Nhà Tiên Tri Cuối Cùng

CHƯƠNG 13: NGÀY 6 THÁNG 9,10:26 PM PHÍA NAM DÃY URAL



Monk vẫn thức canh.
Quần áo đã khô ráo, người cũng đã ấm lên nhờ lò sưởi, Monk đảo quanh căn phòng, ông di chuyển thật khẽ, thận trọng từng bước một. Chân ông mang giày, dây chưa buộc lại. Ông bắt lũ trẻ phải mặc quần áo và đi giày trước khi cuộn tròn vào chăn. Nếu phải đi đột xuất, ông không muốn chúng dò dẫm tìm quần áo.
Konstantin và Kiska rúc vào nhau, mỗi đứa co ro dưới một lớp chăn ấm. Lúc ngủ trông chúng nhỏ bé hơn, đặc biệt là Konstantin. Những quan sát sắc bén và giọng nói kiểu người lớn khiến cậu bé già dặn. Nhưng khi nhìn vào cơ thể thư giãn của cậu, Monk nhận ra cậu bé chưa vượt quá độ tuổi mười hai.
Monk bước qua lũ trẻ thật êm. Lúc này ông đã biết chỗ nào trên sàn nhà kêu to nhất mà tránh xa. Pyotr cuộn tròn trong vòng tay của bà mẹ tinh tinh. Marta ngồi trên sàn, đầu chạm xuống ngực, nhịp thở sâu hòa vào giấc ngủ. Trước đó Pyotr đã rất hoảng sợ trước hình ảnh người chị gái sinh đôi. Monk tin vào bản năng của cậu bé, nhưng không thể giúp được gì lúc này. Mất cả tiếng đồng hồ để Pyotr dịu lại, vì chuyến đi vất vả đã vắt kiệt sức lực cậu. Cuối cùng không chịu nổi mệt nhọc, cậu bé rơi vào giấc ngủ sâu trong sự bảo bọc của Marta.
Dù Monk đã chuyển động rất khẽ, Marta vẫn ngẩng đầu khi ông đi ngang. Đôi mắt ấm áp lờ mờ nhìn ông, một lúc sau mi mắt khép lại, gục xuống.
Chăm sóc cho cậu bé nhé, Marta.
Ít nhất cũng có ai đó yêu quý lũ trẻ.
Monk quay trở lại chỗ ngồi của ông cạnh cửa ra vào. Ông đã chặn một chiếc bàn ngay ngưỡng cửa và đặt ghế phía trước. Ngồi thụp xuống cùng một tiếng thở dài, ông lắng nghe những âm thanh rộn rã của đầm lầy: tiếng nước chảy róc rách, tiếng ếch kêu ồm ộp, tiếng dế rì rầm, đôi khi xen lẫn cả tiếng rúc nhẹ của một con cú săn đêm. Trước đó, một cái bóng lớn di chuyển qua ngôi nhà khiến ông giật mình, hé nhìn qua cánh cửa chớp thì hóa ra là một con lợn lòi lấm bùn đang đào bới xung quanh.
Monk cứ để mặc tên lính gác có nanh ấy đi lang thang. Nhưng rốt cuộc nó cũng bỏ đi mất.
Những giai điệu đầm lầy ru ông giấc ngủ. Ông gà gật, cằm chạm cả vào ngực. Vừa chợp mắt được vài phút.
– Ông lại trễ rồi, Monk! Đi tiếp đi!
Đầu ông bật ngửa ra sau, đập vào cạnh bàn. Một cơn đau âm ỉ – không phải do cú va chạm vừa rồi mà từ sâu trong óc. Ông bỗng cảm nhận điều gì… dường như là đang thưởng thức vị quế, cay cay ấm nóng, cùng với một nụ hôn lướt qua trên môi. Hương thơm ngào ngạt kích thích ông.
Rồi mau chóng bay đi.
Chỉ là một giấc mơ…
Nhưng Monk biết rõ. Ông ngồi thẳng lại cho cơn đau buốt tan biến. Chạm vào vết thương sau tai.
Tôi là ai?
Konstantin đã kể về chiếc tàu thủy bị đắm, tấm lưới đầy ắp và cuộc giải cứu ông trên biển. Phải chăng ông đã làm việc trên tàu? Ông là một hành khách? Không có câu trả lời nào trong đầu, chỉ có bóng tối.
Monk nhìn quanh căn phòng, nhận ra một cặp mắt đang chăm chú dõi theo ông. Pyotr không nhúc nhích. Cậu bé chỉ hướng về ông. Cú đập đầu vào cạnh bàn chắc đã làm Pyotr thức dậy.
Cũng có thể là lý do khác.
Monk bắt gặp ánh nhìn của cậu bé. Một nỗi buồn sâu thẳm, vượt quá sức chịu đựng của một đứa trẻ. Monk cảm thấy rùng mình trong thoáng chốc. Không phải là nỗi buồn hay sự sợ hãi. Tuyệt vọng đang len lỏi trên gương mặt nhỏ bé, một nỗi tuyệt vọng chưa bao giờ tồn tại trong ánh mắt trẻ con. Cậu bé run rẩylàm Marta cựa quậy.
Marta kêu khẽ rồi ngoái nhìn Monk.
Ông đứng dậy bước đến bên cạnh. Gương mặt cậu bé tỏa sáng trong ánh lửa. Thật rạng rỡ. Monk sờ lên trán Pyotr.
Nóng. Có triệu chứng sốt.
Tất cả những gì ông có bây giờ lại là một đứa trẻ bị ốm.
Chẳng thể có một giây phút ngơi nghỉ cho ông sao?
Một tiếng kêu hoang dã đáp lại câu hỏi của Monk. Rất gần. Ban đầu là tiếng gầm gừ khàn đặc, sau chuyển thành tiếng gào đến chói tai. Khiến Monk liên tưởng đến âm thanh ai đó đang giật mạnh sợi dây trên chiếc cưa xích.
