Barbara, cô bạn thân nhất của mẹ lái xe chở chúng tôi đến Meath, nơi chúng tôi sẽ bắt đầu cuộc sống mới. Suốt đoạn đường, mẹ chẳng hề nói tiếng nào. Không một tiếng nào. Kể cả khi được hỏi. Giờ thì đến hỏi tôi cũng khó mà mở miệng nổi. Tôi bực dọc đến mức quát thẳng vào mặt mẹ trong xe, lúc ấy tôi còn cố gắng buộc bà phải đáp lời.
Chuyện xảy ra vì Barbara lạc đường. Bộ định hướng bằng vệ tinh trên chiếc BMW X5 của cô không nhận ra được địa chỉ cần tìm cho nên chúng tôi đành lái thẳng về thị trấn gần nhất mà nó có thể chỉ dẫn. Khi đến thị trấn, một nơi có tên gọi Ratoath, Barbara phải lái xe dựa theo óc phán đoán của chính mình thay vì trông cậy vào bộ định hướng trong chiếc SUV. Rõ ràng là đầu óc Barbara cũng chẳng hay hoạt động cho lắm. Sau mười phút lái dọc theo những con đường quê lác đác vài căn nhà và không có bảng chỉ đường, Barbara bắt đầu lo lắng. Chúng tôi đang đi trên những con đường “không tồn tại” theo như lời của bộ định vị vệ tinh. Lẽ ra tôi phải biết đó là điềm báo. Đã quen việc đi tới một nơi có thật chứ không phải dọc theo những con đường vô hình, Barbara bắt đầu mắc lỗi, lao ầm ầm qua những ngã tư, lấn sang phần đường bên kia một cách nguy hiểm. Tôi chỉ đến đây vài ba lần trong nhiều năm trời nên tôi cũng chẳng giúp được gì, nhưng kế hoạch như sau: tôi nhìn về phía bên trái và Barbara nhìn về phía bên phải để tìm những căn nhà ở rìa cổng lâu đài. Barbara có cằn nhằn tôi một lúc vì tôi không tập trung, nhưng nói thật, tôi có thể nhìn thấy là không có cánh cổng nào trong ít nhất một dặm đường, vì vậy có nhìn cũng chẳng để làm gì. Tôi cũng nói với cô như vậy. Đỉnh điểm là cô ấy quát lên “mịa kiếp”, khi thấy rằng chúng tôi đang đi trên “những con đường mịa kiếp không tồn tại”, mà không hiểu tại sao lại không có một “căn nhà mịa kiếp không có cánh cổng mịa kiếp” chứ. Thật lớn chuyện khi nghe từ mịa kiếp thốt ra từ miệng của Barbara, một con người coi vớ vẩn cũng là một từ chửi thề!
Mẹ chắc hẳn đã có thể giúp được chúng tôi nhưng bà chỉ ngồi ở ghế trước, nhìn ra ngoài cửa sổ và mỉm cười. Vì vậy, cố gắng để giải quyết vấn đề, tôi nghiêng người về phía trước và – thôi được rồi, hành động đó không đúng đắn mà cũng chẳng thông minh, nhưng tôi vẫn cứ làm – tôi hét vào tai mẹ, tiếng hét lớn nhất mà cổ họng của tôi có thể gào lên được. Mẹ giật bắn người vì sợ hãi, bịt tai lại và khi cơn sốc trôi qua, mẹ dùng cả hai bàn tay đập mạnh liên hồi vào đầu tôi cứ như tôi là một bầy ong vậy. Tôi bị đau thực sự. Mẹ kéo tóc tôi, cào tôi, tát tôi mà tôi không sao thoát khỏi tay bà. Barbara hốt hoảng tới mức phải dừng xe lại để gỡ tay của mẹ ra khỏi người tôi. Sau đó cô bước ra khỏi xe, đi qua đi lại ven lề đường và òa lên khóc. Tôi cũng khóc, đầu tôi đau nhói ở những nơi bị mẹ kéo tóc và cào cấu. Ở nơi tôi sống, một mái tóc xù ra như đống rơm được coi là thời thượng, nhưng mẹ đã phá hủy nó, mẹ làm tôi trông giống như người vừa mới thoát khỏi trại tâm thần vậy. Chúng tôi để mặc mẹ trong xe, mẹ ngồi thẳng lưng, nhìn thẳng về phía trước với vẻ tức giận.
“Lại đây nào cưng,” Barbara nói giữa hai làn nước mắt, và chìa tay về phía tôi.
