vậy đó: Emma không nhận được những bức mail anh gửi cho cô từ điện thoại, bản thân anh cũng không nhận được những bức mail cô gửi cho anh từ chiếc smartphone của cô. Tại sao thế nhỉ?
Anh suy nghĩ một lát. Nếu Emma đã qua đời cách đây ba tháng thì những bức mail anh gửi cho cô ngày hôm nay mà không thông qua chiếc laptop này hẳn sẽ hạ cánh xuống một tài khoản mà lúc này không ai sử dụng nữa. Nghe cũng hợp lý.
Nhưng chuyện gì xảy ra với những bức mail Emma gửi cho anh bằng điện thoại của cô từ thời điểm năm 2010? Logic ra thì hẳn là anh từng nhận được chúng trong thời quá khứ, thế nhưng anh đâu có nhớ đã từng đọc được bức mail nào ký tên Emma Lovenstein vào thời điểm tháng Mười hai năm 2010.
Dĩ nhiên là anh nhận được rất nhiều mail, nhưng những bức thư đó nếu xuất hiện thì hẳn đã khiến anh chú ý. Anh lục trong trí nhớ rồi tìm ra lời giải thích: anh đã thay đổi nhà cung cấp mạng – đồng nghĩa với việc địa chỉ mail cũng đổi theo – từ tháng Mười hai 2010! Địa chỉ mail mà cô gửi thư bằng điện thoại di động cho anh đơn giản là không tồn tại vào thời điểm đó! Bình tâm vì đã tìm thấy chút hợp lý trong sự hỗn độn này, anh ghi thêm vào sổ tay một nhận xét mới:
3- Thời điểm hiện tại, tháng Mười hai năm 2011, mình không có cách nào gặp trực tiếp Emma bằng xương bằng thịt…
Bất hạnh thay, cô ấy đã qua đời.
4- … nhưng điều ngược lại không đúng!
Anh nghĩ đến khả năng này: nếu cô ấy muốn gặp anh, “Emma năm 2010” có thể đáp một chuyến bay tới Boston để gặp “Matthew năm 2010” bất cứ lúc nào. Liệu cô ấy có làm vậy không nhỉ? Cứ nhìn vào cách cô ấy nhiệt tình trả lời mail anh gửi ngay lúc này thì khả năng xảy ra chuyện đó là cực thấp.
Anh bồn chồn liếc nhìn màn hình laptop. Vẫn chưa có mail nào mới từ cô nàng quản lý rượu. Anh cố gắng phân tích suy nghĩ của Emma: một cô gái thông minh, nhưng bất ổn về mặt cảm xúc. Anh đoán cô là người yếu đuối, sẽ sợ hãi và hoài nghi khi đối mặt với tình huống này. Anh thì đã có trong tay cuộn băng Vittorio gửi và cuộc trò chuyện cùng anh trai cô để tin vào thực tại đang trải nghiệm. Nhưng Emma lại không có những thông tin tương tự. Cô hẳn đang coi anh là một thằng điên và chính vì lẽ đó mà cô không buồn hồi âm. Anh phải tìm ra cách nào đó để thuyết phục cô.
Nhưng cách nào kia chứ?
Anh nhìn qua cửa sổ. Đám người chạy bộ và đạp xe cùng chung con đường chạy dọc bờ sông, trong khi trên mặt sông, những chiếc xuồng rẽ làn nước trong tiếng kêu của đàn ngỗng trời.
Tiệm ăn nhanh đã vắng tanh vắng ngắt từ khi anh tới. Trên mặt bàn formica ngay cạnh chỗ anh ngồi, Matthew nhìn thấy tờ báo vị khách nào đó bỏ lại. Tờ The New York Times số ra hôm nay. Anh cầm tờ nhật báo lên và một ý tưởng hình thành trong đầu anh. Anh dùng webcam tích hợp sẵn trong laptop để chụp ảnh trang nhất của tờ báo – sao cho ngày tháng năm hiện rõ rành rành – rồi gửi bức ảnh đó cho Emma kèm theo lời nhắn:
Từ: Matthew Shapiro
Tới: Emma Lovenstein
Emma,
Nếu cô cần có bằng chứng cho thấy tôi đang sống ở năm 2011, thì chính là bức ảnh này đây.
Liên lạc lại với tôi nhé.
Matt
 
o O o
 
New York
Emma đọc lướt bức email rồi nhấp chuột để mở file đính kèm. Cô phóng to bức ảnh rồi lắc đầu. Thời buổi này chẳng còn gì dễ hơn là chế một bức ảnh giả mạo bằng Photoshop…
Bức ảnh này chẳng chứng minh được điều gì hết, đồ khùng!
 
