Những Kẻ Xuất Chúng

Tài năng hay Cơ hội?



Tiếp nối thành công của hai cuốn sách thuộc dạng tư duy mới đột phá là Điểm bùng phát (Tipping Point) và Trong chớp mắt (Blink) liên tục được xếp trong số các sách bán chạy nhất tại Mỹ trong vài năm qua, Malcolm Gladwell vừa cho ra mắt cuốn sách mới nhất của ông mang tên Outliers mà chúng tôi đặt tên là Những kẻ xuất chúng. Cuốn sách là một cách nhìn, khám phá mới mẻ về thành công của những con người phi thường trên thế giới. Nhân việc xuất bản cuốn sách này, và theo lối tư duy của tác giả trong cuốn sách, chúng tôi cũng muốn bàn về “những kẻ xuất chúng”, hay là những bước ngoặt, những sự kiện có thể tiên đoán được… ở Việt Nam

1/ Malcolm Gladwell là một trong những học giả hàng đầu thế giới hiện nay. Ông là cựu phóng viên của tờ Washington Post và The New Yorker. Năm 2005, ông được tạp chí Time bầu chọn là một trong 100 tác giả có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Hiện nay, Malcolm Gladwell còn đứng trong top 25 diễn giả được trả tiền cao nhất thế giới.

Outliers là một thuật ngữ toán học chỉ những điểm bên ngoài đường thẳng/người nằm ngoài/điểm nằm ngoài và có thể gọi là điểm kỳ dị; nhưng ở đây tôi muốn dùng là Những kẻ xuất chúng, để mô tả những con người có thành công vượt bậc, hơn hẳn người khác. Vậy những thành công đó do đâu? Cuốn sách này nói về nguồn gốc của thành công, nhưng theo một cách tiếp cận hoàn toàn mới lạ: không chỉ nói về thành công đơn thuần mà còn đề cập đến thất bại như một cách giải thích cho thành công. Trong lòng cuốn sách không chỉ chật kín tên tuổi của những người thành công và nổi tiếng như tỉ phú phần mềm Bill Gates, luật sư lừng danh phố Wall Joe Flom, ban nhạc huyền thoại The Beatles… mà còn thấp thoáng tên tuổi của những người cực thông minh nhưng lại thất bại như ông chủ trại ngựa Christopher Langan.

2/ Đã có quá nhiều tác phẩm viết về nguồn gốc của thành công, về ánh hào quang của những người nổi tiếng. “Câu chuyện lúc nào cũng y nguyên một kiểu: người hùng của chúng ta được sinh ra trong những hoàn cảnh gieo neo, nhờ có những nỗ lực bền bỉ và tài năng mà tìm được con đường đi đến sự vĩ đại.” Malcom Gladwell không hoàn toàn phủ nhận những lập luận kiểu đó. Thậm chí, ở chương 1 và chương 2 ông tiếp tục nhấn mạnh hơn nữa vai trò của ý chí và nghị lực, của đức tính siêng năng và cần cù rèn luyện đối với thành công. Nhưng tiếp sau, ông không đi theo tư duy lối mòn đó nữa. Trong chương 3 và chương 4, ông tiếp cận thành công bằng cách lần tìm đến cội nguồn của thất bại, tương tự việc sử dụng phương pháp phản chứng trong toán học vậy. Ông cố gắng lý giải tại sao người này thất bại, còn người khác lại không bằng những lập luận logic về “điều kiện cần và đủ của thành công”, rồi sau đó đưa ra những minh chứng thật sinh động về các mối phiền phức xảy ra với một nhân tài.