Tôi không cần được mời lần thứ hai. Tôi khao khát được ôm vào lòng. Ngay cả khi mẹ còn khỏe, bà cũng không phải là một người ưa ôm ấp. Mẹ gầy nhom, luôn ăn kiêng, mối quan hệ giữa bà và thức ăn chẳng khác gì mối quan hệ giữa bà và ba. Yêu đấy nhưng đa số thời gian thì không cần, bởi mẹ cảm thấy nó không tốt cho sức khỏe; tôi biết điều này bởi vì tình cờ nghe được cuộc trò chuyện giữa mẹ và một người bạn lúc 4 giờ sáng, sau khi quay về từ bữa ăn trưa của các quý bà. Về chuyện ôm ấp, tôi cho rằng chẳng qua mẹ chỉ thấy lúng túng khi có ai đó ở gần sát mình. Mẹ không phải là một người dễ chịu nên bà cũng không thể đem lại sự dễ chịu cho người khác. Cũng như bạn không thể khuyên người khác trừ phi bạn có sẵn những lời khuyên trong đầu. Tôi không cho rằng đó là vì mẹ là người nhẫn tâm. Tôi không bao giờ cảm thấy mẹ là người nhẫn tâm. Ừ thì có lẽ tôi cũng cảm thấy thế vài ba lần gì đó.
Barbara và tôi đứng ở ven đường, ôm chầm lấy nhau và khóc nức nở trong khi cô xin lỗi tôi hết lần này đến lần khác, cô hiểu mọi chuyện thật chẳng công bằng với tôi tí nào. Khi đậu xe, cô để đuôi xe hướng ra đường, do đó mỗi lần có một chiếc xe quẹo cua, chúng tôi lại bị lầm bầm chửi rủa nhưng chúng tôi cứ lờ tịt đi.
Sau đó bầu không khí căng thẳng đã được xoa dịu phần nào, bạn biết chuyện những đám mây đen tụ lại và sau đó trời sẽ mưa rồi đấy. Đó là những gì đã xảy ra với chúng tôi trên đường rời khỏi Killiney. Mọi chuyện tích tụ lại rồi cuối cùng cũng bùng nổ. Vì vậy, cảm thấy mọi người đều có cơ hội để giải tỏa ít nhất một phần thống khổ, chúng tôi chuẩn bị để sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn phía trước. Chỉ có điều chúng tôi không có thời gian vì ngay ở khúc quanh phía trước, chúng tôi đã đến nơi. Tổ ấm thân thương. Phía bên phải có một cái cổng, và ngay bên trong nó về phía bên trái là một căn nhà. Rosaleen và Arthur đang đứng bên cánh cổng nhỏ màu xanh lá cây của căn nhà y như trong truyện Hansel và Gretel, chỉ có Chúa mới biết họ đã chờ ở đó bao lâu. Chúng tôi đến trễ gần cả tiếng đồng hồ. Dẫu họ cố tỏ ra không lo lắng, thì đó cũng là một nhiệm vụ bất khả thi khi họ nhìn thấy khuôn mặt chúng tôi. Không biết đã đến rất gần nhà và không đủ thời gian để sửa soạn, mắt tôi và Barbara đỏ ngầu vì khóc, mẹ ngồi ở ghế trước, mặt sầm lại vì giận còn tóc tôi thì tả tơi – ừ thì tả tơi hơn lúc bình thường.
Tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện Arthur và Rosaleen cảm thấy khó xử thế nào vào lúc ấy. Tôi còn mải suy nghĩ về bản thân và việc tôi không muốn ở đó đến mức nào, tôi chưa một lần nghĩ về cách họ mở cửa dang tay đón chào hai con người chẳng chút liên hệ gì với họ. Chắc là điều đó khiến họ căng thẳng đến mức không tưởng tượng nổi, vậy mà tôi chưa cảm ơn họ được một lần. Barbara và tôi ra khỏi xe. Cô đi vòng xuống cốp xe để soạn hành lý, tôi cho là cô cố ý cho tất cả chúng tôi thời gian để chào hỏi. Chuyện không hề xảy ra như cô mong muốn. Tôi đứng sững đó nhìn Aurthur và Rosaleen vẫn còn đang đứng sau cánh cổng xoay màu xanh lá, thầm tiếc nuối giá như mình đã rải vụn bánh mì suốt dọc đường từ Killiney tới đây để có thể tìm được đường trở về nha.
Rosaleen mắt láo liên trông giống như chú chồn Meerkat, muốn thu hết chiếc SUV, mẹ, tôi và Barbara vào tầm mắt. Mợ đan hai tay vào nhau, nhưng vẫn không ngừng thò tay vuốt nếp váy, cứ như thể mợ đang tham dự cuộc thi hoa khôi trong một hội chợ đồng quê. Mẹ cuối cùng cũng mở cửa và bước ra khỏi xe. Mẹ đặt chân lên nền sỏi và ngẩng mặt lên nhìn căn nhà. Rồi cơn giận của mẹ biến mất và mẹ mỉm cười, để lộ vết son môi dính trên răng cửa.