Tiếng kêu còn lại xuất phát từ phía đối diện ngôi nhà.
Konstantin và Kiska giật mình ngồi bật dậy.
Không có cảnh báo nào.
Monk cũng không thấy dấu hiệu lũ mèo đang tới gần. Thậm chí Pyotr chẳng hề nhận biết. Chắc là do cơn sốt hoặc đơn giản là do cậu bé kiệt sức. Monk vẫn hy vọng sẽ nhận được cảnh báo nào đó.
Ngôi nhà không đủ an toàn. Lúc ở bờ sông, ông ước chừng mỗi con hổ nặng hơn ba trăm ký, cơ bắp chắc nịch. Chúng có thể xuyên qua cửa hay lật tung mái nhà chỉ độ vài giây. Vậy mà lúc này, chúng chỉ quanh quẩn, gầm gừ dò xét.
Konstantin có một mối lo khác. Ngay cả nếu lũ hổ không tấn công ngôi nhà, chắc chắn một điều họ vẫn bị những kẻ thù đồng loại săn. Không thể để lũ hổ vây hãm nơi đây.
Chọn lựa duy nhất là đi cho nhanh.
Monk rút con dao mũi giáo giắt ở thắt lưng, ngậm chặt phần chuôi gỗ, rồi ông băng qua lò sưởi, lấy một khúc củi còn đang cháy dở. Con dao tìm thấy trong ngôi nhà từng được dùng để chặt nhánh thông dài gần một mét. Nhựa thông rất dễ bắt lửa vì thế khúc củi bùng cháy như một ngọn đuốc.
Monk vội vã đảo khắp căn phòng. Ông cài ngọn đuốc phía dưới mái nhà lợp lá. Bị bỏ hoang từ lâu, đám lá khô héo như một đống bùi nhùi. Ông cũng đổ hết dầu lửa từ chiếc đèn trời gỉ sét lên mẩy miếng giẻ khô, lèn vào mái nhà.
Lửa bốc lên nhanh chóng.
Tiếng gào của lũ mèo mỗi lúc một dài thêm, xé tan màn đêm.
Đứng sau Monk, Konstantin nhấc hai tấm ván gỗ thông lên khỏi sàn nhà. Monk đã dùng dao cạy mấy chiếc đinh cũ kĩ. Trụ đỡ ngôi nhà ngắn ngủn, không gian bên dưới trở nên chật hẹp, bốn mặt lộ thiên. Chiều cao khá thấp đối với Monk nhưng không vấn đề gì cho lũ trẻ hay Marta. Ông thầm cầu nguyện lũ mèo không lảng vảng bên dưới.
Kiska tháo chốt cho cánh cửa chớp đối diện lối ra vào bật mở.
Cùng lúc đó, Monk đá chiếc bàn sang một bên.
Mọi thứ đã sẵn sàng và thời gian cũng sắp hết, ông vẫy tay ra hiệu cho lũ trẻ tuột xuống, nửa trên ngôi nhà đã ngập khói và hơi nóng bắt đầu lan tỏa.
Marta đỡ lấy Pyotr bên dưới ván ốp sàn. Kiska theo sau. Rồi đến lượt Konstantin. Cậu bé gật đầu về phía Monk tỏ ý sẵn sàng, thật ra lúc này không còn là một cậu bé, đã quay trở lại dáng vẻ nghiêm nghị ban đầu. “Bác cẩn thận,” Konstantin nhắc nhở.
Monk cũng gật đáp lại, con dao găm nằm gọn trên miệng.
Konstantin leo xuống rồi biến mất.
Monk phải ở lại để tiếp tục thu hút sự chú ý của lũ mèo. Ngọn lửa và khói bốc lên từ mái nhà sẽ khiến chúng rối trí. Ông cần tiêu diệt chúng. Tay cầm ngọn đuốc, ông đếm đến mười rồi dùng hết sức đá tung cánh cửa đã bị vênh từ trước. Ván ghép bật tung, cánh cửa vỡ thành từng mảnh.
Một con hổ đang thu mình lấy đà cách đó khoảng ba mét. Giật mình, nó cong người, phát ra âm thanh gầm gừ đe dọa kéo dài. Một bàn chân giơ lên đập mạnh vào khoảng không trước mặt.
Động tác ấy của loài mèo có ý nghĩa tương tự như là lũ chết tiệt.
Monk mất nửa giây há miệng kinh ngạc vì kích cỡ trực diện của nó. Con hổ dài đến bốn mét. Mắt hằn in những tia lửa phát ra từ mái nhà đang bốc cháy. Miệng nó nhe ra, chiếc lưỡi màu hồng ẩn sau lớp răng nanh dài ngoẵng.
Monk vung ngọn đuốc trong tay thành một vòng cung. Tim ông đập như nhịp trống thời nguyên thủy, khi người tiền sử còn co cụm trong những hang tối.
Đúng như ông hy vọng, cánh cửa đổ sập đã thu hút con mèo còn lại. Nó mon men ở góc trái, bò sát dưới đất, bộ lông vằn mập mờ bên dưới cặp chân đồ sộ. Monk thọc ngọn đuốc vào mặt con mèo ngay khi nó tấn công.
Lông bị cháy sém, con mèo rít lên, lồng lộn lăn ra xa.
Monk thoáng thấy mấu xương lồi bên tai trái của nó, nhận ra đó là con Zakhar.
Người anh em Arkady của nó rú lên vật vã, che chở cho đồng loại.
Monk biết con mèo sắp lao vào ông, bất chấp ngọn đuốc.
Đưa tay về sau để lấy đà, ông phóng mạnh khúc củi, biến thành một mũi lao nghi ngút cháy. Nó xuyên thẳng vào miệng hổ. Con mèo to xác nhảy dựng lên, khạc nhổ và quằn quại giữa không trung.
Monk chộp lấy con dao trên thình lình xoay gót quay ngược trở vào. Ngay lúc ấy, trong khóe mắt Monk hiện lên hình ảnh Zakhar đang hậm hực xông tới.
