Ngày xửa ngày xưa có một cô bé sống trong ngôi nhà một tầng. Cô bé là em gái út của một người chị gái thông minh và một người anh đẹp trai đến mức làm người ta ngoái lại nhìn trên đường, và cả người lạ cũng tìm đến bắt chuyện. Cô bé là một đứa trẻ mà một số người hẳn gọi là đứa con bất ngờ. Với bố mẹ cô bé, những người đã thôi có con từ lâu, cô bé không chỉ là một đứa con ngoài kế hoạch mà còn không được hoan nghênh, và cô biết rõ điều đó. Ở tuổi bốn mươi bảy và sau hai mươi hai năm kể từ lần cuối cùng có con, mẹ cô hoàn toàn không được sự chuẩn bị cho sự xuất hiện của một đứa trẻ nữa. Các con bà đều đã lớn và chuyển đến sống ở nơi khác, con gái lớn Helen của bà tới Cork làm giáo viên tiểu học, còn con trai Brian tới Boston, nơi cậu trở thành một nhà phân tích máy tính. Hai người con hiếm khi về nhà, chi phí đi lại quá đắt đỏ với Brian và mẹ anh thích tới Cork hơn vào các kì nghỉ. Cô bé út không hề biết hai người lạ mặt cô hiếm khi gặp và luôn tự xưng là anh chị cô. Họ có con lớn hơn cả cô, họ biết rất ít con người cô và những gì cô muốn. Cô bé xuất hiện quá muộn, cô đã lỡ mất mối liên hệ tất cả bọn họ cùng có với nhau.
Ba cô bé là người đánh cá và thợ săn ở khu lãnh địa lâu đài Kilsaney, nằm phía bên kia con đường. Mẹ cô là người nấu bếp. Cô rất thích vị trí của gia đình mình, ở thật gần bên một khung cảnh huy hoàng như thế, đến mức lũ trẻ ở trường coi cô như một phần của nó. Cô bé thích mê việc gia đình họ có đặc quyền biết những mẩu chuyện tán gẫu mà không ai được biết. Họ luôn là người được hưởng những món quà giáng sinh hậu hĩnh, thức ăn còn thừa, vải vóc, giấy dán tường thải ra từ những lần trang hoàng nội thất hay thải đồ cũ. Khu lãnh địa hoàn toàn thuộc về sở hữu tư nhân, nhưng cô bé được phép chơi bên trong khuôn viên. Đó là vinh hạnh lớn lao với cô bé, và không có gì cô bé không sẵn sàng làm để làm gia đình vui lòng, những việc vặt trong nhà, chạy tới chỗ ba Joe của cô tới chỗ người làm vườn Paddy đem theo lời nhắn của mẹ cần bắt con gì, chuẩn bị loại rau nào cho bữa tối.
Cô bé thích mê những ngày được phép vào lâu đài. Nếu cô nhớ nhà trong những ngày ở trường, thì khi cô về mẹ cô không thể không cho cô sang lâu đài. Họ thật tốt trong chuyện đó, ông bà Kilsaney. Họ cho phép mẹ cô được mang con đi làm vì biết rõ bà không thể để con lại ở nơi nào khác, cũng như không ai khác có thể đảm bảo ba bữa ăn cho họ đầy đủ đến thế, cho họ ăn ngon đến thế trong khi đồng tiền cứ giảm dần theo năm tháng. Cô bé lặng lẽ ngồi trong một góc khu bếp rộng lớn, từ đó quan sát mẹ mình mồ hôi nhễ nhại cả ngày bên những cái nồi bốc hơi nghi ngút và một lò lửa đỏ rực. Cô bé luôn im lặng, không gây ra bất cứ rắc rồi gì nhưng ghi nhận tất cả. Cô bé để ý đến công việc nấu nướng của mẹ, song cũng lưu tâm tới những gì diễn ra trong lâu đài.
Cô để ý thấy mỗi khi ông Kilsaney cần đưa ra quyết định, ông ta lại biến mất trong căn phòng gỗ sồi và đứng giữa phòng, chắp tay sau lưng trong khi nhìn chằm chằm vào các bậc tiền bối đang ngạo nghễ nhìn xuống ông ta từ những bức tranh chân dung sơn dầu khổ lớn lồng khung thiếp vàng cầu kỳ. Sau đó ông sẽ ra khỏi căn phòng gỗ sồi, cằm ngẩng cao, bắt tay vào hành động đầy khí thế như một người lính vừa có một cuộc trao đổi tốt đẹp với thượng cấp của mình.
