Ngày Mai

PHẦN IV: NGƯỜI PHỤ NỮ CHẲNG THUỘC VỀ NƠI ĐÂU – CHƯƠNG 16: HOÀNG TỬ ĐEN



Hãy giữ bí mật, nó sẽ canh giữ cho bạn.
– Thánh Vịnh của Salomon, 8
 
o O o
 
Boston, 2010
18 giờ 30
Sáng sủa và đậm chất thiền, nhà hàng Nhật Bản chiếm một không gian đẹp tại tầng trệt khách sạn. Emma và Romuald rẽ một lối tới quầy bar sushi rồi ngồi xuống hai chiếc ghế caosát cạnh nhau.
Romuald lấy từ ba lô ra chiếc máy tính bảng rồi đưa nó cho Emma để cô có thể đọc những tài liệu cậu đã tải về.
– Vị trí của Nick Fitch là ở đâu đó giữa Steve Jobs và Mark Zuckerberg, – cậu nhóc lên tiếng. – Dù không được đông đảo công chúng biết đến, nhưng anh ta là một huyền thoại thực sự trong lĩnh vực tin học.
Vừa chăm chú lắng nghe cậu nhóc người Pháp, Emma vừa đọc lướt mục tiểu sử.
Nicholas Patrick tức Nick Fitch, sinh ngày 9 tháng Ba 1968 tại San Francisco, là một chuyên gia tin học kiêm chủ doanh nghiệp người Mỹ, người sáng lập kiêm tổng gám đốc công ty Fitch Inc.
Tin tặc
Năm mười bảy tuổi, do cá cược với một người bạn, cậu nhóc dùng một máy tính của trường đại học xâm nhập vào các máy chủ của NASA vốn nổi tiếng là những máy chủ được bảo vệ nghiệm ngặt nhất thế giới. Cậu nhóc dạo chơi khắp hệ thống mạng của cơ quan chính phủ này mà không hề đánh cắp dù chỉ một tệp tài liệu. Mấy ngày sau, cảnh sát đã bắt giữ cậu tại khu ký túc xá đại học Berkeley. Vài tháng sau, cậu nhóc bị đem ra xét xử vì xâm nhập trái phép vào một hệ thống tin học. Vì chưa đến tuổi thành niên, cộng thêm việc không đánh cắp tài liệu nào, cậu nhóc được hưởng lượng khoan hồng của tòa, tòa chỉ xử cậu hai tháng quản thúc tại trường giáo dưỡng kèm theo thời hạn một năm thử thách.
– Thời niên thiếu của người này có vẻ giống cậu đấy chứ, – Emma nhận xét.
– Đối với tôi thì chẳng có lời khen nào tuyệt hơn thế đâu, – Romuald thốt lên, mỉm cười rạng rỡ.
Cậu nhóc vui vẻ nhón lấy một miếng temaki cá chình rồi đút vào miệng.
Nhà hàng hoạt động theo phương thức băng chuyền: các món ăn diễu qua trên một tấm thảm lăn chạy ngoằn ngoèo khắp phòng, mời các thực khách tự phục vụ. Dưới những cái nắp hình chuông trong suốt, các món đặc sản được đặt trong những chiếc đĩa nhỏ màu sắc khác nhau tùy theo mức giá.
Emma gọi một tách trà rồi tiếp tục đọc thông tin tiểu sử người tình của Kate.
Người sáng tạo trò chơi điện tử
Ngay từ đầu những năm 1990, Nick Fitch đã được biết đến khi sáng tạo Promised Land, một trò chơi chiến lược theo thời gian thực tế trong một thế giới anh hùng giảtưởng. Trong đó người chơi sắm vai một kỵ sĩ, Hoàng tử Đen, người bảo vệ Ba thế giới, chiến đấu đẩy lùi những đợt tấn công của các sinh vật hiếu chiến và những âm mưu từ kẻ thù của Vương quốc. Bản quyền trò chơi được bán cho hãng DigitalSoft với số tiền kỉ lục. Những phiên bản khác không được công nhận cho tới 2001.