“Arthur”, bà vươn tay như thể vừa mở rộng cửa nhà mình để chào đón cậu đến dự tiệc tối. Cậu khịt khịt mũi, nước nhầy chui tọt trở vào trong – lần đầu nghe được tiếng động kỳ quái như thế – khiến tôi cong môi ghê tởm. Cậu bước về phía mẹ, mẹ cầm lấy tay cậu và nhìn thẳng vào cậu, đầu nghiêng nghiệng, nụ cười kỳ dị vẫn còn đọng lại trên môi mẹ như một bộ mặt bị phẫu thuật hỏng. Mẹ vụng về nghiêng người về phía trước, áp trán vào trán cậu. Arthur để yên trong khoảng thời gian dài hơn một mili giây so với dự đoán của tôi, sau đó vỗ vỗ vào gáy mẹ và rời khỏi vòng tay bà. Cậu xoa đầu tôi thật mạnh cứ như tôi là con chó săn trung thành của cậu, khiến tóc tôi thêm phần rối bù, rồi đi vòng ra cốp xe giúp Barbara xách túi hành lý. Vì vậy, chỉ còn lại tôi và mẹ nhìn chằm chằm vào Rosaleen, à không, mẹ không hề nhìn chằm chằm vào mợ. Mẹ hít sâu một hơi không khí trong lành, mắt lim dim, miệng mỉm cười. Mặc cho tình cảnh trớ trêu, tôi mơ hồ cảm thấy có lẽ nơi này sẽ đem lại điều tốt đẹp cho mẹ.
Lúc ấy tôi chưa quá lo lắng cho mẹ như bây giờ. Đám tang của ba chỉ vừa một tháng trước, cả hai chúng tôi đều chết lặng và không thể thực sự nói gì nhiều với nhau cũng như bất cứ ai khác về chuyện đau buồn ấy. Mọi người còn mải trò chuyện với chúng tôi, nói những điều tốt đẹp, những câu chuyện nhạt nhẽo hay bất cứ thứ gì họ chợt nghĩ ra trong đầu – bọn họ dường như chờ mong chúng tôi an ủi họ chứ không phải ngược lại. Cũng chính vì vậy, không ai để ý tới hành vi của mẹ. Mẹ chỉ thỉnh thoảng thở dài, nói vài ba câu ậm ừ với tất cả mọi người. Đám tang quả thật cũng giống như một trò chơi, bạn chỉ cần tới cho có mặt, nói đúng lúc và hành động đúng chỗ cho tới khi nó kết thúc. Thân mật nhưng đừng cười nhiều, buồn bã nhưng đừng quá đáng, nếu không tang gia thậm chí sẽ cảm thấy tồi tệ hơn. Tỏ vẻ lạc quan nhưng đừng để bị hiểu lầm là thiếu cảm thông hay xa rời thực tế. Bởi vì nếu ai nấy đều cư xử đúng với lòng mình, sẽ có rất nhiều lời cãi vã, buộc tội, nước mắt, chửi rủa, và gào thét.
Tôi nghĩ rất cần phải có một giải Oscar cho những diễn xuất đời thường. Và giải thưởng Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất phải thuộc về Alison Flanagan! Bởi thứ Hai vừa đây, ung dung đi dọc theo lối đi chính của siêu thị, trang điểm kỹ càng, tóc uống đúng nếp, và dẫu cảm thấy chết điếng trong lòng, cô vẫn đủ sức mỉm cười tươi rói với Sarah và Fiona trong Hội phụ huynh và hành xử như thể chồng cô không hề bỏ rơi cô cùng với ba đứa con! Hãy đến đây và nhận giải thưởng đi, Alison! Giải Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất thuộc về người đàn bà thứ ba mà chồng cô chạy theo, ả ta chỉ đứng cách đó có hai quầy hàng, và phải hấp tấp rời khỏi siêu thị, quên mất không mua hai món đồ cần thiết để làm món mì lasagne ưa thích của tình nhân mới. Nam diễn viên xuất sắc nhất chính là Gregory Thomas, vì tài năng diễn xuất của anh ta trong tang lễ của người cha mà anh ta từng không thèm nói chuyện suốt hai năm trời. Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất thuộc về Leo Mulcahy với vai diễn rể phụ tại lễ thành hôn giữa Simon, người bạn tốt nhất của anh, và người đàn bà duy nhất mà anh yêu thương sâu sắc. Hãy đến và nhận lấy huy chương này, Leo!
Đó là điều mà tôi nghĩ mẹ đã làm, chỉ tham gia cho có với vai trò là một góa phụ tốt, nhưng sau đó, khi hành vi của mẹ không hề thay đổi, khi tôi cảm thấy như mẹ không thực sự biết chuyện gì diễn ra và mẹ cứ ậm ậm ờ ờ và thở dài trong mọi cuộc nói chuyện, tôi đã tự hỏi liệu mẹ có đang làm trò lòe thiên hạ hay không. Tôi vẫn thắc mắc bao nhiêu phần của mẹ thực sự sống với chúng tôi và bao nhiêu phần mẹ chỉ giả vờ để không phải đối diện với sự thật. Bên trong mẹ, có một vết nứt rạn ngay sau cái chết của ba, nhưng khi mọi người không còn dòm ngó đến mẹ và quay trở lại với cuộc sống của họ, vết rạn đó ngày một bành trướng, và dường như chỉ có mình tôi mới có thể nhìn thấy nó.