Cô bé cũng biết bà Kilsaney mê mẩn đến ngớ ngẩn thế nào chín con chó của bà ta, rồi chạy khắp nhà như lên cơn điên để bắt chúng, chẳng để ý gì đến những thứ diễn ra quanh mình. Và chỉ để tâm tới mấy con chó của bà ta, nhất là con chó giống King Charles tinh quái tên là Messy, con chó duy nhất không tài nào dạy dỗ cho thuần được, kẻ thu hút phần lớn ý nghĩ và hầu như toàn bộ lời nói của bà. Bà ta không hề nhận ra hai đứa con trai nhỏ đang bày trò ngoài sảnh để được mẹ để ý tới, cũng như yêu chiều mà chồng bà dành cho cô hầu gái chẳng mấy hấp dẫn Magdelene, người phô ra một cái răng đen sì khi cô ta mỉm cười và dành phần lớn thời gian quét bụi phòng ngủ của ông bà chủ tại lâu đài Kilsaney trong khi bà Kilsaney ra ngoài đi dạo cùng lũ chó.
Cô bé cũng biết điều làm bà Kilsaney hóa điên chính là những bông hoa héo rũ. Bà ta sẽ kiểm tra từng lọ hoa khi đi ngang qua, gần như ám ảnh. Bà ta sẽ mỉm cười thích thú khi cứ ba ngày một lần, người nữ tu lại đến mang theo những bó hoa tươi từ khu vườn có tường bao của nhà. Sau đó, ngay sau khi cánh cửa đóng lại, bà sẽ cầm chúng lên, vừa cằn nhằn vừa ngắt bỏ bất cứ thứ gì không được hoàn hảo. Cô bé yêu bà Kilsaney, yêu những bộ vest vải tuýt và những đôi ủng cưỡi ngựa màu nâu bà đi kể cả vào những ngày không cưỡi ngựa. Tuy nhiên, cô bé không bao giờ cho phép mình bước chân vào nhà nếu bà không biết. Cô bé thần tượng bà, nhưng nghĩ bà là một kẻ điên.
Cô bé không nghĩ nhiều tới ông chồng công khai đùa giỡn với cô hầu gái xấu xí, dùng chổi lông phủi bụi cù mông cô ta và đùa nghịch còn trẻ con hơn cả chính cô bé. Ông ta nghĩ cô bé còn quá nhỏ để hiểu chuyện. Cô bé chẳng thích ông ta cho lắm, song ông ta nghĩ cô bé là một con nhóc ngu ngốc.
Cô bé quan sát mọi thứ. Cô đã tự hứa với chính mình sẽ luôn biết mọi thứ diễn ra trong ngôi nhà của mình.
Cô rất thích quan sát hai cậu con trai. Hai cậu luôn bày đủ trò nghịch ngợm tinh quái, luôn chạy khắp nhà, hất đổ và đánh vỡ đủ thứ đồ đạc, làm cô hầu phòng kêu thét lên, gây ra những cảnh náo loạn ầm ĩ. Cô bé luôn dõi theo cậu anh mọi lúc, cậu ta là người bắt đầu mọi trò nghịch ngợm, còn cậu em, nhạy cảm hơn, luôn là người hùa theo vì muốn canh chừng cho anh trai mình. Laurence là anh, hay Laurie như người ta vẫn hay gọi cậu. Cậu ta không bao giờ để ý đến cô bé, nhưng cô luôn có mặt ở đó, ngoài rìa, cảm thấy là người ngoài cuộc dù không được mời, cùng chơi trong trí tưởng tượng của cô.