Sáng tạo hệ điều hành
Từ khi còn là sinh viên, Nick Fitch đã phát triển một hệ điều hành độc đáo, Unicorn, và anh quyết định công bố mã nguồn trên Internet, biến nó thành hệ điều hành tự do, mở và miễn phí trong thực tế. Thế là các cộng đồng lập trình viên bắt đầu sử dụng bộ mã nguồn này, sao chép và cải thiện nó. Dần dần, hệ điều hành có được một danh tiếng về độ ổn định và độ tin cậy, nhưng thiện cảm của công chúng dành cho nó vẫn bị giới hạn trong giới tin học nhỏ hẹp.
Sáng lập Fitch Inc.
Nhằm phát triển hệ thống Unicorn, Nick Fitch đã thành lập công ty riêng, Fitch Inc., một công ty chịu trách nhiệm giúp việc sử dụng hệ điều hành trở nên dễ dàng hơn và vui thú hơn đối với người dùng mới. Fitch Inc. trở thành nhà phân phối độc quyền của Unicorn, thương phẩm hóa nhiều dịch vụ gắn liền với phần mềm như hỗ trợ kĩ thuật, cố vấn và đào tạo. Vậy nên một vài người sử dụng Unicorn lúc ban đầu đã trách Fitch vì muốn biến hệ điều hành của mình thành một sản phẩm đơn giản và tiêu chuẩn hóa. Tuy nhiên, logic mang đậm tính thương mại hơn này gặt hái được thành quả bởi Unicorn dần trở thành một phần mềm có khả năng cạnh tranh với Windows, sản phẩm nòng cốt của Microsoft. Unicorn ít được sử dụng trên máy tính cá nhân nhưng đó lại là phần mềm giành ưu thế tuyệt đối trên những máy chủ doanh nghiệp, các hệ thống định vị GPS và nhất là các smartphone.
– Người phụ nữ này đúng là bốc lửa! – Romuald thốt lên.
Emma ngẩng đầu lên, nhận thấy cậu nhóc đã chiếm lấy máy tính xách tay của cô.
– Cậu đừng ngại nhé. Cứ tự nhiên lục lọi đồ đạc cá nhân của tôi đi!
– Vậy thì đây chính là Kate Shapiro hả? – Cậu ta vừa hỏi vừa xoay màn hình về phía cô. – Vợ của cái gã gửi mail cho chị từ tương lai?
– Phải, là cô ta đấy.
– Trông như… một thiên thần vậy, – cậu nhóc buột miệng, không rời mắt khỏi bức ảnh chụp Kate.
Bức ảnh gợi cảm nhất. Bức ảnh người ta có thể thấy cô bắt chéo tay trên bộ ngực trần.
Emma liếc xéo cậu nhóc.
– Lũ đàn ông… Dù có ở tuổi nào thì cũng rặt một lũ như nhau, thật tuyệt vọng.
Miệng Romuald vẫn há hốc, im bặt trước vẻ đẹp ngạo mạn của Kate. Emma nổi cáu:
– Thôi chảy dãi trước cô ta đi, cậu thật nực cười. Hơn nữa, cô ta phẫu thuật rồi đấy! Nhìn mà xem! – Cô chỉ cho cậu nhóc thấy trong lúc cho hiển thị những bức ảnh khác.
– Đúng thật, – cậu ta thừa nhận, nhưng có phải vì thế mà cô ta xấu đi đâu. – Cô ta có quan hệ với Nick Fitch phải không?
Cô trợn tròn mắt.
– Ai nói với cậu như thế?
– Vì hình xăm kỳ lân trên cánh tay trái. Con vật huyền thoại này luôn là biểu tượng của Fitch. Đầu tiên là cho trò chơi video mà anh ta sáng tạo năm mười sáu tuổi, sau đó là cho tên hệ điều hành của anh ta. Vả lại ngày nay đó cũng là logo công ty của Fitch.
