Người Ru Ngủ

CHƯƠNG 9



Sự hung bạo của một kẻ giết người rải rác có tính chất chu kỳ.
Mỗi chu kỳ kéo dài khoảng mười hai tiếng đồng hồ và được chia làm ba giai đoạn: bình thản, nung nấu và bùng nổ. Giai đoạn thứ nhất xuất hiện sau vụ tấn công ban đầu, khi đó tên giết người có cảm giác thỏa mãn tạm thời. Tiếp theo là giai đoạn nung nấu trở lại, trong đó lòng thù hận pha trộn với sự giận dữ. Hai cảm xúc này giống như các nguyên tố hóa học: tách riêng thì không quá độc hại, nhưng khi trộn với nhau chúng tạo thành một hỗn hợp cực kỳ bất ổn. Thế nên giai đoạn thứ ba là không tránh khỏi. Kết cục duy nhất khả dĩ của các quá trình là cái chết.
Nhưng Mila hi vọng mình hành động kịp thời.
Kết thúc tất yếu của một kẻ giết người tập thể là tự sát, nếu như Valin chưa làm điều đó tức là hắn đang có một kế hoạch và muốn thực hiện nó.
Lần này hắn sẽ ra tay ở đâu, và ai sẽ là nạn nhân của hắn?
Buổi chiều đã kết thúc, bầu trời nhuốm những màu sắc của một mùa hè đang lụi tàn. Chiếc Hyundai chậm rãi tiến lên trong khi Mila khom người trên tay lái để đọc số các ngôi nhà.
Tất cả đều giống hệt nhau: hai tầng, mái dốc, có vườn. Duy chỉ màu sắc của chúng là thay đổi: trắng, be, xanh lá cây và nâu, nhưng luôn ở tông nhạt. Vào một thời kỳ đã xa, các ngôi nhà này từng là nơi sinh sống của những gia đình trẻ, với đám con nít vui đùa trên thảm cỏ, và một bầu không khí đầm ấm tràn ngập sau mỗi ô cửa sổ.
Ngày nay, nơi này là khu vực của người già.
Hàng rào gỗ trắng bao quanh các ngôi nhà đã được thay thế bằng lưới mắt cáo. Các khu vườn đã bị cỏ dại mọc um tùm, xen lẫn nhiều rác rưởi và sắt phế liệu. Khi đi đến ngôi nhà số 42, Mila dừng lại. Phía bên kia đường là ngôi nhà mà Roger Valin từng cư ngụ.
Mười bảy năm đã trôi qua, hiện giờ ngôi nhà đã thuộc về một gia đình khác, nhưng đây chính là nơi tên giết người đã lớn lên. Hắn đã chập chững những bước đi đầu tiên, chơi đùa trên bãi cỏ, tập tành đạp xe. Mỗi ngày hắn đều bước qua cánh cổng kia để đến trường, sau này là đến cơ quan. Đây là bối cảnh cho cuộc sống thường nhật của hắn. Cũng chính tại nơi đây Valin đã chăm sóc người mẹ ốm đau, cùng bà chờ đợi một kết thúc chậm rãi và không tránh khỏi.
Trong sự nghiệp tìm kiếm người mất tích của mình, Mila đã học được rằng, dù có trốn đi xa đến đâu, ngôi nhà vẫn luôn theo chân chúng ta. Cho dù thường xuyên chuyển chỗ ở, ta vẫn luôn gắn với một nơi trú quán. Như thể chúng ta thuộc về nó, chứ không phải ngược lại. Như thể nó và ta được làm từ cùng chất liệu: đất cát là máu, gỗ là khớp và xi măng là xương.
Hi vọng duy nhất mà Mila có thể bám víu vào để tìm thấy Roger Valin là, bất chấp sự hung hãn và ý định giết chóc của hắn, sau một khoảng thời gian dài sống xa nhà, ở một nơi mà chỉ có Chúa mới biết, rốt cuộc hắn đã đầu hàng ký ức để tìm về chốn xưa.
Cô đậu chiếc Hyundai cạnh lề đường và bước xuống, đưa mắt nhìn quanh. Gió thổi qua đám cây cối, mỗi đợt không khí mới lại mang theo âm thanh của tiếng chuông báo trộm xa xa, vang lên từng hồi đứt quãng. Trong mảnh vườn ngôi nhà cũ của Valin có một chiếc xe thùng cũ nát đã mất bánh được đỡ bởi bốn chồng gạch. Trong nhà thấp thoáng bóng dáng của những chủ nhân mới. Khó có khả năng Roger tiếp cận nơi đây gần hơn nữa.