Hổn hển vì sợ hãi, Monk chạy thật nhanh qua đám khói mù mịt bao trùm. Không khí cay sè, hơi nóng và tàn lửa khiến ông mờ mắt. Ông chạy theo bản năng. Cánh cửa sổ mở toang nằm trực diện lối vào. Nước mắt chảy dài, ông nhận ra một ô vuông sẫm màu trên bức tường nhạt nhòa khói.
Ông lao thẳng qua đó, duỗi dài hai cánh tay về phía trước.
Ông xác định mục tiêu hoàn toàn chắc chắn cho đến giây phút bộ móng vuốt sắc nhọn xé toạc một mảng quần. Mảnh vải vương lại phía sau nhưng cả cơ thể ông đã thoát ra kịp. Vai ông va trúng một bên khung cửa, cánh tay tê cứng, cả thân hình theo đà lộn nhào qua ô cửa. Cú đáp khá nhọc nhằn một phần vì gió thốc mạnh vào người. Con dao rơi khỏi tầm tay, bay vào đám cỏ dại cao ngất.
Sau lưng ông, Zakhar đâm sầm vào tường, con hổ mất cảnh giác trước cái lỗ bé xíu Monk vừa lọt qua. Cả ngôi nhà rung chuyển vì chấn động; lửa ngùn ngụt bốc cao. Tiếng rú điên tiết vì đau đớn khiến Monk phải ngoảnh lại.
Loạng choạng vấp ngã, ông định thần đứng dậy rồi dồn hết sức chạy về phía đầm nước. Cú vấp ngã đưa đẩy số phận cuộc đời ông.
2:20 chiều, giờ EST
Thủ đô Washington, D.c.
“Tình trạng của cô bé là một ca viêm màng não,” Tiến sĩ Yuri Raev thừa nhận.
Painter ngồi đối diện nhà khoa học người Nga. Cạnh Tiến sĩ Raev là John Mapplethorpe, người mà Painter đã nhận ra qua tập hồ sơ do Sean McKnight cất công chuẩn bị – và một vị khách bất ngờ, Tiến sĩ Trent McBride, đồng nghiệp được xem là mất tích của Archibald Polk.
Có vẻ như người ta đã tìm thấy ông.
Painter có cả ngàn câu hỏi muốn dành cho vị khách ấy, nhưng cuộc gặp gỡ này, tại nhà hàng Capital Grille trên đại lộ Pennsylvania, chỉ thắt chặt đàm phán liên quan đến mạng lưới tình báo. Giới hạn và phạm vi bàn luận đã đóng khung. Không có bất kì thảo luận nào dính dáng đến giáo sư Polk, ít nhất là trong lúc này. Vấn đề đối thoại duy nhất là tình hình sức khỏe của đứa trẻ.
Lý do chính để Painter đưa các chuyên gia của ông có mặt tại bàn tròn. Phía ông ngồi còn có Lisa và Malcolm, cả hai đều có đầy đủ kiến thức và kinh nghiệm y khoa để đánh giá căn cứ khoa học của những thông tin được trao đổi.
Phía đối diện, vị khách người Nga tỏ ra không thoải mái. Ông ta không phải là một con quái vật như Painter hình dung khi ngồi vào bàn đàm phán. Trông ông giống như một cụ già tốt bụng khoác bộ com lê sẫm màu nhăn nhúm, nhưng trong mắt ông vẫn hiện rõ một âm sắc u ám. Painter cũng nhận ra nỗi niềm khắc khoải khi ông nhắc đến đứa trẻ. Những nếp nhăn liên tục co giãn lúc ông nhìn vào tập hồ sơ y khoa Lisa đặt trên bàn. Painter ngờ rằng lý do duy nhất khiến ông hợp tác là vì lo lắng thật sự đối với sự sống còn của đứa trẻ.
“Tình trạng suy kiệt gây ra bởi thiết bị gia cố,” Yuri tiếp tục giải trình. “Chúng tôi hoàn toàn không hiểu tại sao. Những vi điện cực trong thiết bị gồm những ống nano làm bằng hợp chất cacbon – bạch kim. Chúng tôi tin là đối tượng càng phát huy khả năng của mình, chúng càng hư hỏng nhanh hơn. Sasha đã vẽ tranh khi rơi vào tay các ông đúng không?”
Painter nhớ lại tất cả những bức phác họa diễn ra trong trạng thái căng thẳng: ngôi nhà lánh nạn, đền Taj Mahal, chân dung của Monk. ông chậm rãi gật đầu. “Chính xác là chuyện gì xảy ra lúc cô bé vẽ?”
Một bàn tay Mapplethorpe giơ lên. Giọng ông ta khá mượt mà, đủ để bôi trơn hết mọi sự thật, “ông biết điều đó vượt ngoài phạm vi thảo luận ở đâv. Ông đang mạo hiểm đấy, Giám đốc Crowe.”
Painter cảm thấy thú vị vì Yuri vẫn trả lời mặc cho phản đối của Mapplethorpe. “Cô bé là một nhà bác học phi thường,” ông phớt lờ mọi ánh nhìn. “Tài năng thiên bẩm của cô bé pha trộn rất sắc bén giữa yếu tố không gian và năng khiếu hội họa, khi được gia cố, những khả năng này vượt qua cả…”
“Đủ rồi,” Mapplethorpe hét lớn. “Hoặc là chúng ta kết thúc vấn đề và rời khỏi bàn. Các ông có thể gửi xác con bé cho chúng tôi sau khi nó chết.”
Mặt Yuri tối sầm, ông bắt đầu im lặng.
Lisa động viên ông quay trở lại chủ đề. “Tại sao việc thể hiện khả năng lại khiến Sasha suy kiệt nhanh chóng đến vậy?”
Yuri nói rất khẽ, vẻ mặt ẩn chứa tội lỗi. “Khi được kích thích, mặt phân cách giữa các tế bào hữu cơ và phần tử ngoại lai bắt đầu rò rỉ.”