– Unicorn, – Emma thì thầm.
Tiếng Anh nghĩa là kỳ lân… Cậu nhóc hư hỏng này có lý… cô nghĩ vậy và tiếp tục đọc.
Thành công của Unicorn trong các doanh nghiệp, các cơ quan hành chính và các cơ quan chính phủ.
Được cài đặt hàng loạt trên máy chủ của các doanh nghiệp, hệ thống Unicorn cũng được trang bị cho quân đội Mỹ. Trong quãng thời gian ít ỏi, Fitch Inc. đã trở thành một đối tác đặc quyền và không thể thiếu của bộ Quốc phòng. Kể từ năm 2008, hàng trăm chiếc smartphone và máy tính bảng của lính Mỹ được cài đặt một phiên bản sửa đổi củaUnicorn. Quả thực, Lầu Năm Góc đã đánh giá rằng hệ điều hành này được bảo mật cao nhất để cho phép nhân sự của mình gửi đi những tài liệu nhạy cảm và cơ mật từ một phương tiện kết nối mạng.
Hệ điều hành cũng được trang bị cho các máy bay chiến đấu của Không lực Mỹ cũng như cho hệ thống điều khiển các khu trục hạm, các súng phóng tên lửa của Hải quân Mỹ.
Đời tư
Mang biệt danh Hoàng tử Đen xuất phát từ trò chơi video do ông sáng tạo ra và bộ trang phục bất di bất dịch (quần jean đen, áo cổ lọ tối màu và vest da), Nick Fitch là một nhân vật bí ẩn và không trọng truyền thống. Chủ doanh nghiệp này là một người đàn ông kín đáo, không còn trả lời phỏng vấn báo chí từ năm 1999 và luôn bảo vệ cuộc sống riêng tư. “Mang một cái tên nổi tiếng, nhưng lại mang một gương mặt xa lạ, điều đó thật hợp với tôi”, ông giải thích với tạp chí Wired trong cuộc phỏng vấn mới nhất gần đây. Đam mê nhạc jazz và nhạc được đại, ông được biết đến bởi sở hữu một bộ sưu tập khổng lồ các tác phẩm siêu thực quy tụ trong cuộc triển lãm tại trung tâm Bảo tàng Nghệ thuật UC Berkeley. Theo tạp chí Forbes, tài sản ước tính của ông cho tới lúc này là hơn 17,5 tỷ đô.
Emma ngẩng lên khỏi màn hình máy tính bảng rồi day day mí mắt. Cô đang dính vào chuyện gì thế này? Một thiên tài tin học trở thành tỷ phú, một đế chế được gây dựng dựa trên công nghệ mới, quân đội Mỹ… “Cuộc điều tra” của cô về Kate kéo cô vào những tình tiết lắt léo đến bất ngờ.
Toàn bộ chuyện này có nghĩa lý gì đây? Cô tự hỏi, bỗng nhiên thấy nản. Mình có quyền gì mà điều tra về người phụ nữ này? Mình đang làm gì ở đây, ngay trước đêm Giáng sinh, giam mình trong khách sạn với một thằng nhóc mập ú cũng ngơ ngáo chẳng kém gì mình. Thật đáng thương…
Ngồi trước quầy, cô quan sát một hồi cử chỉ tỉ mẩn của nghệ nhân sushi đang phết bơ và dưa chuột đề làm cơm cuộn. Rồi cô nhìn sang Romuald. Dán mắt vào màn hình, cậu nhóc tín đồ tin học chỉ ngẩng đầu lên để chụp lấy các đĩa nhỏ diễu qua phía trước: gỏi bò Saint-Jacques, sushi nóng, cơm cuộn nhím biển, càng cua bể…
– Cậu biết mình không buộc phải nếm thử toàn bộ các món của nhà hàng mà…
Mải miết tìm kiếm, cậu nhóc mất vài giây mới có phản ứng.
