Phía Tây Không Có Gì Lạ

Chương 4 – Phần 2



An be gãy móng tay bằng một con dao. Chúng tôi ngạc nhiên về kiểu cách lịch sự của nó. Nhưng với nó, đấy chỉ là một cách để suy nghĩ cho chín hơn. Nó đặt con dao xuống và nói:

– Phải, sự thực là như vậy. Cát, Đêtơrinh và Hai, các cậu sẽ trở về nghề cũ, vì trước khi ra đi, các cậu đã có nghề trong tay. Cả Himmenxtôt cũng vậy. Còn chúng tớ, chúng tớ chưa có nghề ngỗng gì cả. Vậy thì sau cái trò này (vừa nói nó vừa chỉ về phía mặt trận) làm sao mà chúng tớ có một nghề trong tay được?

– Cần phải là một tay có tiền cho vay lãi và sống mỗi một mình ở trong rừng, – Tôi nói, nhưng tôi lại đâm ngượng ngùng vì cái mộng phú quý điên rồ ấy.

– Vậy chúng ta sẽ làm gì, nếu chúng ta trở về nhà? – Muynlơ tự hỏi, chính nó cũng lúng túng.

Cốp nhún vai:

– Tớ cóc biết. Hẵng cứ về cái đã, rồi sẽ tính sau.

Tất cả bọn tôi đều bối rối.

– Vậy bọn mình có thể làm được cái gì? – Tôi hỏi.

– Tớ chẳng thiết cái gì cả. – Cốp trả lời, giọng mệt mỏi. – Thế nào đi nữa thì một ngày kia, cậu cũng chết, mọi chuyện có nghĩa lí quái gì? Tớ chẳng tin là cánh mình sẽ thoát được đâu.

– Khi mình nghĩ đến nó, An be ạ! – Một lát sau, tôi trở mình và nói. – Khi mình nghe cái tiếng hòa bình và thí dụ như hòa bình đến ngay trước mắt, mình những muốn làm một cái gì thật phi thường. Đấy là một ý nghĩ nó cứ sôi lên trong đầu mình. Một cái gì đó, cậu hiểu không, cho nó bỏ cái nỗi cực nhục ở đây. Nhưng mình không thể nào tưởng tượng ra được. Còn những cái mà mình thấy là khả dĩ, tất cả những chuyện nghề ngỗng, học hành, luống lậu… chỉ tổ làm mình buồn nôn, vì vẫn là cái điệu đàn muôn thuở ấy, nó làm cho cái cậu chán ngấy. Mình chẳng cảm thấy gì cả, mình chẳng cảm thấy gì cả, An be ạ.

Lúc này, tôi thấy cái gì cũng là trống rỗng và vô vọng. Cả Cốp nữa, nó cũng suy nghĩ về chuyện ấy.

Tóm lại, hoàn cảnh bọn tôi sau này sẽ gay go đấy.

Nhưng, còn những người ở hậu phương, liệu đôi khi họ có lo lắng về vấn đề ấy không? Hai năm ròng bom đạn… dù sao người ta cũng không thể gạt bỏ nó như cởi một đôi bít tất.

Chúng tôi đồng ý với nhau rằng ai cũng thế cả, không riêng gì chúng tôi ở đây, mà khắp nơi, với bất cứ ai cùng một hoàn cảnh, hơn hay kém không đáng kể. Đó là số phận chung của thế hệ chúng tôi.

An be nói rất đúng: “Chiến tranh đã làm cho chúng mình thành những người vô tích sự.”

Nó nói có lí, chúng tôi không thuộc vào giới thanh niên nữa. Chúng tôi chẳng muốn lao vào vũ trụ nữa. Chúng tôi là những thằng đào ngũ. Trước đây chúng tôi đang trong cái tuổi mười tám, bắt đầu yêu đời yêu cuộc sống, thế mà chúng tôi đã phải nổ súng bắn vào cuộc sống. Quả đại bác đầu tiên rơi xuống đã nổ trúng trái tim chúng tôi. Chúng tôi chẳng còn thiết gì đến nỗ lực, hoạt động và tiến bộ nữa. Chúng tôi không còn biết đến những cái ấy nữa, chúng tôi chỉ còn tin có chiến tranh.