Malcolm nhúc nhích, “ông có ý gì khi nói là rò rỉ?”
“Các nhà nghiên cứu của chúng tôi tin rằng những phần tử nano tách khỏi đoạn cuối của các vi điện cực và phá hỏng dịch tủy trong não.”
Đến lượt Lisa cũng không khỏi tò mò. “Không còn nghi ngờ gì nữa, mọi nuôi cấy của chúng tôi đều vô hiệu. Viêm màng não ở đây không phải do vi khuấn hay vi rút, bị nhiễm bởi những phần tử lạ.”
Yuri gật đầu xác nhận.
“Để cứu cô bé, ta phải điều trị phần lây nhiễm ấy đúng không?” Cô tiếp tục.
“Phải. Chúng tôi mất nhiều năm để phát minh ra một chế độ dược phẩm phòng ngừa, về cơ bản, chúng tôi dùng phiên bản sửa đổi của biệt dược trong trị liệu ung thư bàng quang. Bạch kim ở trạng thái Cis. Bạch kim đơn nguyên đóng vai trò như một chất gắn kết những phần tử nano, giúp chúng cân bằng. Việc kết hợp chính xác cùng với liều lượng thuốc cần thiết để tạo thuận lợi cho điều trị sẽ cần đến quá trình kiểm tra tổng quát và xét nghiệm máu ngay lập tức”
Painter để ý thấy khóe môi McBride cứng lại. Có vẻ như bất mãn với những gì Tiến sĩ Raev phát biểu. Nhưng nếu nhà khoa học Nga này nói đúng sự thật, ông ta rất quan trọng đối với tính mạng của đứa trẻ.
Dưới gầm bàn, tay Lisa khẽ đặt lên đầu gối Painter. Tấm khăn trải bàn bằng sa tanh giúp giấu che hành động ấy. Họ đang ngồi trong gian phòng Kết Cấu ở khoảng giữa của một nhà hàng nướng, nổi tiếng bởi con số khổng lồ ấn tượng dành cho đồ sứ và vải lanh cao cấp. Họ có hẳn một sảnh ăn tối riêng. Phần còn lại của nhà hàng đặc biệt trống trải. Nhất định là do Mapplethorpe sắp đặt để đảm bảo độ kín đáo.
Ngón tay Lisa siết chặt đầu gối ông, dấu hiệu cho thấy bà tin tưởng lời của Tiến sĩ Raev. Painter cũng đọc được khoảng cách giữa Raev và hai người đàn ông kia. Có thể nào tận dụng điều đó đề phát huy lợi thế của ông?
McBride lên tiếng, “Chúng tôi có dược phẩm của Tiến sĩ Raev. Nếu các ông đưa đứa bé đến bệnh viện, chúng tôi có thể chữa trị ngay lập tức. Có thể là…”
Painter lắc đầu.
Nỗ lực hay đấy anh bạn.
Lisa đỡ lời giúp ông. “Cô bé quá yếu không thể di chuyển. Chúng tôi lại vừa mới kiểm soát quá trình D.I.C. Bất kỳ căngthẳng nào phát sinh thêm cũng có thể làm mất ổn định khả năng phục hồi.”
“Vậy tôi cần đến chỗ cô bé,” Yuri đề nghị.
Painter biết rằng họ đang đi đến mấu chốt gai góc của đàm phán. Đứa trẻ là một đề tài khoa học lẫn chính trị nóng bỏng, ông đã để Kat và Sean chăm sóc cho cô bé. Sean với vai trò giám đốc DARPA đang dùng ảnh hưởng của mình để chi phối sau hậu trường. Chiếc bàn tròn đàm phán này chỉ là chóp mũi của núi băng tên chính trị.
Painter không còn cách nào khác là đưa Yuri đến giúp cô bé, vi phạm nội quy an toàn của Sigma – nhưng chẳng may, Mapplethorp cũng biết điều này. Căn cứ vào những phản ứng diễn ra kèm theo mối bất đồng giữa họ, phải khẳng định rằng Mapplethorpe sẽ chẳng bao giờ để Yuri ra đi một mình.
“Tôi sẽ cho phép một người đi cùng Tiến sĩ Raev,” Painter tiếp lời.
Mapplethorpe hiểu sai mục đích giới hạn của ông. “Chúng tôi biết sở chỉ huy của Sigma ở đâu, nếu như đó là điều ông sợ lộ. Dưới tòa nhà Smithsonian.”
Chẳng cần phải giật mình nhưng ruột gan Painter vẫn siết lại. Mapplethorpe đã nhúng tay đảo lộn toàn bộ mạng lưới tình báo Washington. Sean từng cảnh báo rằng hắn không mất nhiều thời gian để xác định được ai là người liên quan và họ lập căn cứ ở đâu. Vậy mà bằng tất cả quyền lực chính trị của mình, Mapplethorpe cũng không tài nào đặt chân vào bên trong trụ sở của Sigma. Chắc chắn người đàn ông này đang ngấm ngầm nỗ lực phá hủy bức tường ấy. Mục tiêu của Sean là giữ vững thành trì, thật kiên cố.
Nét mặt Painter vẫn bình thản. “Cứ như vậy thì tốt hơn, tôi chỉ cho phép một người theo Tiến sĩ Raev.” Ông nhìn vào khoảng không chờ đợi phản ứng đáp trả.
McBride giơ tay xung phong. “Tôi sẽ đi. Tôi có thể hữu ích cho Yuri.”
Tiến sĩ Raev khẽ đảo mắt, tỏ ý không hài lòng.
Mapplethorpe nhìn xoáy vào Painter rồi chậm rãi gật đầu. “Nhưng chúng tôi muốn có nhượng bộ cho sự hợp tác của chúng tôi.”
“Gì vậy?”