Cậu em trai, Arthur, hay Artie như mọi người vẫn gọi, để ý tới cô bé. Cậu ta không rủ cô bé chơi cùng, cậu ta không làm bất cứ điều gì theo ý muốn của chính mình, cậu bé chỉ đơn thuần tuân theo các ý tưởng của anh, nhưng nếu Laurie làm điều ngớ ngẩn gì đó, cậu sẽ nhìn về phía cô bé, đảo mắt một cái để pha trò cho cô. Cô lại muốn thà cậu ta đừng làm thế thì hơn. Laurie mới là người cô bé mong muốn để ý đến mình, và cậu ta càng không để mắt đến cô, mong ước của cô bé càng lớn thêm. Đôi lúc, khi cậu ta có một mình và đang chạy, cô bé liền cố ý đứng trên đường của cậu. Cô muốn cậu ít nhất cũng nhìn cô hoặc dừng lại, hay hét lên với cô, nhưng cậu chẳng bao giờ làm thế. Cậu ta chạy vòng qua cô. Nếu cậu ta đi tìm Artie thì hai anh em họ đang chơi trốn tìm, cô bé sẽ giúp cậu bằng cách chỉ chỗ nấp của cậu em. Laurie không đón nhận sự giúp đỡ của cô bé, cậu đi tìm chỗ khác và gọi lớn Artie là mình chịu thua. Cậu ta không muốn bất cứ thứ gì từ cô bé.
Cô bé rất hay nghỉ học ở nhà, đơn giản vì khi đó cô có thể dành thời gian ở lâu đài. Nghỉ hè là quãng thời gian tuyệt vời nhất, khi cô bé có mọi ngày tự do cho riêng mình để ở lại trong khu lãnh địa mà không cần giả bộ ho hay bị đau bụng. Chính trong một kỳ nghỉ hè như thế, khi cô bé lên bảy, Artie lên tám còn Laurie chín tuổi, một ngày nọ, trong lúc cô bé đang ở ngoài sân tha thẩn chơi một mình như mọi khi, mẹ cô bé gọi cô vào lâu đài. Hôm đó nhà Kilsaney vắng nhà, tới chỗ người anh em họ ở Balbriggan săn cáo. Bà Kilsaney đã gọi người nấu bếp lên phòng bà ta để giúp bà mặc đồ, một chiếc váy lụa màu ô liu dài quét sàn có đính ngọc trai và cái áo khoác lông thú. Mẹ cô trở thành người quán xuyến lâu đài trong ngày, và khi cô bé tới trước lâu đài, cô có thể nói ngay từ vẻ mặt hai cậu bé là họ đang không mấy thoải mái.
“Hôm nay quả là một ngày đẹp trời để ra ngoài chơi, hít thở không khí trong lành và không làm quấn chân tôi,” mẹ cô nói. “Rosaleen cũng sẽ chơi với hai cậu.”
“Cháu không muốn chơi với bạn ấy,” Laurie vùng vằng, vẫn không chịu nhìn cô bé, nhưng ít nhất cô cũng biết mình không phải vô hình với cậu ta, và dù sao cậu cũng nhìn thấy cô.
“Hãy cư xử đàng hoàng với em nhé, các chàng trai. Chào các anh nào, Rosaleen.”
Hai cậu bé mím chặt môi, mẹ cô bé liền gắt lên với hai anh em.
“Xin chào, Rosaleen,” cả hai cậu bé lẩm bẩm, Laurie nhìn xuống đất, còn Artie rụt rè nhìn cô bé mỉm cười.
Trước đó cô bé chưa bao giờ được gọi bằng tên. Khi nghe thấy tên mình nói ra trên môi người anh, cô cảm thấy như mình vừa được đặt tên thánh vậy.
“Giờ thì đi chơi đi,” mẹ cô bé nói và hai cậu bé chạy ào đi. Rosaleen theo sau.
Sau khi ba đứa trẻ đã chạy sâu vào vạt rừng, chúng dừng lại khi Laurie tới quan sát một tổ kiến.
“Tớ là Artie,” cậu em trai nói.
“Đừng nói chuyện với nó,” Laurie cáu kỉnh, nhặt một cái que dưới đất lên, vung vẩy xung quanh như thế đang chiến đấu.
Laurie tảng lờ em trai và cô bé, mải mê chọc que vào lỗ trên thân cây. Bất ngờ chúng nghe thấy tiếng nói, vậy là Laurie, tai dỏng lên nghe ngóng, đi về phía tiếng nói. Cậu ta giơ tay lên, cả ba dừng lại, nấp nhìn qua tán cây và thấy Paddy, người làm vườn, đang bò trên hai đầu gối lách người qua mấy bụi mâm xôi, trong khi bên cạnh ông ta, trên xe cút kít, một cô bé năm tuổi với mái tóc vàng bạch kim đang nằm.