Văn phòng đại đội nhộn lên. Hình như Himmenxtôt đã đến đấy làm náo động. Ngài đội nhất chạy dẫn đầu. Thật là một hiện tượng kì lạ, hầu hết các ngài đội nhất chuyên nghiệp đều béo phị.

Himmenxtôt chạy theo sau, hừng hực ý muốn trả thù. Đôi ủng của hắn bóng nhoáng dưới ánh nắng. Chúng tôi đứng dậy. Thầy cai hỏi, giọng hổn hển:

– Jađơn đâu rồi?

Tất nhiên là không ai trả lời. Himmenxtôt nhìn chúng tôi bằng cặp mắt nảy lửa. “Đừng có vờ? Các anh biết mà các anh không muốn nói. Nào, nói đi!” Hắn ta nhìn quanh nhưng chẳng thấy Jađơn đâu cả. Hắn thử dùng phép khác:

– Trong mười phút, Jađơn phải đến trình diện tại văn phòng.

Sau đó, ngài đội nhất rút lui, Himmenxtôt bám sát nút.

– Tớ có cảm giác là đến kì làm công sự sắp tới, thế nào cũng có một cuộn dây thép gai rơi vào chân Himmenxtôt. – Cốp nói.

– Cánh mình đã đùa xong với hắn đâu. – Muynlơ nói.

– Dụng tâm của chúng tôi lúc này là: Chống đối đến kì cùng mọi ý định của gã phu trạm…

Tới đến lán trú quân, cho Jađơn biết tình hình để nó lỉnh đi.

Sau đó chúng tôi đổi chỗ, rồi lại ngồi chơi bài với nhau. Về cái món này chúng tôi cừ lắm: chơi bài, văng tục và đánh trận. Kể ra chẳng là bao khi người ta mới hai mươi tuổi… nhưng cũng đã quá nhiều, ở cái tuổi ấy.

Độ nửa giờ sau, Himmenxtôt lại đến chỗ chúng tôi.

Chẳng ai thèm để ý đến hắn. Hắn hỏi Jađơn đâu.

Chúng tôi nhún vai.

– Các người có trách nhiệm tìm nó, hắn nhấn mạnh và dùng tiếng “i-rơ” tương đương với hai tiếng “chúng mày.”

– Thế nào, “i-rơ” hả? – Cốp hỏi.

– Phải, “i-rơ”, các người, các người ngồi đây…

– Yêu cầu anh không được mày tao nghe không. – Cốp lên giọng đại tá.

Himmenxtôt như rơi từ trên mây xuống.

– Ai mày tao với các anh?

– Anh.

– Tôi?

– Phải.

Óc hắn đang nghĩ lung. Hắn liếc về phía Cốp, có vẻ nghi ngờ, vì hắn không hiểu Cốp định nói gì. Tuy vậy, về mặt này, hắn cũng không tin ở hắn lắm, hắn nói tiếp, có phần nhã nhặn hơn:

– Các anh có tìm thấy nó không?

Cốp nằm ườn trên bãi cỏ và nói:

– Thầy cai đã ở chiến hào bao giờ chưa?

– Cái đó không dính đến các anh. – Himmenxtôt nói một cách khô khan. – Tôi yêu cầu các anh trả lời.

