Nợ Tình

Chương 21



Hercule Poirot một lần nữa lại xuất hiện trên con đường hẻm lên vách đã quay ra biển có những đợt sóng ngầu bọt đập liên tiếp vào chân núi. Chính nơi đây người ta đã tìm thấy hai xác chết của đôi vợ chồng nhà nọ. Cũng chính nơi đây ba tuần lễ trước đó một người mắc bệnh mộng du đã tử nạn.

Lúc này đã có nhiều người tới đây nhóm họp: một chàng trai và một cô gái đi tìm sự thật và hai người khác biết rõ sự thật ấy.

Poirot quay mặt nhìn ra biển, rồi nhìn con đường hẻm dẫn tới biệt thự ngày xưa có tên là Overcliffe. Nó cách đây không xa, theo chiều ngang bức tường có nhiều ôtô đang đậu. Ở trước cửa treo một tấm biển ghi cần bán toà biệt thự. Trên hàng rào thép có tấm biển khác ghi Overcliffe thay thế chữ Down House ngày xưa. Nhà thám tử bước lại gần Desmond Burton-Cox và Célia Ravenscroft đang đi trên đường hẻm.

– Nhân viên phụ trách đã đưa cho tôi chìa khoá – Chàng trai nói – Trong trường hợp chúng ta muốn vào biệt thự. Nhưng ngôi nhà đã hai lần đổi chủ trong năm năm gần đây nên tôi nghĩ là chẳng còn gì mà xem nữa.

– Em không tin – Célia trả lời – Trước hết một người tên là Archer mua nó, sau đó người này bán lại cho ông Fallowfield vì người ta thấy ở đây quá hẻo lánh. Và giờ đây ông Fallofleld đang muốn phá nó đi. Có thể là nhà có ma chăng?

– Em biết là nhà có ma thực ư?

– Không, em không biết gì cả. Nhưng nó không thể như vậy được, đúng không?

– Tôi tin – Poirot nói xen vào – ở đây có bất hạnh, có chết chóc nhưng cũng có cả tình yêu nữa.

Một chiếc xe hơi chạy tới đậu dưới chân núi.

– Chắc chắn đấy là bà Oliver – Célia nói – Bà ấy bảo em là bà sẽ đi bằng tàu hoả sau đó thuê tắc-xi từ nhà ga để tới đây.

Hai người đàn bà ra khỏi xe. Một người đúng là bà Oliver. Người kia ăn mặc lịch sự, cao hơn và trẻ hơn cùng đi. Poirot liếc nhìn Célia xem phản ứng của cô gái. Cô gái đứng sững hai ba giây đồng hồ, sau đó mắt ngời sáng, cô chạy lao xuống ôm lấy bà Maurat.

– Ô! – Cô kêu lên – Đây là Zélie! Em không nhầm, Zélie!… Em rất sung sướng! Em không biết là cô sẽ đến.

– Đó là do ông Poirot yêu cầu ta.

– Tôi không hiểu. Cuối cùng… Desmond, có phải cậu đã…

– Vâng tôi đã viết thư cho bà Maurat, cho Zélie, nếu tôi có thể gọi bà ấy bằng cái tên ấy, cả tôi nữa.

– Chắc chắn là được – Người thiếu phụ nói – Tôi tự nhủ khôn ngoan là nên tới đây, không biết tôi có đúng không. Dù sao tôi cũng hy vọng là như thế.

– Ồ, đúng chứ! Em muốn biết – Célia nói – Chúng em muốn cả hai biết rõ sự thật. Desmond hy vọng cô sẽ nói điều gì đó. Là một vụ tự sát hay là vụ giết người? Ai đã giết cha mẹ em vì lý do nào đó mà em không biết?

Poirot bước tới chiếc ghế bằng sắt dưới bóng cây mộc lan trong khu vườn của toà biệt thự.

– Chúng ta ngồi ở đây – ông nói – Những người kia đã sống trong toà nhà này, và toà nhà đang có một bầu không khí khác. Nếu chúng ta muốn, chúng ta sẽ vào trong nhà sau khi họp xong hội nghị điều tra.