“Ai thế nhỉ?” Laurie hỏi, giọng nói của cậu gửi tín hiệu cảnh báo tới thẳng tim Rosaleen, nhưng qua phấn khích trước cơ hội trò chuyện đầu tiên của hai người, cô bé trả lời, tim đập thính thịch, ý thức về giọng nói của mình, mong muốn mọi thứ hoàn hảo dành cho Laurie.
“Đó là Jennifer Byrne,” cô bé nói, nghiêm nghị và chuẩn mực hệt như bà Kilsaney. “Paddy là ba cô bé.”
“Rủ cô ấy cùng chơi đi,” Laurie nói.
“Nhưng nó chỉ là một con nhóc thôi mà,” Rosaleen phản đối.
“Cô bé rất đáng yêu,” Laurie nói, trong lúc quan sát cô bé lười biếng nằm trên xe cút kít.
Từ hôm đó trở đi, luôn là bốn người họ. Laurie, Artie, Rosaleen và Jennifer cùng chơi với nhau mỗi ngày. Jennifer vì cô bé được mời tham gia, Rosaleen vì mấy người kia buộc phải chấp nhận cô bé. Rosaleen luôn nhớ điều đó. Ngay cả khi Laurie hôn cô trong bụi cây hay khi hai người họ là một cặp trong vài tuần ngắn ngủi, cô luôn biết Jennifer là người anh thích. Vẫn luôn là thế. Cô ta hút hồn cậu, dù cô ta nói gì hay làm điệu bộ cử chỉ gì, Laurie luôn bị thu hút, luôn muốn ở bên cạnh.
Jennifer ngày càng xinh đẹp khi năm tháng trôi qua, cho dù bản thân cô hoàn toàn không nhận ra. Bộ ngực nở nang, vòng eo thon thả, phần hông tròn trịa, tất cả đột ngột xuất hiện chỉ trong một mùa hè. Không còn mẹ từ năm ba tuổi, cô bé chẳng khác gì một cậu con trai nghịch ngợm, trèo vắt vẻo trên cây, chạy đua cùng Artie và Laurie, cởi phăng quần áo và nhảy xuống hồ bơi mà chẳng buồn để ý tới thế giới xung quanh. Cô luôn cố gắng rủ Rosaleen cùng tham gia, nhưng chẳng hiểu nổi tại sao cô bạn lại không muốn. Về phần mình, Rosaleen kiên nhẫn chờ đợi thời cơ. Cô biết những hành động nghịch ngợm kiểu con trai sẽ làm hai cậu bé dần phát chán, họ sẽ mất dần sự quan tâm, và đến một ngày sẽ muốn tìm một người phụ nữ thực sự, và cô sẽ là người phụ nữ đó. Cô sẽ giống như bà Kilsaney, sẽ quán xuyến lâu đài, nấu ăn, dạy dỗ đàn chó, đảm bảo rằng người nữ tu chỉ mang đến cho mình những bó hoa tươi nhất. Cô mơ Laurie một ngày kia sẽ là của cô, họ sẽ cùng nhau sống trong lâu đài, cô sẽ để tâm tới bầy chó và những bông hoa trong khi Laurie nhận lấy cảm hứng trong căn phòng gỗ sồi từ các bậc tiền bối của anh treo trên tường.