Không phải ngân hàng đã hành động vô lý khi đột ngột tống chúng tôi ra khỏi nhà. Họ đã thông báo cho ba ngày tịch biên tài sản, nhưng ngoài lời chào tạm biệt, ba đã quên nói lại điều đó cho chúng tôi. Vì vậy, mặc dù họ để chúng tôi ở lại lâu hơn thời gian cho phép, sớm muộn gì chúng tôi cũng phải dọn ra thôi. Mẹ con tôi chuyển tới ở căn hộ nhỏ của người vú em người Philippines, phía sau nhà Barbara, trong một tuần. Đương nhiên, chúng tôi cũng phải tiếp tục rời đi vì Barbara phải tới nghỉ hè ở nhà riêng của họ ở St Tropez, và cô ấy rõ ràng là sợ chúng tôi sẽ ăn cắp các món đồ dùng bằng bạc của mình.
Dẫu lúc ấy mẹ không làm tôi lo lắng như khi chúng tôi lần đầu tiên đến ngôi nhà ở rìa cổng lâu đài này, điều đó không có nghĩa là tôi không quan tâm đến mẹ. Trước khi đến đây, tôi đề nghị mẹ đi khám bác sĩ, trong khi bây giờ tôi nghĩ mẹ nên nhập viện, nơi người ta mặc áo choàng trắng hở mông và lúc lắc đi qua đi lại ngoài hành lang. Tôi nói với Barbara rằng mẹ nên đi khám bệnh. Barbara trịch thượng bắt tôi ngồi xuống trong bếp, nói với tôi rằng chẳng qua mẹ chỉ đang “đau buồn” mà thôi. Vào năm mười sáu tuổi, bạn có thể tưởng tượng ra niềm vui sướng khi lần đầu tiên học được nghĩa của từ đó thế nào rồi đấy. Và sau đó tôi chuẩn bị tinh thần cho những lời an ủi nựng nịu vô bổ. Nhưng Barbara không làm vậy. Thay vào đó, cô ấy nhờ tôi ngồi lên va li để cô ấy kéo khóa đóng lại, bởi vì Lulu, bàn tay toàn năng thu xếp cuộc đời của cô ấy, đã đưa đám trẻ con đi học cưỡi ngựa. Khi ngồi trên chiếc va li Louis Vuitton căng phồng nhét đầy những bộ bikini dọc màu hồng, dép quai vàng và nhựng chiếc mũ lố bịch, tôi đã cầu cho nó sẽ vỡ tung ra trên băng chuyền hành lý ở sân bay St Tropez, để cho món đồ chơi người lớn của cô ấy rớt ra ngoài và rung lên bần bật cho mọi người xem no mắt.
Cứ như vậy, vào ngày đầu tiên trong phần đời còn lại của tôi, chúng tôi đứng bên ngoài căn nhà ở cổng lâu đài, mẹ với đôi mắt lim dim, Rosaleen nhìn chằm chằm vào tôi với đôi mắt xanh biếc mở to hớn hở cùng cái lưỡi hồng nhỏ xíu thỉnh thoảng lại liếm liếm môi, Arthur khịt khịt mũi với Barbara, ám chỉ rằng cậu không muốn cô ấy mang bất kỳ cái túi xách nào, và Barbara, với bộ đồ thể dục thùng thình, dép kẹp và bộ mặt nhìn như một quả cam, quan sát cậu với vẻ hoang mang, có lẽ đang cố hết sức để không nôn ọe trước hành động hít mũi rột rột của cậu. Cô vừa mới đi làm rám da sáng nay mà.
“Jennifer,” Rosaleen cuối cùng đã phá vỡ sự im lặng của chúng tôi. Mẹ mở mắt, mỉm cười rạng rỡ khiến tôi cứ ngỡ mẹ đã nhận ra Rosaleen và biết chính xác mình đang làm gì. Nếu bạn không ở chung suốt từng giây từng phút trong tháng vừa qua với mẹ như tôi, bạn sẽ nghĩ rằng mẹ vẫn ổn. Mẹ lừa bịp khá tốt đấy. “Chào mừng em,” Rosaleen mỉm cười. “Vâng. Cảm ơn chị,” mẹ đã chọn được câu trả lời phù hợp từ vốn từ ít ỏi của mình.
“Vào đi, vào đi nào, vào uống trà thôi,” Rosaleen thúc giục, như thể nếu không uống trà thì chúng tôi sẽ chết vậy.
Tôi không muốn đi theo bọn họ. Tôi không muốn vào trong vì không muốn mọi thứ sẽ bắt đầu. Ý tôi muốn nói đến hiện thực. Không còn nửa nọ nửa kia như khi tổ chức tang lễ hoặc khi ở lại cái tổ chim của Barbara. Đây là một cuộc sống mới và nó phải bắt đầu từ lúc này.
Arthur, Con Tôm Hùm, vội vã đi lướt qua tôi, thoăn thoắt chạy xuôi chạy ngược con đường dẫn qua vườn, tay nặng trĩu túi xách. Cậu khỏe mạnh hơn bề ngoài.
Cốp xe đóng sầm, tôi quay phắt lại nhìn. Barbara lắc lắc chùm chìa khóa xe và nhún nhún đôi chân mang dép kẹp hiệu Louis Vuitton. Đến lúc này tôi mới nhận ra giữa các ngón chân của cô có kẹp bông. Cô ngập ngừng nhìn tôi, trong bầu không khí im lặng nặng nề khi cố tìm cách nói với tôi rằng cô sắp phải rời đi.