“Các ông có thể giữ đứa trẻ – nhưng từ giờ trở đi, các ôngphải trao quyền tiếp cận đứa trẻ một khi nó đã bình phục. Đó là nguồn tài nguyên chúng tôi sẽ không bỏ lỡ. An ninh quốc gia đang bị đe dọa.”
“Đừng phất cờ về phía tôi,” Painter trả lời. “Những gì các ông hợp tác để tạo ra đứa trẻ này đã vượt xa khỏi những quy ước đạo đức con người.”
“Chúng tôi chỉ tài trợ và đưa ra tư vấn khoa học vào phút cuối. Dự án được thiết lập ổn định từ trước đó. Nếu chúng tôi không hợp tác, như ông vừa nói, đất nước này sẽ đối diện với mối nguy trầm trọng.”
“Thật lố bịch! Lúc các ông bước qua giới hạn, các ông làm hỏng tất cả thì có. Ta đang cố gắng bảo vệ cho đất nước nào, đất nước đã ủng hộ hành động tội ác sản sinh ra đứa trẻ này sao?”
“Quả thật ông ngây ngô vậy sao, Crowe? Một thế giới mới ngoài kia đang tồn tại.”
“Không, không đúng. Theo như hiểu biết của tôi, đó là một thế giới đồng nhất xoay quanh đúng một mặt trời. Điều duy nhất thay đổi đó là cách ta tác động vào nó, những giới hạn ta sẵn sàng vượt qua. Mặc dù chúng ta có khả năng ngăn chặn.”
Mapplethorpe trừng mắt nhìn ông. Painter thấy rõ tia cương quyết trong ánh mắt ấy. Rõ ràng ông ta tin tưởng những gì mình đang tiến hành là cần thiết, chẳng có gì sai trái. Một mức độ cuồng tín không cho phép bất cứ tranh luận nào xen vào. Painter tự hỏi niềm tin ấy đến từ đâu – lòng yêu nước hay giáo điều ông ta tự chuốc lấy để bảo bọc bản thân khỏi hành vi bạo tàn, những tội ác mà ngay trong thâm tâm ông ta thấy rằng quá khủng khiếp, chẳng thể biện minh bằng cách nào khác?
Dù sao thì tất cả đều rơi vào bế tắc.
“Chúng ta thỏa thuận chưa?” Mapplethorpe hỏi. “Nếu không, chúng tôi sẽ tiếp tục con đường riêng. Luôn có những đứa trẻ khác.”
Painter quan sát đối phương. Để cứu đứa trẻ, ông không còn chọn lựa nào khác là bước lên vũ đài chính trị cùng với họ. Painter không thể để đứa trẻ ra đi. Ông phải đối phó với hậu quả chính trị diễn ra sau đó.
Painter chậm rãi gật đầu. “Khi nào các ông sẵn sàng?”
McBride lên tiếng. “Tôi cần một giờ để thu gom thuốc của Tiến sĩ Raev.”
“Chúng tôi sẽ đợi,” dứt lời, Painter đứng dậy, kết thúc cuộc trao đổi.
Mapplethorpe cũng đứng lên, chìa tay ra theo kiểu vừa hoàn tất buổi mua bán bất động sản. Cũng có thể là vậy. Painter gần như đã bán mất một phần linh hồn ông.
Nhưng không còn lựa chọn, ông bắt tay đối phương.
Bàn tay lạnh lẽo và khô cằn của Mapplethorpe ghì chặt tỏ vẻ chắc chắn.
Một phần trong con người Painter cảm thấy đố kỵ vì niềm tin kiên định ấy. Nhưng liệu người đàn ông này có được ngủ ngon? Lúc bước ra khỏi phần nội thất ốp gỗ, đứng dưới mái hiên phủ xanh, Painter băn khoăn về lời nói của Mapplethorpe, một tuyên bố không thể không suy nghĩ.
Luôn có những đứa trẻ khác.
Ông ta đang nói về ai?
10:42 tối
Phía Nam dãy Ural
Phải đi thật xa.
Monk chạy nước rút về phía đầm nước. Tiếng thét của con hổ như muốn xẻ dọc màn đêm, vọng lại từ trong ngôi nhà bốc cháy.
Zakhar.
Nó đang vật vã leo qua cửa sổ.
Monk tăng tốc.
Ông nhìn thấy chiếc bè nhỏ nhấp nhô trên mặt nước. Trước đó, Monk đã lôi nó ra khỏi đám lau sậy. Ông cạo đi gần hết lớp rêu phủ và phát hiện bè vẫn nổi. Không may là chẳng có lấy một mái chèo, Monk phải tự tạo con sào dài bằng thân cây non.
Konstantin đứng ở phía cuối bè, chống mạnh con sào tạm bợ xuống vùng nước lúc này đã sâu hơn. Chiếc bè dần trôi xa. Ít ra họ đã làm đúng kế hoạch.
Theo như dự tính, lũ trẻ phải bò ra khỏi tầng đáy bên dưới sàn nhà trong lúc Monk đánh lạc hướng lũ trẻ.
Chiếc bè cách bờ khoảng một mét đã chờ sẵn. Nhiệm vụ còn lại là nhảy lên bè, đẩy ra xa bờ, tiến đến vùng nước sâu nhất.
Kế hoạch là Monk sẽ nhập nhóm sau đó – nhưng hành trình của ông không suôn sẻ như mong đợi.
Một chút chậm trễ đã cho phép con hổ thứ hai – Arkady – có thời gian đi vòng qua chái nhà cùng với cơn thịnh nộ, tiến thẳng đến Monk.
Tiếng huỳnh huỵch nện trên nền đẩt phía sau. Monk vẫn nỗ lực chạm tới rìa nước. Không có vũ khí, hy vọng duy nhất là trốn thoát.
Vừa thở hổn hển, ông vừa sải rộng bước chân.
Cảnh vật bỗng chập choạng.
Tiếng gầm khẽ đã cận kề.
Nhịp chân hộc tốc.
Khoảnh khắc nín thở.