o O o
 
Boston
Sấm nổ ầm ì. Bầu trời bỗng tối sầm lại rồi một cơn mưa như trút đổ xuống tiệm ăn nhanh. Chỉ trong vài phút, một đám đông ồn ã đã lũ lượt kéo vào tiệm để trú mưa.
Mắt vẫn không rời màn hình laptop, Matthew bàng quan trước sự náo động ấy.
Vẫn không thấy hồi âm.
Rõ ràng là bức ảnh không đủ để thuyết phục Emma. Anh cần phải tìm ra thứ gì khác. Và phải tìm thật nhanh.
Anh truy cập website tờ The New York Times rồi tìm kiếm trong tài liệu lưu trữ của tờ nhật báo. Sau vài cú nhấp chuột, anh đã tìm ra thông tin cần thiết.
Lần này thì Emma Lovenstein không thể lờ anh đi nữa rồi…
 
o O o
 
Từ: Matthew Shapiro
Tới: Emma Lovenstein
Tôi phiền cô thêm lần này nữa thôi, Emma.
Ngay cả khi cô không hồi âm thì tôi vẫn dám chắc cô đang ngồi trước màn hình máy tính…
Cô có thích thể thao không? Môn bóng rổ chẳng hạn? Nếu câu trả lời là có thì chắc cô biết hôm nay (tôi đang nói tới ngày hôm nay “đối với cô”) đang diễn ra một trận đấu rất được trông đợi: cuộc đối đầu giữa đội Knick của New York và đội Celtic đến từ Boston.
Cô hãy bật đài hoặc Kênh 9 ti vi lên nhé, rồi tôi sẽ đem đến cho cô bằng chứng mà cô hằng mong đợi…
Matt
Emma cảm thấy tim mình đập dồn dập hơn. Mỗi bức thư của Matthew đều khiến cô có cảm giác hai thanh ê tô đang ép lại thật chặt và sắp sửa nghiền nát cô. Nhưng xen lẫn nỗi sợ hãi này còn có niềm phấn khích. Cô gập màn hình laptop lại rồi kẹp dưới cánh tay, rời phòng làm việc để đi thang máy xuống tầng dưới nơi có phòng nghỉ giữa giờ dành cho nhân viên nhà hàng Thống Soái. Cô đẩy cửa bước vào một phòng rộng rãi với bốn bề tường màu sáng, kê bàn gỗ màu vàng nhạt, xung quanh là sofa và ghế Wassily.
Emma chào những người cô quen biết: một vài nữ nhân viên đang vừa chuyện phiếm vừa đọc tạp chí trên một chiếc tràng kỉ êm ái, một nhóm “nam tính” hơn tụ lại quanh màn hình phẳng cỡ lớn treo trên tường để xem… một trận bóng rổ.
Emma ngồi xuống cạnh một chiếc bàn, cắm điện cho laptop rồi đứng dậy đi lấy một món đồ uống ở quầy tự động. Cô mở lon nước rồi tiến lại gần màn hình ti vi.
“Trận đấu vừa tiếp tục diễn ra tại nhà thi đấu Madison Square Garden, – bình luận viên hào hứng nói. – Vào nửa sau của hiệp đấu cuối cùng, đội Knick của New York đang dẫn 90 – 83. Từ khi vào trận, hai đội đã cống hiến cho chúng ta một màn đối đầu hết sức lý thú. Các cầu thủ có phong cách thi đấu hoàn toàn khác biệt đang đua tranh…”
Emma thấy cuộn lên trong lòng. Đây đúng là trận đấu Matthew đã nhắc tới. Cô quay về chỗ ngồi để theo dõi diễn biến của trận đấu từ khoảng cách xa hơn một chút. Vài phút sau, một mail mới hiển thị trên màn hình laptop của cô.
Từ: Matthew Shapiro
Tới: Emma Lovenstein
Cô đã tìm thấy chiếc đài hay ti vi nào chưa Emma?
Ngay lúc này, New York đang dẫn trước với tỉ số khá đậm đúng không? Nếu cô xem trận đấu trong một quán bar hay một nơi công cộng, tôi thậm chí dám chắc rằng những khán giả đang ngồi xung quanh cô cũng đã tin chắc rằng đội bóng của họ sẽ giành chiến thắng…