– Được thôi. – Cốp vừa nói vừa đứng dậy. – Thầy cai hãy nhìn về phía có những đám mây nhỏ kia. Đó là đạn trái phá của quân Anh. Hôm qua bọn này ở đấy đấy. Năm người chết, tám người bị thương, mà mới chỉ là đùa dai tí thôi đấy nhé. Lần sau, thầy cai đi với bọn này, chắc những người trước khi chết, sẽ phải đến trước thầy cai, đập gót chân vào nhau và báo cáo theo đúng luật nhà binh: “Báo cáo thầy cai cho phép tôi rút lui ạ! Báo cáo thầy cai cho phép tôi ngoẻo ạ!” Cần phải nói thế, vì bọn này cũng biết ở đây có những hạng người như thầy cai…

Nó lại ngồi xuống, còn Himmenxtôt thì lại chạy như ma đuổi (Nguyên văn tiếng Pháp: Như một ảo ảnh).

– Ba ngày phạt giam! – Cát phỏng đoán.

– Lần sau, đến lượt tớ làm cho, – Tôi nói với An be.

Nhưng hậu quả thấy ngay. Buổi tối, lúc điểm danh, có cuộc đối chất ở văn phòng đại đội, Béctinh, trung uý của chúng tôi ngồi đó, bắt cả bọn lần lượt từng người ra trình diện với ông ta. Tôi cũng bị gọi ra làm nhân chứng, tôi trình bày tại sao Jađơn lại bướng như thế. Chuyện những anh chàng đái dầm làm mọi người chú ý. Người ta cho gọi Himmenxtôt và tôi nhắc lại những điều đã nói.

– Có đúng không? – Béctinh hỏi Himmenxtôt.

Hắn ta quanh co chán nhưng đến khi Cốp cũng khai hệt như vậy, thì hắn phải nhận cả.

– Thế tại sao lúc ấy không ai báo cáo? – Béctinh hỏi.

Chúng tôi nín lặng, dẫu sao, chính ông ta cũng phải biết đến tác dụng của sự khiếu nại về những chuyện vớ vẩn như thế trong đời sống nhà binh chứ.

Vả lại trong đời sống nhà binh, người ta có thể cho khiếu nại không? Trung uý nhìn thấy rõ vấn đề, ông ta bắt đầu cạo cho Himmenxtôt một mẻ, và một lần nữa (Nguyên văn Pháp: Như một ngôi sao chổi) cho hắn biết rằng mặt trận không phải là cái sân trại lính tập. Rồi đến lượt Jađơn, cu cậu cũng được hưởng phần đích đáng, một trận chỉnh mở người và ba ngày phạt giam, trung uý phạt giam Cốp một ngày, vừa ra lệnh, vừa nháy mắt với nó. “Đành phải vậy thôi.” – Ông ta nói với Cốp, có vẻ lấy làm đáng tiếc. Thật là một con người biết điều.

Nhà giam cũng không đến nỗi khó chịu lắm. Địa điểm này trước là cái chuồng gà, ở đấy tụi bạn của chúng tôi có thể tiếp khách được và bọn tôi sẽ tìm cách đến chơi với chúng nó. Nhà tù, đáng lẽ là trong hầm nhà. Ngày xưa, người ta còn buộc chúng tôi vào gốc cây nữa kia, nhưng bây giờ cấm làm thế. Tháng một số trường hợp, người ta đã đối xử với chúng tôi như những con người.

Một giờ sau khi Jađơn và Cốp bị tống vào sau dẫy hàng dây thép, chúng tôi đã đến thăm bọn nó.

Jađơn bắt chước tiếng gà gáy, chào chúng tôi. Rồi chúng tôi lại đánh bài cát với nhau, cho đến tối mịt.

Dĩ nhiên Jađơn vẫn được, cái thằng chó chết ấy! Khi chúng tôi đi khỏi, Cát hỏi tôi:

– Nếu cánh mình quay một con ngỗng thì cậu nghĩ sao?

– Ý kiến hay đấy chứ, – Tôi nói.

Chúng tôi leo lên một cái xe trong đoàn vận tải vũ khí. Phải mất hai điếu thuốc lá đấy. Cát đã mò được đúng chỗ. Cái chuồng bò ấy là của một ban tham mưu trung đoàn. Tôi quyết tâm lùng cho bằng được ngỗng và hỏi dò tình hình. Chuồng bò ở sau bức tường, chỉ cài bằng mỗi cái then ngang.

