Người Làm Chứng

CHƯƠNG 13



Phòng khám nghiệm tử thi của tòa Giám định pháp y Hạt Palm Beach là nơi Landry không bao giờ muốn ghé qua. Nhưng đó lại là một phần rất quan trọng trong công việc của anh. Công việc thôi mà, anh vẫn nghĩ như thế cho dù có thể ủy thác việc này cho Weiss. Weiss sẽ chẳng khác nào một chú bé con ngớ ngẩn thích chui vào phòng thí nghiệm để mổ phanh xác con ếch ra xem xét.
Từ lúc được giao trọng trách điều hành vụ này, Landry trở thành người đại diện của nạn nhân. Việc của anh là tìm lại công lý cho cô ta. Để làm được việc đó, anh cần phải biết, cần phải được nhìn tận mắt, bất kỳ điều gì anh có thể làm vì nạn nhân, để xác định xem cô ấy sống thế nào và chết như thế nào.
Anh đứng cạnh chiếc bàn đối diện với giám định viên, cũng đeo chiếc mặt nạ, đội mũ, mặc áo choàng, đeo găng và đi ủng. Ở đây, tất cả mọi người chỉ được phép nhìn nhau bằng mắt mà thôi.
Giám định viên lần này là Mercedes Gitan, trưởng phòng pháp ý, là người luôn được đánh giá cao. Cô đã từng từ bỏ công việc dạy học nhàn hạ ở trường đại học Miami để tìm đến chỗ này và nhanh chóng thăng tiến. Nếu các nhà cầm quyền của hạt còn có chút nào khôn ngoan, chắc hẳn họ sẽ giao trọng trách cho Gitan mà không cần phải suy nghĩ.
– Anh có nhìn thấy không? – Cô chỉ vào vết thương đang ngoác miệng ở phần thân trên mà con cá sấu đã dứt ra. – Đó là phần đầu của xương đùi. Con cá sấu đã ngoạm nó như ngoạm một cái xương gà. Hàm răng cá sấu khỏe đến khó tin: dao động từ 1500 đến 2000 mã lực, tương đương với lực nhổ bật rễ một gốc cây nhỏ.
– Tôi cũng muốn thử làm gốc cây xem sao. – Landry nói.
– Lạy Chúa, tôi đã mổ hai cái xác nạn nhân bị c tấn công. Chẳng hay ho gì đâu. Tôi không thể tưởng tượng được những người ấy cảm thấy thế nào. Tôi cho rằng tin tốt ở đây là nạn nhân chỉ cảm thấy lúc trước đó thôi, sự hành hạ của một loài thú khác. – Gitan nói vẻ cay nghiệt.
Cô bật lên một tiếng thở dài và lắc đầu khi nhìn xuống khuôn mặt của Irina Markova, đôi mắt và đôi môi đã bị xẻ nát.
– Tôi khó mà làm được việc này. Tôi có thể mổ xác của những tên buôn lậu ma túy và tội phạm cả ngày trời cũng được. Chúng biết chúng hành động vì cái gì và biết rõ việc mình đang làm. Còn cô ấy là một nạn nhân thuần khiết. Cô ấy sẽ đi dạo trên đường mà chẳng hề để tâm đến một tên giết người.
– Tôi cũng biết chút ít về cô ấy. – Landry nói – Đủ để chào nhau. Cô ấy là người quen của bạn tôi.
– Tôi rất tiếc. Anh cũng không cần phải ở đây đâu, James. Tôi có thể gọi lại cho anh.
– Không, đây cũng là một phần của công việc. Cô ấy là nạn nhân trong vụ của tôi. Cô biết tính tôi rồi còn gì.
– Mê tín?
Anh nhún vai, mắt vẫn không rời cái xác.
– Tôi cần phải chứng kiến bằng cả hai mắt, tôi cảm thấy như… như mắc nợ nó thì phải. Thật điên rồ phải không?