– Nhìn này, cậu vừa nói vừa xoay máy tính sang phía Emma. Thật đáng để tò mò…
Trên màn hình, cậu đã mở nhiều cửa sổ: những bức ảnh chụp gương mặt Kate trước và sau khi phẫu thuật thẫm mỹ. Romuald đã ghi chú vào các bức hình, vẽ vài nét lên đó và viết thêm các kích thước khác nhau.
– Có gì đáng tò mò kia chứ?
– Thật kỳ cục nếu quyết định thực hiện phẫu thuật thẩm mỹ khi người ta còn trẻ trung xinh đẹp thế này phải không?
– Đúng vậy, tôi cũng đã có suy nghĩ như vậy. Nhất là khi những thay đổi là không đáng kể.
– Đúng và không đúng. Thực ra, khi đã chỉnh sửa, gương mặt Kate tuân theo tất cả các chuẩn nhan sắc.
– Cậu đang nói tới các tỷ lệ?
– Đúng đó. Có những nghiên cứu toán học về “vẻ đẹp hoàn hảo”. Các nhà khoa học đã tìm hiểu tại sao một vài gương mặt lại tỏ ra thu hút ngay tức khắc. Và họ đã chứng minh được rằng vẻ đẹp hoàn hảo tuân theo một thuật toán.
– Một thuật toán ư?
– Một tập hợp các quy tắc liên quan đến sự cân xứng của khuôn mặt và việc tuân thủ một vài tỷ lệ.
– Làm sao cậu biệt được chuyện này?
– Tôi là học sinh cuối cấp và theo khối khoa học. Một thầy giáo đã buộc chúng tôi nghiên cứu bài báo đăng trên tạp chí Khoa học và đời sống về chủ đề này và tôi vẫn còn nhớ. Nhưng những giả thuyết này chẳng phải mới mẻ gì: chúng được lặp lại những điều răn đã được biết đến từ thời Léonard de Vinci.
– Ngoại trừ sự cân xứng của khuôn mặt thì các quy tắc còn lại là gì?
– Nếu tôi nhớ không nhầm thì trên một khuôn mặt hoàn hảo, khoảng cách giữa hai đồng tử phải hơi nhỏ hơn một nửa chiều rộng tổng thể của khuôn mặt. Và khoảng cách giữa hai mắt với miệng phải hơi lớn hơn một phần ba khoảng cách từ chân tóc đến cằm.
– Ở đây đúng như vậy hả?
– Đúng vậy. Khuôn mặt Kate đã đạt tới một “chỉ số tối ưu của sự hoàn hảo”. Đó là điều giải thích vẻ hấp dẫn của cô ấy. Kate từng “gần như hoàn hảo” và cô ấy đã trở thành “hơn cả hoàn hảo”.
Emma lặng người khi nghe thông tin đó.
Vẫn luôn quá nhiều câu hỏi, vẫn có quá ít câu trả lời…
– Theo ý chị, tại sao cô ấy lại làm việc này? – Cậu nhóc vừa hỏi vừa nhón từ trên khay một đĩa xoài.
– Tôi không rõ: để làm hài lòng một người đàn ông, để tự tin hơn…
Cậu nhóc nuốt mấy miếng xoài nhanh tới nỗi suýt phát nghẹn. Emma bực bội:
– Nhưng cậu sợ cái gì vậy hả? Sợ người ta tới giành đồ ăn của cậu hay sao? Kiềm chế đi, cậu đâu còn là trẻ con sáu tuổi nữa!
Tự ái, cậu nhún vai.
– Tôi đi vệ sinh đây, – cậu ta nói rồi tụt xuống khỏi ghế.
– Thế đấy, cứ hét thật to vào để cả nhà hàng này nghe thấy. Cậu có muốn để tin nhắn trên Facebook báo cho các bạn mình biết không?
– Tôi làm gì có bạn, – cậu nhóc vặc lại, đầu cúi gằm khi đi khỏi.