“Cháu không biết là cô vừa làm móng chân,” tôi nói để lấp đầy không khí im lặng.
“Ừ”. Cô nhìn xuống và ngoe nguẩy ngón chân như để xác nhận điều đó. Ánh sáng lấp lánh phản chiếu từ đám đá quý khảm trên móng chân cái của cô. Rồi cô nói thêm, “Danielle mời bọn cô đến dự tiệc rượu trên du thuyền của mình vào tối mai.”
Hầu hết mọi người sẽ nghĩ hai câu trên chẳng liên quan gì với nhau, nhưng tôi hiểu ra ngay. Bạn không thể mang giày trên du thuyền của Danielle, do đó không thể để trần ngón chân mà cạnh tranh với đủ loại đá quý lấp lánh khảm lên móng của những quý bà quý cô khác được. Đám phụ nữ đó sẵn sàng đeo cả trang sức vào xương bánh chè nếu đó là phần duy nhất được phô ra trên người họ.
Chúng tôi nhìn nhau trong im lặng. Cô ấy muốn đi đến chết được. Tôi khao khát được đi với cô ấy. Tôi cũng muốn được đi chân không trên bờ biển Địa Trung Hải trong khi Danielle lả lướt giữa đám khách mời, kiêu kỳ cầm một ly martini giữ bộ móng được cắt tỉa theo hình vuông kiểu Pháp, mặc chiếc áo đầm cổ sâu hiệu Cavalli để lộ núm vú sỗ sàng chẳng khác gì trái ô liu nhồi ớt cay trôi nổi trên ly rượu, và trên đầu là chiếc mũ thuyền trưởng đội lệch khiến cô giống như thuyền trưởng Birdseyse giả dạng thành phụ nữ. Tôi muốn tham dự buổi tiệc đó.
“Cháu ở đâu sẽ ổn mà, bé cưng,” cô nói, và tôi cảm nhận sự chân thành trong câu nói của cô. “Ở đây cháu có người nhà.”
Tôi ngập ngừng quay nhìn căn nhà như trong truyện cổ tích Hansel và Gretel và lại chợt muốn òa lên khóc.
“Ôi bé cưng,” cô kêu lên, cảm nhận được cảm xúc của tôi và tiến lại gần tôi với đôi tay dang rộng. Vòng ôm của cô ấy thật tuyệt, toàn thân cô ấy thật dễ chịu. Có lẽ là vậy, hoặc bộ ngực bơm căng của cô ấy vừa vặn đỡ lấy đầu tôi. Tôi siết chặt cô ấy lần nữa và nhắm mắt lại, nhưng cô buông tay sớm hơn tôi muốn và tôi lại rơi tõm trở về hiện thực.
“Được rồi,” cô nhích về phía xe và đặt tay trên nắm đấm cửa. “Cô không muốn làm phiền bọn họ nên cháu hãy nói giùm…” “Mời vào, mời vào,” giọng Rosaleen ngân nga vang lên từ hành lang tối om, ngăn không cho Barbara leo vào trong chiếc xe jeep. “Xin chào,” Rosaleen bước ra cửa. “Cô không vào uống tách trà sao? Xin lỗi vì không biết tên cô, Jennifer không nói gì với tôi cả.”
Mợ phải làm quen với việc đó thôi. Jennifer sẽ không nói rất nhiều thứ.
“Barbara,” Barbara trả lời, và tôi nhận thấy cô siết chặt nắm đấm cửa xe.
“Barbara,” đôi mắt xanh như mắt mèo của Rosaleen lóe lên. “Uống tách trà rồi hẵng lên đường nhé, Barbara? Có bánh mới nướng và mứt dâu nhà làm đó.”
Nụ cười đông cứng trên khuôn mặt Barbara trong khi cô cố nghĩ cách thoát thân.
“Cô ấy không vào được đâu,” tôi trả lời thay. Barbara nhìn tôi đầy vẻ biết ơn, có đôi chút hối lỗi.
“Ồ,” Rosaleen nhìn tôi, mặt xịu xuống, như thể tôi vừa làm hỏng bữa tiệc trà của mợ vậy.
“Cô ấy phải về nhà rửa sạch lớp rám nắng giả,” tôi thêm vào. Tôi đã nói rồi. Tôi là đứa tệ kinh khủng, đối với tôi, dẫu tôi chẳng dính dáng gì với Barbara và cô ấy phải quay về với cuộc sống của chính mình, cô ấy vẫn có tội là đã bỏ rơi tơi ở lại. Tôi trách móc ba mẹ. “Với lại móng chân cô ấy vẫn còn ướt sơn.” Tôi nhún vai.
“Ồ,” Rosaleen ngơ ngác cứ như tôi đang nói ngôn ngữ Celtic Tiger cổ xưa vậy. “Vậy cà phê nhé?”
