Nhà Tiên Tri Cuối Cùng

CHƯƠNG 11: NGÀY 6 THÁNG 9, 05:38 PM THÀNH PHỐ PRIPYAT, UKRAINA 1



Nicolas băng qua khu công viên giải trí của thành phố ma.
Những chiếc xe cổ màu vàng nối đuôi nhau trên những vũng nước xanh rêu tù đọng, giữa đám cỏ cao đến thắt lưng. Nóc xe đã bung từ lâu, còn trơ lại bộ khung đỏ han gỉ cong vòng phía trên. Phía trước là vòng đu quay khổng lồ của công viên – chiếc Đại hùng tinh – sừng sững trong ánh chiều muộn, in lên vầng mặt trời đã thấp bóng. Những ô ghế có mái che treo lững lờ, bám lấy bộ xương gỉ sét. Một biểu tượng và đài tưởng niệm hiện ra phía sau quang cảnh đổ nát của Chernobyl.
Nicolas tiếp tục bước.
Công viên được xây dựng nhằm dự kiến phục vụ cho lễ kỷ niệm Lao động vào năm 1986. Một tuần trước ngày lễ, Pripyat ngập chìm dưới màn phóng xạ, thành phố của bốn mươi tám ngàn công nhân cùng gia đình họ vĩnh viễn ra đi. Thành lập từ những năm 1970, thành phố từng là điển hình tỏa sáng cho kiến trúc và lối sống đô thị thời Xô viết: nhà hát Energetic, khách sạn Polissia tráng lệ, một bệnh viện hiện đại và hàng chục những ngôi trường.
Nhà hát giờ đây hoang tàn trong đống đổ nát. Những cây cáng lò vươn cao, che phủ cả tầng mái của khách sạn. Trường học biến thành những vỏ ốc vụn nát, sách vở mốc meo, búp bê cũ kĩ và những khối đồ chơi bằng gỗ chồng chất. Giữa một căn phòng, Nicolas nhìn thấy một đống mặt nạ phòng độc bị bỏ lại, nằm ngổn ngang như đầu người chết bị lột da. Thành phố ấy từng trải qua sức ép của chấn động, cửa sổ vỡ vụn, tường gạch đổ sụp, những khung giường cũ nát, sơn bong tróc lem luốc, cỏ dại và cây mọc um tùm khắp nơi, chen giữa những công trình được con người vun đắp một thời. Giờ đây chỉ còn những đoàn khách viếng thăm, bốn trăm đô la một người để có được cơ hội khám phá điểm dừng chân ma quái.
Và nguyên nhân gây ra tất cả điều này…
Nicolas che nghiêng tầm mắt quan sát. Đường chân trời cách đó khoảng hai dặm mơ hồ hiện lên một khối cột.
Nhà máy nguyên tử Chernobyl.
Vụ nổ lò phản ứng số bốn đã tạo ra một luồng phóng xạ bao trùm cả thế giới. Lệnh sơ tán đã bị hoãn thi hành suốt ba mươi giờ ngay tại nơi đây. Toàn bộ rừng cây xung quanh thànhphố đỏ quạch vì bụi phóng xạ. Người dân phải quét hàng hiên và ban công cho sạch bụi lẫn tàn tro từ những đám cháy plutonium cách đó hai dặm.
Nicolas lắc đầu ngao ngán, phần nhiều là do một đoàn phóng viên đang bám sát ông, chuẩn bị cho những cảnh phim tư liệu phát sóng trong chương trình tin tức buổi tối. Nicolas sải bước qua khu công viên giải trí. Ông được cảnh báo phải đi trên khu vực vừa được trải nhựa xung quanh những tàn dư của thành phố bị bỏ rơi. Mức phóng xạ sẽ tăng cao nếu lạc vào đoạn đường phủ đầy rêu nằm trong bãi đất hoang. Người ta đánh dấu những khu vực độc hại nhất bằng biển tam giác màu vàng. Con đường trải nhựa mới toanh được xây nên để phục vụ cho hàng loạt các nhà cầm quyền, chức sắc, phóng viên, nhà báo đang đổ xô tớiChernobyl, mong chờ sự kiện lắp đặt cỗ Quan tài mới bằng thép phủ lên lớp vỏ bê tông đã mục ruỗng.
Tối nay thôi, khách sạn Polissia sẽ trở lại với ánh hào quang tưởng chừng như bị lu mờ thuở trước, sảnh chính của khách sạn đã được cải tạo vội vã, sạch bóng và sáng trưng, nơi sẽ tổ chức một bữa tiệc khuya trịnh trọng. Ngay cả những nhánh cáng lò cũng bị cắt tỉa để phục vụ cho sự kiện.
