Pháo Đài Số

CHƯƠNG 29



Vẫn còn thấy khó chịu vì cuộc chạm trán với Hale, Susan đưa mắt qua những bức tường kính của Node 3. Crypto vắng trơn, Hale giờ đã chịu yên và có vẻ rất chăm chú với công việc của mình. Susan ước gì không phải nhìn thấy mặt anh ta ở đây.
Cô tự hỏi có nên gọi cho Strathmore hay không. sếp có thể sẽ giúp cô tống cổ anh ta đi, dẫu sao thì rõ ràng anh ta cũng chẳng có lý do gì mà lại có mặt ở đây vào ngày thứ bảy cả. Tuy nhiên, Susan cũng hiểu nếu như bị đuổi ra ngoài vô cớ chắc chắn Hale sẽ nghi ngờ. Và anh ta có thể sẽ dò hỏi các mật mã viên khác xem có chuyện gì. Cuối cùng cô quyết định cứ mặc kệ Hale, cô nghĩ nếu không có việc gì quan trọng chắc anh ta cũng sẽ sớm rời khỏi chỗ này.
Một thuật toán không giải nổi. Susan thở dài, cô lại nghĩ đến Pháo Đài Số. Đến giờ cô vẫn không tin được rằng con người có thể nghĩ ra một thuật toán phức tạp đến thế, nhưng bằng chứng đã rõ ràng, TRANSLTR hoàn toàn vô hiệu trước Pháo Đài Số.
Susan chợt nghĩ đến Strathmore, ông đối mặt với thảm hoạ này một cách thật can trưởng. Làm tất cả những gì cần thiết và vẫn rất bình tĩnh.
Đôi khi Susan cảm nhận được một phần tính cách của David trong con người Strathmore, họ đúng là có nhiều điểm tương đồng, cả hai đều rất kiên trì, sống hết mình, và thông minh. Đã có lúc Susan nghĩ rằng nếu không có cô có lẽ Strathmore đã đi chệch hướng, chính niềm say mê thuần khiết mà cô dành cho ngành mật mã đã giúp ông giữ vững được con đường mà mình đang đi, giúp ông vượt lên trên những cám dỗ của đời sống chính trị đầy sóng gió và luôn gợi cho ông nhớ về những ngày đầu tiên khi ông còn là một nhân viên giải mã.
Bù lại, Susan cũng nhận thấy cô có thể trông cậy vào Strathmore, ông che chở cho cô trong cái thế giới mà con người như phát điên phát cuồng vì quyền lực này, ông nâng đỡ cô trong công việc, bảo vệ cô và, như chính ông vẫn thường đùa: biến những giấc mơ của cô thành hiện thực. Cô không đơn thuần coi đó là những lời nói đùa, cô biết đó là sự thật, chẳng phải ông chính là người đã gọi điện mời David Becker đến với NSA vào buổi chiều định mệnh đó sao? Ý nghĩ của cô lại hướng về David, một cách bản năng, cô đưa mắt nhìn cái giá nhỏ bên cạnh bàn phím vi tính. Có một bản fax nhỏ được đính ở đó.
Bản fax này được đính vào đó từ khoảng bảy tháng trước, đó là bản mật mã duy nhất mà cho đến nay Susan vẫn chưa tài nào giải được. Bản fax đó là của David, cô đã đọc đi đọc lại cả trăm lần.
PLEASE ACCEPT THE HUMBLE FAX
(Xin em hãy nhận bản fax này như lời xin lỗi)
MY LOVE FOR YOU IS WITHOUT WAX
(Tình yêu anh dành cho em sẽ không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa)
Anh gửi cho cô bản fax này sau khi hai người có một trận cãi nhau nho nhỏ. Trong suốt mấy tháng ròng, cô đã xin anh giải mã ý nghĩa của nó, nhưng anh đều từ chối. Without Wax (không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa), rõ ràng là anh đang trêu lại cô.
Trước đây, Susan đã hướng dẫn cho David khá nhiều về việc giải mãi và để trêu anh cô đã dùng các phương pháp đơn giản để mã hoá tất cả những thông điệp giữa hai người từ danh mục hàng hoá khi đi chợ cho đến những lời lẽ yêu đương. Và dần dần, David đã trở thành một mật mã viên khá xuất sắc. Rồi David quyết định đáp lễ cho Susan, anh bắt đầu bằng cách ký dưới tất cả các bức thư anh gửi cho cô dòng chữ đó: “Without Wax (không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa), David”. Susan nhận được rất nhiều những bức thư như vậy của David, chúng đều được kết thúc theo cùng một cách như vậy. Mặc cho cô gạn hỏi ra sao anh cũng không giải thích, khi nào cô thắc mắc anh chỉ cười và nói: “Em là một chuyên gia mật mã mà”.