Cô ngừng đọc mail để ngước nhìn về phía nhóm nam nhân viên đang dán mắt vào màn hình ti vi. Họ hể hả đập tay nhau và vỗ tay mỗi khi đội nhà ghi điểm. Rõ ràng là họ đang cực kỳ phấn khích. Cô đọc tiếp:
… Tuy nhiên, Boston mới là đội giành phần thắng với tỷ số chung cuộc là 118 – 116. Đúng vào giây cuối cùng. Cô nhớ kĩ tỷ số nhé Emma:
New York 116 – Boston 118
Cô không tin tôi sao?
Vậy thì hãy xem trên màn hình ti vi nhé…
Tim cô nện thình thịch trong lồng ngực. Giờ thì gã đàn ông này khiến cô hoảng thực sự. Toàn thân co rúm, tứ chi tê dại, cô khó nhọc rời khỏi ghế và tiến lại gần để vừa theo dõi phần cuối trận đấu vừa âm thầm cầu nguyện cho lời dự đoán của Matthew không thành sự thực.
“Chúng ta đang ở năm phút cuối cùng của trận đấu. New York vẫn đang dẫn với tỷ số 104 – 101.”
Cô theo dõi những phút cuối của trận đấu trong tâm trạng e sợ. Để xua tan nỗi âu lo, cô cố gắng hít thở sâu. Chỉ còn chưa đầy hai phút nữa là kết thúc trận đấu và New York vẫn đang dẫn trước.
Một phút ba mươi giây.
Một cú đưa bóng vào rổ của đội Celtic dẫn đến tỷ số đều 113, rồi một loạt hai cú đưa bóng vào lưới giúp mỗi bên tăng thêm ba điểm nữa và cân bằng lại tỷ số 116 – 116.
Emma cắn chặt môi. Chỉ còn vỏn vẹn mười giây nữa là kết thúc trận đấu thì Paul Pierce, một cầu thủ của đội Boston, đã khéo léo xuyên thủng hàng phòng ngự rồi lừa đối phương bằng một cú stepback trước khi bóng lên lưới… và ghi thêm hai điểm.
“Boston vừa ghi thêm hai điểm và vươn lên dẫn trước! 118 – 116! Vận may đã rời bỏ đội Knick rồi!”
Trong khi cầu thủ đang ăn mừng chiến công của mình, nhà thi đấu bắt đầu ồ lên thất vọng. Emma kinh hãi nhìn đồng hồ bấm giờ.
Đồng hồ chỉ “00.4”. Chỉ còn bốn phần mười giây nữa. Thua rồi.
Không! Bởi ngay khi trận đấu tiếp diễn, một cầu thủ đội Knick đã mưu toan làm điều không thể: một cú nhồi bóng trực tiếp cách khung rổ tám mét. Trái bóng đi theo một quỹ đạo kỳ diệu rồi nằm gọn trong rổ.
“Một cú nhồi bóng khiến người ta kinh ngạc! – bình luận viên hét vang. – Không còn nghi ngờ gì nữa, Stoudemire đã ghi bàn thắng quan trọng nhất trong toàn bộ sự nghiệp cầu thủ của mình! New York giành phần thắng trong trận đấu này! 118 – 119!”
Emma mừng rỡ cũng toàn thể các đồng nghiệp, nhưng không cùng một nguyên do. Mọi thứ trong cô bất chợt dãn ra. Matthew đã nhầm! Anh ta không sống trong thời tương lai! Anh ta không thể dự đoán kết quả của trận đấu! Cô không điên!
Trên màn hình, không khí bên trong nhà thi đấu Madison Square Garden đã trở nên hừng hực. Các cầu thủ của đội bóng New York bắt đầu diễu một vòng quanh nhà thi đấu. Khán giả đồng loạt đứng dậy và hô vang mừng chiến thắng… cho đến khi trọng tài yêu cầu xem lại cú ghi bàn trên băng ghi hình và những hình ảnh đã cho thấy điều mà nãy giờ không một ai nhìn thấy: quả bóng đã rời khỏi tay cầu thủ vài phần trăm giây sau khi tiếng chuông báo mãn cuộc vang lên!
