Tôi gập quyển nhật ký lại, cảm thấy sôi lên vì ngày mai. Có quá nhiều thứ phải lên kế hoạch. Trong khi tôi nằm trên giường, lướt qua tất cả những việc phải làm trong quãng thời gian ngắn ngủi mình có vào ngày mai. Biết rõ Rosaleen và Arthur mãi đến một giờ mới quay về, điều đó chẳng giúp tôi thư thái được là bao. Đó là một buổi đêm tháng Bảy ẩm sì. Đêm nay trời sẽ nổi bão, hoặc mai sẽ là một ngày nóng như thiêu. Tôi mở cửa sổ phòng ngủ ra, mong chờ một làn gió mát lành và hất tung chăn qua một bên. Tôi nằm dưới ánh trăng xanh nhàn nhạt, ngắm nhìn bầu trời tối đen chi chít sao.
Trong lúc lắng nghe màn đêm tĩnh lặng, tôi chợt nghe thấy tiếng cú kêu, chốc chốc tiếng của một con cừu hay bò kêu gọi sự chú ý, những thanh âm của đêm nông thôn giờ đã trở nên quen thuộc với tôi bồng bềnh trôi vào căn phòng. Thỉnh thoảng, một làn gió nhẹ hây hẩy thổi tới, và mỗi lần như thế, tôi lại nghe thấy lá trên các tán cây khẽ xào xạc, cả chúng cũng biết ơn làn gió mát lành. Cuối cùng, tôi cảm thấy gai gai lạnh nên vươn tay ra đóng cửa sổ thì nhận ra những âm thanh nãy giờ mình vẫn nghĩ là tiếng chim kêu kỳ thực lại là những giọng nói từ xa vọng lại. Ở miền đồng quê này, ai biết những âm thanh đó có thể vọng đi được bao xa, song khi lắng tai nghe lần nữa, tôi nhận ra rõ ràng tiếng trò chuyện lúc to lúc nhỏ và tiếng cười bất chợt, có thể cả tiếng nhạc nữa và rồi tất cả lại chìm trong im lặng khi gió thôi không đưa âm thanh lại nữa. Nó vọng tới từ phía lâu đài.
Lúc này đã 12 giờ 5 phút đêm. Tôi khoác bộ đồ thể thao rồi xỏ chân vào đôi giày chạy, sàn nhà kêu cót két dưới chân trong lúc tôi nhón chân đi thật khẽ. Mỗi lần nó kêu cót két, tôi lại đứng sững như hóa đá, chờ đợi người khổng lồ đang ngủ tỉnh giấc vào bất kỳ lúc nào. Tôi dịch cái ghế ra khỏi cửa phòng ngủ, cửa mở thật nhẹ. Sẽ là một kỳ tích nếu tôi có thể xuống được dưới nhà và ra khỏi cửa trước mà không đánh động gì đến chủ nhà. Tôi nghe thấy tiếng Rosaleen ho nên dừng lại, rồi lập tức đóng cửa lại. Mợ không bao giờ ho ban đêm, tôi coi tiếng ho đó là một lời cảnh báo.
Tôi leo lên giường để tránh phải bước đi trên những tấm ván ọp ẹp, rồi bò lồm cồm trên đệm để tới bên cửa sổ. Đó là một tấm đệm lò xo cũ mèm và cũng phát ra tiếng động, song ít nhất nghe nó cũng chính đáng, như thể tôi đang trở mình vậy. Tôi lấy đèn bấm từ ngăn kéo bàn cạnh giường ra, rồi đẩy cửa sổ mở rộng hơn. Cỡ người tôi có thể chui lọt qua cửa mà không gặp rắc rối nào. Phòng ngủ của tôi nằm ngay trên hiên trước, và cho dù mái khá dốc, nếu tập trung hết mức tôi có thể đặt chân xuống đó. Ở trên mái rồi thì leo xuống hàng rào ở trên hiên và nhảy xuống đất tương đối dễ dàng. Dễ như ăn kẹo.
Đột nhiên cửa phòng ngủ của Rosaleen và Arthur bật mở, và tiếng bước chân hối hả vọng tới từ hành lang. Tôi nhào trở lại giường và kéo chăn trùm kín mít từ đầu đến chân, đảm bảo sao cho cả bộ đồ thể thao, đôi giày chạy lẫn cây đèn bấm đều được che kín. Tôi nhắm tịt hai mắt lại vừa đúng lúc cửa phòng tôi mở ra. Cửa sổ đang mở rộng, và với đôi tai thính nhạy của tôi, những giọng nói từ xa vọng lại dường như lớn đến mức tôi đoan chắc dự tính của mình đã lộ bem.