– Không phải đâu. Điều đó có nghĩa là anh vẫn còn tình người. Tôi vẫn xem xem lúc nào thì tôi bắt đầu chỉ đếm các xác chết chứ không còn coi chúng là người nữa, đó chính là lúc tôi nên đi tìm công việc khác thì hơn. Ý tôi là tôi đã dần dần không còn cảm xúc nữa. Tôi không thể làm việc này mà vẫn còn giữ cho đầu óc lành mạnh được. Nhưng chí ít thì tôi vẫn còn ép mình phải tìm hiểu danh tính của họ.
– Cảm ơn vì đã chia sẻ điều này, Merci – Landry nói.
Chính anh đã gọi riêng cô để nhờ giúp việc này. Anh quen biết cô đã sáu bảy năm nay, đã quan sát sự thăng tiến của cô. Cô rất lành nghề và cẩn thận. Đây lại không phải là một vụ đơn giản. Gitan sẽ thu lượm từng tí thông tin một, cho dù chúng chẳng có ý nghĩa gì đi chăng nữa. C chẳng bao giờ bỏ qua bất cứ điều gì hết.
– Ồ, không biết ai cần tới cô gái này cơ chứ. – Cô nói.
– Ông thị trưởng Wellington, thị trưởng West Palm, rồi thị trưởng Palm Beach, cảnh sát trưởng, luật sư của bang và hàng chục cuộc gọi khác từ lúc anh gọi tôi tới giờ.
Lanry cười chẳng mấy vui vẻ.
– Sẽ chẳng ai quan tâm nếu mấy tên đầu đường xó chợ ở Loxahatchee bị bắn cho phọt óc ra. Nhưng một phụ nữ trẻ bị bóp cổ rồi vứt xuống nước thì sẽ gây ảnh hưởng xấu tới ngành du lịch. Rõ ràng tên giết người vẫn chạy nhong ngòai đường phố kia suốt cả mùa này.
Gitan liếc nhìn đồng hồ rồi thở dài giận dữ.
– Không biết thằng Cecil chết rấp ở đâu rồi? THẰNG CECIL CHẾT RẤP Ở ĐÂU RỒI.
– Tôi đang chờ cô hét lên đây, bà chủ.
Trợ lý của Gitan, một gã đồng tính da đen cao hai mét mốt, bước vào phòng. Mặc dù đang đứng trên bục cao, Gitan vẫn phải nghển cổ để nhìn anh ta.
Công việc bắt đầu với sự khám nghiệm bên ngoài. Gitan nói khẽ vào micro, nhận dạng nạn nhân, thông báo tuổi, chiều cao, cân nặng, giới tính, màu tóc. Cô không thể định rõ màu mắt của cô gái vì con ngươi đã không còn nữa.
Landry nhìn chằm chằm vào đôi tay của nạn nhân, những móng tay sơn màu đỏ chói vẫn còn nguyên si dù bị ngâm lâu ở dưới nước. Chỉ có hai móng là bị gãy. Hy vọng là chúng gãy vì cô đã cào sứt mặt tên giết người và Gitan sẽ tìm được thứ gì đó đem lại chút hy vọng, như tế bào da hay chút máu của tên sát nhân còn mắc lại đủ để xét nghiệm DNA.
Xác chết đã bị ngâm lâu dưới nước, nhưng trừ phi lũ cá rỉa hết móng tay đi, nếu không vẫn còn cơ hội tìm thấy thứ gì đó dưới lớp móng.
Phân tích những chứng cứ kiểu này cần phải có thời gian. Huyết thanh, chất độc, rồi DNA. Thực tế có xét nghiệm vội vàng cũng phải mất vài ngày, thậm chí vài tuần mới cho ra kết qủa. Ngay cả khi đã có kết quả DNA rồi thì cũng chỉ có thể tìm ra chủ nhân của nó ngay lập tức, nếu gã đó có tiền án tiền sự từ trước và thông số về hắn được lưu trữ ở ngân hang dữ liệu quốc gia.
Gitan kiểm tra từng xăng ti mét da thịt của xác chết. Từng vết xước, từng vết thâm tím đều được đo đạc và chụp ảnh lại. Sẽ chẳng có gã luật sư nào biện hộ được trước những chứng cứ li ti này. Chúng cũng hữu ích chẳng khác nào dấu vân tay vậy.