Tôi phá lên cười, Rosaleen lộ vẻ tự ái. Tôi nghe tiếng dép kẹp của Barbara vang lên phía sau, cô ấy đi ngang qua mà chẳng thèm nhìn tôi. Để yên có phải tôi sẽ giúp cô ấy bỏ đi dễ dàng hơn không. Bên cạnh Rosaleen, ngay cả trong bộ đồ thể thao nhưng, với đôi tông và cái cổ dính đầy lớp rám nắng giả, Barbara vẫn trông giống như một nữ thần diễm lệ. Và rồi cô ấy bị hút vào trong nhà, giống như cây bẫy ruồi Venus đớp lấy một con bướm vậy.
Mặc cho ánh mắt trông đợi của Rosaleen, tôi vẫn không tài nào bước được chân vào nhà.
“Cháu đi xem loanh quanh chút,” tôi nói.
Mợ lộ vẻ thất vọng, như thể tôi từ chối cho mợ một thứ gì quý giá lắm vậy. Tôi đợi mợ quay vào trong nhà, biến mất trong bóng tối của hành lang chẳng khác gì một không gian khác, nhưng mợ không hề nhúc nhích. Mợ đứng ở hàng hiên, quan sát tôi và tôi nhận ra mình phải bỏ đi trước. Với đôi mắt của mợ dán chặt vào tôi, tôi nhìn quanh. Đi đường nào bây giờ. Bên trái tôi là căn nhà, đằng sau tôi là cánh cổng mở dẫn ra đường chính, trước mặt tôi toàn cây là cây, còn bên phải là một con đường nhỏ dẫn vào hàng cây râm mát. Tôi bắt đầu đi bộ ra đường chính. Tôi không ngoảnh lại dù chỉ một lần, tôi không biết mợ có còn đứng đó nhìn theo hay không. Tuy nhiên, đi càng xa và khi ngôi nhà khuất sau lưng, tôi càng cảm thấy không chỉ Rosaleen đang nhìn mình. Tôi cảm thấy như bị lột trần, như thể có ai đó bên ngoài hàng cây um tùm đang theo dõi tôi. Cảm giác như khi bạn xâm nhập vào thế giới tự nhiên, khi bạn ở nơi mình không nên ở, không có ai chào đón. Hàng cây ven đường nhất loạt quay đầu nhìn tôi.
Nếu có đám đàn ông mặc áo giáp vung vẩy gươm giáo phi ngựa về phía tôi, điều đó cũng chẳng có gì là kỳ lạ. Nơi này thấm đẫm lịch sử, chen chúc những bóng ma của quá khứ, giờ đây tới phiên tôi, chỉ là thêm một kẻ khác sắp bắt đầu câu chuyện của mình. Hàng cây đã nhìn thấy tất cả, nhưng tôi vẫn thu hút được sự chú ý của chúng và khi làn gió mùa hạ nhẹ nhàng lướt qua, lá cây thì thầm xào xạc như những đôi môi lắm chuyện, hăng hái dõi theo cuộc hành trình của một thế hệ mới.
Tôi đi dọc theo con đường chính và cuối cùng, hàng cây, được trồng tỉa khéo léo để che giấu tòa lâu đài, cũng lùi lại phía sau. Dẫu tôi mới là người đang đi về phía trước, tòa lâu đài hiện ra trước mặt tôi một cách hết sức đột ngột, cứ như nó bất ngờ lẻn đến trước tôi mà tôi chẳng hề biết, một đống gạch đá rón ra rón rén bước đi với ngón tay đặt trên môi, như thể mấy trăm năm nay chưa từng được đùa giỡn tí nào vậy. Tôi đứng lại khi tòa lâu đài hiện ra trong tầm mắt. Tôi bé nhỏ đứng trước tòa lâu đài đồ sộ. Đối với tôi, nó có vẻ độc đoán và oai vệ giống một tòa phế tích hơn là một tòa lâu đài, bởi vì nó phơi bày trước mắt tôi những vết sứt sẹo đẫm máu từ những trận chiến. Và tôi cũng vậy, đứng trước nó, tôi cảm thấy mình chỉ còn là một cái bóng của tôi trước đây, với những vết sẹo phơi bày. Chúng tôi ngay lập tức cảm thấy gắn bó với nhau.
Chúng tôi quan sát nhau, rồi tôi đi thẳng về phía nó mà nó không thèm chớp mắt đến một lần.
Mặc dù có thể đi vào lâu đài thông qua lỗ hổng ở bức tường bên hông, tôi cảm thấy có lẽ sẽ lễ phép hơn nếu đi vào theo cái lối từng là cửa chính, giờ chỉ còn là một vết táp nham nhở của cuộc đời. Tôi không biết mình cần giữ lễ phép với ai, nhưng tôi đang cố lấy lòng tòa lâu đài. Tôi dừng một chút ở cửa, tỏ vẻ tôn trọng, rồi bước vào bên trong. Có rất nhiều cỏ dại, rất nhiều gạch vụn. Bên trong các bức tường, bầu không khí yên tĩnh lạ thường, khiến tôi cảm thấy như mình đang xâm nhập vào nhà người ta. Cỏ dại, bồ công anh, cây tầm ma, tất cả dừng việc đang làm lại để ngẩng đầu lên. Không biết tại sao, tôi chợt òa khóc.