Tim tôi đập thình thình trong lồng ngực khi có người đột ngột xuất hiện trong phòng mình. Ván sàn kêu cót két, từng tấm một, khi bóng người nọ bước tới gần tôi hơn. Là Rosaleen. Tôi nhận ra qua cách mợ nín thở, qua mùi hương tôi ngửi thấy. Tôi không biết mợ đang làm gì, tiếng cót két im bặt cho tôi biết mợ đang đứng im. Quan sát. Quan sát tôi.
Tôi cố hết sức để không mở mắt ra. Tôi cố gắng thả lỏng mí mắt, không cho phép nhãn cầu đảo quá nhiều. Tôi cố hít thở bình thường, to hơn bình thường một chút để cho thấy là tôi đang ngủ rất sâu. Tôi cảm thấy một thân người đang cúi xuống trên mình, và thiếu chút nữa tôi đã vùng dậy tấn công, nhưng rồi tôi nghe thấy tiếng cửa sổ đóng lại và hiểu ra mợ cúi qua người tôi để với tới cửa sổ. Tôi định mở bừng mắt ra, chộp lấy Rosaleen và làm ầm ĩ lên. Nhưng làm thế thì được gì chứ?
“Rosaleen,” tôi nghe thấy tiếng thì thào vọng vào từ cửa phòng ngủ, “Em đang làm gì thế?”
“Em chỉ muốn chắc chắn là con bé ổn cả.”
“Tất nhiên là nó ổn rồi. con bé đâu còn là trẻ con nữa. quay lại giường ngủ thôi.”
Tôi cảm thấy một bàn tay úp lên má mình, rồi những ngón tay dịu dàng vuốt tóc tôi vén ra sau tai như mẹ tôi từng hay làm. Sau đó, tôi chờ đợi tấm chăn sẽ bị kéo khỏi người mình và bộ trang phục dạ hành trốn đi chơi lúc nửa đêm sẽ bị lộ, song thay vì thế, tôi cảm thấy hơi thở của mợ phả lên mặt tôi, cảm thấy môi mợ cọ lên trán tôi trong một nụ hôn trìu mến, rồi mở bỏ đi. Cửa đóng lại.
Con bé đâu còn là trẻ con nữa.
Sau khi mợ rời khỏi, tôi đợi tới lúc tiếng ngáy của Arthur bắt đầu vang lên trở lại. Tôi rời khỏi giường, đẩy mở cửa sổ và không nghĩ đến lần thứ hai, tôi leo ra ngoài và nhẹ nhàng đáp xuống mái hiên lợp ngói đen. Chỉ đến lúc đặt chân xuống thảm cỏ và ngước mắt nhìn lên ngôi nhà, lên phòng ngủ, lên khung cửa sổ hé mở tôi mới hiểu ý nghĩa ẩn đằng sau thông điệp tôi nhắc nhở chính mình đừng đóng cửa sổ.
Dùng đèn bấm, tôi dò dẫm đi về phía tòa lâu đài, lần theo các giọng nói. Tôi chỉ có thể nhìn xa được một vài mét phía trước, phần còn lại của thế giới bị lỗ đen của màn đêm nuốt chửng. Những thân cây dường như còn chứa đựng nhiều bí mật hơn vào ban đêm, và trong bóng tối những tiếng rì rào chúng nói với nhau chỉ càng làm tôi thêm tin còn nhiều điều nữa chúng chưa kể cho mình nghe. Khi tôi gần tới tòa lâu đài, tôi nghe thấy tiếng nói, ngửi thấy mùi khói, nghe thấy tiếng nhạc, nhìn thấy ánh sáng hắt ra từ tiền sảnh và căn phòng với những ô cửa sổ còn nguyên vẹn ở bên phải. Những gian phòng còn lại về bên trái và ra phía sau đều tối đen. Tôi tắt đèn bấm và đi vòng ra sau lâu đài, ngang qua hai căn phòng mà tôi cảm thấy có tầm nhìn rất tuyệt ra hồ nước phía sau cũng như hàng trăm bậc thang dẫn xuống dưới đó. Tôi tới chỗ căn phòng có cửa sổ trước đó mình từng leo qua, và lắng nghe.