– Cô nghĩ đây là cái gì? Vết cắn? – Anh hỏi, chỉ vào mấy vết thâm hình bán nguyệt xung quanh quầng ngực trái. Anh soi kính lúp và cúi thấp xuống để nhìn.
– Cũng có thể. – Gitan nói. – Cái này có vẻ là như vậy. Nhưng tôi không thấy rõ ràng vết răng. Có thể hắn đã cắn cô ta qua một lớp vải hoặc chăn mỏng nên vết này mới mờ đi như vậy. Chắc hắn cũng là một tay lịch sự.
– Có thể hắn làm việc này từ trước đấy. – Landry nói.
Đó không phải là một ý kiến hay. Họ sẽ không trò chuyện về một tên con hoang ngẫu nhiên nào đó mà lại không có câu trả lời rõ ràng. Vụ án sẽ không được xảy ra tình huống nào nằm ngoài trù liệu. Nó sẽ phải được tiến hành trình tự, đòi hỏi sự tỉnh táo và logic để phòng ngừa những lời buộc tội bừa bãi.
Gitan chuyển sang những vết buộc xung quanh cổ cô gái.
– Cô nghĩ đây là cái gì? – Landry hỏi. – Dây thừng? Hay dây điện?
– Đầu tiên, – Gitan đáp lời – chúng ta nhìn thấy những dấu tay trên thanh quản. Nhìn thấy không? Nên chúng ta biết rằng tên sát nhân đã dùng tay bóp cổ cô ấy. Nhưng rồi chúng ta cũng tìm thấy cả vết buộc nữa. không phải dây điện. Có nhiều vết mờ, như vậy hẳn phải là dây vải. Nếu là dây thừng thì nó mảnh hơn. Tôi không nhìn thấy bất kỳ thớ dây thừng tự nhiên nào, nhưng cô ta bị ngâm dưới nước nên những vết thớ dây có thể biến mất. Hoặc đây cũng có thể là loại dây thừng nhân tạo. Dây nilon chẳng hạn.
Gitan soi kính lúp để nhiên cứu những rãnh sâu trên cổ cô gái. Vài chỗ da đã bị nứt.
– Ồ. – Cô kêu lên khi lấy chiếc nhíp cẩn thận gắ gì đó ra khỏi vết thương.
– Gì thế?
– Máu khô. Nhìn này.
Landry nhìn cái vẩy qua kính hiển vi. Kẹt trong đó là sợi vải nhỏ đến nỗi không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Chúng mảnh, ngắn, màu đen, trông gần giống như sợi tóc ngắn vậy.
– Các chuyên gia phòng thí nghiệm sẽ đưa ra câu trả lời sau khi xem xét chúng dưới kính hiển vi. – Gitan nói.
– Tôi thấy ngạc nhiên khi cô vẫn tìm được thứ gì đó.
– Thỉnh thoảng chúng ta vẫn gặp may. Tên sát nhân không vứt cô ta xuống nước ngay lúc đó. Vết thương vẫn còn thời gian để khô lại.
Sau khi Gitan kiểm tra kỹ lưỡng phần trước của thi thể, Landry giúp Cecil lật cái xác lại. Gitan vén hết tóc của Irina Markova lên để kiểm tra phần sau cổ, nhưng không có gì.
– Được rồi. – Gitan nói. – Phải có thứ gì đó đằng sau hoặc giữa cô ta và tên giết người, hay cũng có thể hắn ở phía trên cô ta và ghì cô ta xuống để bóp cổ.
– Theo kinh nghiệm của tôi thì loại người làm những chuyện như thế này thường muốn nhìn khuôn mặt của nạn nhân khi bóp cổ họ. – Landry nói – Nhìn thấy những tia sáng cuối cùng phát ra từ ánh mắt họ là một sự thích thú đầy quyền năng.
– Theo tôi thì hắn đã bóp cổ cô ta đến bất tỉnh, sau đó để cô ta tỉnh dậy rồi lại “giết” thêm lần nữa.
– Đồ bệnh hoạn khốn kiếp. ­– Landry thì thầm.
– Hắn đã để cô gái nằm đâu đó một lúc trước khi đem quăng cô ta xuống kênh. – Gitan giải thích.