Không mục đích gì khác hơn ngoài cung cách sang trọng bậc nhất dành cho các vị khách quốc tế. Đại diện của hầu hết các quốc gia, thậm chí có cả một vài ngôi sao Hollywood. Pripyat sẽ tỏa sáng trong buổi tối hôm nay, một niềm vui hân hoan ngay giữa khu trung tâm từng chịu sức tàn phá của phóng xạ.
Cả Tổng thống và Thủ tướng Nga cũng sẽ tham dự, cùng nhiều thành viên thượng viện và hạ viện của Quốc hội Liên bang. Nhiều người đã có mặt ở đây, với sự quả quyết miễn cưỡng dành cho vấn đề sửa sang và cải tổ, vẫn cố khuấy đảo bầu không khí chính trị từ sự kiện quan trọng này.
Nhưng không ai có tiếng nói và sức mạnh mãnh liệt hướng tới công cuộc đổi thay thực sự so với Thượng nghị sĩ Nicolas Solokov. Sau vụ ám sát hụt sáng nay, gương mặt ông còn nổi bật hơn trước công chúng.
Khi máy quay hướng vào ông, Nicolas bước ra khỏi con đường trải nhựa và tiến đến bức tường kế cận. Trên bề mặt, hình ảnh hai đứa trẻ chơi đùa với chiếc xe đồ chơi được sơn bóng bằng một màu đen ảm đạm. Người ta bảo rằng có một người đàn ông Pháp điên rồ đã ở lại Pripyat mấy tháng trời. Những bức vẽ tạo bóng của ông được tìm thấy khắp thành phố, ám ảnh và lộn xộn, miêu tả linh hồn của những đứa trẻ bị mất tích.
Cái bóng của riêng ông, Elena, vẫn còn in dấu trên con đường trải nhựa. Cô đã chọn mảng nghệ thuật đặc biệt này làm bức tranh bi thảm nhất. Trước đó, cô từng dò xét khu vực bàng một máy định lượng để đảm bảo phóng xạ ở mức an toàn.
Tất cả đều vì mục tiêu vận động tranh cử diễn ra tối nay.
Nicolas chống tay lên tường. Ngón trỏ di lên hình hai đứa trẻ. Rồi ông quệt cổ tay lên mắt. Elena đã nhỏ vào tay áo khoác của ông vài giọt amoniac. Đủ để rơi nước mắt.
Ông quay lại phía máy quay, những ngón tay vẫn đặt trên má của đứa trẻ trong bức tranh. “Đó là lý do tại sao chúng ta phải thay đổi,” ông vung tay bao quát cả thành phố. “Làm sao ai đó nhìn thấy khung cảnh đổ nát này lại có thể không hiểu được rằng đất nước chúng ta phải chuyển sang một kỷ nguyên mới? Chúng ta phải dẹp bỏ tất cả sau lưng – nhưng không bao giờ quên lãng.”
Ông quệt nước mắt trên má, nét mặt trở lại rắn rỏi – vài giọt lệ là ổn, ông không muốn mình xuất hiện như một kẻ yếu đuối. Giọng ông vang vọng từ micrô. “Hãy nhìn vào thành phố này! Những gì con người tàn phá, thiên nhiên phải gánh chịu. Có người gọi nơi này là Vườn Eden của Chernobyl. Chẳng phải đây từng là khu rừng xinh đẹp phủ lấy thành phố? Chim hót. Hươu nai rong chơi từng bày. Nhưng cũng nên biết rằng chó sói đã quay trở lại.”
Ông nhìn sang phía chân trời sẩm tối.
“Đừng bị đánh lừa bởi vẻ đẹp nơi đây. Đó vẫn còn là một khu vườn phóng xạ. Tất cả chúng ta đã phải vượt qua hai trạm kiểm soát quân sự để có thể tiếp cận Khu Vực Cấm có đường kính ba mươi kilômét xung quanh nhà máy Chernobyl. Chúng ta đã dùng hai ngàn phương tiện để dập tát ngọn lửa phóng xạ của Chernobyl. Xe cứu hỏa, máy bay, xe cứu thương, vẫn ám quá nhiều phóng xạ không thể lại gần. Tất cả chúng ta đều mang phù hiệu đo định lượng phóng xạ. Vì thế đừng bị đánh lừa. Thiên nhiên đã hồi sinh nhưng nó sẽ phải gánh chịu hậu họa đời đời. Những thứ trông khỏe khoắn và đầy sức sống, thật ra không phải vậy. Không phải là tái sinh. Chỉ là một hy vọng huyễn hoặc. Để tái sinh thực sự, chúng ta phải nhìn theo hướng khác, đến những mục tiêu mới, một thời kỳ Phục hưng mới.”
Ông quay sang nhìn hình bóng những đứa trẻ, lắc đầu.
“Sao chúng ta không thể làm thế?” Câu nói kết thúc khá buồn bã.
Có tiếng vỗ tay bên đường.