Trong cuốn sách, Malcolm Gladwell liệt kê 75 người giàu nhất trong lịch sử vài nghìn năm của thế giới. Từ Pharaoh Amenophis III của Ai Cập cổ đại, Nữ hoàng Cleopatra đến Marcus Licinius Crassus, Nguyên lão La Mã cổ đại; từ Bill Gates đến Warren Buffett của thời hiện đại… Nhưng câu hỏi đặt ra là tại sao trong 75 người giàu nhất thế giới ấy có tới 12 người (gần 20%) là công dân Mỹ sinh vào thập niên 1830 như: Vua dầu mỏ Rockefeller − 1939, Vua thép Andrew Carnegie 1835, Jay Gould – 1836; trùm ngân hàng J. P Morgan − 1837… Tiếp nữa, Gladwell nhận thấy những nhà lãnh đạo ngành IT thế giới đều sinh trong những năm 1955-1956. Bill Gates – 28/10/1955, Steve Jobs – 24/1/1955, Steve Balmer, Chủ tịch hiện nay của Microsoft – 24/3/1956, Paul Allen, người cùng sáng lập Microsoft với Bill Gates − 21/1/1953; Eric Schmith, CEO Google – 27/4/1955…?

Bạn có đoán được lý do tại sao rất nhiều người xuất chúng lại sinh ra vào thời điểm đó không? Khác với những cách lý giải nguyên nhân thành công đã từng được nhiều người đưa ra, Gladwell lần lại lịch sử và nhận thấy nhiều mốc biến chuyển lịch sử có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của những người này. Đối với nước Mỹ, cuộc cách mạng công nghiệp − có lẽ cũng là sự chuyển đổi vĩ đại nhất trong lịch sử đất nước này − với hàng loạt những sự kiện rúng động như: thiết lập đường xe lửa từ Đông sang Tây, tìm ra mỏ dầu ở Texas, phố Wall hình thành… diễn ra trong thập niên 1860-1870. Và những người biết chộp lấy cơ hội này để làm giàu cần phải ở độ tuổi 30 vì nếu bạn sinh ra vào thập niên 1840, tính đến 1860 bạn mới ngoài 20 tuổi, có nghĩa là còn quá trẻ, không đủ trưởng thành, không đủ kinh nghiệm, quan hệ để chộp được cơ hội có một không hai đó. Còn nếu bạn sinh trong thập niên 1820, tính đến những năm 1860-70, bạn đã chừng 40 tuổi, tư tưởng của bạn đã đóng khung theo môtip tư duy của thời kỳ trước Nội Chiến. Hơn nữa, lúc đó bạn đã quá già để có thể dám chấp nhận mạo hiểm.

Tương tự như vậy, cũng không quá khó để tìm ra nguyên nhân cho sự thành công của những người xuất chúng trong ngành IT, dù có hơi khác biệt so với trường hợp kể trên. Malcolm Gladwell cho rằng sự kiện cách mạng trong ngành IT thế giới xảy ra vào tháng 1/1975, khi tạp chí Popular Electronic thông báo việc ra đời chiếc máy kỳ diệu Altair 8800, mở đầu kỷ nguyên máy tính điện tử cá nhân. Vậy vào tháng 1/1975, thế hệ nào có điều kiện tốt nhất để được hưởng lợi từ cơ hội này? Đó chắc chắn không thể là những người đã 30 hay 40 tuổi. Khi đó có lẽ họ đang giữ vị trí kha khá ở IBM hay đâu đó, họ không đủ dũng cảm và mạo hiểm để rời bỏ vị trí và chộp lấy cơ hội mới. Tư duy của họ cũng không đủ “trắng tinh” để lĩnh hội những công nghệ mới mẻ. Cũng không thể là những học sinh trung học vì họ chưa đủ khả năng để làm được việc gì đó cho bản thân. Và Gladwell cho rằng, độ tuổi tốt nhất cho cơ hội này là khoảng 20 tuổi. Đó chính là lứa Bill Gates, Steve Jobs, Steve Balmer, Paul Allen, Eric Schmith…

3/ Theo Malcom, “Những người thành công trông có vẻ tự thân làm lụng mọi điều. Nhưng trên thực tế, họ luôn vẫn là kẻ thụ hưởng những lợi thế ẩn giấu và cơ may phi thường cũng như những di sản văn hóa cho phép họ học hành, làm việc chăm chỉ và nhìn nhận thế giới bằng cách thức mà kẻ khác không thể.”