Một thứ ánh sáng từ các vì sao đêm bao quanh bậc tường cũ kỹ. Những ngôi sao vàng vọt lượn vòng. Thầm nghĩ căn phòng không có ai, tôi tựa người vào để quan sát, dù những ngôi sao thực sự có thể nhìn thấy qua khung cửa sổ đối diện trông ấn tượng hơn nhiều. Tôi cứ nghĩ chỉ một mình tôi đang ngắm sao cho tới nghe thấy tiếng hôn nhau chùn chụt say sưa. Và ngay sau đó là một tiếng hét.
Rất nhiều tiếng bước chân chạy vang lên, rất nhiều tiếng suỵt và rất nhiều lon và chai bị đá đổ. Rất nhiều tiếng thì thầm. Rồi tôi cảm thấy có một bàn tay nắm lấy tóc và chộp vào gáy tôi, và thế là tôi bị lôi xềnh xệch vào trong lâu đài theo đúng nghĩa đen.
“Này, bỏ ra,” tôi đá. “Bỏ cái tay thối tha ra khỏi tôi ngay.”
Tôi đập mạnh lên hai bàn tay ôm quanh eo mình, chắc chắn là tay đàn ông, trong khi tôi nửa bị kéo nửa bị nhấc bổng lên lôi vào lâu đài. Đến lúc này, tôi thầm cảm ơn Rosaleen về chế độ ăn giàu hydrocarbon cũng như một vài ký tôi đã tăng thêm kể từ khi tới đây, nếu không hẳn tôi đã dễ dàng bị ném xốc lên vai hắn. Sau khi lôi tôi vào trong và cho đứng xuống đất, hắn vẫn giữ cánh tay ghì quanh hông tôi và đứng đằng sau tôi. Tôi ngoái lại vài lần để rồi trông thấy một tạo vật xấu xí thảm hại với cái cằm lởm chởm râu. Sáu người đưa mắt nhìn tôi chằm chằm. Vài người ngồi trên cầu thang, vài người khác ngồi trên những cái két kê dưới sàn. Tôi muốn gào lên để đuổi bọn họ cuốn xéo khỏi ngôi nhà của tôi.
“Cô ta nhìn trộm chúng ta,” kẻ vừa thét lên lúc nãy nói khi bước tới khung cửa, thở hổn hển như thể sắp xỉu vì cơn hoảng loạn mới trải qua.
“Tôi không nhìn trộm, “ tôi đảo mắt đi. “Chuyện đó thật ghê tởm.”
“Nó là người Mỹ,” một gã nói.
“Tôi không phải người Mỹ.”
“Mày nói giọng Mỹ,” một gã khác nói.
“Này, nó là Hannah Montana đấy.”
Nhiều tiếng cười phá lên.
“Tôi từ Dublin đến.”
“Không, không phải.”
“Phải đấy.”
“Mày đang ở xa Dublin quá đấy.”
“Tôi chỉ ở đây vào mùa hè.”
“Đi nghỉ đấy,” một gã nào đó nói, và cả đám bọn họ cùng bật cười.
Một gã xuất hiện nơi khung cửa, đằng sau có ả vửa thét lên. Hắn lắng nghe một hồi trong lúc tôi cố gắng tự vệ với gọng nói thất thanh đầy hoang mang mà dường như tôi không thể kiểm soát được và thầm tự hỏi ma xui quỷ khiến thế nào tôi lại trở thành kẻ dở ngắt trong căn phòng toàn một đám quê mùa thế này.
“Gary, buông cô ấy ra đi,” cuối cùng hắn lên tiếng.
Cái cằm lởm chởm râu của Gary biến mất ngay lập tức. Tôi nhận diện tay thủ lĩnh.
Sau khi được thả ra, tôi lấy lại bình tĩnh.
“Tôi có thể nhận thêm câu hỏi nào nữa từ các vị trong phòng không, có lẽ cậu, quý ông diện áo khoác lông cừu và đi Doc Martens kia, cậu muốn hỏi tôi về những ngày khi Guns ‘n’ Roses còn thời thượng chăng?”
Một tay trong đám nở nụ cười tự mãn, sau đó chống khủy tay, và rồi kêu lên vì đau. Cái cằm lởm chởm râu của Gary từ phía sau thúc vào gáy tôi thật đau.
“Lúc nãy tôi nghe thấy mọi người từ trên phòng mình. Tôi đang nằm trên giường.” Tôi nhận ra mình đang trong bộ dạng của mối phiên hà lớn nhất hành tinh, giống như một đứa trẻ làm gián đoạn buổi dạ tiệc của ba mẹ nó.
“Cô sống gần đây?”
“Nó đang nói láo đấy.”