Ngoảnh mặt đi khuất tầm máy quay, Nicolas mỉm cười. Góc máy lưu lại ông trong dáng vẻ trầm tư và cương quyết, bóng ông đổ dài trên hình những đứa trẻ. Một lúc lâu ông mới quay lại con đường trải nhựa.
Ông sải bước về phía khách sạn. Elena đã mở đường. Rẽ sang một khúc ngoặt, ông thấy lối vào khách sạn Polissia đang náo nhiệt. Một chiếc limo đen chạy đến tận cổng khách sạn, mui xe chống đạn với kiểu dáng sang trọng. Đoàn hộ tống trong trang phục sẫm màu bước ra, tạo thành một hàng rào vững chắc. Nhà lãnh đạo bước xuống xe, một cánh tay vẫy chào.
Máy ảnh, máy quay phim rọi đèn sáng rực trước nhân vật cấp cao ấy.
Không thể nào nhầm lẫn.
Tổng thống Hoa Kỳ.
Có mặt để ủng hộ một công ước quan trọng về hạt nhân giữa Nga và Mỹ.
Cũng là lý do chính khiến thành phố Pripyat trở nên sạch sẽ và quang đãng để đón những chức sắc như vậy.
Không muốn mình nổi trội, Nicolas chờ cho cả đoàn tiến vào sảnh khách sạn. Đường đã trống trải, ông ngoái lại nhìn.
Mọi thứ đã sẵn sàng.
Nhà máy Chernobyl chìm trong ánh mặt trời chạng vạng.
Giờ này ngày mai, một thế giới mới sẽ bắt đầu.
5:49 chiều Phía Nam dãy Ural
Monk đứng trên sườn đồi nhìn về hướng những dải núi thấp. Mặt trời đang khuất dạng, thung lũng bên dưới phủ màu bóng râm.
“Phải băng qua đó sao?” ông cất tiếng hỏi. “Không có con đường vòng nào ư?”
Konstantin gấp bản đồ lại. “Nếu đi đường vòng phải mất hàng trăm dặm, nhiều ngày mới tới nơi. Khu mỏ chúng ta đang đến, phía bên kia hồ Karachay, chỉ độ mười hai dặm nếu băng qua đây.”
Monk đăm đăm nhìn xuống thung lũng lầy lội. Con sông vừa mang họ đến chảy qua triền dốc cuối cùng này và tràn vào thung lũng rộng lớn bên dưới. Rất nhiều nhánh sông và con suối cũng đổ vào đây. Nghiêng theo ánh mặt trời, những con thác và bậc nước đang ào ạt tựa những dòng thủy ngân lấp lánh. Nhưng khuất sau rặng núi thấp là những cánh rừng ngập nước, đầm lầy tối tăm trải dài, toàn lau sậy và cỏ dại vây quanh. Sẽ khó khăn để vượt qua, và khi trời tối càng dễ bị lạc đường.
Ông thở dài khó nhọc. Không còn lựa chọn nào khác là băng qua bãi lầy. Ông quay sang Kiska và Pyotr lúc này đang ngồi trên một khúc gỗ. Lũ trẻ trông như hai con mèo sắp chết đuối. Chúng đã ở dưới nước quãng đường một phần tư dặm, lạnh cóng khi vào bờ. Monk đưa chúng qua đến tận bờ bên kia của dòng sông, tránh xa lũ hổ đói. Dòng nước sẽ xóa dấu vết, thêmnữa, càng đi xa dọc theo những rặng núi, con sông lại càng rộng. Lũ hổ sẽ phải đương đầu với dòng sông khắc nghiệt nếu muốn đánh hơi thấy họ.
Hai giờ đồng hồ trôi qua, Pyotr vẫn im như thóc vì lo lắng cho Marta. Nhưng ít ra cậu bé không còn hoảng sợ, không còn cảm nhận thấy mùi hổ đến gần.
Vừa lên bờ, Monk bắt lũ trẻ cởi bỏ quần áo, vắt thật khô rồi mới mặc lại. Hai giờ leo qua những triền núi ấm áp nhất đã giúp hong khô quần áo. Thế mà giờ đây họ có thể bị ướt trở lại, trong lúc mặt trời sắp lặn. Sẽ là một đêm lạnh lẽo.
Nhưng Konstantin nói đúng. Họ phải tiếp tục di chuyển. Không an toàn chút nào nếu ở trên mặt đất, hai con hổ vẫn rình rập đâu đây quanh những khu rừng của cao nguội.
Đầm lầy có khi còn là nơi trú ngụ tốt hơn.
Monk đi theo một sườn núi dốc. Ông giúp Pyotr còn Konstantin nắm lấy tay cô em gái. Hai đứa bé nhỏ nhất đang đuối sức. Băng qua những tia nắng ấm áp cuối ngày, họ tiến đến vùng bóng râm lạnh lẽo.