Cát chụm hai tay lại làm bàn đạp, tôi đặt chân lên và trèo qua tường. Cát đứng ngoài gác.

Trong mấy phút tôi đứng im cho quen mắt với bóng tối. Rồi mới nhận ra cái chuồng bò. Tôi nhẹ nhàng lẻn vào, sờ soạng cái then ngang, nhấc nó ra và mở được cửa. Tôi nhận thấy hai đốm trắng. Hai con ngỗng, rầy rà đây, vì nếu bắt con này, con kia sẽ kêu ầm lên. Vậy phải túm cả hai chú; nếu tôi làm thật nhanh gọn thì sẽ ổn cả.

Tôi nhảy vọt vào, tóm ngay được một chú và một lát sau tóm nốt được chú kia. Chẳng khác gì thằng điên, tôi đập đầu chúng vào tường để làm cho chúng choáng đi. Nhưng có lẽ tôi không được khỏe cho lắm.

Hai con vật giãy giụa, chân và cánh chúng đạp, vẫy lung tung. Tôi vật lộn với chúng bở cả hơi tai, nhưng, trời, cái giống ngỗng sao mà khỏe thế! Chúng nó lôi kéo làm tôi loạng choạng cả người. Trong bóng tối, những cái vật trắng ấy sao mà gớm ghiếc thế. Hai tay tôi bây giờ như mọc cánh ra. Tôi sợ có lẽ bị lôi tuột lên trời mất, khác nào mỗi bàn tay tóm lấy hai quả khinh khí cầu! Nhưng đã vậy lại có tiếng động nữa chứ! Một trong hai cái cổ họng đã hít được không khí và kêu lên như đồng hồ báo thức. Bất thình lình có một vật gì từ phía ngoài lao tới; tôi bị xô mạnh một cái, ngã lăn chiêng xuống đất và nghe thấy tiếng gầm dữ tợn! Một con chó! Tôi ngoảnh lại nhìn và kìa, nó đang há mõm ra nhằm thẳng vào cổ tôi. Ngay lập tức, tôi nằm cứng người ra, nhất là ghì sát cằm vào cổ áo quân phục.

Một con chó gộc. Sau một lúc lâu, tưởng như vô tận, cái đầu nó lùi lại rồi nó ngồi xuống cạnh tôi. Nhưng hễ tôi hơi cựa quậy một tí, nó lại gầm gừ. Tôi tính nước. Điều duy nhất tôi có thể làm được là rút khẩu súng lục nhỏ ra. Dù sao cũng phải tếch khỏi nơi đây trước khi có người đến. Từng phân, từng phân một, tôi nhích bàn tay về phía khẩu súng lục. Tôi có cảm giác là lâu đến hàng giờ. Mỗi cử động nhỏ đều tiếp theo một tiếng gừ đáng sợ của con chó.

Tôi nằm im rồi lại tiếp tục. Đến khi tôi đã nắm được khẩu súng lục trong tay rồi thì bàn tay cứ run lên, quyết định bắn trước khi con chó có thể cắn được, rồi vọt qua tường ngay.

Tôi thở thong thả và trở nên bình tĩnh hơn. Rồi tôi nín thở; nâng khẩu súng lên; viên đạn nổ, con chó gộc ngã vật xuống, hộc lên, tôi chạy vọt ra cửa chuồng bò, vấp ngay phải một trong hai chú ngỗng đang núp ở đấy.

Nhanh như chớp, tôi tóm nghiến lấy nó, vất qua tường rồi tôi cũng trèo qua luôn. Chưa sang đến bên kia thì con chó cũng đã vùng dậy được và lao về phía tôi. Tôi nhảy bừa ngay xuống. Cát đứng đó, trước mặt tôi mươi bước, tay cắp con ngỗng. Anh ta vừa nhìn thấy tôi là hai đứa chuồn thẳng.