“Thế ư, vậy thì các người nghĩ tôi sống ở xó xỉnh nào hả? Hay tôi vừa bay từ LA[6] tới để làm một chuyến tản bộ lúc nửa đêm?”
[6] Los Angeles
“Có phải cô sống trong ngôi nhà gác cổng?”
“Ngôi nhà gác cổng Hoàng gia,” ai đó khác nói, và tất cả bọn họ bắt đầu phá lên cười.
Okay, nó còn xa mới là điện Buckingham song khá hơn chán so với những ngôi nhà quê kệch đến phát ốm tôi đã nhìn thấy khi chúng tôi chạy xe tới đây. Tôi nhìn từ khuôn mặt này sang khuôn mặt khác trong lúc cố xác định câu trả lời, sẽ đần độn đến mức nào nếu tôi nói cho họ biết mình đang sống ở đâu?
“Ồ không, tôi chỉ sống trong chuồng bò và ngủ cùng lợn giống hệt như các người thôi,” tôi cay cú đáp trả. “Tôi không biết các người bị làm sao nữa, mà nhân tiện đây anh ta trông cũng chẳng có vẻ gì là người vùng này.”
Tôi muốn ám chỉ tới anh chàng thủ lĩnh có làn da ngăm ngăm của băng này, lúc ấy vẫn đang đứng chỗ khung cửa nhìn tôi chằm chặp. Nhắm thẳng vào tay đầu lĩnh trong lúc đang ở thế con tin để tấn công. Quả thực chẳng phải là ý tưởng khôn ngoan nhất.
Cả đám nọ cùng tròn mắt nhìn nhau và tôi có thể nghe thấy mấy từ “phân biệt chủng tộc” được nhắc đi nhắc lại.
“Đó không phải là phân biệt chủng tộc,” tôi đảo mắt. “Anh ta đang mặc đồ D-Squared. Lần cuối cùng tôi tìm ở Hicksville, thưa quý vị rỗng tuếch, họ đã hết sạch đồ D-Squared trong kho.”
Quả thực tôi đã không được khôn ngoan cho lắm. Tôi đã xem Deliverance, tôi biết đám này có thể khiến tôi phải làm gì, vậy mà tôi đã miệt thị bọn họ là ngủ chung với lợn, một sự khởi đầu chẳng hay hớm gì trong khi đáng lẽ phải đưa ra lời xin lỗi. Tôi nhìn thấy hàm răng của tay thủ lĩnh sáng lóe lên khi anh chàng thoáng mỉm cười, rồi sau đó anh ta đưa tay lên che miệng trong lúc các thành viên còn lại của băng bắt đầu sôi sùng sục, đồng loạt nhìn tôi gườm gườm với những ngón tay chỉ chỏ và chĩa đèn về phía tôi, liên tục gọi tôi là đồ phân biệt chủng tộc cho dù tôi đã giải thích vì sao tôi nghĩ anh ta không phải ở đây. Anh chàng đứng ở khung cửa yêu cầu tất cả bọn họ dừng lại, cố thuyết phục cô nàng đã hét lúc trước và vài nhân vật đã chếnh choáng say khác, rồi cuối cùng nắm tay tôi rồi lôi ra ngoài, vòng qua đằng sau lâu đài, trở lại hiện trường của tội lỗi, khung của sổ nơi bọn họ cho là tôi đã nhìn trộm.
“Có phải đây là chỗ anh giả bộ giết tôi nhưng kỳ thực lại thả tôi ra không?” tôi hỏi, không khỏi có chút hồi hộp. Thực ra là rất hồi hộp. Okay, tôi nghĩ anh ta sắp nện tôi một trận.
Anh ta mỉm cười. “Cô là Tamara phải không?”
Miệng tôi há hốc. “Làm thế nào anh…” Rồi chợt vỡ lẽ. “Anh là Weseley.”
Đến lượt anh ta có vẻ ngạc nhiên.
“Arthur đã kể cho cô biết về tôi?”
“Arthur? À, phải, tất nhiên là thế rồi. Ông ấy luôn miệng nhắc đến anh.”
Trông anh ta có vẻ lúng túng. “Ông ấy cũng nói với tôi về cô.”
“Thế ư?”
Tôi không hề nghĩ Arthur lại đả động gì đến mình. Thậm chí còn chẳng hình dung ra nổi cậu đã nói những gì.
“Làm điếu chứ?”