Cây cối mọc um tùm nơi đây, chủ yếu là thông và cáng lò. Dọc theo một loạt những nhánh sông đổ vào đầm lầy, những rặng liễu ủ rũ xếp hàng, tán lá quét cả vào nước.
Monk dẫn đầu, chọn một con đường bước tới. Những bụi bách xù và trứng cá mọc lộn xộn xen kẽ tạo nên một tầng cây thấp. Chúng càng xuất hiện nhiều, mặt đất càng lầy lội. Họ bước qua hết đám rêu này đến đám rêu khác, không quá khó khăn, chúng quả là phát triển rất tốt. Tấm rêu xơ xác phủ trên những gờ đá nhấp nhô, tiếp tục leo lên mấy thân cây cáng lò như thể chúng muốn nuốt trọn mọi thứ xuống đất.
Họ bắt đầu đi chậm lại, thật ra là chân bị lún xuống dưới những vũng nước tù đang vây quanh.
Một tiếng rít lanh lảnh khiến Monk phải hướng lên bầu trời.
Một con đại bàng lướt qua, sải cánh phải rộng bằng hai cánh tay Monk vươn ra.
Săn mồi.
Nhắc Monk nhớ đến những hiểm nguy rình rập phía sau.
Ông tăng tốc cùng lũ trẻ. Lũ trẻ có vẻ thích ứng với địa hình hơn ông. Cơ thể nhẹ bẫng của chúng nổi trên đám bùn lầy nhớp nháp, trong khi Monk phải bước từng bước một nếu không muốn giày tuột khỏi chân.
Đi được một tiếng đồng hồ, họ di chuyển chậm lại, chưa được một dặm theo như Monk nhẩm tính, ông bắt gặp vài con rắn trườn trên đường, thoáng thấy một con cáo nhảy ngang qua những mô đất rồi biến mất. Tai Monk căng ra để lắng nghe từng tiếng động. Ông nghe thấy có tiếng rậm rịch bên đầm lầy. Một con nai sừng tấm khổng lồ với đôi gạc nặng nề lướt qua.
Đúng lúc nước ngập đến mắt cá chân, họ phải tập trung vượt qua những mô đá ngoằn ngoèo. Bầu không khí lạnh lẽo lan tỏa một mùi ẩm ướt của tảo và rêu mốc. Côn trùng vo ve những âm thanh rào rạo không ngớt. Con đường tối dần vì mặt trời mỗi lúc lại ngả sâu xuống núi.
Monk lê bước trên những bước chân khó nhọc.
Knnstantin ở ngay bên cạnh ông. Cậu bé nắm tay Kiska. Cô bé buồn ngủ rã rời.
Pyotr nhỏ bé nép sát một bên chân Monk. Monk phải nhấc cậu bé lên vai mỗi lần đi qua một vũng sâu.
Đột nhiên Pyotr túm lấy tay Monk, siết chặt.
Thứ gì đó đang loạt soạt chuyền cành, tiến về phía họ.
Ôi, không…
Monk hét lên như thể phát hiện ra chuyện gì sắp xảy ra. “Đi thôi! Chạy đi!”
Monk vồ lấy cậu bé đang vùng vẫy la hét. Konstantin co chân chạy, kéo theo Kiska phía sau. Chân trái của Monk bị nén chặt, ông giật mạnh nhưng vẫn không tài nào nhấc nổi. Giống như bị chôn trong đống xi măng.
Âm thanh vun vút xẻ dọc những tán cây vẫn hướng đến họ.
Monk tung Pyotr về phía trước rồi xoay người đối mặt với sự thật, ông nghe thấy bước chân cậu bé giẫm tung tóe trên mặt nước. Nhưng thay vì chạy đi, Pyotr quờ quạng quay về bên Monk.
“Không! Pyotr, chạy đi!”
Cậu bé tiến thẳng đến hình hài to lớn đang nhảy ra khỏi lùm cây, nặng nề đáp tõm xuống nước, cả hai ôm lấy nhau thắm thiết.
Marta.
Tim Monk vẫn đập thình thịch. “Pyotr, lần sau… nhớ báo trước.” ông từ từ rút chân ra khỏi khối nhầy bồng cậu bé ra khỏi vũng nước cạn. Konstantin và Kiska cũng chạy về phía họ. Marta buông tay Pyotr và ôm lấy chúng. Marta sau cùng quay sang Monk, hai cánh tay dang rộng. Ông cúi xuống ôm lấy Marta. Người nó nóng hầm hập, hơi thở dồn dập bên tai ông. Ông cảm nhận được sự run rẩy vì kiệt sức trong cơ thể già nua ấy. Bằng cái ôm đáp trả, ông hiểu rõ Marta phải có nghị lực mạnh mẽ ra sao mới gặp lại họ.