– Cậu làm tôi phát khóc đây này. Sang quán bar khách sạn gặp tôi nhé. Tôi cần hai hoặc ba ly cocktail để tiếp thêm cho mình nghị lực hòng chịu đựng cậu.
Cô ký hóa đơn rồi đến lượt mình cũng đứng dậy, cất laptop vào trong túi rồi cầm theo chiếc áo khoác của cậu nhóc.
 
o O o
 
Quán bar của khách sạn Bốn Mùa mang dáng dấp như một câu lạc bộ Anh kiểu cổ: lò sưởi lớn, những tấm biển bằng gỗ cù tùng, trường kỉ nhung, giá sách, bàn bi-a và ánh sáng dìu dịu. Đang dịp Giáng sinh nên gần quầy có bày một đĩa xa lát kèm cocktail trứng sữa. Emma ngồi phịch xuống chiếc phô tơi Chesterfield rồi gọi một ly cocktail caipiroska.
Tuy không biểu lộ ra mặt nhưng cô khá hài lòng với sự hiện diện bất ngờ của Romuald. Cậu nhóc mê tin học đó là người ngoài hành tinh, nhanh nhẹn, đầy ý tưởng. Cậu nhóc có thể mang lại cho cô sự giúp đỡ quý báu nếu cô có thể tập trung khai thác trí thông minh của cậu.
Vì rằng cậu ta đã quyết định tham gia vào cuộc điều tra của cô, cô đã dẹp lòng tự ái của mình sang bên để kể cho cậu ta nghe mọi chuyện, từ tiếng sét ái tình đối với Matthew qua việc thư từ qua lại cho tới việc lục lọi ngôi nhà của gia đình Shapiro hồi sáng nay, kể cả vụ sòng bạc và việc làm sáng tỏ sự thiếu chung thủy của Kate. Cô không giấu giếm cậu nhóc chuyện gì, thậm chí không giấu cả vụ “tự tử”, cũng không giấu việc phát hiện chiếc túi du lịch giấu trong lớp trần giả có chứa không dưới nửa triệu đô la.
Cô tranh thủ lúc cậu nhóc vắng mặt để lục tìm các túi áo khoác của cậu ta. Giữa những thanh sô cô la, cô phát hiện hiện thấy nhiều thứ thú vị. Thoạt tiên là một tấm vé khứ hồi từ New York đi Scarsdale, một vùng ngoại ô giàu có của Manhattan. Chiếc vé đã được bấm lỗ kiểm soát ngày hôm qua. Khởi hành đi lúc 10 giờ 04, khởi hành về lúc 13 giờ 14 gần như ngay sau khi đến. Trên một mẩu giấy nhớ, cô đọc thấy tên và địa chỉ của Michele Berkovic, tổng giám đốc của Thống Soái. Đúng là chị ta sống tại Scarsdale cùng chồng, một nhà tài chính của phố Wall, cùng hai đứa con. Berkovic là một nhà quản lý kênh kiệu và kém nồng nhiệt được bổ nhiệm tại Thống Soái sau khi Jonathan Lempereur ra đi. Vậy thì Romuald tìm tới gia đình Berkovic vào một ngày Chủ nhật để làm gì?
Điều đáng ngạc nhiên khác là một tấm vé máy bay tới sân bay Charles de Gaulle Paris. Chuyến đi vào ngày… hôm qua. Điều này giải thích tại sao cậu nhóc lại ghé qua Boston nhanh đến thế với toàn bộ đồ đạc tư trang. Hành lý của cậu ta đã đóng sẵn bởi lẽ cậu ta chuẩn bị về Pháp, nhưng hẳn là Romuald đã hủy chuyến đi khi cô gọi điện nhờ cậu ta vô hiệu hóa hệ thống báo động của gia đình Shapiro. Cô không biết diễn giải hành động đó thế nào và vội vàng nhét mọi thứ vào túi áo khoác.