Tôi lấy một điếu và anh ta quẹt diêm. Khi anh ta châm thuốc, tôi có thể thấy rõ khuôn mặt anh ta. Nước da anh chàng có màu sô cô la sữa chứ không phải gỗ mun, nhưng sẫm màu một cách thật đẹp. Đôi mắt anh ta to và nâu, lông mi dài, đến mức tôi thoáng cảm thấy ghen tị vì trong cuộc sống trước đây của mình tôi đã bỏ ra không ít tiền tiêu vặt cho những bộ mi giả có nhũ. Đôi môi anh ta dày, ướt, hai hàm răng đều tăm tắp, trắng bóc, quai hàm đẹp và xương gò má hoàn hảo. Trông anh ta đẹp đến mức khiến tôi phát ghen. Anh ta cao hơn tôi, đến cả một cái đầu. Que diêm cháy đến tận cùng, làm bỏng ngón tay anh ta, và anh ta buông cho nó rơi xuống. Đến lúc đó tôi nhận ra hẳn anh ta cũng đang nhìn mình. Anh ta lại quẹt diêm và tôi rít một hơi. Đã thật lâu rồi.
“Cảm ơn.”
“Không có gì.”
“Anh đang làm cái chết tiệt gì thế, Wes? Ái chà, anh hút thuốc cùng cô ta cơ đấy? Cô ta là họ hàng của cái gia đình quái gở mà em hi vọng anh biết,” cô nàng la hét xuất hiện từ sau góc quanh, ngật ngưỡng bước đi liêu xiêu về phía chúng tôi, và lấp đầy không gian xung quanh bằng thứ mùi của một giỏ quà Body Shop.
“Bình tĩnh đi nào, Kate,” anh ta nói.
“Không, việc quái gì tôi phải bình tĩnh,” cô ta tiếp tục tuôn ra một tràng lảm nhảm vô nghĩa của kẻ say rồi bắt đầu vung xắc tay lên đập anh ta lia lịa. Bạn cô nàng lôi cô ta đi.
“Được rồi,” cô nàng hất tay cô bạn ra, rồi lại chộp vội lấy cô kia trước khi té nhào, và gần như lôi cả cô bạn cùng lăn xuống sàn. “Đằng nào tôi cũng sẽ về nhà.”
“Ái chà,” Tôi nhìn anh ta.
“Chẳng đau đâu.”
“Một cái túi giả Louis Vuitton, anh có đùa không vậy? Chỉ nhìn thấy nó tôi đã thấy đau rồi.”
“Cô đúng là một kẻ hợm đời,” anh ta mỉm cười.
“Còn anh là một gã bạn trai tệ hại.”
“Cô ấy đâu phải bạn gái tôi.”
“Là gì thì cũng thế thôi.”
“Cô muốn uống thứ gì không?”
Tôi gật đầu có phần hăm hở thái quá. Anh ta bật cười, rồi chui qua cửa sổ trở vào trong lâu đài. Tôi cũng chui vào theo.
“Này Weseley, anh bạn không định mang đồ uống của bọn ta đi đãi Hannah Montana đấy chứ?”
Weseley tảng lờ người vừa lên tiếng và đưa cho tôi một lon.
“Cái gì thế này?”
“Diamond White.”
“Chưa bao giờ nghe thấy.”
“Cần giải thích thế nào để cô hiểu nhỉ,” anh chàng có vẻ nghĩ ngợi tợn. “Cứ tưởng tượng như nó là sâm banh, nhưng lại được làm từ táo.”
Tôi đảo mắt ngán ngẩm. “À, nếu anh nghĩ tôi uống sâm banh thì anh chẳng hiểu gì về tôi rồi.”
“Không ư, phải vậy không nhỉ? Nó là rượu táo. Người Mỹ gọi là rượu táo nặng.”
“Tôi không phải người Mỹ.”
“Cô không nói giọng Ireland.”
“Còn anh thì trông không giống người Ireland. Có thể bản sắc Ireland như thế gian này vẫn biết đã thay đổi rồi.” Tôi há hốc miệng đầy mỉa mai. “Ôi Chúa ơi, chúng ta cần nói với ai đây?’
“Mẹ tôi có tóc đỏ và tàn nhang.”
“Vậy thì chắc bà ấy là người Thụy Điển.”
Anh ta bật cười, rồi chỉ vào cái két đằng sau tôi, vậy là tôi ngồi xuống. Anh chàng ngồi xuống đối diện.
“Ba anh là người ở đâu?”
“Madagascar.”
“Hay quá nhỉ, giống như trên phim ấy à?”
“Phải, i sì như hoạt hình Disney,” anh ta nói đầy châm biếm.