Đứng thẳng người lại, ông băn khoăn làm cách nào Marta tìm được mọi người. Ông hiểu là nó đã bắt kịp. Trong khi họ đi bộ qua bùn lầy, Marta đã xuyên qua những hàng cây phía trên, thu hẹp khoảng cách. Nhưng làm cách nào Marta lần được theo họ?
Monk đăm chiêu trước vũng lầy đen đúa.
Nếu Marta có thể lần theo…
“Tiếp tục đi thôi,” ông vẫy tay tiến về phía chính diện.
Họ lại lội qua những đám bùn. Sự xuất hiện của Marta tiếp thêm sinh lực cho lũ trẻ, nhưng sức nặng của bùn lầy khiến cả nhóm phải gắng sức chiến đấu trở lại. Konstantin đi xa nhất. Pyotr vẫn theo sát Monk trong khi Marta đu người trên những nhánh cây thấp, ngón chân lướt qua vùng nước bên dưới.
Mặt trời dần biến mất khỏi rặng núi, bỏ lại họ giữa ánh sáng chạng vạng tối tăm. Monk khó mà nhận ra Konstantin. Ở góc trái, một con cú rúc lên âm thanh trống rỗng lê thê, báo hiệu đêm tối đã tràn về.
Konstantin khẽ gọi vọng lại từ một bụi liễu rậm rạp, nghe gấp gáp. “Môt izba!”
Ông không hiểu cậu bé nói gì nhưng có vẻ là tin tốt. Đi về hướng ấy, Monk nhận thấy mực nước nông hơn.
Ông gạt tán liễu rủ, một vùng đất khô ráo hiện ra trước mắt. Không trống trải hoàn toàn. Một căn nhà nhỏ với trụ đỡ dựng sẵn trên mô đất thấp. Nó được xây bằng những khúc gỗ thô kệch, mái phủ đầy rêu, ô cửa sổ duy nhất tối tăm. Không có ai cư ngụ. Không có gì bốc lên từ ống khói.
Konstantin đứng đợi bên rìa mô đất, giữa những đám sậy cao ngất ngưởng.
Monk tiến đến bên cậu.
Cậu bé giải thích. “Chỗ nghỉ của thợ săn. Những nhà gỗ thế này có ở khắp các dãy núi.”
“Để bác kiểm tra,” Monk yêu cầu. “Ở lại đây.”
Ông trèo lên mô đất, đi vòng quanh căn nhà. Nó khá nhỏ, ống khói làm bằng những tảng đá ghép, cỏ mọc ngang hông. Có vẻ như không ai sống ở đây đã lâu lắm. Cánh cửa sổ duy nhất bị đóng từ bên trong. Monk phát hiện một cầu tàu khá ngắn, không có thuyền bè neo đậu. Nhưng có một con thuyền đáy bằng – một cái bè mũi nhọn – sau đám lau sậy. Rêu đã phủ lấy một nửa chiếc bè, nhưng hy vọng nó vẫn còn dùng được.
Monk vòng lại đằng trước căn nhà. Ông thử mở cánh cửa. Cửa không khóa nhưng những tấm ván đã bị vênh, phải kéo mạnh để mở ra, tiếng bản lề han gỉ kêu cọt kẹt. Bên trong tối đen và có mùi mốc meo. Nhưng ít nhất cũng khô ráo. Căn nhà chỉ có một phòng. Sàn nhà trải đầy cỏ khô. Đồ đạc chỉ có chiếc bàn nhỏ và bốn cái ghế. Những ngăn tủ bằng gỗ chắn ngang một bức tường, không có bếp. Có lẽ thức ăn được nấu bên lò lửa, vài cái chảo và nồi sắt úp ngay cạnh đó. Monk nhìn thấy cả chồng củi khô.
Khá đầy đủ.
Monk bước ra cửa, vẫy tay ra hiệu cho lũ trẻ vào trong.
Ông không muốn dừng chân, nhưng cả nhóm cần phải nghỉ ngơi chút ít. Cửa sổ đã chắn sáng, Monk có thể thắp một ngọn lửa nhỏ. May mắn là họ có thể hong khô quần áo, giày dép, một nơi ấm áp cho đêm dài lạnh giá. Sau khi nghỉ ngơi và khô ráo, họ có thể rời đi trước bình minh, hy vọng là bằng chiếc bè.
Konstantin giúp ông nhóm lửa, hai đứa bé nhất ngồi trên sàn nhà dựa vào Marta. Konstantin tìm thấy diêm trong chiếc hộp bằng sáp, những khúc củi khô đã cũ bừng cháy chỉ bằng một mồi lửa. Bếp lò được nhen lên nhanh chóng, những tia lửa bập bùng, tí tách. Khói len qua ống thoát phía trên.