– Một hội đồng điều tra ư? – Desmond hỏi.

– Phải. Những sự việc đã xảy ra cách đây mười bốn năm – Poirot quay sang cô gái – Theo cô thì đây là một vụ tự sát hay là một vụ giết người?

– Có thể là cái này hoặc cái kia.

– Theo tôi, chúng ta đang đứng trước một vụ giết người, sau đó là một vụ tự sát. Tôi cũng có thể gọi đây là một vụ hành hình. Và cả thảm kịch nữa. Thảm kịch của hai người yêu nhau và cùng chết vì tình yêu. Đấy không phải là thảm kịch của Roméo và Juliette. Không phải tất cả những người tuổi trẻ đau đớn vì tình yêu đều sẵn sàng chết vì tình yêu.

– Tôi không hiểu – Célia lẩm bẩm.

– Tôi sẽ nói với cô những gì đã xảy ra và tôi đã điều tra chúng như thế nào. Cái làm tôi ngạc nhiên trước tiên cũng là cái mà cảnh sát không thể giải thích được. Trước tiên là bốn bộ tóc giả của bà Ravenscroft.

Ông ngừng lại một vài giây rồi tiếp tục nói bằng giọng vui vẻ:

– Bốn bộ tóc giả!

Sau đó ông quay sang Zélie.

– Bà ấy chỉ thường xuyên mang một bộ – Bà Maurat giải thích – Chỉ khi đi đâu, hoặc cần thiết trang điểm lại thì bà ấy mới mang bộ kia.

– Phải – Poirot nói – Hầu hết phụ nữ chỉ dùng hai bộ tóc giả. Nhưng bốn là quả là nhiều. Theo bác sĩ xét nghiệm tử thi, người đàn bà này là người hói trán. Tóc rất tốt. Một bộ tóc giả có một lọn màu sáng còn bộ kia được cuộn thành những lọn nhỏ. Đây là bộ bà mang vào ngày cuối đời mình.

– Mẹ tôi có thể mang bộ tóc giả khác – Célia nhận xét – Chi tiết ấy có gì là quan trọng.

– Có thể. Khi lập biên bản, bà hầu đã khẳng định là đã nhiều tuần lễ bà chủ chỉ đội bộ có những lọn tóc nhỏ.

– Tôi không thấy…

– Ngoài những bộ tóc giả còn con chó – Poirot nói tiếp.

– Con chó! Con chó đã làm gì…

– Theo ý kiến của mọi người thì con chó rất mến bà chủ. Tuy nhiên hai ba tuần lễ trước ngày xảy ra tấn thảm kịch, nó đã đớp vào chân bà nhiều lần.

– Ông muốn làm người ta tưởng rằng con chó biết bà Ravenscroft sắp tự sát ư? – Desmond hỏi.

– Không. Đơn giản hơn thế kia.

– Tôi không…

– Con chó biết cái mà mọi người khôngbiết: nó biết đây không phải là bà chủ của nó.

Célia kêu lên một tiếng ngạc nhiên.

– Bà người hầu không chỉ nghễnh ngãng mà còn kém mắt nữa – Poirot nói tiếp – Thấy trong nhà có một người đàn bà ăn vận quần áo của bà Ravenscroft và mang bộ tóc giả đặc biệt ấy. Tuần lễ trước, khi gặp ông Garroway, ông đọc cho tôi nghe một thành ngữ: “Cùng một người, nhưng mũ đội thì khác nhau”. Tôi chợt nghĩ ra một câu khác: “Cùng một bộ tóc giả, người đội thì khác nhau”. Người đàn bà ấy không phải là bà chủ của bà hầu. Đó là một người khác mà bà không thích vì thường gây cho bà sự sợ hãi. Nhưng giả thiết đây không phải là bà Ravenscroft thì bà ta là ai? Đó là người chị, bà Dolly.

– Nhưng không thể như vậy được? – Célia nói.

Poirot nhẹ nhàng lắc đầu.