“Anh tới đó bao giờ chưa?
“Chưa.”
“Thế vì sao ba anh lại đến đây?”
“Vì răng.”
“À, phải.” tôi gật đầu ra vẻ thấu hiểu. “Luôn có một lý do hợp lý.”
Cả hai chúng tôi cùng bật cười.
Ai đó trong phòng bên cạnh lại lên tiếng nói gì đó về chuyện tôi là đồ phân biệt chủng tộc.
“Tôi chỉ muốn nói về đồ anh mặc,” tôi khẽ nói. “Anh ăn mặc còn bảnh hơn cả John Boy đằng kia, hay Mary Ellen, cô nàng luôn lê chân đi khắp nơi với đôi bốt Ugg hàng nhái và mùi mỹ phẩm Dewberry.”
Anh ta cười phá lên và phả khói ra, trong khi đôi mắt nhìn chăm chăm vào tôi.
“Cô ấy không phải bạn gái tôi.”
“Là anh nói thế. Nhưng linh tính siêu điệp viên của tôi thì nói ngược lại.”
“À, được rồi, chỉ là…” anh ta dụi thuốc rồi ném vào một cái lọ. Tôi biết ơn vì cử chỉ đó. Tôi cảm thấy mình như một người mẹ vừa trở về nhà và phát hiện ra lũ trẻ đã xả rác khắp nơi. “Có những chiếc xe buýt, cô biết đấy,” anh ta nói. “Những thứ bốn bánh chở người ta vào thành phố lớn.”
“Từ đâu cơ?” Tôi nghĩ phản ứng của tôi cũng tương tự như thế nếu anh ta hé lộ ra một phương thuốc chữa ung thư. Một con đường biến khỏi chỗ này…
“Dunshauglin. Chưa đến nửa giờ ngồi xe.”
“Và làm thế nào anh đến đó được?”
“Ba tôi lái xe đưa đi.”
À, ba tôi thì chết rồi.
“À, nhân đây hỏi luôn, cái này của cô phải không?” anh ta khua khoắng tìm trong túi rồi đưa cho tôi một cây viết. Tôi đã xoáy nó trên bàn làm việc của Arthur và đánh rơi mất hôm qua.
Mình cảm thấy như có ai đó ở đấy. Có ai đó đang nhìn mình.
“Hôm qua anh có ở đây không?”
“À…” anh ta lại khổ sở nghĩ ngợi.
“Chuyện đó có gì khiến anh phải nghĩ chứ,” tôi gắt gỏng.
“Tôi không biết. Không. Có. Không, tôi không biết liệu tôi có ở đây không. Tôi tìm thấy cây viết tối nay, nếu đấy là điều cô muốn hỏi.”
“Vậy là anh không ở đây hôm qua, khi tôi đang ở đây?”
“Gần như ngày nào tôi cũng ở đây cùng Arthur,” anh ta vẫn chưa trả lời câu hỏi.
“Thế ư?”
“À, tôi phải vậy thôi, phải không nào?”
“Thật sao?”
“Tôi làm việc với ông ấy.”
“Ồ.”
“Tôi nghĩ cô có nói Arthur đã kể với cô rồi mà.”
“Ồ…phải. Vậy Rosaleen có biết anh làm việc với Arthur không?”
Anh ta gật đầu. “Tôi không nghĩ bà ấy thích tôi loanh quanh ở đây, nhưng từ khi Arthur bị đau lưng, ông ấy cần ai đó giúp một tay.”
“Anh làm việc với ông ấy bao lâu rồi?”
Anh ta lại trầm ngâm nghĩ ngợi, mắt nhìn chăm chăm vào khoảng không xa xăm, “À, để xem nào. Tôi và Arthur đã bắt đầu… được ba tuần rồi.”
Tôi bắt đầu cười.
“Chúng tôi mới chuyển đến đây tháng trước,” anh ta giải thích.
“Thật sao?” Tôi cảm thấy tim mình lâng lâng. Anh ta cũng là kẻ đồng cảnh ngộ với tôi. “Từ đâu vậy?”
“Dublin.”
“Tôi cũng thế!” Vẻ phấn khích của tôi xem chừng hơi quá đậm chất Bộ năm lừng danh. “Xin lỗi,” tôi cảm thấy mặt mình đỏ lựng. “Chỉ là chút phấn khích thái quá khi gặp một thành viên cùng giống loài thôi. Vậy làm thế nào anh leo lên thành thủ lĩnh lẹ vậy được? Anh bỏ bùa bọn họ à? Hay dạy họ cách nhóm lửa?”