Lúc Monk nhét thêm củi, Konstantin tìm kiếm quanh những hộc tủ. Cậu bé phát hiện ra dây câu cùng chiếc đèn trời gỉ sét còn ít dầu lửa óc ách bên trong, một con dao kiểu lưỡi mác đi săn khá nặng và nửa hộp đạn súng săn. Nhưng không có súng. Trong một khoang tủ khác, cậu tìm thấy vài cuốn tạp chí màu vàng đã quăn góc, toàn hình phụ nữ khỏa thân, ngay sau đó bị Monk tịch thu làm mồi nhen lửa. Ở ngăn trên cùng, bốn tấm chăn dày đã ngả màu được gấp gọn, xếp chồng lên nhau.
Lúc Konstantin đưa ông những tấm chăn, cậu bé chỉ vào chiếc ba lô quăng trên sàn. Monk liếc nhìn sang. Cậu bé muốn ám chỉ đến máy đo phóng xạ. Không còn là màu tráng, nó đã chuyển sang sắc hồng.
“Phóng xạ,” Monk lẩm nhẩm.
Konstantin gật đầu. “Từ nhà máy xử lý chất thải đã khiến hồ Karachay nhiễm độc.” Cậu bé chỉ về hướng Đông Bắc. “Nó cũng đang thấm dần vào đất.”
Ô nhiễm cả nguồn nước ngầm, Monk chợt nhận ra. Và tất cả những dòng chảy từ mấy dãy núi quanh đó sẽ đổ về đâu? Monk nhìn sang ô cửa chắn sáng, hình dung ra vũng lầy ngoài kia.
Ông lắc đầu.
Ông nghĩ giờ đây điều đáng phải lo nhất là lũ hổ ăn thịt người.
7:04 tối
Pyotr không một mảnh vải trên người, ngồi co ro trong tấm chăn dày trước đống lửa. Giày xếp dọc bên lò sưởi, quần áo được hong trên sợi dây câu. Sợi dây quá mảnh dẻ, cảm giác quần áo cậu bé như đang bay trong không trung.
Pyotr thích thú nhìn ngọn lửa bập bùng nhảy múa và kêu lách tách, nhưng không thích làn khói tỏa ra. Nó lơ lửng bay lên ống khói, như một vật thể sống sinh ra từ đó.
Cậu bé khẽ rùng mình, nhích đến gần đống lửa.
Bà quản lý ở trường thường kể cho chúng nghe những câu chuyện về Baba Yaga, mụ phù thủy sống giữa rừng sâu, trong một căn nhà gỗ di chuyển được nhờ đôi chân, chuyên săn trẻ em để ăn thịt. Pyotr tưởng tượng những cái cột nhà cậu nhìn thấy phía ngoài. Chẳng may đây là ngôi nhà của bà phù thủy, che giấu móng vuốt dưới mặt đất?
Cậu càng nghi ngờ dò xét đám khói.
Biết đâu mụ phù thủy có những người hầu có phép tàng hình trợ giúp?
Cậu nhìn quanh tìm kiếm. Không có thứ gì tự di chuyển. Nhưng những ngọn lửa tỏa bóng khắp nơi, khó mà nói trước được.
Cậu lại nhích gần thêm để cảm nhận hơi ấm. Đôi mắt vẫn dán chặt vào những mảng khói uốn lượn huyền ảo.
Cậu khẽ đung đưa để trấn an thân. Marta đứng dậy ngả người vào Pyotr, ôm lấy cậu. Cậu cũng dựa vào Marta. Cánh tay rắn chắc kéo cậu lại gần hơn.
Đừng sợ.
Nhưng cậu đã hoảng sợ. Cậu cảm thấy ngứa ngáy trong đầu như có một ngàn con nhện bò qua. Cậu vẫn nhìn theo làn khói, mường tượng đây là nơi hiểm nguy thực sự khi nó bay quá cái lỗ, đến cảnh báo cho Baba Yaga hay rằng có lũ trẻ bên trong nhà.
Tim Pyotr đập thình thịch gấp gáp.
Mụ phù thủy đang đến.
Cậu biết mà.
Mắt mở thật to. Cậu kiếm tìm mối đe dọa.
Marta rúc lên mấy tiếng hoo-hoo để trấn an cậu, nhưng vô ích. Mụ phù thủy đang đến để ăn thịt họ. Lũ trẻ đang gặp nguy hiểm. Ngọn lửa kêu lách tách, khiến cậu sợ hãi muốn nhảy bật dậy. Rồi cậu nhận ra.
Không phải là những đứa trẻ.
Mà là một đứa trẻ.
Không phải trong số chúng.
Một đứa trẻ khác.
Pyotr nhìn chằm chằm vào làn khói như muốn đẩy sự thật ra khỏi bóng tối. Khi khói cuộn lên trời, cậu biết ai đang gặp nguy hiểm.
Đó chính là chị gái cậu.
Sasha.
11:07 sáng, giờ EST
Thủ đô Washington, D.c.