Cũng như cái cảm giác buồn cho con nhặng xanh, tôi cảm thấy tiếc thương cho tòa lâu đài, nhưng trên thực tế, tôi nghĩ rằng tôi có những cảm xúc đó chủ yếu là vì tôi đang tự thương thân mình. Tôi cảm thấy như tôi có thể nghe thấy tiếng kêu van rên rỉ của tòa lâu đài khi nó bị bỏ lại, sụp đổ, xuống cấp trong khi hàng cây xung quanh vẫn không ngừng vươn cao. Tôi bước tới gần một bức tường, những tảng đá thô kệch, to đùng, tôi có thể tưởng tượng được những đôi bàn tay khiêng hoặc bị buộc phải khiêng chúng mạnh mẽ đến mức nào. Tôi ngồi thụp xuống góc, áp tai vào tường đá rồi nhắm mắt lại. Tôi không biết mình đang lắng nghe cái gì, tôi không biết mình đang làm cái gì, an ủi một bức tường chăng? Nhưng dù gì tôi vẫn cứ tiếp tục hành động của mình.
Nếu tôi kể những gì mình đang làm cho Zoey và Laura nghe, tụi nó sẽ tống tôi đến ngay ngôi nhà thời trang của đám người mặc áo choàng hở mông, nhưng chẳng hiểu sao tôi lại cảm thấy mình hòa nhịp với tòa nhà này. Tôi không biết, có lẽ bởi vì tôi đã mất đi căn nhà của mình, vì vậy, khi đi ngang qua tòa nhà vô chủ, tôi muốn chiếm hữu nó. Hoặc có lẽ khi người ta cô đơn, họ sẽ bám víu vào bất cứ thứ gì để không cảm thấy cô đơn nữa. Đối với tôi, thứ gì đó chính là tòa nhà này.
Tôi không biết mình đã ở đó bao lâu, nhưng mặt trời đã khuất sau rặng cây, rắc ánh vàng lấp lánh lên tòa lâu đài mỗi lần tán cây xào xạc. Tôi dõi mắt nhìn hồi lâu, tới khi tôi để ý thấy xung quanh đã chìm vào bóng tối nhá nhem. Bây giờ chắc khoảng mười giờ tối.
Chân tôi tê rần vì ở nguyên một tư thế quá lâu, tôi từ từ đứng dậy. Qua khóe mắt, tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một cái gì đó đang di chuyển. Một bóng đen. Một bóng người. Không phải một con vật, nhưng nó nhảy vọt qua. Tôi không chắc lắm. Không muốn bất cứ thứ gì hoặc bất cứ ai lẻn đến từ phía sau, tôi quay lưng ra lối vào rồi nhanh chóng lùi lại. Tôi nghe thấy một tiếng động khác, một con cú, một con chim hay một con gì đó kêu quác một tiếng, tôi nhảy dựng sợ hãi và chuẩn bị bỏ chạy. Không thể nhìn thấy mặt đất dưới lớp cỏ dại um tùm, tôi vấp phải một tảng đá và ngã bật ngửa ra sau. Đầu va phải thứ gì đó, tôi rên rỉ, và tôi có thể nghe thấy nỗi sợ hãi trong giọng nói của mình, tôi lại ngã vào một đám cỏ dại um tùm kinh tởm, có trời mới biết có thứ gì đang sống trong đó. Mắt tôi hoa lên, những đốm đen xuất hiện trên mái nhà bị tàn phá hằn lên bầu trời tím thẩm. Tôi co chân, dùng tay đẩy người đứng dậy, đám sỏi đá vụn cứa vào da tôi, tôi không dám nhìn lại mà cứ co giò chạy với tốc độ nhanh nhất mà đôi bốt Uggs có thể chịu nổi. Sau một thời gian dài như vô tận tôi mới nhìn thấy căn nhà, cứ như thể con đường và cây cối âm mưu chống lại tôi, khiến tôi chẳng khác gì con chuột chạy trên guồng xoay vậy.
Cuối cùng ngôi nhà cũng hiện ra trước mắt. Chiếc SUV của Barbara đã đi mất, tôi biết mình đã hoàn toàn bị cắt đứt với thế giới. Chiếc cầu treo đã được cất lên. Gần như ngay khi ngôi nhà hiện ra trong tầm mắt, cửa trước mở ra và Rosaleen đứng đó nhìn tôi, như thể mợ đã đứng sẵn kể từ giây phút tôi rời đi.
“Vào đi, vào đi,” mợ thúc giục.
Cuối cùng tôi cũng đặt chân lên ngưỡng cửa và bước vào cuộc sống mới của mình, bắt đầu một khởi đầu mới. Đôi bốt Ugg màu hồng sạch sẽ một thời của tôi giờ đã lấm lem sau chuyến viếng thăm lâu đài, và trông chúng càng bẩn thỉu hơn khi giẫm lên hành lang lát đá. Ngôi nhà chìm trong bầu không khí im lặng đầy chết chóc.