Cô, một chuyên gia hàng đầu của NSA, đã thử mọi cách có thể từ các phép thế, các hộp mã hoá đến các phép đảo chữ cái. Cô đã thử cho cụm từ “Without Wax” (không có chỗ cho bất cứ sự giận dỗi nào nữa) vào chạy trong máy vi tính, đặt lệnh tái sắp xếp các chữ cái nhằm tạo ra các cụm từ mới. Nhưng tất cả những gì cô nhận được là dòng chữ “TAXI HUT WOW” (xe taxi-Túp lều- Oa). Bây giờ thì cô tin chắc là không chỉ có Ensei Tankado mới có thể viết ra những dòng mã không thể giải nổi.
Ý nghĩ của cô bị gián đoạn bởi tiếng mở cửa, Strathmore bước vào.
– Susan này, đã tìm được điều gì chưa? – Strathmore nhìn thấy Greg Hale, ông dừng ngay lại.
– Ô, chào anh Hale! – ông cau mày, đôi mắt hơi nhíu lại – Làm việc vào thứ Bảy? Lý do của hành vi đáng biểu dương này là gì thế?
Hale cười:
– Tôi chỉ cố gắng hoàn thành phần việc của mình thôi!
– Tôi thấy rồi! – Strathmore hạ giọng, rõ ràng là ông đang cân nhắc cái gì đó. Chỉ sau một thoáng, ông như đã quyết định sẽ không đả động gì đến Hale nữa, quay sang Susan ông nói – Cô Fletcher, tôi có thể nói chuyện với cô một lát ở ngoài không?
Susan hơi bối rối.
– À… vâng, thưa sếp! – Cô liếc mắt qua màn hình vi tính của mình rồi rảo bước đi qua chỗ Greg Hale – Sếp đợi một chút.
Chỉ với một vài thao tác trên bàn phím, cô đã khởi động chương trình Screenlock (Khoá màn hình), đây là một tiện ích bảo mật trên máy vi tính. Tất cả các máy tính tại Node 3 đều được cài đặt tiện ích này. Do các máy tính tại đây luôn phải hoạt động liên tục cả ngày, Screenlock giúp các mật mã viên có thể yên tâm rời máy mà không sợ bị ai đụng đến các file được lưu trên máy của họ. Susan nhập một mật mã gồm 5 ký tự và ngay lập tức màn hình máy tính của cô chuyển sang màu đen. Nó sẽ chỉ có thể trở lại hoạt động như cũ nếu Susan quay lại và nhập đúng mật mã mà cô đã cài đặt.
– Anh ta làm cái quái gì ở đấy thế – Strathmore hỏi ngay khi Susan vừa bước ra khỏi Node 3.
– Như thường lệ, chẳng làm gì cả – Susan trả lời.
Strathmore trông có vẻ khá lo ngại:
– Anh ta có thắc mắc gì về TRANSLTR không?
– Không đâu, nhưng nếu anh ta tiếp cận Run-Monitor và phát hiện ra con số 17giờ thì nghĩ kiểu gì cũng sẽ thắc mắc.
Strathmore cân nhắc:
– Anh ta không có lý do gì để tiếp cận Run Monitor cả!
Susan nhìn sếp.
– Ông muốn tống Hale khỏi đây à?
– Không, cứ mặc anh ta! – Strathmore liếc mắt về phía phòng An ninh hệ thống – – Chartrukian đã về chưa?
– Tôi không rõ, tôi không thấy anh ta đâu cả!
– Lạy chúa! – Strathmore bực bội – Chẳng khác gì một gánh xiếc.
Ông đưa tay lên xoa cằm, sau mấy chục giờ không cạo râu khuôn mặt ông bây giờ như sạm đi râu ria lởm chởm.
– Chương trình tìm địa chỉ có phát hiện được gì không? Tôi như ngồi trên đống lửa rồi đấy!
– Chưa có gì cả, ông có tin của David không?
Strathmore lắc đầu:
– Tôi đã yêu cầu cậu ấy không liên lạc gì cho đến khi lấy được chiếc nhẫn.
Susan ngạc nhiên:
– Tại sao lại không? Nhỡ ra anh ấy cần được giúp đỡ thì sao?
Strathmore nhún vai:
– Tôi không thể ngồi đây mà giúp cậu ta được cậu ta phải tự xoay sở thôi, mà tôi cũng không muốn nói chuyện qua điện thoại vì rất dễ bị nghe trộm.
Susan mở to mắt chú ý:
– Nghĩa là sao ạ?
Strathmore cảm thấy mình đã nhỡ mồm, ông cười xoà an ủi Susan. David vẫn ổn mà, tôi chỉ muốn cẩn thận một chút thôi.