Ly cocktail của cô được mang ra và cô uống một hơi cạn sạch. Hỗn hợp rượu vodka và chanh khiến cổ họng cô hơi nóng lên. Cô toan gọi thêm một ly khác thì nhìn thấy Romuald bước vào quán bar.
Cô vẫy tay ra hiệu cho cậu nhóc nhưng cậu ta thậm chí không nhìn thấy cô. Mắt nhìn xuống như dán vào màn hình di động, cậu ta mải miết bấm bấm bàn phím điện thoại.
Thế hệ gì thế không biết… Lúc nào cũng dán mắt vào một cái màn hình, điện thoại hoặc máy tính bảng dính chặt vào người chẳng khác nào một phần cơ thể nối dài. Nhưng bản thân mình cũng có khác gì đâu?
Romuald va phải một người phục vụ bàn, lầm bầm vài lời xin lỗi rồi cuối cùng cũng nhìn thấy Emma.
– Tôi nếm thử món cocktail của chị được không? – Cậu nhóc hỏi trong lúc ngồi xuống đối diện với cô.
– Không, cậu là trẻ con mà trẻ con thì không uống rượu. Cậu gọi nước chanh hoặc sữa nóng đi…
– Trẻ con á? Xời. Tôi dám chắc tất cả mọi người đều đang nghĩ chúng ta là một cặp đấy.
Cậu ta nghiêm túc trở lại.
– Được rồi, tôi đã suy nghĩ. Cái chúng ta thiếu là một nguồn thông tin đáng tin cậy về tuổi trẻ của Kate. Mà chìa khóa của bí ẩn lại nằm ở chỗ đó: chúng ta chỉ có thể hiểu mọi người nếu biết được quá khứ của họ. Đó là một quy tắc không có bất cứ ngoại lệ nào, – cậu nhóc tuyên bố hùng hồn.
– Nghe giống hệt bác sĩ tâm lý của tôi, – Emma khẽ nói. – Nhưng cậu cứ nói tiếp đi, tiếp tục đi, tôi rất muốn nghe cậu triển khai tiếp ý này.
– Tôi cá là mối diễm tình giữa cô ấy với Nick Fitch không phải mới hình thành. Thậm chí tôi còn chắc rằng chính anh ta đã chụp bức ảnh này, – cậu nhóc khẳng định, tay chỉ bức ảnh đen trắng mê hoặc kia, cậu ta đã chuyển nó sang smartphone.
Trên bức ảnh đó Kate vẫn mang hình xăm kỳ lân.
– Có thể lắm, – Emma công nhận.
– Chúng ta nên cố gắng tìm ra bạn gái cũ của Kate để hỏi thêm thông tin.
– Bạn gái cũ nào nhỉ?
– Chị nhớ lại đi: trong số ba câu hỏi nhằm vô hiệu hóa hệ thống báo động có một câu liên quan đến tên người bạn gái thân nhất thời sinh viên.
– Chính xác, – cô nói rồi xắn tay áo lên để đọc lại những câu trả lời đã ghi sẵn trên cẳng tay.
– Sổ ghi chép của chị dễ thương đấy, hồi tám tuổi tôi cũng dùng một quyển tương tự.
– Cậu nói năng cho cẩn thận, đồ đầu đất, – Emma mắng. – Cô gái đó tên là Joyce Wilkinson. Nhưng chúng ta sẽ mất hàng tiếng đồng hồ mới có thể tìm ra chị ta. Hơn nữa, bây giờ người phụ nữ này chắc chắn đã kết hôn và…
– Chúng ta sẽ chỉ mất ba phút thôi, – Romuald ngắt lời cô.
Cậu nhóc kết nối với website của đại học Berkeley, nhưng việc truy cập dữ liệu liên quan các cựu học sinh viên bị giới hạn.
– Cậu không hack được web này sao?
– Không đơn giản như búng ngón tay đâu, nhưng tôi sẽ tìm theo lối truyền thống.
Cậu nhóc gõ đơn giản “Joyce Wilkinson + MD” 1 lên một trang tìm kiếm, nó cho ra kết quả hầu như ngay tức khắc.