Nhịp tim dồn lên tai Monk.
Tiếng rít giận dữ bén ngọt hơn… sẵn sàng vô lấy ông.
Một tia nước lấp lánh.
Vẫn còn quá xa.
Hết hy vọng, ông quay đầu, ngồi bệt xuống đất.
Con hổ khom mình chuẩn bị tung cú nhảy cuối cùng, bỗngmột bóng đen nhảy ra khỏi bụi cỏ dại ngồn ngộn, tấn công con vật từ bên hông. Monk nhìn thấy ánh bạc lóe sáng. Cái bóng ôm lấy con hổ, chạm đất rồi lại tiếp tục nhảy lên, túm lấy một rặng liễu, đột ngột biến mất.
Là Marta.
Con tinh tinh đã không đi theo lũ trẻ.
Arkady mất thăng bằng vì bị tấn công bất ngờ, ngã vật sang một bên. Con hổ quẫy đạp để đứng dậy trong lúc tay chân Monk đã co quắp lại. Lảo đảo, con vật rú lên âm thanh hoang dại đến nghẹt thở.
Một vệt đen tràn xuống cổ họng nó, phủ mờ lớp lông vằn vện.
Máu.
Sâu bên dưới quai hàm, phần cán dao thò ra.
Con dao găm ông lấy từ trong nhà.
Monk đánh mất nó lúc ngã xuống đất.
Marta đã lấy được và dùng nó để cứu ông.
Monk vẫn nhớ – không biết làm cách nào mà ông lại nhớ được – rằng tinh là loài có bản năng cầm nắm. Chỉ bằng cành con, chúng có thể moi lũ mối ra khỏi tổ. Bằng những nhánh vót nhọn, chúng còn lôi được cả những con vượn mắt to châu Phi ra khỏi hốc trên thân cây.
Marta lại không phải là một con tinh tinh bình thường.
Toàn thân Arkady quằn quại, nó rên rỉ trong vũng máu.
Đáp lại sự vật vã của nó là tiếng con Zakhar đang gào lên hung tợn khiến quai hàm của Monk nhức nhối.
Monk bỏ chạy về hướng đàm nước. Chạm đến bãi lầy, ông sải người bò trên vũng nông, ông quẫy đạp, cố gắng lao ra chỗ sâu hơn.
Tiếng gào của Zakhar mỗi lúc một điên cuồng vì giận dữ.
Monk vẫn đẩy người đi tới, khỏa tay bơi một quãng đủ xa để thân hình ông ngập hẳn trong nước. Cái lạnh đã nhấn chìm nỗi sợ hãi, nhưng trong làn nước, ông vẫn nghe thấy âm thanh hung tợn của con hổ. Nín thở, Monk sải chân bơi vào giữa lòng sâu.
Đến lúc phổi đã cạn kiệt khí, ông lặng lẽ nổi lên.
Vừa đứng nước ông vừa quay về phía ngôi nhà. Lửa bốc cao ngập ngụa trong màn đêm. Trên nền sáng, Zakhar đi vòng quanh đồng loại của nó. Con hổ còn lại không nhúc nhích.
Monk nghe tiếng Marta lướt qua những tầng cây. Ông ngửa cổ nhìn thấy con tinh tinh đang đu người tự do rồi khá nặng nề đáp xuống mảng bè. Cách đó khoảng mười mét.
Monk bơi lại gần, nhấc người trèo lên chiếc bè. Ông nằm sóng soài, thở hổn hển như sắp đứt hơi.
Ở bên trái, Marta thu mình lại thật chặt, khẽ đung đưa. Một tiếng rên ngắn ngủi phát ra. Pyotr ngồi phía trên ôm lấy Marta, xoa dịu nó.
Monk chống khuỷu tay nhìn lên ngôi nhà rồi hướng sang Marta.
Trong lúc con hổ Zakhar vẫn gầm lên tuyệt vọng, Monk vòng tay qua vai con tinh tinh. Thân hình Marta run rẩy, rúc vào với dáng vẻ đau buồn.
Cần phải kết thúc, ông truyền ý nghĩ ấy lên Marta.
Con hổ Arkady đã phải chịu đau đớn, bị hành hạ gần như phát điên. Nó còn hơn cả một con quái thú do Chúa tạo ra.
Cái chết là một phước lành cho nó. Dẫu vậy, Marta vẫn rên rỉ.
Giết chóc không bao giờ là dễ dàng.
Phía đuôi bè, Konstantin ráng sức đẩy con sào dài, đưa họ bồng bềnh trôi giữa đầm lầy.
Monk ngồi dậy. Có gì đó khiến ông phải chú ý. Lúc sẩm tối, ông đã gói ghém hết đồ đạc của mọi người lên bè. Ông nhìn chằm chằm vào chiếc phù hiệu đeo trên khóa kéo. Máy đo phóng xạ.
Dưới ánh lửa phản chiếu, mọi thứ khá rõ ràng.
Màu hồng đã đậm nét hơn.
Nguồn hy vọng của họ theo đó cũng trở nên mờ mịt.
4:31 chiều, giờ EST
Thủ đô Washington, D.c.
Yuri điều chỉnh tốc độ chảy trên dây truyền dịch từ túi I.V.Lúc làm việc, ngón tay ông run run. Ông quá ý thức việc Sasha đang nằm trên giường bệnh, lọt thỏm giữa đống chăn và ga. Cô bé còn tệ hơn những gì ông lo ngại.
Ông rủa thầm vì đã đánh mất khoảng thời gian ông phải chờ đợi McBride và Mapplethorpe. Đó là lúc ông có thể bắt đầu việc điều trị cho Sasha. Thay vào đấy, ông lại bị nhốt ở tòa nhà F.B.I. trong khi hai tên người Mỹ đi công chuyện riêng. Cuối cùng McBride cũng quay trở lại với đống thuốc lấy từ căn phòng khách sạn của Yuri.