Để tìm kiếm bằng chứng về chuyến viếng thăm của hắn, Mila phải đi tìm chỗ khác. Cô nhìn quanh rồi tiến đến ngôi nhà đối diện.
Một người phụ nữ đứng tuổi đang rút quần áo trên sợi dây phơi căng giữa hai cây cọc. Với đống quần áo trên tay, bà bước trở lên bậc thềm nhà. Mila vội tiến nhanh đến chỗ người phụ nữ.
– Xin phép bác cho cháu hỏi thăm một chút.
Người phụ nữ ném cho Mila một cái nhìn ngờ vực. Cô rút thẻ cảnh sát ra để trấn an bà ta.
– Cháu chào bác, xin lỗi đã làm phiền bác, nhưng cháu có chuyện cần phải hỏi bác.
– Không sao đâu cháu. – Người phụ nữ mỉm cười đáp lại. Bà ta đi đôi vớ dày, một bên bị tụt xuống tận mắt cá. Chiếc váy của bà ta lấm lem và bị sờn ở khuỷu tay.
– Bác sống ở đây lâu chưa ạ?
Người phụ nữ có vẻ thích thú với câu hỏi, nhưng rồi đưa mắt nhìn xung quanh với vẻ buồn rầu.
– Bốn mươi ba năm rồi.
– Vậy là cháu hỏi đúng người rồi. – Mila nói bằng giọng thân thiện. Cô không muốn làm bà ta hốt hoảng bằng việc hỏi thẳng xem dạo gần đây bà có nhìn thấy anh chàng Roger Valin hàng xóm, người đã mất tích mười bảy năm hay không. Hơn nữa, căn cứ theo tuổi tác của người phụ nữ, cô sợ làm bà ta rối trí.
– Cháu có muốn vào trong nhà không?
Mila chỉ đợi có thế. Cô đáp luôn:
– Có ạ.
Người phụ nữ đi trước dẫn đường. Cơn gió làm cho mái tóc lưa thưa của bà càng thêm rối.
Bà Walcott lê bước trên đôi dép lê bằng len, băng qua tấm thảm và sàn gỗ đã cũ mòn theo một lối chính xác giữa những món đồ nội thất cồng kềnh chất đầy các loại đồ lưu niệm: những con giống bằng thủy tinh, đồ sứ sứt mẻ, cùng những khung ảnh lưu lại một thời đã xa. Bà bưng một chiếc khay đựng ấm trà và hai cái tách. Mila đứng dậy khỏi ghế xalông để giúp bà đặt nó xuống cái bàn thấp.
– Cảm ơn cháu.
– Phiền bác quá ạ.
– Không có gì đâu. Chẳng mấy khi tôi tiếp khách khứa.
Mila quan sát người phụ nữ, và tự hỏi liệu một ngày nào đó mình có đối diện với tình trạng cô độc như thế này hay không.
Con mèo có bộ lông màu hung nằm cuộn mình trên chiếc ghế, thỉnh thoảng mở mắt ra để thăm dò tình hình trước khi ngủ tiếp. Có lẽ đó là người bạn đồng hành duy nhất của bà Walcott.
– Satchmo không quen giao tiếp với người lạ, nhưng nó ngoan lắm.
Mila chờ cho người phụ nữ ngồi xuống trước mặt mình.
– Điều mà cháu sắp hỏi có lẽ hơi kỳ lạ, vì chuyện đã khá lâu rồi. Bác có tình cờ biết gia đình Valin, những người từng sống trong ngôi nhà đối diện không?
– Một gia đình tội nghiệp. – Bà Walcott đáp, mặt bỗng sa sầm lại. – Khi ông Arthur nhà tôi và tôi mua ngôi nhà này thì họ cũng vừa mới dọn đến. Họ cũng còn trẻ giống như chúng tôi, và khu dân cư này mới được hình thành cách đó chưa lâu. Một môi trường hòa nhã, lý tưởng để nuôi dạy bọn trẻ con. Đó là điều mà tay cò nhà đất đã nói với chúng tôi, và anh ta không nói sai. Ít nhất là trong những năm đầu tiên. Nhiều cặp vợ chồng chuyển về đây từ trung tâm thành phố. Chủ yếu là các nhân viên văn phòng và thương nhân. Không có cái đám công nhân hay bọn nhập cư.