“Đúng là khoảnh khắc đáng giá ngàn vàng! Vậy là khép lại một trận đấu có cường độ không tưởng trong tâm trạng chờ đợi hồi hộp không kém gì các bộ phim của Hitchcook, Boston đã hạ gục đội Knick với tỷ số chung cuộc 118 – 116, đồng thời chấm dứt chuỗi liên tiếp tám trận thất bại của đội bóng New York!”
Cảm thấy nôn nao choáng váng, Emma lánh vào toa lét chung cho cả tầng.
Mình điên mất rồi!
Cô khiếp sợ, không thể giao đấu với con quỷ đang tàn phá lý trí của cô từ bên trong. Làm cách nào mới có thể lý giải được cơn hỗn loạn này? Đây không thể là một lời khoác lác: trận đấu đang được truyền hình trực tiếp và không thể gian lận một cuộc chơi khốc liệt như thế. May mắn ư? Có lẽ Matthew đã hú họa phát ra kết quả này. Trong thoáng chốc, cô bám lấy ý nghĩ này.
Khỉ thật!
Người ta không thể liên lạc với một gã đến từ tương lai được. Chuyện này đơn giản là KHÔNG THỂ!
Emma soi mình trong gương. Mascara của cô đã bị lem, sắc mặt cô vàng ệch trông như xác chết. Cô vốc chút nước lau sạch vết lem, cùng lúc cố gắng sắp xếp lại suy nghĩ cho đỡ rối bời. Bấy giờ một chi tiết từng khiến cô bối rối chợt xuất hiện. Tại sao trong bức mail đầu tiên cô nhận được, Matthew lại viết: “Tôi là người chủ mới của chiếc MacBook của cô?” Điều đó có nghĩa là sao nhỉ? Là trong tương lai cô đã bán chiếc laptop của mình ư? Và gã đàn ông kia đã mua lại món đồ cũ ấy, rồi do một dạng khe nứt thời gian, lúc này họ có thể liên lạc với nhau qua mail trong khi mỗi người đang sống trên một dòng thời gian khác biệt? Nghe chẳng hợp lý chút nào.
Thở dốc như thể vừa chạy nước rút một trăm mét, cô dựa vào tường và bỗng nhận ra bản tính dễ bị tổn thương và nỗi cô đơn nơi bản thân mình. Cô chẳng có ai để xin lời khuyên hoặc để tìm sự an ủi nguôi khuây. Không có gia đình thực sự để tâm sự, ngoại trừ một ông anh trai luôn giữ thái độ cứng nhắc và khinh khỉnh. Không có bạn bè thực sự. Không có người yêu. Ngay cả nữ bác sĩ tâm lý mà cô đã trả cho một đống tiền cũng bỏ đi mất.
Tuy thế, một cái tên không lấy gì làm chắc chắn vẫn lóe lên trong tâm trí cô: Romuald Leblanc.
Nếu có ai đó giúp được cô trong vụ việc liên quan đến máy tính này, thì chỉ có thể là cậu nhóc thiên tài tin học đó!
Tinh thần bỗng phấn chấn hẳn lên, cô ra khỏi toa lét rồi đi thang máy lên tận tầng có văn phòng bộ phận Truyền thông. Có ai đó đang ngồi trực, nhưng vào ngày thứ Bảy này, bộ phận hoạt động cầm chừng và cậu nhóc thực tập sinh đó không làm việc trong dịp cuối tuần. Nằn nì một hồi, cô đã có được số điện thoại di động của cậu nhóc người Pháp, liền gọi cho cậu ngay. Sau hai hồi chuông, cậu thiếu niên trả lời bằng một giọng không lấy gì làm tự tin:
– Alô?
– Tôi có việc này cần cậu giúp đấy, Mắt Kính. Cậu đang ở đâu? Vẫn ngồi trước màn hình mà ngắm mấy đứa con gái mặc quần lọt khe hả?

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.