Cả hai đi bộ ngang qua công viên National Mall, đến trước cổng tòa nhà Smithsonian và được hộ tống xuống một thang máy nội bộ dẫn trụ sở bảo mật bên dưới. Họ bị khám xét, rà soát bằng máy quét, sau đó là bịt mắt. Đi theo chỉ dẫn, Yuri nhanh chóng mất phương hướng giữa một mê cung ngầm trong căn cứ. Họ vào một căn phòng, cửa đóng lại phía sau, tiếng khóa chốt vang lên.
Đến lúc đó tấm bịt mắt mới được tháo ra.
Yuri nhận ra mình đang ở trong một phòng bệnh nhỏ. Một bức tường có gắn kính, chắc chắn là kính hai chiều. Hai người đang đứng cạnh đứa trẻ: một phụ nữ dong dỏng cao với mái tóc nâu vàng, tự giới thiệu là Kat Bryant, còn người kia là Tiến sĩ Lisa Cummings ông đã gặp ở nhà hàng. Lisa đưa ông một tập hồ sơ bệnh án.
“Cần thực hiện những gì?”
Yuri bắt tay ngay vào công việc, ông đọc hết báo cáo, xem lại những xét nghiệm máu gần nhất. Mất thêm mười phút để tính toán liều lượng thuốc. McBride quan sát từ đằng sau tỏ ý muốn giúp đỡ.
Yuri cằn nhằn, “Tránh xa khỏi đây.”
Người Mỹ không biết đến thuật giả kim để duy trì mạng sống những đứa trẻ. Yuri có ý định giữ bí mật này, cũng bởi phương pháp quá phức tạp, ông không muốn nó bị biến dạng bên ngoài. Nhưng ông không thể đứng nhìn Sasha chết, buộc lòng phải để McBride theo dõi. Nhưng một khi Sasha đã an toàn…
Kat đứng ngay sau lưng, bất chợt làm gián đoạn những suy nghĩ mông lung của ông. “Cô bé sẽ ổn chứ?”
Yuri cho ống truyền nhỏ giọt. Đã hài lòng với lưu lượng chảy, ông quay sang bắt gặp ánh nhìn của Kat. Tóc bà tết lại phía sau, gương mặt tỏ rõ lo âu, mắt và khóe miệng trũng sâu.
Ông thở dài cho bà biết sự thật. “Tôi đã làm tất cả những gì có thể. Ta cần xét nghiệm thận mỗi giờ cũng như tỷ lệ nước tiểu. Việc này cho ta biết kết quả có tiến triển hay không, nhưng sẽ mất năm đến sáu giờ trước khi biết được liệu cô bé có thể sống sót.”
Giọng ông nghẹn lại ở những từ cuối. Ông quay đi, lúng túng vì biểu hiện yếu đuối trước người lạ. Ông nhìn thấy ánh mắt chai sạn của McBride đang dán lấy ông. Hắn đã ngồi xuống chiếc ghế gần cửa ra vào. Điệu bộ bắt chéo hai chân đầy tự mãn.
“Mọi thứ cần làm là chờ đợi,” Yuri lẩm nhẩm, đặt mình ngồi xuống bên giường nơi có quyển sách dành cho trẻ em mở sẵn.
Kat cúi người nhặt lên. “Tôi đang đọc truyện cho cô bé nghe.”
Yuri gật đầu. Trên chuyến bay đi tới đây, Sasha cũng đã dựa đầu vào cánh tay Yuri khi ông đọc những mẩu truyện ngụ ngôn của Nga. Ông khẽ mỉm cười nhớ lại. Lũ trẻ được huấn luyện không cho cảm xúc liên hệ phát triển, nhưng cô bé này khá đặc biệt.
Bàn tay ông lướt trên máy đo huyết áp kẹp giữa ngón tay duy nhất ló ra khỏi chăn của cô bé. Ông vuốt nhẹ cái ngón mảnh khảnh ấy, hệt như một phần tạo hình của búp bê bằng sứ.
Rồi ông ngả người trên ghế. Thời gian đợi chờ còn dài. McBride gõ nhịp chân trên sàn. Tiếng máy móc lúc êm dịu, lúc tít lên rộn rã. Sau vài phút, Tiến sĩ Cummings lại ra khỏi phòng để thảo luận tình hình với nhà nghiên cứu bệnh học làm việc trong nhóm. Kat ngồi trên chiếc ghế phía đối diện giường bệnh.
Giờ đồng hồ đầu tiên trôi qua chậm chạp, Yuri nhìn thấy tập giấy đặt ở chiếc bàn cạnh giường. Một góc của mảnh giấy trong số đó khiến ông chú ý. Bức vẽ nguệch ngoạc bằng bút dạ đen. Chỉ thoáng qua, Yuri cũng đủ biết đó là tác phẩm của Sasha. Ông lướt qua vài tờ, không hiểu được nội dung. Nhưng đến bức vẽ cuối cùng, Yuri nhận ra một gương mặt quen thuộc. Ông như hóa đá tại chỗ vì ngạc nhiên.
Đó là người tù họ giam giữ ở Chelyabinsk 88.
Bức hình thẳng thớm ngay trước Yuri. McBride không biết gì về chân dung người lính Mỹ này. Chưa có ai kể về nó cho ông ta. Yuri ngắm nghía rất lâu.
“Chồng tôi,” Kat lên tiếng ở phía cuối giường. “Sasha đã vẽ đấy. Tôi nghĩ là cô bé đã thấy tấm hình ông ấy ở trong ví của tôi.”
Ông chầm chậm gật đầu và che kín bức vẽ.
Chồng bà ấy sao…?
“Sao cô bé lại làm thế?” Kat tỏ vẻ thắc mắc. Bà nhìn ông với ánh mắt tập trung hơn hẳn. “Vẽ nên một bức tranh như vậy.”