Cách chỗ hai người nói chuyện khoảng vài chục bước chân, sau bức tường kính mầu của Node 3, Greg Hale đang đứng cạnh máy vi tính của Susan. Màn hình vẫn toàn một màu đen. Hale để mắt chú ý theo dõi Strathmore và Susan, rồi anh ta đưa tay vào ví rứt ra một tấm thẻ và đọc nó.
Nhìn lại, biết chắc Strathmore và Susan vẫn đang nói chuyện Hale cẩn thận gõ năm ký tự trên bàn phím máy tính của Susan, chỉ thoáng một lát màn hình hoạt động trở lại.
– Chuyện nhỏ! – Hale cười thầm.
Việc ăn trộm mật khẩu của các máy tính trong Node 3 thực sự quá đơn giản với Hale. Tại Node 3, tất cả các máy tính đều được trang bị cùng một loại bàn phím có thể dễ dàng tháo lắp. Một buổi tối Hale đã mang bàn phím của mình về nhà và cài vào đó một con chip điện tử có khả năng lưu lại tất cả các thao tác trên bàn phím.
Sáng hôm sau, anh ta chỉ cần đến sớm một chút, tráo đổi bàn phím của mình và bàn phím trên máy người khác và chờ đợi. Hết ngày làm việc, Hale lắp lại như cũ và xem xét những dữ liệu con chip ghi lại. Mặc dù có đến hàng triệu thao tác trên bàn phím đã được lưu lại nhưng việc tìm ra mật mã truy nhập thực sự rất đơn giản. Thông thường, thao tác đầu tiên của bất cứ mật mã viên nào cũng là nhập mật khẩu để truy cập máy tính của họ. Việc này hiển nhiên giúp công việc còn lại của Hale vô cùng nhàn hạ, mật khấu chính là 5 ký tự đầu tiên được lưu lại.
Buồn cười thật, Hale nghĩ vậy khi nhìn vào màn hình của Susan. Anh ta ăn cắp mật khẩu của cô chỉ để cho vui, nhưng bây giờ sau khi đã thành công anh ta cảm thấy rất vui, chương trình đang chạy trên máy của Susan có vẻ khá là quan trọng.
Hale trải qua một thoáng lúng túng, chương trình này được viết bằng ngôn ngữ lập trình LIMBO – thứ này anh ta không am hiểu cho lắm. Nhưng chỉ cần nhìn thoáng qua là Hale đã có thể chắc chắn một điều – đây không phải là một chương trình chẩn đoán.
Anh ta nhận ra điều đó chỉ nhờ có hai từ, hai từ là quá đủ.
TRACER SEARCHING
(Chương trình đang tìm kiếm)
– Tracer (Phần mềm tìm kiếm) à – Hale tự hỏi – Nó đang tìm kiếm cái gì vậy nhỉ – Anh ta đột nhiên cảm thấy khó hiểu. Sau khi ngồi một lát quan sát thật kỹ những gì hiện trên màn hình của Susan anh ta quyết định hành động.
Kiến thức vừa đủ của Hale về ngôn ngữ lập trình LIMBO giúp anh ta hiểu rằng nó được cấu thành từ hai ngôn ngữ lập trình khác- C và Pascal, cả hai ngôn ngữ này Hale nắm chắc như lòng bàn tay.
Ngoái đầu lại kiểm tra, sau khi biết chắc Strathmore và Susan vẫn đang nói chuyện ở ngoài, Hale bắt đầu thế hiện. Anh nhập một vài lệnh viết bằng ngôn ngữ Pascal rồi bấm phím RETURN (phím TRỞ LẠI). Cửa sổ trạng thái của Tracer phản hồi ngay, đúng như mong muốn.
TRACER ABORT?
(Huỷ chương trình?)
Anh ta nhanh chóng đánh: YES (Đồng ý)
ARE YOU SURE?
(Bạn có chắc chắn không?)
Anh ta đánh lại một lần nữa: YES (đồng ý)
Chỉ một thoáng sau, máy vi tính kêu một tiếng Bíp.
TRACER ABORTED
(Chương trình đã bị huỷ)
Hale mỉm cười: máy tính đã phát ra thông điệp yêu cầu chương trình Tracer mà Susan đang chạy phải ngưng hoạt động giữa chừng và thế là cho dù Susan có tìm kiếm cái gì thì cô cũng sẽ phải đợi.
Cẩn thận không muốn để lại dấu vết, rất chuyên nghiệp, Hale truy nhập vào bản ghi nhớ các thao tác trên máy của Susan, xoá toàn bộ các lệnh anh ta đã nhập, sau đó nhập lại mật khẩu bảo vệ cho máy tính.
Màn hình máy tính lại chuyển sang toàn một màu đen.
Khi Susan Fletcher trở lại Node 3, Greg Hale đã yên vị tại máy vi tính của mình.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.