“Để mợ xem nào,” Rosaleen lên tiếng, giữ chặt cổ tay tôi và bước lùi lại để quan sát tôi từ đầu đến chân. Nhưng rồi một lần, hai lần, ba lần… Tôi giật tay ra, vòng tay của mợ bất giác siết chặt hơn, nhưng khi mợ nhận ra mình đang luống cuống, hoặc cũng có thể là do sắc mặt tôi thay đổi, mợ đành chịu buông tay.
Giọng nói của mợ ngọt ngào hơn. “Mợ sẽ vá lại cho cháu. Để chúng trong giỏ kế bên ghế bành trong phòng khách nhé.”
“Vá cái gì ạ?”
“Quần cháu.”
“Đó là quần jean mà. Nó phải trông rách rưới một chút.” Tôi nhìn xuống chiếc quần jean te tua của mình, nó tơi tả đến mức chẳng có chỗ nào lành lặn cả. Chiếc quần lót đốm hồng của tôi lờ mờ ẩn hiện sau lớp vải jean, đó là lý do phải có những vết rách. “Nhưng nó không cần bẩn thế này.”
“Ồ. Vậy thì cháu để nó trong giỏ ở nhà bếp vậy.”
“Mợ có nhiều giỏ thật.”
“Chỉ có hai thôi.”
Tôi không chắc mình vừa nói đùa hay châm biếm khéo léo, nhưng dù sao thì mợ cũng chẳng hiểu.
“Được rồi. Cháu về phòng đây…” Tôi chờ mợ chỉ đường nhưng mợ chỉ nhìn chằm chằm vào tôi. “Phòng cháu đâu mợ?”
“Một tách trà nhé? Mợ làm bánh táo đấy.” Giọng mợ như van vỉ.
“Ồ, không cảm ơn, cháu không đói lắm.” Tôi cảm thấy dạ dày mình sôi lên phản ứng, hy vọng mợ không nghe thấy.
“Đương nhiên rồi. Đương nhiên là cháu không đói lắm.” Mợ tự trách mình.
“Phòng cháu đâu ạ?”
“Trên lầu, cánh cửa thứ hai bên trái. Mẹ cháu ở phòng cuối cùng bên phải.”
“Được rồi, cháu sẽ vào thăm mẹ.” Tôi bắt đầu đi lên lầu.
“Thôi nào bé con,” Rosaleen vội can. “Để mẹ một mình đi. Mẹ cháu đang nghỉ ngơi.”
“Cháu chỉ muốn nói chúc ngủ ngon thôi,” tôi mỉm cười miễn cưỡng.
“Không, không, cháu nên để mẹ cháu yên,” mợ kiên quyết.
Tôi nuốt nước bọt, “Được rồi.”
Tôi từ từ lùi lại rồi đi lên cầu thang, từng bậc từng bậc kêu cót két dưới chân. Từ chiếu nghỉ, tôi có thể nhìn thấy hành lang, Rosaleen vẫn đứng đó nhìn theo tôi. Tôi cười gượng rồi bước vào phòng, đóng chặt cửa lại, dựa người vào nó, tim đập thình thịch.
Tôi đứng đó khoảng năm phút, chỉ nhìn lướt qua căn phòng, biết mình sẽ có đủ thời gian để làm quen với nơi ở mới, nhưng trước tiên, tôi cần phải nhìn thấy mẹ. Từ từ mở cửa, tôi ló đầu ra ngoài và nhìn qua ban công xuống hành lang bên dưới. Rosaleen đã bỏ đi. Tôi mở cửa rộng hơn và bước ra ngoài. Tôi nhảy dựng. Mợ đứng ngay bên ngoài cửa phòng mẹ, cứ như một chú chó giữ nhà.
“Mợ vừa vào thăm mẹ cháu,” mợ thì thầm, đôi mắt xanh lấp lánh sáng. “Mẹ cháu đang ngủ. Tốt nhất cháu hãy đi nghỉ ngơi đi.”
Tôi ghét bị ra lệnh, tôi chưa bao giờ làm việc mình bị sai khiến, nhưng có gì đó trong giọng của Rosaleen, trong ánh mắt của mợ, trong cảm giác về ngôi nhà và cách mợ đứng nói cho tôi biết lúc này tôi không có quyền phản kháng. Tôi quay trở lại phòng, đóng cửa lại, không nói tiếng nào.
Khuya hôm đó, khi bên trong và bên ngoài căn nhà im phăng phắc và tối om om, không thể nhìn thấy rõ bất cứ thứ gì, tôi chợt tỉnh dậy, cảm thấy có ai đó ở trong phòng. Tôi nghe thấy tiếng thở ở phía đầu giường và ngửi thấy mùi xà phòng oải hương quen thuộc, vì vậy tôi nhắm tịt mắt giả vờ ngủ. Tôi không biết Rosaleen đứng đó nhìn tôi bao lâu, nhưng tôi cảm thấy thời gian như kéo dài vô tận. Ngay cả sau khi nghe tiếng mợ rời khỏi phòng và cánh cửa nhẹ nhàng khép lại, tôi vẫn nhắm chặt mắt, tim đập thình thịch đến mức tôi sợ rằng mợ có thể nghe thấy, cho đến khi cuối cùng tôi cũng chìm vào giấc ngủ.