Khi hai cậu con trai rơi nhà vào học trường nội trú, Laurie chỉ viết thư cho jennifer. Artie thì viết thư cho cả hai cô gái. Rosaleen không bao giờ để Jennifer biết chuyện này, cô giả bộ cả mình nữa cũng nhận được một lá thư nhưng nội dung lá thư quá riêng tư để có thể đọc to lên. Jennifer dường như chẳng bao giờ tỏ vẻ quan tâm, cô tự tin vào tình bạn đến mức càng khiến Rosaleen ghen tị. Khi các chàng trai vào đại học, chứng đa xơ cứng của mẹ Rosaleen trở nên trầm trọng hơn rất nhiều, ông bố già nua của cô ốm nặng, họ cần tiền, trong khi hai anh chị Rosaleen ở quá xa để có thể giúp đỡ và hai người này trông cậy cả vào cô em mà họ chưa biết để chăm sóc ba mẹ. Rosaleen buộc phải thôi học, đến làm việc ở lâu đài, Jennifer tiếp tục phơi phới, lên tận Dublin chơi để thăm hai chàng trai. Đó là những ngày đen tối nhất với Rosaleen. Thời gian trôi qua thật lâu và buồn chán khi không có họ, cô gái sống hy vọng Laurie quay về, sống với cái đầu mơ mộng về mọi điều đã là quá khứ và mường tượng những gì có thể đến trong tương lai. Trong khi ba người kia ở trên thành phố tha hồ tung tăng bay nhảy: Laurie học tại trường Mỹ thuật, gửi về nhà những tác phẩm bằng thủy tinh, Artie theo học nghề làm vườn, Jennifer liên tục được chào mời làm mẫu mỗi khi bước chân ra khỏi cửa. Khi họ về nhà vào các kỳ nghỉ, cuộc sống của Rosaleen không thể hạnh phúc hơn, và cô thầm mong Laurie nhìn mình như cách anh nhìn Jennifer.
Cô không biết mối quan hệ lãng mạn giữa hai người họ đã kéo dài được bao lâu. Cô chỉ có thể đoán nó bắt đầu ở Dublin, trong khi cô ở nhà vặt lông gà và mổ cá. Rosaleen tự hỏi liệu có bao giờ hai người họ định nói cho cô biết hay không, nếu không có cái ngày bối rối đó, khi cô dẫn anh tới gốc cây táo để cuối cùng thổ lộ cho anh hay cảm xúc của cô, để chỉ cho anh dòng chữ khắc trên cây. Rose yêu Laurie. Cô đã quá tin chắc anh sẽ kinh ngạc, sẽ nhận ra con người thật của cô, nhận ra cô đã quán xuyến lâu đài chu đáo ra sao khi anh vắng nhà, sẽ hiểu cô tháo vát đến mức nào. Cô đã mường tượng ra ngày hôm ấy từ nhiều tháng, nhiều năm trước.
Nhưng thực tế đã không diễn ra như thế. Nó đã không diễn ra chính xác như cô gái hình dung trong suốt những năm, những tháng lầm lũi một mình trong căn bếp của lâu đài. Khi đó cuộc đời trở nên thật tối tăm và lạnh lẽo, ba cô qua đời, hai anh em ở trường đại học quay về dự tang lễ, chị cô định đưa mẹ tới sống ở Cork nhưng không có mẹ ở bên, Rosaleen chẳng còn gì nữa. Cô hứa sẽ chăm sóc bà chu đáo. Jennifer luôn dành cho cô một tình bạn gắn bó, Rosaleen chấp nhận nó trong khi luôn căm ghét cô. Căm ghét mọi thứ cô ấy nói, mọi việc cô ấy làm, căm ghét việc Laurie yêu cô ấy.
Mùa hè năm 1990, Jennifer có thai. Cuộc sống của Rosaleen vỡ tan từng mảnh. Jennifer được gia đình Kilsaney mở rộng vòng tay chào đón. Bà Kilsaney hào hứng dẫn cô đi khoe tủ quần áo, bộ váy cưới, mọi thứ đáng ra phải thuộc về Rosaleen. Jennifer và ba cô được mời ăn tối hàng tuần. Rosaleen nấu ăn cho họ. Cảm giác ê chề đã vượt quá mức có thể bù đắp.
Đứa trẻ ra đời, sớm hơn dự kiến hai tuần, không còn đủ thời gian tới bệnh viện, Rosaleen đã chạy đi giữa đêm khuya để gọi bà xơ già. Một bé gái chào đời. Người ta đặt tên cho cô bé là Tamara, theo tên người mẹ đã qua đời của Jennifer khi cô còn bé xíu. Cặp đôi trẻ vẫn chưa làm đám cưới nhưng vẫn sống trong lâu đài. Rosaleen và Arthur trở thành mẹ và cha đỡ đầu. Lễ rửa tội được tiến hành trong nhà nguyện của lâu đài. Tất cả từng là giấc mơ của Rosaleen. Nhưng cuộc sống ở lâu đài chẳng hề dễ dàng. Gia đình Kilsaney đang gặp khó khăn trong việc duy trì nó, nguồn tiền cạn dần, họ lâm vào cảnh tuyệt vọng. Với ngần ấy căn phòng cần được chăm chút, sưởi ấm, sửa chữa, chi phí là quá lớn. Các thành viên trong gia đình gặp nhau vào bữa tối để bàn bạc về chuyện đó, Rosaleen, như thể nấp trong tường, có thể nghe thấy mọi chuyện.