– Tôi sắp nói xong rồi đây – Poirot bình tĩnh nói – Theo tin tức do bà Oliver thu lượm được ở những người được hỏi thì trước đó bà Ravenscroft đã phải đi điều trị một bệnh gì đó, bệnh ung thư thì phải. Nhưng tôi xin nói là bà ấy không có bệnh gì cả, nếu người ta tin vào kết luận của bác sĩ. Sau đó tôi lại nghe được chuyện về hai chị em, biết rằng họ rất yêu quí nhau, như thường thấy ở những cặp song sinh, họ ăn vận và hoạt động cùng một cách thức, họ cùng mắc những bệnh giống nhau thời còn ấu trĩ, và cả hai cùng lấy chồng là sĩ quan. Nhưng sau đó thay vì tiếp tục giống nhau thì họ lại muốn có sự khác nhau giữa người này, người kia. Mỗi người có một lý do riêng. Đúng thế, ông Alistair Ravenscroft đã yêu Dorothea Preston-Grey khi bà này còn rất trẻ. Sau đó tình yêu của ông chuyển sang bà Margaret và đã kết hôn với bà. Người chị ghen tuông một cách dữ tợn và ghét bỏ người em trong khi ấy người em vẫn quí mến chị. Cái đó có thể dùng để giải thích nhiều việc. Thật ra Dorothea đã có một định mệnh bi thảm, không phải do những hoàn cảnh hoặc do sai lầm của bà mà do sự di truyền. Bà ta có tính khí không ổn định. Từ lúc còn trẻ, bởi những lý do mà chúng ta đã rõ, bà rất ghét trẻ con. Bà ta có trách nhiệm về cái chết của một trong những đứa con của bà, một đứa con trai bốn tuổi. Không có chứng cứ, nhưng sự việc đã rõ ràng dưới con mắt của bác sĩ khiến ông phải gửi bà đến một nhà điều dưỡng. Khi được tuyên bố là khỏi bệnh, trở về cuộc sống bình thường, bà tới với vợ chồng người em ở Mã-lai. Trong thời gian ấy, một tai nạn khác lại xảy ra, nạn nhân là con trai một nhà hàng xóm. Cả ở đây nữa, cũng thiếu chứng cứ, nhưng ai cũng biết bà là người có trách nhiệm. Ông Alistair lại đưa bà về nước Anh và vào một nhà điều dưỡng khác. Khi người ta cho bà xuất viện thì, một lần nữa, bà lại trở về cuộc sống bình thường. Bà Margaret, lúc này đã trở về nước Anh với chồng, đã mang bà chị về nuôi để đề phòng việc tái phát bệnh. Tuy nhiên tôi nhận thấy ông Alistair không cho giải pháp đó là chắc chắn. Ông đã tin chắc rằng bệnh của người chị vợ là không thể chữa khỏi, có thể tái phát vào một ngày nào đó.

– Ông muốn nói rằng chính bà ta đã giết vợ chồng bà Ravenscroft ư? – Desmond hỏi – Không thể được. Bà ta chết trước đó ba tuần lễ kia mà.

– Không – Poirot trả lời – Nhưng bà ta đã giết người em gái bằng cách đập một hòn đá nặng vào đầu và đẩy em xuống vực trong ngày hai người cùng đi dạo trên con đường hẻm ở vách núi. Sự oán hờn với bà Molly, con người trong trắng và hoàn toàn khoẻ mạnh, đột nhiên trỗi dậy. Nhưng việc này có một người biết rất rõ, một người cùng sống ở Overcliffe trong thời gian ấy. Bà biết rõ, có phải không, bà Maurat?

– Vâng – Bà Zélie trả lời – Tôi biết rõ. Đã từ lâu, ông bà Ravenscroft lo ngại, vì Dolly đã có lần định hại con trai họ là Edward bị bệnh phải ở nhà sáu tháng cùng với một bà gia sư. Ông Alistair bèn gửi con trai về trường học ở nước Anh và con gái sang học ở Thuỵ Sĩ. Còn tôi, sau đó tôi trở lại một lần nữa để giúp việc bà Ravenscroft. Hai đứa trẻ ở xa. Mọi người đều an tâm. Và rồi, một ngày nọ, tấn thảm kịch xảy ra.