Năm chương cuối của cuốn sách, Malcom dành để bàn về các cơ hội và di sản văn hóa – hai nhân tố nền tảng quyết định khả năng thành công của một nhân tài. Trong cuộc đời của mỗi con người đều tàng chứa những cơ hội “trời cho”. Những chúng ta đâu có sống một mình trong chân không mà sống cùng với bao nhiêu đồng loại, với những vận hội của đất nước, của thời đại. Ai có khả năng nhận diện được những cơ may, vận hội đó, nắm bắt và tận dụng được chúng thì người đó sẽ có nhiều khả năng thành công hơn. Nhưng người thành công không chỉ ngồi chờ cơ hội mà họ thường chủ động tạo ra những cơ chế thuận lợi để đạt được mục đích của mình. Nhân định thắng thiên, thời thế tạo anh hùng nhưng chính anh hùng cũng góp phần tạo nên và xoay chuyển thời thế.

Kế thừa các di sản văn hóa, phát huy truyền thống của gia đình, chủng tộc, dân tộc là yếu tố quan trọng thứ hai quyết định sự thành công. Người châu Á nói chung thường giỏi toán vì từ khi còn bé tí, họ đã phải thức khuya, dậy sớm; phải tính toán thời tiết, mùa vụ, đong đếm từng hạt lúa, củ khoai để sinh nhai. Người Do Thái làm rạng danh dân tộc của mình vì quá khứ đau thương thôi thúc họ phải thành công để tồn tại và phát triển.

Gladwell đưa ra một nhận xét khá khác thường nữa rằng thông minh xuất chúng đôi khi lại là một nhược điểm, quá thông minh bạn sẽ không có cơ hội để thành công. Thật kỳ cục! Nhưng thực tế đã minh chứng như vậy. Những người thông minh nhất thường luôn tính toán, lường tước được mọi tình huống, cơ hội cũng như rủi ro có thể xảy ra; họ sẽ không dám mạo hiểm nắm lấy các cơ hội lớn trước mắt, đồng nghĩa với việc họ không thể có được những thành công vượt trội. Gladwell phát hiện rằng không ai trong số những người được đánh giá là có chỉ số IQ cao nhất lại làm nên những thành công lớn lao. Dường như họ đều biến mất khi trưởng thành chỉ vì họ quá thông minh để có thể thành công. Ví dụ điển hình là Chris Langan, được mệnh danh là người thông minh nhất nước Mỹ với chỉ số IQ 195, tham gia cuộc chơi Đấu trường 100. Chris Langan đã đầu hàng, chọn dừng cuộc chơi khi đạt được mức thưởng 250.000 đô-la… vì không dám mạo hiểm ở câu hỏi tiếp theo. Nếu đã đến 250.000 đô-la rồi mà bỏ cuộc thì làm sao có thể giành được 1 triệu đô-la? Trong khi đã từng có 3 người đạt được mức 1 triệu đô-la và chắc chắn chỉ số IQ của họ không cao bằng Langan. Nhiều học giả Mỹ cũng đã tổng kết rằng, những nhân vật thông minh nhất không thể trở thành Tổng thống Mỹ. Gladwell đã thống kê và chứng minh những người đoạt giải Nobel danh giá cũng thường không phải là những người thông minh nhất khi còn bé… Chúng ta cũng dễ dàng quan sát được hiện tượng này trong lòng xã hội Việt Nam: Không hiếm gặp các thần đồng tuổi nhỏ, nhưng khi lớn lên hầu như rất ít người thành danh, dường như họ đã biến mất không dấu vết.