“Tôi thấy lịch sự ở cô là thứ vắng bóng hoàn toàn đấy. Nhìn trộm, làm hỏng một buổi tiệc tùng và mỉa mai không phải là những thứ thích hợp nếu cô muốn hòa nhập.”
“Tôi đâu có khoái hòa nhập.” Tôi quạu quọ đốp lại. “Tôi muốn biến khỏi nơi này.”
Cả hai chúng tôi cùng lặng thinh.
“Anh có biết gì về những chuyện đã xảy ra ở đây không? Trong lâu đài này?” tôi hỏi.
“Ý cô là chuyện về đám người Norman và mọi thứ khác ư?”
“Không, không phải thế. Chuyện gì đã xảy ra với gia đình từng sống ở đây, thời gian gần đây hơn cơ.”
“Có một vụ hỏa hoạn, đại loại thế, sau đó họ rời đi.”
“Ồ, đáng ra anh phải đi viết sách lịch sử mới phải.”
“Chúng tôi vừa mới chuyển tới đây,” anh ta mỉm cười. “Sao cô lại muốn biết?”
“Tôi chỉ tò mò thôi.”
Anh ta thăm dò tôi một hồi. “Chúng ta có thể hỏi họ nếu cô muốn.” Ý anh ta muốn nói tới đám người ở phòng bên.
Một tràng cười rộ vọng từ bên đó sang. Tôi nghĩ họ đang chơi trò Xoay chai[7].
[7] Trò chơi trong đó người chơi xếp thành vòng tròn. Một người xoay tròn cái chai. Khi chai dừng lại, miệng chai chỉ vào ai thì người xoay chai phải hôn người đó.
“Không, không cần đâu.”
“Chắc xơ Ignatius biết đấy. Cô biết bà ấy mà, phải không?”
“Sao anh biết?”
“Tôi đã nói với cô rồi, tôi làm việc quanh đây. Tôi đâu có đui.”
“Nhưng tôi chưa bao giờ thấy anh cả.”
Anh ta nhún vai.
“Bà ấy bảo tôi hỏi Rosaleen và Arthur,” tôi giải thích.
“Cô nên làm thế. Cô biết Rosaleen sống trong ngôi nhà phía bên kia đường đối diện cổng chính suốt cả đời bà ấy còn gì. Nếu ai đó biết điều gì thì chính là bà ấy. Có thể bà sẽ kể cho cô nghe mọi chuyện xảy ra quanh đây trong hai trăm năm qua.”
Tôi không thể nói với anh ta rằng quyển nhật ký viết rõ rằng tôi không nên hỏi Rosaleen bất cứ điều gì. “Tôi không biết nữa…tôi không nghĩ hai cậu mợ ấy muốn nói về chủ đề này. Mợ rất kín tiếng. Nhất định họ phải biết những người sống ở đây và nếu có ai đó chết, tôi không muốn bới nó ra. Ý tôi là rất có thể họ vẫn biết những người đó. Arthur không thể làm việc không công. Mà thực ra,” tôi bật ngón tay, “Ai trả công cho anh?”
“Là Arthur. Tiền mặt.”
“À.”
“Vậy sao cô lại đến đây?”
“Tôi nói với anh rồi, tôi nghe thấy tiếng các anh từ phòng ngủ.”
“Không, ý tôi muốn hỏi là sao cô lại có mặt ở đây, ở Kilsaney kia.”
“À.”
Tôi lặng thinh. Và nghĩ thật nhanh. Bất cứ điều gì ngoài sự thật. Tôi không muốn anh ta thương hại mình.
“Tôi cứ nghĩ anh nói Arthur đã kể cho anh nghe về tôi rồi cơ mà.”
“Tôi xứng đáng được giải thưởng nếu moi được gì từ ông ấy. Ông ấy chỉ kể cô và mẹ cô đang ở cùng vợ chồng ông ấy thôi.”
“Anh biết đấy, chúng tôi buộc phải chuyển nhà. Chỉ trong ít lâu thôi. Có lẽ chỉ trong mùa hè. Chúng tôi đã bán nhà. Và đang chờ mua nhà mới.”
“Ba cô không ở đây sao?”
“Không, ông ấy… ông ấy bỏ mẹ tôi, vì một người khác.”
“Ôi trời, rất tiếc phải nghe điều đó.”
“À, phải… một cô người mẫu tuổi đôi mươi nào đó. Cô ta nổi tiếng. Luôn xuất hiện trên các tạp chí. Cô ta hay rủ tôi đi chơi cùng.”