– Có một Joyce Wilkinson, giảng viên môn Khoa học thần kinh, có bằng tiến sĩ của đại học Stanford. Người này từng theo học ngành Y tại đại học Berkeley từ năm 1993 tới năm 1998.
– Là chị ta đấy, chắc chắn luôn!
– Đó là một chuyên gia về bệnh Alzheimer, – cậu nhóc nói thêm sau khi đọc lướt các thông tin hiển thị trên trang. – Thông tin vô cùng quan trọng: chị ta đang làm việc tại viện Brain and Memory, một tổ chức thuộc Viện Công nghệ Massachusetts MIT chuyên nghiên cứu các bệnh lý não.
Emma cắn môi vì phấn khích. Chuyện này tốt đẹp đến khó tin: trụ sở MIT đặt tại Cambridge, chỉ cách Boston vỏn vẹn vài chục cây số…
– Joyce từng học chung đại học với Kate, lại là bạn thân nhất, có lẽ thậm chí còn ở chung phòng. Chị phải đi hỏi chị ta xem thế nào.
– Tôi muốn lắm, nhưng tại sao chị ta phải trả lời những câu hỏi tôi đặt ra? Tôi chẳng có cách nào để buộc chị ta phải trả lời tôi.
– Cần phải làm cho chị ta sợ. Mọi người thường nói với cảnh sát mà.
– Phòng trường hợp cậu còn nhận ra, tôi là người quản lý rượu chứ đâu phải cảnh sát.
– Chuyện này chỉ là tiếu tiết. Tôi có thể chế cho chị một thẻ cảnh sát thật hơn cả đồ chính hiệu.
Emma lắc đầu.
– Giờ đã là 23 tháng Mười hai. Joyce hẳn đang đi nghỉ.
– Chỉ có một cách duy nhất để biết thôi, – cậu nhóc cắt ngang.
Cậu ta kết nối với website của Viện não rồi dùng di động của mình gọi tới số điện thoại tổng đài.
– Đến lượt chị rồi đấy, – cậu ta đưa máy cho Emma.
– Viện Brain and Memory xin nghe, tôi có thể giúp gì cho quý vị? – Nhân viên trực tổng đài hỏi cô.
Emma dặng hắng.
– Xin chào, làm ơn nối máy cho tôi nói chuyện với tiến sĩ Wilkinson?
– Tôi sẽ nói người gọi là ai đây ạ?
– Ơ… mẹ cô ấy, – cô đáp vì bị bất ngờ.
– Đừng bỏ máy, tôi sẽ chuyển máy ngay.
Emma liền gác máy.
– Ít nhất thì chúng ta cũng biết chị ta đang ở chỗ làm, – cô nói rồi giơ tay ra hiệu lấy hóa đơn của quầy bar.
Rồi cô hỏi Romuald:
– Vụ thẻ cảnh sát cậu nói nghiêm túc đấy chứ?
Cậu nhóc gật đầu.
– Ở Business Center có những máy in màu cho chất lượng tuyệt hảo. Năm phút nữa qua đó gặp tôi nhé.
Trong lúc cậu nhóc đi khỏi, cô kiểm tra hòm thư. Matthew vẫn chưa trả lời bức mail hồi sáng. Thật lạ. Trong lúc chờ hóa đơn, cô hồi tưởng lại tất cả những sự kiện đã đảo lộn cuộc sống của cô trong những ngày qua.
Làm thế nào mà mình lại để bản thân cuốn vào cơn lốc xoáy này nhỉ?
Cô ký vào hóa đơn mà người phục vụ bàn đưa rồi tới gặp Romuald.
 
o O o
 
Nằm cạnh quầy lễ tân, Business Center là một không gian rộng rãi được bố trí ghế phơ tơi và các ô có vách ngăn được trang bị máy tính, máy in và máy fax. Emma nhìn thấy Romuald đang lúi húi tại một ô.