Cuối cùng, hai đứa đã thở được. Con ngỗng đã chết. Trong một loáng. Cát đã bóp chết nó. Chúng tôi tính quay ngỗng luôn để không ai hay biết gì cả. Tôi đi lùng những cái liễn và củi trong lán trú quân, rồi chúng tôi lẻn vào một căn nhà bỏ hoang mà chúng tôi thường dùng vào những việc này.

Chúng tôi đóng chặt cái cửa sổ duy nhất của căn nhà lại. Trong nhà có một cái giống như bếp lò, một mảnh sắt kê trên những hòn gạch. Chúng tôi nhóm bếp.

Cát vặt lông ngỗng và sửa soạn quay. Chúng tôi cẩn thận để lông ngỗng vào một chỗ. Chúng tôi định bụng làm hai cái gô nhỏ, rồi ghi lên trên: “Hãy ngủ ngon giữa lửa đạn.”

Hỏa lực của trọng pháo ầm ĩ bao quanh ngôi nhà ẩn dật của chúng tôi, ánh lửa bếp lò nhảy múa trên mặt chúng tôi, bóng người cũng nhảy múa trên tường. Thỉnh thoảng lại có tiếng nổ ù tai, làm rung chuyển cả căn nhà nhỏ bé, ấy là bom từ máy bay ném xuống. Một lần chúng tôi nghe thấy những tiếng kêu thất thanh, có lẽ một lán trú quân đã bị trúng bom.

Tiếng máy bay ầm ĩ, tiếng súng máy tặc tặc.

Nhưng không có một tí ánh sáng nào lọt ra khỏi chỗ chúng tôi để bên ngoài có thể nhìn thấy. Thế là Cát và tôi, hai thằng lính quân phục sờn rách, ngồi đối diện nhau quay ngỗng giữa đêm khuya. Chúng tôi không nói nhiều nhưng chúng tôi để ý săn sóc nhau từng li từng tí, thiết tưởng còn hơn cả những cặp tình nhân.

Chúng tôi là hai con người, hai tàn lửa sống nhỏ bé, ở ngoài kia, là đêm tối, là vòng vây của thần chết. Chúng tôi ngồi ngay bên rìa bóng đêm và thần chết, vừa bị đe dọa, vừa được che chở; mỡ chảy trên bàn tay chúng tôi; tấm lòng chúng tôi gặp nhau và giờ phút hai đứa tôi đang sống cũng giống như chỗ chúng tôi đang ngồi, ngọn lửa êm dịu của tâm hồn đang nhảy múa những ánh sáng và những hình bóng của nguồn cảm xúc. Anh ta biết gì về tôi và tôi, tôi biết gì về anh ta. Trước đây chẳng một ý nghĩ nào của chúng tôi giống nhau; nhưng bây giờ chúng tôi ngồi trước một con ngỗng, chúng tôi thông cảm đời sống của nhau, chúng tôi gần gũi nhau đến nỗi không cần nói đến nữa.

Quay một con ngỗng, cũng mất thì giờ đấy, dù rằng ngỗng non và béo, vì vậy hai đứa phải thay phiên nhau. Đứa này ngồi rưới mỡ vào con ngỗng thì đứa kia ngủ. Dần dần một mùi thơm ngào, ngạt tỏa ra chung quanh chúng tôi. Những tiếng động bên ngoài làm thành một thứ móc xích, một giấc mơ, nhưng trong đó, kỉ niệm không hoàn toàn bị xóa mờ. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi thấy Cát giơ lên hạ xuống cái cùi dìa; tôi yêu anh ta với đôi vai, với cái bóng dáng xương xương và khòm khòm, đồng thời phía sau anh ta tôi nhìn thấy những khu rừng, nhũng cây cối, và một giọng ngọt ngào nói lên những lời an ủi tôi, một chú lính bé nhỏ bước đi dưới bầu trời rộng lớn với đôi ủng to, cái thắt lưng da, cái túi dết, theo con đường trước mặt, rất dễ quên, rất ít khi buồn và đi tới mãi dưới bầu trời khuya bát ngát.