Hai chị em cùng nhau đi dạo, cái làm chúng tôi, ông Alistair và tôi, ngạc nhiên và bà Dolly một mình trở về. Bà tỏ ra khác thường và bối rối. Khi ngồi vào bàn dùng trà, ông Alistair nói có máu trên bàn tay phải của bà và hỏi bà có bị ngã không. Bà ta trả lời: “Ồ! Không sao. Không sao cả. Tay tôi bị gai của một cây hoa hồng xước phải thôi”. Nhưng trên cát thì không thể nào có hoa hồng được. Nếu bà ta nói một cây nào đó thì có thể chúng tôi tin. Và ngay lập tức chúng tôi cảnh giác. Ông Alistair vừa chạy vừa kêu: “Đã xảy ra việc gì với Molly rồi, tôi tin chắc là như vậy”. Tôi chạy theo ông. Than ôi, ông đã không nhầm. Chúng tôi tìm thấy bà ở bên đường. Bà hãy còn sống nhưng đã mất nhiều máu. Chúng tôi không biết làm thế nào. Chúng tôi không dám khiêng bà lên. Chỉ có một việc có thể làm được là đi tìm một bác sĩ. Nhưng trước khi tôi chạy đi gọi điện thoại thì bà giữ tay chồng lại và nói qua hơi thở: “Vâng, đây là do Dolly. Nhưng chị ấy không biết công việc mình làm, anh Alistair. Anh không nên để chị ấy gánh những hậu quả việc này. Chị ấy không có trách nhiệm. Chị ấy không bao giờ biết mình làm những gì. Đây là ngoài ý muốn của chị ấy. Anh cần hứa với em, Alistair. Em sắp chết. Không, không còn thời gian để đi gọi bác sĩ nữa đâu. Và ông ta cũng sẽ chẳng giúp gì được cho em đâu. Em đã mất quá nhiều máu và em không sống được lâu nữa. Em biết cái đó. Nhưng anh hãy hứa, hãy hứa là anh sẽ cứu chị ấy. Hãy hứa là không để người ta xét xử chị ấy, không để chị ấy chết rũ trong nhà tù vì tội giết người. Anh hãy giấu em vào một nơi nào đó để người ta không thấy xác em. Em xin anh, đây là lần cuối cùng. Em yêu anh nhất trên đời này. Anh hãy thề đi. Cả cô nữa, Zélie. Tôi biết cô yêu các con tôi như tôi yêu chúng nó. Cô rất tốt với gia đình tôi. Cần phải cứu Dolly khốn khổ. Tôi van xin cả hai người. Cần phải cứu chị ấy…”.

Bà Maurat ngừng lời, nước mắt rơi lã chã .

– Sau đó hai người làm gì? – Poirot hỏi.

– Bà Ravenscroft qua đời sau khi nói câu cuối cùng như tôi vừa thuật lại. Tôi giúp ông Alistair mang bà vào một hốc núi. Ông Alistair bảo tôi: “Tôi đã hứa. Tôi phải giữ lời. Nhưng tôi không biết phải làm gì để cứu Dolly”. Cuối cùng chúng tôi trở về nhà. Bà Dolly vẫn ngồi đấy. Bà như chết vì sợ hãi cùng lúc với sự hài lòng khủng khiếp. “Tôi vẫn biết rõ”, bà ta bảo chúng tôi, “Molly là hiện thân của cái xấu. Cô ta đã chiếm Alistair của tôi. Tôi đã thuộc về anh ta, nhưng cô ta đã lật ngược lại và kết hôn với anh. Tôi đã biết là sẽ có ngày tôi trả mối thù này. Nhưng bây giờ thì tôi sợ. Người ta sẽ làm gì tôi? Người ta sẽ giam tôi một lần nữa ư? Anh không được để người ta giam em, anh Alistair! Hay là cảnh sát sẽ bắt em về tội giết người? Nhưng đây không phải là giết người. Em không thể làm khác được. Có những lúc em cần phải làm một cái gì đó, em không hiểu tại sao. Em muốn nhìn thấy máu, anh hiểu không? Máu của cô ta. Tôi biết là cô ta đã chết. Tôi hy vọng là các người không tìm ra cô ta ngay sau đó. Người ta sẽ nói đây là một tai nạn. Đơn giản là cô ta ngã từ mỏm núi xuống… “

– Thật là một câu chuyện khủng khiếp – Desmond nói.