Định kiến sai lệch này là điều bình thường đối với bà Walcott, họ thuộc về một thế hệ khác. Tuy hơi khó chịu, Mila vẫn giữ thái độ thân thiện.
– Bác kể cho cháu nghe về họ đi.
– Họ là những con người bình dị. Bà vợ chăm sóc nhà cửa, ông chồng là một người buôn bán giỏi. Bà ấy rất đẹp, và hai người có vẻ hạnh phúc. Chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn bè. Chủ nhật nào chúng tôi cũng làm đồ nướng ngoài trời, các dịp lễ chúng tôi đều kỷ niệm cùng nhau. Arthur và tôi vừa làm đám cưới, còn họ thì đã có một đứa con.
– Roger, có phải không bác?
– Làm sao tôi quên được thằng bé đáng yêu ấy chứ? Lên năm tuổi nó đã biết chạy xe đạp, nó hay đạp xe tới lui trên con đường này. Arthur rất yêu thằng bé, thậm chí ông ấy còn làm một cái chòi trên cây cho nó. Một thời gian sau, chúng tôi đã biết mình không thể có con, nhưng cả ông ấy lẫn tôi đều không nghiêm trọng hóa vấn đề, trước hết là để không gây đau khổ cho nhau. Arthur là một người đàn ông tử tế, cháu biết không? Lẽ ra ông ấy đã là một người bố tuyệt vời, nếu được trời thương.
Mila gật gù. Giống như phần lớn những người lớn tuổi, bà Walcott nói lạc đề khá nhiều và thỉnh thoảng cần được lái trở về câu chuyện.
– Sau đó chuyện gì đã xảy ra với bố mẹ Roger ạ?
– Bà Valin ốm rất nặng. – Người phụ nữ vừa nói vừa lắc đầu. – Các bác sĩ đã thông báo bệnh tình của bà ấy không thể chữa được, nhưng họ cũng nói là Chúa sẽ chưa gọi bà ấy về bên Người ngay. Trước tiên bà ấy sẽ phải chịu đau đớn và khổ sở một thời gian. Có lẽ cũng vì nguyên nhân này mà ông chồng đã bỏ rơi gia đình.
– Bố của Roger đã bỏ hai mẹ con họ sao?
Mila không thấy thông tin này trong hồ sơ.
– Phải. – Bà Walcott đáp với giọng không hài lòng. – Ông ta đã có gia đình mới và cắt đứt quan hệ với hai mẹ con. Thậm chí ông ta chẳng buồn hỏi han tin tức của họ. Roger từ một thằng bé hiếu động và tích cực bắt đầu sa sút dần từ thời điểm đó. Arthur và tôi thấy nó càng ngày càng thu mình lại. Thế mà trước đấy nó chẳng thiếu bạn đâu nhé. Nó lủi thủi một mình hoặc túc trực bên mẹ hàng giờ. Một thanh niên rất có trách nhiệm.
Sự chua xót trong giọng nói của bà Walcott là thành thật. Có lẽ bà sẽ rất đau đớn nếu biết được những tội ác mà Roger Valin vừa gây ra.
– Ông nhà tôi thương thằng bé và giận bố nó lắm. Thỉnh thoảng tôi nghe ông ấy nói rất nặng nề về ông ta. Trong khi hai người đã từng gắn bó. Nhưng dẫu vậy, ông không bao giờ nói xấu bố của Roger trước mặt thằng bé. Arthur và thằng bé có một mối quan hệ rất đặc biệt, ông ấy là người duy nhất có thể kéo được nó ra khỏi nhà.
– Bằng cách nào ạ?
– Mấy cái đồng hồ ấy mà. – Bà Walcott đáp và đặt tách trà đã uống cạn xuống chiếc khay. – Arthur sưu tập đồng hồ. Ông ấy mua chúng ngoài chợ hoặc trong các buổi đấu giá, và cặm cụi nhiều ngày liền để tháo lắp, sửa lại chúng. Khi ông ấy về hưu, tôi toàn phải nhắc ông giờ ăn uống hoặc đi ngủ. Chung quanh là đồng hồ, vậy mà ông ấy quên hết giờ giấc, thật khó tin, đúng không cháu?
– Và bác trai đã truyền đam mê của mình cho Roger. – Mila nhắc khéo. Cô đã biết về sở thích này của tên sát nhân.