“D.I.C.,” Lisa đứng cạnh giường đứa trẻ giải thích.
Kat hơi bối rối chưa hiểu ra vấn đề. Hai tay bà choàng quanh bụng, không ngơi nhìn vào thân hình gầy guộc dưới lớp áo choàng bé nhỏ, lọt thỏm giữa những mảnh ga và gối trên chiếc giường có chấn song. Một loạt dây dợ gắn với khay thiết bị dựng sát tường được nối lên người cô bé để kiểm soát huyết áp và nhịp tim. Một ống truyền tĩnh mạch nhỏ từng giọt hỗn hợp nước biển và thuốc. Suốt mấy giờ qua, nước da nhợt nhạt của cô bé chuyển sang tái mét, môi thâm quầng.
“Đồng máu nội mạch lan tỏa,” Lisa giải thích rõ hơn mặc dù giống như bà đang nói tiếng La tinh.
Monk có lẽ hiểu rõ hơn những gì bà nói vì ông từng trải qua huấn luyện y tế. Kat xua tan ý nghĩ ấy trong đầu, nó cứ bám lấy bà kể từ lúc nhìn thấy bức tranh từ đứa trẻ. Rõ ràng là cô bé vẽ riêng cho Kat. Họ có mối liên hệ nào đó. Kat cảm nhận được từ trong đôi mắt Sasha khi bà đọc truyện cho cô bé nghe. Dáng vẻ của cô bé hầu như im lìm và dễ xúc động, nhưng thỉnh thoảng cô bé lại hướng đôi mắt nhỏ bé lên nhìn Kat. Có điều gì tỏa sáng từ trong ánh nhìn ấy, tin tưởng lẫn chấp nhận. Khiến trái tim Kat tan chảy. Bà cũng có một đứa con, bà biết rằng những kích thích tố và bản năng làm mẹ đang rạo rực, xúc cảm trước nỗi mất mát vẫn còn vẹn nguyên.
“Như thế có nghĩa là gì?” Painter hỏi Lisa.
Ông đứng phía bên kia giường bệnh, cạnh Lisa. Ông vừa mới quay lại sau khi nhận cuộc gọi của Gray từ Ấn Độ. Đội của ông vừa bị tấn công, đang trên đường đến phía Bắc. Painter lại vào cuộc điều tra tung tích kẻ bố trí vụ phục kích – cả một nỗ lực ám sát vị giáo sư không thể nào chỉ là trùng khớp, phải có kẻ biết rõ Gray đã có mặt ở đó. Dù đang theo dõi tình hình, Painter vẫn dành thời gian nghe báo cáo của Lisa.
Tiến sĩ Cummings vừa làm xong một loạt xét nghiệm máu.
Chưa nhận được câu trả lời thì Tiến sĩ Sean McKnight bước vào phòng, ông cởi áo khoác và cà vạt, xắn cả tay áo lên ngang khuỷu, ông vừa gọi điện cho Gray để giải thích một số câu hỏi. Painter quay sang ông, lông mày nhướn lên như muốn thắc mắc, nhưng Sean vẫy tay ra hiệu cho Lisa tiếp tục. Ông ngồi thụp xuống chiếc ghế đặt cạnh giường bệnh, ông thức canh ở đó cả tiếng đồng hồ qua, giờ đây lại đặt tay lên tấm đệm giường.
Kat và Sean đã nói chuyện với nhau rất lâu. Sean có hai đứa cháu nội.
Lisa hắng giọng. “D.I.C. là một tiến trình bệnh lý khi mà máu trong cơ thể bắt đầu đóng cục rải rác trong lòng mạch. Nó làm suy yếu những nhân tố đồng máu của cơ thể, dẫn đến tình trạng xuất huyết nội đảo ngược. Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng thông thường là phản ứng phụ trước một tình trạng bệnh lý ban đầu. Có thể là rắn cắn, ung thư, bỏng nặng hoặc sốc. Nhưng một trong những nguyên nhân phổ biến nhất là viêm màng não. Thường là sưng do nhiễm trùng trong não. Dẫn đến sốt và…”
Lisa chỉ vào thiết bị gắn một bên đầu đứa trẻ. Bà cắn chặt môi lo âu. “Mọi xét nghiệm đều xác nhận cho chẩn đoán. Giảm tiểu cầu, FDP tăng cao, thời gian xuất huyết kéo dài. Tôi đã có vài can thiệp lên tiểu cầu, đang truyền chất chống đông và drotrecogin alfa chống nhiễm trùng. Giúp giữ cô bé ở trạng thái ổn định lúc này, nhưng sau cùng phải là điều trị bệnh lý đầu tiên gây ra D.I.C. vẫn chưa rõ nguồn gốc bệnh lý. Cô bé không bị nhiễm trùng. Các xét nghiệm máu và dịch não tủy đều âm tính. Có thể là do vi rút, nhưng tôi đoán có điều gì đó đang diễn ra mà chúng ta chưa biết, gắn liền với mô cấy.”