Khi tim ngừng đập, vòng tuần hoàn máu không hoạt động khiến máu tụ xuống lưng, phía sau cẳng chân và cánh tay làm thành những vết thâm tím lớn. Thi thể cô gái để đặt nằm khá lâu nên máu đã đông cục lại trong nhiều giờ. Cho dù sau đó xác chết có được di chuyển và thay đổi tư thế th những vết đó vẫn tồn tại nguyên như vậy.
– Có lẽ hắn phải chờ dịp để ném cô ta xuống nước. – Landry nói. – Hoặc hắn là loại quái vật muốn giải trí với xác chết sau khi giết họ.
Landry chờ tới khi Gitan rạch một đường ngang qua đỉnh đầu cô gái. Mảnh da đầu được kéo ra sau để kiểm tra các chấn thương bên trong. Hộp sọ sẽ được khám nghiệm xem có bị vỡ hay không, Landry không cần phải quản quanh để quan sát kỹ chu trình này. Anh không cần phải chờ Gitan rạch những đường hình chữ Y xuống ngực và phần thân dưới. Anh không cần phải nhìn phần xương ức của Irina bị xẻ làm hai và bộ ngực cô ấy mở toang ra như vỏ sò. Anh không cần phải xem lục phủ ngũ tạng của cô được lấy ra từ cơ thể và đặt lên đĩa cân.
Trước đây anh đã chứng kiến đủ rồi. Ai cũng có một lá gan. Ai cũng có một bộ ruột. Ai cũng có óc. Chẳng có gì khiến anh chú ý cả. Các nội tạng sẽ được khám nghiệm và được cân lên, rồi ghi chép, bởi vì chu trình công việc là thế. Nhưng Irina Markova không có bệnh về nội tạng hay bấy kỳ sự thiếu hụt bên trong nào có thể làm cô ấy chết.
Cô ấy chết vì căn bệnh của kẻ khác – đó là thứ chất độc đã dần dần xâm nhập vào tâm trí của tên giết người.
Anh đã nghĩ như thế từ lúc đi ngang qua nhà để xe để về phòng cảnh sát.
– Phiên dịch đây rồi. – Weiss nói.
Họ đi vào phòng thẩm tra. Người đàn ông đứng tuổi ngồi cuối bán không biểu lộ thái độ gì. Khuôn mặt dài thuỗn của ông ta như tạc bằng đá. Ông ta cao, gầy, mặc bộ quần áo đen và bộ râu trắng được xén tỉa cầu kỳ. Mắt trái của ông ta ánh xanh sắc sảo, nhưng mắt phải lại đục lờ, và nó đã hỏng rồi nhưng ông ta cố tình để thế cho mọi người nhìn thấy, chứ chẳng cần đeo kính hay băng lại để che giấu gì hết. Ông thầy tu già dường như còn thấy tự hào về con mắt hỏng đó, hệt như một tấm huân chương danh dự xấu xí vậy.
Weiss giới thiệu
– Thưa cha Chemoff, đây là thám tử Landry, cũng đang tham gia cuộc điểu tra này.
Landry cứ để nguyên lời giới thiệu đó. Anh không cần phô bày vai của người đứng đầu để tống cổ Weiss trở về vị trí của mình.
– Anh chìa tay cho thầy tu, những ngón tay của ông ta nhăn nheo và xương xẩu hệt những cành cây khô.
– Cha Chermoff. Cảm ơn cha đã đến chỉ vì một mẩu tin ngắn ngủi. Thật không may đó là mẩu tin duy nhất để khởi động cho một cuộc điều tra.
– Thầy tu già nhìn xuống khi họ đã yên vị. Landry hồi tưởng lai ngôi trường Thiên Chúa giáo nơi anh đã phải quỳ gối rất lâu để cầu xin Đức Mẹ tha thứ cho tội vi phạm nội quy trường học cũng như nhớ lại những lần cha Arnauld đã nhìn anh đầy giận dữ.
– Đây là cô gái người Nga đã chết? – Giọng thầy tu hơi nặng, nhưng tiếng Anh thì rất linh hoạt.
– Vâng thưa cha. Irina Markova. Cô ấy làm việc trong một trại ngựa ở ngoại vi Wellington. Cha có biết bất kỳ người nào mang tên Markova trong khu vực này không? Nếu cô ta có gia đình ở đây, chúng tôi sẽ liên hệ với họ.