– Ông ấy đã dạy cho thằng bé tất cả những gì mình biết. Thằng bé cực kỳ thích cái thế giới của tiếng tích tắc và sự chuẩn xác. Arthur bảo nó rất có năng khiếu.
Nhỏ bé vô cùng là điều mà những người bất hạnh hay mơ tới, Mila nghĩ thầm. Nó giống như việc biến khỏi tầm nhìn của người khác mà vẫn giữ một chức năng trong cuộc đời, chức năng thiết yếu như là đo đếm thời gian. Nhưng cuối cùng Roger Valin đã quyết định biến mất hẳn.
– Trên kia có một tầng áp mái. Lúc đầu nó được để dành cho những đứa con mà chúng tôi không bao giờ có. Chúng tôi luôn bàn tính chuyện cho thuê nó, nhưng rồi nó đã trở thành xưởng đồng hồ của Arthur. Roger và ông ấy ẩn mình trên đó, đôi khi suốt cả buổi chiều. Sau này ông nhà tôi bị ốm, thế là đùng một cái, thằng bé không sang nhà chơi nữa. Arthur luôn bào chữa cho thằng bé, ông ấy bảo con trai mới lớn đứa nào chả thế, và Roger cũng không có ác ý gì. Với lại, thằng bé đã chứng kiến mẹ mình suy kiệt dần, nó không muốn nhìn sự tuột dốc của một người khác, chưa nói đó là người bạn duy nhất của nó. – Bà Walcott rút chiếc khăn tay từ trong túi của cái váy mặc ở nhà và chấm một giọt lệ nơi khóe mắt. Sau đó bà vo tròn chiếc khăn và đặt nó vào trong lòng, để sẵn sàng dùng lại nếu cần. – Nhưng tôi thì, tôi tin Arthur đã rất đau khổ. Tôi thừa biết trong thâm tâm ngày nào ông ấy cũng mong nhìn thấy Roger bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà này.
– Vậy là mối quan hệ giữa hai bác và Roger đã gián đoạn từ đó. – Mila kết luận.
– Không đâu. – Bà Walcott nói, giọng thoáng ngạc nhiên. – Khi ông nhà tôi qua đời, Roger thậm chí không đến dự đám tang. Thế nhưng sáu tháng sau, vào một buổi sáng, thằng bé đã gõ cửa. Nó xin tôi cho phép lên tầng áp mái để lên dây đồng hồ. Sau đó thì nó quay lại thường xuyên, và luôn đi một mình.
– Trên kia ấy ạ? – Mila bất giác ngước mắt lên.
– Phải. Nó đi học về là chăm sóc mẹ ngay, rồi khi bà ấy không cần đến nó nữa, nó trèo lên đó trong vài giờ. Nó vẫn tiếp tục làm như thế sau khi bắt đầu đi làm kế toán, cho đến lúc bặt tin.
Mila hiểu bà Walcott muốn nói đến sự mất tích của Roger.
– Theo những gì bác đã kể cho cháu thì, ngoại trừ mẹ của Roger, bác là người gặp anh ta nhiều nhất ngoài giờ làm việc. Thế nhưng bác lại không phải là người đã báo tin Roger mất tích với chính quyền. Cháu xin lỗi, nhưng bác không thấy ngạc nhiên là tại sao anh ta không đến nữa hay sao?
– Không, vì thằng bé toàn tự đến rồi tự đi. Có một cầu thang bên ngoài để trèo lên tầng áp mái, nên đôi khi chúng tôi thậm chí còn không chạm mặt nhau. Nó lặng lẽ lắm, nhưng lạ một điều là tôi luôn biết khi nó ở trên đó. Tôi không thể giải thích được… Linh cảm mách bảo tôi như vậy. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Roger ở trong ngôi nhà này.
Mila nhận thấy một chút băn khoăn trong ánh mắt và trên khuôn mặt của bà già. Cảm giác sợ người ta không tin, sợ người ta coi mình như một bà già lẩm cẩm. Nhưng còn một điều khác. Nỗi sợ hãi. Cô chồm người tới và đặt tay mình lên tay bà.
– Bác Walcott, bác nói thật với cháu nhé. Trong mười bảy năm qua, có bao giờ bác cảm thấy sự hiện diện của Roger ở đây không?
Đôi mắt người phụ nữ ngấn lệ, bà cố kìm nén lại bằng cách mím chặt môi. Rồi bà xác nhận bằng một cái gật đầu dứt khoát.
– Nếu bác không phiền thì, cháu xin phép được ngó qua tầng áp mái.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.