Kat rùng mình hít một hơi thật sâu. “Nếu như không biết được…”
Lisa khoanh tay hệt như điệu bộ của Kat. “Cô bé đang yếu dần. Tôi đã cố gắng làm giảm nguy cơ, nhưng chúng ta cần phải biết rõ hơn. Những chữ viết tắt D.I.C. còn có một ý nghĩa khác trong giới y học. Chúng có nghĩ là Cái Chết Cận Kề.”
Kat quay sang Painter. “Ta phải làm gì đó”
Ông gật đầu và liếc nhìn Sean. “Ta không còn lựa chọn. Cần có câu trả lời. Bằng thời gian, ta có thể biết được bệnh lý nhưng chắc chắn có những kẻ đang nắm giữ công nghệ này sẽ biết cụ thể điều gì xảy ra với đứa trẻ.”
Sean thở dài. “Ta sẽ phải bước đi thận trọng.”
Kat cảm thấy Sean và Painter đã thảo luận trước đó, “ông đang có kế hoạch gì?”
“Nếu chúng ta muốn cứu đứa trẻ này”, Painter nhìn vào đứa trẻ yếu ớt, “chúng ta phải vào tận hang ổ kẻ thù.”
11:38 sáng, giờ EST
Trent McBride sải bước xuống hành lang dài vắng vẻ. Khu vực này cần phải được cải tạo lại cho xứng tầm với Học viện Walter Reed. Phòng ốc bệnh viện cả hai dãy đều trong tình trạng lộn xộn, tường mốc meo, nhưng điểm dừng chân của ông ta là khu thần kinh khóa kín ở phía sau. Tại đây, tường được tráng xi măng, cửa sổ cài then, cửa ra vào bọc thép với những vết cắt nhỏ loang lổ.
Trent bước tới căn phòng cuối cùng. Một lính gác đứng ngoài cửa. Không ai nói tiếng nào. Người lính gác bước sang một bên, đưa cho Trent chùm chìa khóa kêu leng keng.
Ông ta nhận lấy rồi nhìn qua ô kính nhỏ trên cửa ra vào. Yuri nằm uể oải trên giường, trang phục đã sẵn sàng. Trent mở khóa, Yuri ngồi dậy. Ở độ tuổi ấy, ông ta vẫn còn dẻo dai và lanh lợi, rõ ràng người ông được tiêm đầy hỗn hợp của những kích thích tố và hóc môn chống lão hóa. Thế mới biết người Nga yêu quý những dược phẩm nâng cao phong độ ra sao.
Ông ta đẩy cửa bước vào. “Đến giờ làm việc rồi, Yuri.”
Yuri đứng dậy, ánh mắt nhấp nháy. “Sasha?”
“Sẽ biết ngay thôi.”
Yuri băng qua cửa. Trent không thích cái vẻ kiên quyết bỗng nhiên chuyển thành nghi ngờ của Yuri. Yuri mang bên mình một lưỡi thép, giống như một lưỡi kiếm được mài và gấp lại trơn tru, không hề khuất phục. Có lẽ sức mạnh của người già không phải xuất phát từ những mũi tiêm vào mông.
Nhưng dù có kiên cường hay không, Yuri vẫn nằm trong tay ông ta.
Trent vẫy tay ra hiệu cho lính gác kèm sát ông. Trent dự định để Yuri theo sau. Cao trên một mét tám, nặng gần gấp đôi Yuri, Trent không lo đến việc cần một người hộ tống. Nhưng ông ta không tin tưởng những biểu hiện trong ánh mắt Yuri.
Họ bước ra ngoài.
“Ta đi đâu đây?” Yuri hỏi.
Đóng cái đinh cuối cùng vào quan tài Archibald Polk, ông ta nghĩ thầm. Trent đã sắp đặt trước cái chết của ông bạn già, giờ đây hắn lại lên kế hoạch dập tắt một trong những thành tích của Archibald, đứa con tinh thần của ông, một tổ chức bí mật mà ông đã ấp ủ khi còn phục vụ trong Nhà Jason.
Một nhóm các nhà khoa học sát thủ hay đơn giản là những thành viên Jason biết cầm súng.
Nhưng sau khi ám sát vị giáo sư, Trent giờ đây phải tiêu diệt cả đứa con tinh thần của ông. Để sự nghiệp của hắn được tiếp tục, Sigma phải chết.
Chú thích
1 Pripyat: thành phố được lập ra năm 1970 làm nơi ở cho công nhân nhà máy điện nguyên tử Chernobyl, bị bỏ hoang từ năm 1986 sau thảm họa Chernobyl, nằm ở phía Bắc Ukraina, gàn biên giới với Belarus (ND).

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.