Có lẽ họ nên mở cửa lâu đài cho công chúng thưởng ngoạn. Cho phép công chúng vào tất cả ngày thứ bảy tới ngắm nghía nhà họ, chụp hình những chiếc bàn viết từ thế kỷ 18 cũng như căn phòng gỗ sồi treo đầy những bức chân dung, rồi tại căn nhà nguyện, hay những lá thư cổ được viết từ nhiều thế hệ trước giữa các quý ông và quý bà, giữa chính khách và những kẻ nổi loạn vào thời kỳ rối ren.
“Không,” nghe đến đó bà Kilsaney thể nào cũng la lên, “Tôi không thể để họ tới thăm chúng ta như thể chúng ta là sở thú được, mà dù thế làm cách nào chúng ta duy trì nổi nơi này đây? Có bán vé hai bảng rưỡi cho mỗi người lớn cũng chẳng đủ để chữa mái, cũng chẳng đủ trả lương cho Paddy hay hóa đơn sưởi.”
Dẫu vậy họ cũng tìm ra một giải pháp. Hai nhà kinh doanh bất động sản Timothy và Geogre Goodwin trên chiếc xe Bentley của họ vào ngày đẹp nhất trong năm, hai người không tin nổi mắt mình khi nhìn thấy khu lãnh địa, phong cảnh, các hồ nước những con hươu và đám gà lôi. Không khác gì một công viên thiên nhiên. Hai vị khách nhìn đâu cũng thấy ra tiền. Timothy Goodwin, một quý ông bảnh bao nhưng cộc cằn bất nhã mặc vest có gi lê với quyển sec nhét trong túi trong ngay lập tức phải lòng khu đất. Geogre Goodwin chỉ dán mắt nhìn Jennifer Bryne. Hôm ấy là ngày hạnh nhất trong đời Rosaleen. Khi phục vụ họ trong bữa tiệc tại phòng ăn lớn, cô không thể không quan sát Geogre Goodwin chỉ dán mắt nhìn Jennifer như thế nào, anh ta kiệm lời với Laurie song lại dành rất nhiều thời gian chơi với đứa bé ra sao. Tất cả mọi người tại bàn đều thấy điều đó, tất nhiên Laurie cũng thấy. Jennifer rất dễ mến nhưng cô tôn thờ Laurie.
Hai vị khách trở lại nhiều lần để đo đạc, để dẫn tới các nhà thầu xây dựng, kiến trúc sư, kỹ sư, chuyên gia đánh giá. Geogre quay lại thường xuyên hơn ba anh ta, sau khi nắm quyền điều hành dự án. Rosaleen nhìn thấy cơ hội giành lại Laurie. Một buổi tối nọ, cô nghe lỏm thấy Geogre hứa hẹn dành cho Jennifer mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Ai cũng bị Jennifer mê hoặc, đó là lỗi của cô ta, cô ta mời gọi quyến rũ, trói buộc người khác trong mạng nhện của mình mà không hề biết đã hủy hoại cuộc sống của bao nhiêu người. Trong khi Jennifer thừa nhận Geogre Goodwin là một người đàn ông vui vẻ và tử tế, cô gái từ chối lời tỏ tình của anh ta.
Nhưng trong mắt Rosaleen thì không phải vậy.
Laurie bắt gặp cô đang khóc sưng cả mắt. Thoạt đầu, cô không chịu nói gì với anh, cô không muốn làm anh bị tổn thương. Đây không phải là chuyện của cô, Jennifer là bạn cô. Nhưng rồi anh dịu dàng gặng hỏi cô khiến cô kể lại những gì cô thấy. Cô cảm thấy khổ sở vì đã gây ra nỗi đau đang biểu hiện trong mắt anh. Đến mức thiếu chút nữa cô đã thu về những lời nói của mình ngay tại đó, ngay lúc đó, nhưng rồi anh cầm lấy tay cô, siết chặt, ôm chầm lấy cô và nói cô luôn là người bạn thật tốt biết bao, và làm thế nào anh đã không nhận ra điều đó nhỉ, phải, làm sao cô có thể rút lại những lời nói của mình ngay lúc đó chứ.