Một chú lính bé nhỏ và một giọng nói ngọt ngào và nếu người ta muốn dỗ dành chú ta, có lẽ giờ đây chú ta sẽ không thể hiểu ra làm sao nữa, cái chú lính đang bước đi kia với đôi ủng to và trái tim rã rời, cái chú lính đang bước đi kia vì chú ta có đôi ủng và đã quên tất cả, trừ cái việc phải đi.

Ở chân trời phải chăng có những bông hoa và một phong cảnh xiết bao êm đềm mà chú lính muốn thương khóc? Ở đấy phải chăng có những hình ảnh mà chú đã không để mất, vì chú chưa hề có, những hình ảnh rạo rực, nhưng đối với chú lại là vật quá khứ? Phải chăng ở đấy có cái tuổi hai mươi của chú? Mặt tôi ướt đẫm và tôi tự hỏi mình đang ở đâu đây? Cát đang ngồi trước mặt tôi, cái bóng khổng lồ của anh ta cúi sát xuống, nghiêng về phía tôi, như hình ảnh của quê hương. Anh ta nói khẽ, anh ta mỉm cười và quay lại bếp lửa.

Rồi anh ta nói:

– Xong rồi.

– Thế à, Cát.

Tôi cựa mình. Giữa không gian, lấp lánh con ngỗng quay vàng. Chúng tôi cầm nĩa và dao, mỗi đứa cắt một đùi. Chúng tôi chén với bánh lính, chấm vào nước sốt. Chúng tôi ăn thong thả, rất thú vị.

– Ngon không, Cát?

– Ngon, còn cậu?

– Ngon lắm, Cát ạ.

Hai đứa chúng tôi như anh em ruột thịt, chúng tôi nhường nhau những miếng ngon nhất. Sau đó, tôi hút một điếu thuốc lá, Cát hút một điếu xì gà. Còn thừa nhiều vô khối.

– Cát này, bọn mình mang cho Cốp và Jađơn một miếng nhé, cậu nghĩ sao? Được thôi? – Anh ta nói.

Chúng tôi chặt một miếng và gói cẩn thận vào giấy báo. Chúng tôi định để dành chỗ còn lại cho bọn ở lán, nhưng Cát cười, chỉ nói mỗi tiếng: “Jađơn.” Tôi hiểu ngay, chúng tôi phải mang cả đi. Thế là chúng tôi đi về phía chuồng gà đánh thức hai tướng dậy. Trước đó, chúng tôi đã gói chỗ lông ngỗng vào một bọc và quăng đi thật xa. Cốp và Jađơn nhìn chúng tôi đầy vẻ ngạc nhiên. Thế rồi quai hàm của hai đứa bắt đầu làm việc. Jađơn, hai tay cầm một cánh ngỗng đặt vào mồm như thổi kèn ácmônica, rồi gặm. Nó húp mỡ trong liễn, vừa nói vừa ăn nhồm nhoàm: “Đến chết tớ cũng không quên được.”

Chúng tôi quay về lán trú quân. Và đây, lại bầu trời rộng lớn với các vì sao và buổi bình minh chớm rạng và dưới đây tôi đang bước đi, chú lính có đôi ủng to và cái bụng no kềnh, chú lính bé nhỏ lẩn mất trong ánh mặt trời mới bắt đầu bừng chiếu, nhưng bên cạnh tôi có Cát, bạn tôi, lom khom và xương xương đang đi.

Những đường nét của lán trú quân đã hiện ra trước mắt chúng tôi, trong bóng mờ của buổi rạng đông, như một giấc ngủ đen tối, triền miên.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.