Anh chàng cau mày nhìn tôi, và tôi có cảm giác mình là một con ngốc. “Cô vẫn gặp ông ấy chứ?”
“Không. Không gặp nữa.”
Tôi đang làm theo các nguyên tắc trong nhật ký. Lẽ ra mình không nên kể cho Weseley về ba. Nhưng chẳng vì thế tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Thực ra tôi đã nói dối Marcus, và chuyện đó có vẻ hoàn toàn biện minh được vì mọi thứ với Marcus đều là một lời nói dối to đùng, song tôi lại chẳng hề muốn nói dối Wesley. Hơn nữa, anh ta sẽ chỉ có thể moi được từ Arthur, chắc phải mất đến mười năm.
“Wesley, tôi xin lỗi, đó là một lời nói dối,” tôi xoa mặt. “Ba tôi… ông ấy chết rồi.”
Anh ta nhổm lên. “ Cái gì? Như thế nào?”
Lẽ ra mình nên nói lý do gì đó khác, chẳng hạn như chết trong chiến tranh, hay là mình cũng không biết nữa, bất kỳ kiểu chết nào thông thường hơn.
“À. Ung thư.” Tôi muốn hai chúng tôi chấm dứt nói về chuyện đó ngay lập tức. Tôi không thể nói tiếp về chuyện này. Tôi không thể làm thế. Tôi muốn anh ta thôi đặt câu hỏi. “Ở tinh hoàn.”
“Ồ.”
Vậy là thành công.
Sau đó tôi ra về, cảm ơn anh ta và leo trở ra qua cửa sổ. Quay về được nửa đường, tôi bỗng dừng bước, quay người chạy trở lại.
“Weseley,” tôi thì thầm không ra hơi, đứng tựa người vào khung cửa sổ. Anh ta đang thu dọn đống vỏ lon và đầu mẩu thuốc lá trong căn phòng có cửa sổ.
“Cô quên thứ gì sao?”
“À, vâng…” tôi thì thầm.
“Sao chúng ta lại đang thì thầm nhỉ?” anh ta thì thầm, mỉm cười, đi đến bên cửa sổ và chống người lên hai khủy tay.
“Bởi vì à… tôi không hẳn thích nói to chuyện này.”
“Okay,” nụ cười của anh ta tan biến.
“Anh sẽ nghĩ tôi kỳ quặc…”
“Tôi đã nghĩ cô thật kỳ quặc rồi.”
“À, okay. Thế này nhé. Ba tôi không phải chết vì ung thư.”
“Không ư?”
“Không. Tôi chỉ nói vậy vì như thế dễ dàng hơn. Cho dù phần nhắc đến tinh hoàn thì không dễ lắm. Cái đó đúng là kỳ quặc.”
Anh ta dịu dàng mỉm cười, “Vậy ông ấy đã chết như thế nào?”
“Ông ấy tự sát. Ba tôi uống cả một lọ thuốc ngủ cùng với whisky. Cố ý. Và tôi tìm thấy ông ấy.” Tôi khó nhọc nuốt khan.
Và nó kia. Nét thay đổi trên khuôn mặt mà tôi đã viết ra. Một cái nhìn đượm vẻ thương hại. Cái nhìn tử tế bạn dành cho bất cứ kẻ nào khổ sở. Anh ta không nói gì.
“Chỉ là tôi không muốn nói dối,” tôi bắt đầu quay trở lại.
“Okay. Cảm ơn vì đã cho tôi biết.”
“Tôi chưa bao giờ kể với ai khác.”
“Tôi sẽ không kể với ai đâu.”
“Ok, cảm ơn. Giờ thì tôi về thật đây.”
Thật rụt rè khép nép.
“Tạm biệt.”
Anh ta nhoài người xa hơn ra ngoài cửa sổ và cất cao giọng. “Tôi sẽ gặp lại cô, Tamara.”
“Vâng. Chắc rồi.”
Tôi chỉ muốn rời khỏi đó.
Đám người trong tiền sảnh đang huýt sáo cười đùa, và tôi biến mất vào bóng tối.
Đêm hôm ấy tôi học được một điều quan trọng. Bạn không nên cố gắng ngăn cản mọi thứ xảy ra. Đôi khi bạn đã định đoạt phải trở nên yếu đuối trước mặt người khác. Có những lúc điều đó là cần thiết, vì tất cả chúng đều là một phần để bạn bước sang phần tiếp theo của bản thân, ngày tiếp theo. Nhật ký không phải lúc nào cũng đúng.