4/ Một nguyên tắc nữa để thành công là phải kiên trì rèn luyện: không ai thành công mà không phải trải qua 10.000 giờ luyện tập. Hãy xem xét cường độ làm việc của những người xuất chúng như Bill Gates, ban nhạc The Beatle hay gần đây là Michael Jackson, bạn sẽ hiểu về nguyên lý Khổ Luyện Thành Tài. Cũng đáng suy nghĩ về con số 10.000 giờ luyện tập mà tác giả cuốn sách đưa ra. Mỗi năm mỗi người chỉ làm việc 300 ngày là cùng. Mỗi ngày một người làm việc nhiều là 8 giờ, nhưng gọi là làm việc thực sự có lẽ chỉ khoảng 3-4 giờ. 10.000 giờ như vậy tương đương với trên 8 năm, và thông thường là 10 năm rèn luyện. Đó là câu chuyện về những nghệ sĩ, nhạc sĩ tài danh…

5/ Dựa trên cách phân tích của Malcolm Gladwell, tham chiếu bối cảnh xã hội và những thế hệ người Việt Nam sẽ thấy nhiều điểm tương đồng thú vị. Về kinh doanh, giai đoạn cải cách của Việt Nam diễn ra khoảng 1986-1989 với dấu mốc chính là năm 1989. Nếu theo Gladwell, để “chộp” được cơ hội cải cách/mở cửa, phải là những tay tầm 30 tuổi (tức là sinh vào năm 1955-1960), vì tuổi đó mới có đủ nền tảng/cơ sở để tận dụng được cơ hội làm giàu. Trong khi, những kẻ mới ngoài 20 còn nhỏ quá, vừa ra trường, chưa đủ kinh nghiệm, kỹ năng, quan hệ, vốn liếng… Những người 35-40 tuổi thì có thể quá già để dám mạo hiểm, dám bỏ vị trí tốt hiện tại… Và thực tế là rất nhiều CEO/Chủ tịch các Tập đoàn lớn tại Việt Nam sinh ra trong thời gian đó như Trương Gia Bình, Chủ tịch HĐQT FPT sinh năm 1956; Lê Quang Tiến, Phó chủ tịch FPT − 1958; Bùi Quang Ngọc, Phó chủ tịch FPT − 1956; Lê Văn Quang − Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Thuỷ sản Minh Phú − 1958; Trần Kim Thành, Công ty cổ phần Kinh Đô, 1960, Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai − 1962, Trần Đình Long − Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hòa Phát – 1961, Đặng Văn Thành − Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín − 1960 …

6/ Về khoa học, giới học giả Việt Nam lâu nay vẫn bị chê là hiếm có các bài báo/công trình nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí khoa học quốc tế, trong khi nhìn sang những nước láng giềng như Thái Lan, Malaysia, Singapore số lượng này nhiều hơn hẳn. Đó không phải do lỗi của các học giả Việt Nam. Nếu một người thông minh, yêu khoa học, nhưng không được tiếp xúc máy tính từ cấp 2, cấp 3, không được tiếp cận nguồn thông tin mới mẻ, hiện đại của thế giới (sách khoa học, tạp chí, Internet…) và ngoại ngữ không đủ tốt để đọc các tài liệu tiếng nước ngoài ngay khi còn là sinh viên; thì đừng hòng chen chân được vào làng khoa học thế giới. Ví dụ thế hệ chúng tôi: được tiếp xúc với máy tính lần đầu tiên là quãng 1992-1993, bắt đầu học tiếng Anh vào khoảng năm 1990… lần đầu tiếp cận Internet khoảng 1997, và những người khá nhất cũng chỉ có thể tiếp cận các tạp chí quốc tế đầu tiên vào những năm 1995- 1996!