Sau đó là một buổi tối dài, một cuộc tranh cãi thật lâu. Rosaleen để mặc hai người cãi cọ nhau, những lời tự hai người nói ra sau đó còn gây nhiều rạn vỡ hơn những lời của cô. Laurie không nói với Jennifer chính Rosaleen đã nói cho anh biết chuyện. Và cô để mặc Jennifer gục đầu lên vai mình khóc, trong khi dành cho cô ta vài lời khuyên miễn cưỡng. Tối hôm đó, Jennifer ngủ lại ngôi nhà bên cổng. Laurie không muốn cô gái ở gần bên anh nữa. Jennifer tới gặp Rosaleen trong khi cô đang vui vẻ dọn nhà bếp, hài lòng vì cuộc cãi vã mới nhất mình đã khơi mào. Cô ấy tới gặp Rosaleen với một lá thư. Rosaleen đã đọc nó, và cho dù cô hiếm khi khóc, nó đã khiến cô rơi nước mắt. Jennifer muốn nhờ bạn mình đưa lá thư cho Laurie. Cô đã đốt đi. Nhưng đứa bé chập chững bước vào. Con bé trông giống ba đến mức khiến cô bị sốc, cô vẩy vẩy lá thư, lửa tàn và cô ném nó vào sọt rác. Rồi cô bế đứa bé lên và mang trả nó về giường. Sau đó Rosaleen quay về nhà.
Đó chính là đêm xảy ra đám cháy. Cô không thể biết chắc liệu lá thư cháy dở đã gây hỏa hoạn hay không, cho dù người ta nói đám cháy bùng phát từ nhà bếp, và chưa từng ai buộc tội cô. Đứa trẻ được Laurie cứu thoát, rồi sau đó anh quay vào lấy vài thứ có giá trị. Theo những gì Jennifer biết, anh đã chết trong lửa. Laurie không muốn Jennifer chăm sóc cho anh chỉ vì cô ấy buộc phải làm thế, vì như anh hiểu, Geogre Goodwin đã giành được trái tim cô và có thể mang lại cho cô nhiều hơn. Cho dù đây là quyết định của chính anh, một chút thuyết phục từ Rosaleen đã làm Laurie tin rằng đây là quyết định tốt nhất. Anh không thể đem đến gì cho mẹ con cô nữa. Không còn lâu đài, lãnh địa đã bị bán, anh đã mất khả năng điều khiển một cánh tay và một bên chân. Khuôn mặt anh bị bỏng nặng, không nhận ra nổi nữa. Nó trở nên xấu xí như thể anh đang bị thối rữa. Artie phản đối chuyện này. Anh ta không tán thành, song chẳng tài nào thuyết phục được anh trai. Hai người không bao giờ nói chuyện với nhau nữa, cho dù sống cách nhau một con đường.