– Phải – Célia lẩm bẩm – Và bây giờ em mới biết rõ. Sau đó cô ta làm gì, cô Zélie?

– Chúng tôi hy vọng rằng mọi người không nhìn thấy xác chết vì không có con đường nào dẫn tới nơi chúng tôi đặt xác bà Molly và chúng tôi chỉ còn việc ban đêm khiêng xác bà tới một chỗ mà mọi người sẽ tin là bà rơi xuống. Sau đó chúng tôi bịa ra câu chuyện người bị chứng mộng du. “Thật đáng sợ”, ông Alistair bảo tôi, “nhưng tôi đã hứa. Tôi đã thề với Molly trước lúc bà qua đời. Tôi đã thề là làm theo lời bà yêu cầu. Có cách để cứu Dolly, với điều kiện bà ta chấp nhận một việc. Nhưng tôi không hiểu là bà ta có làm không”. “Việc gì?” Tôi hỏi. “Đóng vai Molly để tuyên bố rằng Dolly đã rơi xuống vực vì chứng mộng du”.

Đó là việc chúng tôi đã làm. Chúng tôi đã dẫn Molly tới một căn nhà hoang, tôi ở cạnh bà ta một vài ngày. Alistair tuyên bố rằng người chị vợ đã chết vì tai nạn, còn vợ ông thì lâm bệnh phải đi nằm ở nhà điều dưỡng. Và rồi một thời gian sau đó tôi dẫn Dolly về nhà, mặc áo quần và đội bộ tóc giả của em gái. Tôi đi Londres mua thêm hai bộ tóc giả nữa để bà ta cải trang tốt hơn. Và mọi người cho rằng bà Molly bị chứng bạch cầu nên tính nết có phần nào thay đổi. Tôi phải thừa nhận là hai chị em họ có cùng một giọng nói nên người ta đã nhầm lẫn. Tất cả những chuyện đó có vẻ bình thường. Và do đó nó càng kinh tởm hơn…

– Tôi không hiểu sao mọi người đều tin là như vậy.

– Dolly đóng vai không khó khăn lắm vì bà ta đã có cái mà bà mong muốn. Bà đã có ông Alistair.

– Nhưng làm thế nào mà ông ấy có thể chịu đựng được?

– Ngày mà tôi quyết định trở về Thụy Sĩ, ông ấy có nói cho tôi biết những việc mà ông sẽ làm. “Tôi đã hứa với Molly là không đem Dolly nộp cho cảnh sát, để mọi người không gọi bà ta là kẻ giết người và cũng để con cái chúng tôi không biết nữa. Không một ai cần biết rõ cả. Bà ta đã mắc chứng mộng du và rơi từ mỏm núi xuống; đó là một tai nạn, không là cái gì khác. Bà ta có thể được chôn cất với cái tên của mình”.

“Làm thế nào mà ông chấp nhận được cái đó?” Tôi hỏi. “Tôi chấp nhận”, ông trả lời tôi, “về cái tôi định làm. Dolly cần phải chết. Nếu để bà ta gần bọn trẻ con, chúng sẽ gặp bất hạnh. Bà ta không xứng đáng sống. Nhưng sau đó tôi phải trả bằng mạng sống của tôi vì việc mình làm. Tôi phải ở lại đây với bà ta đóng vai người vợ. Sau đó một tấn thảm kịch nữa sẽ xảy ra. Mọi người sẽ tưởng là tôi và Molly đã cùng tự sát. Người ta sẽ nghĩ rằng một trong hai chúng tôi đã mắc bệnh ung thư, người ta sẽ nghĩ đến những bênh không thể nào chữa khỏi khác, người ta sẽ đặt ra nhiều giả thiết, nhưng không ai hiểu được lý do thực sự của tấn thảm kịch. Tôi hứa với cô là Dolly sẽ không bị đau đớn. Tôi sẽ giết bà ta sau đó tôi tự sát bằng một khẩu súng lục. Dấu vân tay của bà ta sẽ ở trên khẩu súng vì cách đây không lâu bà ta đã lục lọi trong ngăn kéo bàn giấy của tôi. Công lý phải được thực hiện và tôi có trách nhiệm thực hiện nó mà không bôi đen Dolly. Tôi muốn cô biết trước, Zélie, rằng tôi vẫn yêu cả hai, Molly cho cuộc sống của tôi và Dolly vì tôi thương bà ta sinh ra đã thế. Cô nên luôn luôn nhớ điều đó…”