Yuri quay sang đứa trẻ. Tim ông đập mạnh hơn, mắt ông như mờ đi. Chính những bức vẽ của Sasha đã cứu mạng người đàn ông này. Bây giờ vợ ông ta lại đang hiện hữu ở đây. Quả thật không phải là sự trùng hợp nội nhiên mà vượt ngoài tưởng tượng.
Chuyện gì đang xảy ra?
“Tiến sĩ Raev?” Kat có ý nhắc nhở ông.
Câu trả lời bỗng nhiên được thoái thác nhờ đôi lông mi nhỏ bé đang nhấp nháy. Mắt Sasha hé mở, một màu xanh thăm thẳm trong vắt hiện ra. Yuri vội vã đến gần. Kat cũng hồi hộp đứng lên.
Sasha vẫn còn chuếnh choáng trong ánh nhìn vô định. Gương mặt trái xoan của cô bé hướng về Yuri. “Unchi Pepe…?”
Là cái tên đó.
Máu như đổ dồn lên tai rồi đóng băng trong người Yuri. Ký ức ùa về giữa lối đi tối tăm trong nhà thờ lạnh giá, nơi có một đứa trẻ ôm chặt lấy con búp bê sờn rách trước bệ thờ, nhìn ông bằng đôi mắt xanh y hệt
Cũng những từ ngữ ấy. Cũng lời buộc tội ấy.
Unchi Pepe…
Tên của Josep Mengele, tên Đồ Tể của trại tập trung Auschwitz.
Ông nắm lấy tay Sasha, nới lỏng máy đo huyết áp.
Không, ông thầm hứa với cô bé. Sẽ không lặp lại nữa.
Nước mắt ông nhạt nhòa.
Những ngón tay nhỏ bé siết nhẹ lấy ông. Mí mắt cô bé run run. “Bác… bác Yuri…?”
“Phải rồi,” ông khẽ thì thầm. “Ta đây, con gái. Bác sẽ không rời xa con nữa.”
Môi cô bé động đậy trước khi chìm lại vào giấc ngủ. Ngón tay cô bé bắt đầu buông lơi, trượt khỏi bàn tay ông.
“Marta… Marta sợ…”
11:50 tối
Phía Nam dãy Ural
Cơ thể còn ấm, nhưng máu đã đông lại.
Chết được khoảng một giờ đồng hồ hoặc lâu hơn.
Trung úy Borsakov nhấc tay khỏi mạng sườn con hổ đã chết, ông sờ lên đầu nó, tóm lấy một bên tai giật mạnh. Hai tai giống hệt nhau cho thấy đây là con Arkady.
Ông buông tay đứng dậy.
Borsakov mang theo một khẩu Yarygin PYa. Lăm lăm súng trên tay, ông nhủ thầm nếu trong đó chứa đạn kích cỡ hơn chín milimét thì tốt biết mấy. Không có dấu hiệu nào của con hổ Zakhar.
Sau lưng ông, căn ibza cũ kĩ vẫn nhả khói, cháy âm ỉ.
Borsakov quay trở lại chiếc xuồng bay, trong lòng đầy ấn tượng bởi cuộc đào thoát. Viên hoa tiêu và hai người lính ngồi trong khoang máy, sẵn sàng súng trường yểm hộ ông. Đèn pha phía trước con thuyền xé tan màn đêm. Cánh quạt khổng lồ phía đuôi thuyền chầm chậm quay nhờ động cơ vẫn chạy.
Borsakov leo lên thuyền, ra hiệu cho họ đi sâu vào đầm tối. Động cơ rú lên, cánh quạt xoay như vũ bão, thuyền lướt đi trong đêm, bỏ lại ngôi nhà gỗ đổ nát đầy tro bụi. Cuộc truy đuổi sẽ dễ dàng hơn nếu họ dùng ống ngắm hồng ngoại hoặc kính nhìn xuvên đêm, vậy mà Borsakov phát hiện mấy ngày trước và làm hỏng hết những trang thiết bị có hạn này.
Khả năng là tên người Mỹ hoặc lũ trẻ.
Chuẩn bị cho kế hoạch thoát khỏi vòng vây săn đuổi.
“Ta không nên báo cáo với Thiếu tướng Martov phải không?” Viên chỉ huy phó cất tiếng hỏi, với tay mở hệ thống liên lạc.
Borsakov lắc đầu.
Vị thiếu tướng không bao giờ chịu thoái lui.
Chiếc thuyền lao vút qua đầm lầy.
Ông sẽ gọi một khi chắc chắn tên người Mỹ đã chết.
Borsakov ngoái nhìn lần nữa đống hoang tàn cùng với xác con hổ xấu số nằm lại giữa đảo. Ông mường tượng ra chân dung tên người Mỹ sắp vượt qua thử thách.
Gã này là ai? Gã từng được huấn luyện ở đâu?
6:02 chiều, giờ EST
Thủ đô Washington, D.C.
Trent McBride nhấc điện thoại lên tai. Họ cho phép ông ta dùng điện thoại cố định để liên lạc với văn phòng Mapplethorpe. Trent không hề ảo tưởng rằng cuộc đàm thoại diễn ra trong vòng bí mật. Chắc chắn đang bị kiểm soát.
Nhưng ông ta vẫn phải gọi để báo cáo tình hình.
Sau vài lời trao đổi nhanh gọn với Mapplethorpe, Trent kết thúc, “Có lẽ đứa trẻ sẽ sống sót.”
Nếu như cô bé chết, chẳng còn lý do gì để theo đuổi.
“Tốt lắm,” Mapplethorpe đáp lời. Sau vài giây ngập ngừng có chủ ý, ông ta tiếp tục. “Mất bao lâu nữa để biết chắc?”
Trent kiểm tra đồng hồ, tính toán thời gian ông ta sẽ trải qua. “Trễ nhất là sáu tiếng,” câu trả lời được quả quyết đưa ra.
Nửa đêm.
Phải cần đến hợp tác, nhưng rồi bọn họ sẽ có tất cả.
Mapplethorpe gầm lên sung sướng. “Quả là tin rất tốt đây.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.