Suốt nhiều tháng trời, Jennifer đã khóc lóc đau khổ, từ chối không chịu ra khỏi nhà, không chịu sống tiếp. Nhưng người ta cũng chỉ có thể chịu đau khổ nhiều đến thế, nhất là khi có một người đàn ông điển trai thành đạt lịch thiệp gõ cửa nhà cô, mong muốn cứu vớt cô và mang cô đi. Rosaleen lần nữa đứng sau quyết định đó. Cô đã thúc đẩy nó thành hiện thực một cách tuyệt vời. Cô không hề cố ý gây ra hỏa hoạn, không hề có ý làm Laurie khốn khổ bị thương tật như thế, song chuyện đó đã diễn ra và đem lại kết quả có lợi cho cô. Artie dọn đến sống cùng Paddy, hai người cùng chăm lo khu đất. Laurie chuyển tới sống ở ngôi nhà một tầng, nơi Rosaleen có thể chăm lo cả anh và mẹ cô. Anh cảm ơn cô mỗi ngày, nhưng vẫn không thể dành cho cô điều cô mong muốn. Anh không hề yêu cô. Anh trông cậy vào cô để giúp anh sống sót. Khi đó cô mới vỡ lẽ mình chưa bao giờ có được anh theo cách cô muốn. Cô chưa bao giờ trở thành người nhà Kilsaney. Đến khi Paddy chết và Artie sống một mình trong ngôi nhà bên cổng cũng là lúc cô chuyển chú ý sang anh ta, hay đúng hơn là đáp lại sự quan tâm anh ta vẫn dành cho cô kể từ khi cô còn bé con. Rosaleen cuối cùng cũng trở thành một thành viên nhà Kilsaney, cho dù hai người không bao giờ chính thức dùng đến xưng danh đó, và Laurie vẫn hiện diện trong cuộc sống của cô, cần đến cô. Dù sao đi nữa, Rosaleen chưa bao giờ thích vào thị trấn, và ghét phải nghe những câu chuyện ngồi lê đôi mách của cư dân địa phương về những chuyện họ chẳng biết gì. Thời gian duy nhất cô xuất hiện bên ngoài là khi đi dự lễ Misa và bán rau cô trồng. Mọi việc mua sắm khác được thực hiện ở thị trấn xa hơn, nơi chẳng có ai sẽ đặt câu hỏi nào với cô.
Đó là chuyện mười tám năm trước và tất cả đều diễn ra suôn sẻ, không phải hoàn hảo, nhưng thực sự suôn sẻ cho tới khi Geogre Goodwin, can đảm tới cùng, đã bảo vệ lãnh địa Kilsaney và không cho phép nó bị bán đi, đồng thời cũng đảo lộn hết mọi sắp xếp của cô, và đứa trẻ kinh khủng trông quá giống ba nó, đáng ra nên là con của cô đã quay lại bước vào cuộc sống của họ làm mọi thứ rồi tung thêm lần nữa. Tất cả có lẽ yên ổn nếu Jennifer đừng luôn miệng đặt ra câu hỏi, nếu cô ta có thể bình phục để cả cô ta và Tamara có thể tiếp tục trở lại cuộc sống của họ ở Dublin. Nhưng cô ta lại quay ngược lại khoảng thời gian cô ta than khóc Laurie và đắm chìm vào trong cùng cách xử sự. Cô ta đã nhầm lẫn, đã than khóc nhầm người, Rosaleen chỉ cần tài chính của hai mẹ con cô ta được thu xếp xong xuôi để bọn họ rời đi càng sớm càng tốt. Nhưng thực tế đã không diễn ra như thế.
Rosaleen lại cần phải sống sót. Bà không thể chịu nổi phải mất thêm bất cứ điều gì nữa. Bà yêu Laurie hơn mọi thứ trong đời mình, nhưng sự dối trá ông ta buộc bà phải giữ lời đã gây quá nhiều bất hạnh cho quá nhiều người. Bây giờ bà nhận ra thật rõ điều đó. Và bà đã quá mệt mỏi. Mệt mỏi vì tranh đấu cho cuộc hôn nhân của mình, với Arthur tuyệt vời đáng yêu, người chưa bao giờ tán thành quyết định của Laurie cũng như việc Rosaleen sau đó quyết định chấp nhận tham gia vào nó. Người chồng điển trai, tốt bụng và nhẹ nhàng của bà đang bị giằng xé mỗi ngày vì lời dối trá với Jennifer và Tamara, ông xứng đáng được hơn thế. Bà đã quá mệt mỏi với việc phải giữ bí mật, mệt mỏi vì không thể nhìn thẳng vào mắt bất cứ ai trong làng vì sợ họ biết những điều bà đã làm, sợ họ đoán được những gì đang diễn ra trong ngôi nhà một tầng và nhà xưởng, nơi khói bốc lên liên tục cả ngày lẫn đêm. Bà muốn mọi thứ biến mất. Bà muốn ngôi nhà một tầng này, nơi luôn giống như nhà tù với bà, nơi trở thành nhà tù với Laurie và mẹ bà, phải biến mất. Bà sẽ giải thoát cho họ.
Bà thu xếp để chắc chắn mẹ mình được an toàn trước khi quẹt diêm.