Quả thực trong số các nhà khoa học của Việt Nam rất ít người có khả năng viết các bài báo, công trình đăng tạp chí quốc tế, không có mấy cơ hội để trở thành nhà khoa học “có tầm vóc quốc tế”, ngoại trừ vài trường hợp cá biệt như Ngô Bảo Châu được ra nước ngoài sớm, được tiếp cận sớm với ngoại ngữ/tri thức mới, tiên tiến… Và như vậy, theo quan điểm của chúng tôi, lứa người Việt Nam đầu tiên có đủ điều kiện trở thành nhà khoa học tầm vóc khu vực hay thế giới ít nhất phải sinh vào những năm 1980-1985. Họ sẽ chỉ đạt đến trình độ cao vào khoảng 35-40 tuổi. Như vậy, đến những năm 2015-2020, các bài báo khoa học của Việt Nam may ra mới lần lượt được xuất hiện trên trường quốc tế.

Trên cơ sở như vậy, chúng tôi cũng suy luận về lứa doanh nhân tầm vóc châu lục và quốc tế đầu tiên của Việt Nam. Lần lại lịch sử, dấu mốc quan trọng cho hội nhập quốc tế của nước ta là 1997-2007 khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ và gia nhập WTO. Theo cách suy luận của Gladwell, thế hệ bắt đầu bước chân vào đại học lúc này mới có cơ hội hình thành tư duy mới. Và để những người này thành công, đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp kinh doanh phải là những năm 45-50 tuổi, tức là những năm 2020-2025, Việt Nam mới có thể xuất hiện những tỷ phú, những thương hiệu tầm vóc khu vực.

7/ Vượt lên trên tất cả những điều đã nói ở trên, trong Phần kết, Malcom Gladwell còn muốn đưa vào tác phẩm của mình một triết lý nhân văn sâu sắc: Con người ta không có ai ngu dốt, hơn kém nhau chỉ ở chỗ có hay không có cơ hội mà thôi. Malcom hiểu rất sâu sắc khái niệm chỉ số phát triển con người (HDI): Ở một quốc gia, chỉ số này cao hay thấp, suy đến cùng, là do những công dân ở quốc gia đó có đủ cơ hội và sự lựa chọn để sống và làm việc theo nguyện ước của mình hay không. Từ đó, ông muốn kêu gọi: Hỡi các nhà trường, các gia đình và toàn thể xã hội! Hãy tạo ra nhiều cơ hội bình đẳng, thuận lợi hơn để ngày càng có thêm nhiều người thành công, đừng để tài năng của họ bị mai một, đừng để họ phải mang danh phận là những người thất bại trong cuộc đời này.

Quan điểm mới mẻ của M. Gladwell về thành công của “Những kẻ xuất chúng” chắc chắn sẽ gây ra nhiều ý kiến trái chiều nhau, có thể bạn đồng tình, cũng có thể chưa hoàn toàn thuyết phục bạn… Ở Việt Nam, liệu cách nhìn đó có phù hợp? Áp dụng công thức này để tìm kiếm những người “xuất chúng” của Việt Nam chắc chắn sẽ được một danh sách rất dài, bản thân chúng tôi không thể tổng kết hết. Chúng tôi rất mong muốn khảo cứu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của những người Việt Nam từng được giải thưởng quốc tế hay các lứa học sinh, sinh viên trường chuyên, những thành viên các đội tuyển quốc gia. Việc tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến thành công ấy có thể giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà cải cách giáo dục đưa ra được quyết sách đúng đắn trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo thế hệ nhân tài mới cho nước Việt, hay ở mức khiêm tốn giúp các bậc làm cha mẹ biết cách nuôi dạy con mình tốt hơn, giúp mỗi người chúng ta tự biết cách học và rèn luyện để trưởng thành và thành công hơn.

Chúng tôi mong nhân dịp Alpha Books xuất bản cuốn sách thú vị này sẽ nhận được nhiều ý kiến trao đổi của các học giả cũng như bạn đọc quan tâm đến cuốn sách.

Tháng 10/2009

NGUYỄN CẢNH BÌNH

– TRẦN MẠNH CUNG


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.