Zélie đứng lên và tới bên Célia:

– Bây giờ cả hai đã biết rõ sự thật – Bà nói – Tôi đã hứa với cha cô là không bao giờ nói ra điều này. Tôi đã bội ước. Tôi không có ý định như vậy nhưng ông Poirot đã biết tất cả và ông yêu cầu tôi nói những điều mình biết.

– Em hiểu cô – Cô gái trả lời – Nhưng em hài lòng khi biết rõ tất cả. Em có cảm giác rằng mình đã trút được một gánh nặng đang làm em băn khoăn. Khi còn là trẻ con, Dolly đã làm em sợ mà em không hiểu tại sao. Em thấy cha em rất can đảm, đã làm những việc ông làm. Nếu ông nhầm lẫn, người ta có thể tha thứ cho ông. Nhưng em không tin là ông đã nhầm lẫn. Ông đã giữ lời hứa với vợ và đã cứu Dolly.

Célia nhìn Hercule Poirot.

– Tôi giả thiết rằng – Cô nói tiếp – ông theo đạo Cơ đốc và ông sẽ không đồng ý với tôi hàng chữ ở bia đá trên ngôi mộ: “Họ không lìa nhau sau khi chết” không có nghĩa là họ cùng chết một lúc, nhưng bây giờ họ đã được xum vầy với nhau. Hai con người rất yêu nhau và bà bác của tôi. Bà ta không có trách nhiệm về những hành động của mình và tôi cố nghĩ tới bà với tấm lòng thành của mình.

Desmond tới bên cô gái:

– Chúng ta sẽ kết hôn càng nhanh càng tốt – Anh nói – Nhưng anh có thể hứa với em: Người mẹ nuôi của anh sẽ không biết gì cả.

Poirot kéo bà Zélie đi ra xa và hỏi:

– Bà không phiền lòng khi tôi khám phá ra vụ này và tới yêu cầu bà đến đây để nói rõ sự thật chứ?

– Không, ông đã làm việc tốt. Vì những người trẻ tuổi kia đang yêu nhau. Họ đã biết và họ sẽ hạnh phúc.

Người đàn bà trẻ ngừng lời trước khi nói thêm:

– Tại đây, nơi chúng ta đang đứng đây, hai con người đã yêu nhau và đã chết. Tôi không biết ông Alistair có sai lầm khi làm việc này không, nhưng tôi không chê trách ông ấy.

– Bà vẫn còn yêu ông ấy phải không?

– Vâng. Tôi yêu ông ấy từ ngày tôi tới Overcliffe. Tôi rất yêu ông. Tôi không tin là ông không biết điều đó. Nhưng ông đã tin tưởng và trìu mến tôi. Tôi, tôi yêu cả hai: ông ấy và bà Molly.

– Có một điều tôi muốn hỏi bà: ông ấy yêu cả hai chị em, phải không?

– Nói cho cùng thì ông ấy yêu cả hai, vâng. Do đó tại sao, cũng như Molly, ông ấy muốn cứu người chị vợ. Ai là người mà ông yêu nhất? Tôi không biết và không bao giờ tôi có thể biết được.

Poirot nhìn bà Zélie một lát, sau đó đi tới gặp bà Oliver.

– Bây giờ chúng ta phải trở về Londres thôi – ông nói – Trở về với công việc hàng ngày, quên đi những tấn thảm kịch và những hành động của con tim.

– Những con voi nhớ lâu – Bà Oliver nói – Nhưng chúng ta là con người và, may thay, con người thường hay quên.

H ẾT


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.