– Cười lên nào! – Cậu ta miệng nói tay chĩa ống kính máy ảnh tích hợp trong điện thoại vào cô. – Tôi cần chụp chân dung chị. Chị muốn làm thẻ FBI hay thẻ BPD 2?
– Thẻ BPD đi, có vẻ đáng tin hơn.
– Dù gì thì chị cũng phải nghĩ tới việc thay quần áo đi. Chị ăn mặc kiểu này trông chẳng giống cảnh sát chút nào.
– Cậu biết quần áo của tôi trông thế nào à?
Cô ngồi cạnh cậu nhóc, vừa nhìn cậu ta làm việc vừa chia sẻ với cậu ta những nghi ngại của mình:
– Có lẽ chúng ta đang hoàn toàn lầm đường. Có lẽ Kate tuyệt đối không có điều gì đáng chê trách thì sao.
– Chị đùa đấy à? Ai mà giấu nửa triệu đô la tiền mặt trên trần giả thì nhất định phải có điều gì đó đáng chê trách. Cần phải biết số tiền đó ở đâu ra và nhất là chuyện chị ta định làm gì với nó.
– Cậu định làm cách nào?
– Tôi có một ý nhỏ thế này, nhưng cần phải có thiết bị…
Cô quyết định tin tưởng cậu nhóc tín đồ tin học này và chìa cho cậu một trong số thẻ tín dụng của mình.
– OK, cậu muốn mua gì cứ tùy ý. Nếu cần cứ rút cả tiền mặt cũng được.
Rồi cô xắn tay áo sơ mi lên để đọc những gì đã viết lên cẳng tay.
– À phải rồi, có điều này tôi muốn cậu tìm hiểu xem sao. Kate có duy trì một blog mang tên Những gian truân của một phụ nữ Boston. Trang web thống kê những nhà hàng và cửa tiệm uy tín. Cậu liếc qua xem nhé. Tôi thấy trong giọng điệu và lời giới thiệu có điều gì đó kỳ quặc…
– Nhất trí, tôi sẽ xem qua, – cậu nhóc hứa trong lúc ghi lại địa chỉ.
Rồi cậu ta bắt đầu in chiếc thẻ cảnh sát giả lên giấy bìa cứng, cẩn thận cắt ra.
– Cầm lấy này, trung úy, – cậu ta nói rồi hãnh diện chìa cho Emma chiếc giấy thông hành quý giá.
Cô gật đầu khi nhận thấy chất lượng tác phẩm cậu nhóc làm ra rồi nhét chiếc thẻ vào ví.
– Chúng ta giữ liên lạc nhé, OK? Cậu không làm chuyện ngu ngốc và gọi tôi nếu gặp rắc rối nhé.
– Tuân lệnh, – cậu nhóc đáp, nháy mắt với cô rồi huơ huơ điện thoại di động.
 
o O o
 
Trên phố Boylston, tuyết vẫn rơi mau, gây cản trở giao thông. Nhưng người dân Boston đã quyết định không lùi bước trước điều kiện thời tiết bất lợi. Những người bảo vệ dùng xẻng dọn quang lối vào các tòa nhà trong khi nhân viên sở giao thông công chính rải muối lên mặt đường và điều tiết giao thông.
Gần khách sạn Bốn Mùa có một trung tâm thương mại. Emma tới đó làm một cuộc shopping nhanh gọn: quần jean, giày cao cổ, áo cổ lọ chất len ca sơ mia, áo vest da.
Trong phòng thử, cô ngắm nhìn vẻ bề ngoài đã đổi khác của mình, tự hỏi liệu trông mình có đáng tin không.
– Trung úy Emma Lovenstein, cảnh sát Boston! – Cô nói trong lúc giơ chiếc thẻ ra trước gương.
Chú thích
1 Doctor of Medecine. (Chú thích của tác giả)
2 Viết tắt của Boston Police Department: Sở cảnh sát Boston. (Chú thích của tác giả)

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.