Thầy tu không trả lời câu hỏi.
– Người này, – Ông hất đầu về phía Weiss – đã bật cho tôi đoạn băng ghi lại tin nhắn.
– Vâng, cha có thể dịch hộ được không?
Thầy tu không trả lời câu hỏi, như thể công việc của Landry chẳng gây tí ấn tượng nào.
– Cô gái này, là một tội phạm?
– Theo tôi thì không. Sao cơ? Người đàn ông đã nói gì trong cuốn băng?
– Tên anh ta là Alexi đúng không? Người này bảo tôi thế. – Thầy tế lại hất đầu về phía Weiss mà không buồn liếc nửa con mắt.
– Chúng tôi nghĩ thế. Tại sao cha lại hỏi cô gái này có phải là tội phạm không?
– Bật băng lại đ
Weiss nhấn nút và một tràng tiếng Nga tuôn ra xen lẫn những đoạn ngắt.
– Anh ta nói “Quỷ tha ma bắt tại sao em không gọi lại cho tôi? Em đối xử tử tế với tôi bằng cách đang hứng tình với mấy thằng ma cô Mỹ mềm oặt đấy hả? Đừng quên em là ai, Irina. Đừng quên ai đang sở hữu em. Tôi có việc cho em đây. Vụ này sẽ kiếm được, cô nàng tham lam ạ.”
– Cha có nhận ra giọng ai không? – Landry hỏi.
– Có rất nhiêu người Nga có tên Alexi. – Thầy tu đáp lời.
– Cha có ý tưởng gã này là một người nào trong số đó không?
Thầy tu nhìn quanh phòng như thể có vài gã đàn ông mang tên Alexi đang nấp ở đâu đó trong góc đê nghe trộm.
– Anh có biết những tổ chức tội ác người Nga không thám tử Landry?
– Tôi có biết.
– Tôi không cần phải kể cho anh nghe những con người này tàn nhẫn và hung bạo đến mức nào đúng không. Chúng là một vết nhơ trong cộng đồng chúng tôi. Không phải tất cả người Nga đều là tội phạm.
– Nhưng cha vừa hỏi tôi, liệu tôi có cho rằng Irina Markova cũng là một tội phạm không?
– Có một người, một người rất nguy hiểm, tên là Alexi Kulak. Hắn là một con sói xấu xa. Đây có thể chính là giọng của hắn.
– Cha biết hắn ta? – Weiss hỏi. – Cha có biết hắn ở đâu không?
– Tôi biết về hắn. Đó là loại người tin rằng mình là chủ thiên hạ và có thể làm bất cứ điều gì hắn muốn với họ.
Giọng ông già dường như hơi cay đắng.
– Hắn đã làm mắt của cha ra nông nỗi này ư? – Landry hỏi.
Thầy tu hít một hơi dài.
– Không, KGB đã làm thế hồi tôi còn trẻ. Họ đốt mù mắt tôi bởi vì tôi không chịu làm nhân chứng cho họ. Tôi đã nhìn thấy một người ăn cắp hai ổ bánh mì để nuôi sống gia đình, chỉ vì chiến tranh thôi mà. Người người đều chết đói. Khi còn ở Nga, chúng tôi chỉ sợ KGB. Không có tội phạm, còn ở đây thì qúa nhiều tội phạm chứ không có KGB. Cũng chẳng tốt đẹp gì hơn.
– Cha biết người nào có thể giúp đỡ chúng tôi tìm Alexi Kulak được không? – Landry hỏi.
– Tôi biết một người, nhưng anh ta sẽ không nói đâu.
– Nếu anh ta sợ, chúng tôi có thể nói chuyện qua điện thoại. – Weiss nói. – Tất cả chúng tôi đều đang tập trung vào người mang tên Alexi này.
Thầy tu già đứng dậy. Ông ta đứng thẳng như nòng súng, đây là dáng diệu quen thuộc khi mặc áo thầy tu.
– Anh ta sẽ không nói đâu. – Ông lặp lại. – Vì Alexi Kulak sẽ cắt lưỡi anh ta.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.