Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ

Tiếp



Thay vì giết ai hoặc đe dọa làm việc đó, tôi ngồi trong phòng viết như điên, lạm dụng cái máy đánh chữ, cố gắng đắm chìm vào cái hài hước và lạ lẫm của những quyển sách. Tôi nảy ra một hạ sách về hầu hết các chuyến đi để viết. Tôi muốn đưa vào tất cả mọi thứ tôi thấy thiếu ở những quyển sách khác – các cuộc hội thoại, nhân vật, sự thiếu thốn – và nhìn chung bỏ qua các bảo tàng, nhà thờ, thắng cảnh. Mặc dù một phần đã được thêm vào, tôi lại che đậy mọi thứ về cơn bão trong nhà tôi. Tôi viết sách hài hước và giống những quyển sách hài hước khác được viết trong cơn đau đớn cực độ phải chịu đựng, với niềm ân hận rằng để có được chuyến đi, tôi đánh mất những điều mà tôi trân trọng nhất: các con, người vợ và gia đình hạnh phúc của tôi.

Quyển sách thành công. Tôi thoát khỏi cơn ác mộng của mình bằng cách lao động nhiều hơn – một ý tưởng đã nảy ra trong chuyến đi cho cuốn tiểu thuyết mới. Dĩ nhiên vài thứ đã mất đi: lòng chung thủy, tình yêu, lòng tin và niềm tin vào tương lai. Sau chuyến đi, khi quay về, tôi trở thành một người ngoài cuộc, một bóng ma, với cái mũi đang ấn vào cửa sổ. Tôi đã hiểu thế nào là giống như đã chết: người ta có thể nhớ anh, nhưng cuộc sống của họ vẫn tiếp tục mà không cần có anh. Những người mới nhảy vào vị trí của anh. Chúng ngồi trên cái ghế ưa thích của anh và nâng niu các con anh trên đùi, khuyên nhủ và day cằm bọn trẻ; họ ngủ trên giường của anh, nhìn vào các bức vẽ của anh, đọc sách của anh, tán tỉnh cô vú em Đan Mạch; và khi họ hạ thấp giá trị của anh xuống thành kẻ nô lệ siêng năng quá mức, họ sẽ tiêu tiền của anh. Trong phần lớn thời gian, cái chết của anh bị lãng quên. “Có thể đó là vì điều tốt nhất,” người ta nói, cố gắng không sa vào bệnh hoạn.

Một vài sự phản bội có thể tha thứ được, nhưng từ đó có những điều khác không bao giờ khôi phục được. Nhiều năm sau, khi các con tôi không ở nhà nữa, tôi rời khỏi cuộc sống đó, cuộc hôn nhân đó, đất nước đó. Tôi bắt đầu cuộc sống mới ở một nơi khác.

Bây giờ, sau ba mươi ba năm, tôi quay trở lại London. Đối với nỗi đau của mình, việc thực hiện chuyến đi tương tự lần nữa đã khiến tôi hồi tưởng lại rất nhiều nỗi đau mà tôi nghĩ đã quên.

Không gì phù hợp cho một chuyến khởi hành quan trọng hơn là thời tiết xấu. Nó cũng phù hợp với cảm xúc của tôi, cơn mưa sáng hôm đó ở London, bầu trời thấp màu nâu lất phất mưa phùn, làm tối thành phố bằng đá cổ kính lỗ chỗ mà vì thế, mưa rơi xuống như một gánh nặng – mọi người lom khom, đầu cúi xuống, mắt nhìn xuống, nghĩ ngợi. Giao thông ồn ào hơn, những bánh lốp nặng trịch vút đi trên những con phố ướt nhẹp. Tại ga Waterloo, tôi tìm đúng sân ga cho chuyến tàu Ngôi Sao châu Âu, chuyến lúc 12 giờ 9 phút đi Paris.

Thậm chí tại Waterloo, những ký ức của tôi về London xưa kia vẫn gần như nguyên vẹn. Những điều không thay đổi về người London, cung cách đi nhanh và những phản ứng cố định của họ, không ai vẫy mũ trong cơn mưa dù vài người mang dù – tất cả chúng tôi, kể cả tiếng huyên náo vui vẻ, lướt qua một người đàn bà còn trẻ gầy gò quấn trong một cái chăn bông bẩn thỉu, ngồi ăn xin trên sàn nhà ướt át, dưới chân mấy bậc thang kim loại của nhà ga.

Và sau đó có thể tưởng tượng ra chuyến đi quốc tế đơn giản nhất: một lần kiểm tra an ninh nhanh gọn, thủ tục nhập cảnh của Pháp, đi lên thang máy để đợi tàu, nửa ngày trống rỗng trong một ngày ướt át đầu tháng Ba. Năm 1973, tôi đã đi từ ga Victoria vào buổi sáng, ra bờ biển Folkstone, lên phà, đi qua eo biển Anh, lên một chuyến tàu khác tại Calais và đến Paris lúc nửa đêm.

Đó là trước khi đường hầm được xây dựng dưới lòng eo biển. Nó đã tiêu tốn hai mươi tỷ đô la và mất mười lăm năm, người ta chỉ trích dự án này là ném tiền qua cửa sổ. Mặc dù tàu hỏa đã chạy qua hầm từ mười hai năm trước, tôi chưa lần nào đi nó. Không để ý đến chi phí, chuyến tàu đi xuyên eo biển là một điều tuyệt vời. Tôi nhấm nháp sự lười nhác yên ổn của một lữ khách bằng cách đi bộ ra nhà ga và ngồi đó tại London, đọc một cuốn sách, và vài giờ sau đứng dậy đi tới Paris mà không rời khỏi lòng đất. Và tôi dự định đi tới Trung Á bằng cách tương tự, đi đường bộ tới Ấn Độ, chỉ ngồi và ngáp cạnh cửa sổ.

Lúc này, tôi không được cấp visa vào Iran, mà thường dân đang bị bắt cóc và bắn chết ở Afghanistan, nhưng khi nghiên cứu bản đồ, tôi tìm ra những con đường và tuyến đường sắt khác – qua Thổ Nhĩ Kỳ và Grudia rồi đi vào các quốc gia Hồi giáo. Đầu tiên là Azerbaijan, sau đó đi phà qua biển Caspian, rồi đi tàu đến Turkmenistan, chạy qua thành phố cổ Merv nơi có một ga tàu hỏa, tới bờ của con sông Amu Darya – trên thực tế là Oxiana – và có nhiều chuyến tàu tới Bukhara, Samarkand và Tashkent, ở Uzbekistan, trong khu vực bao phủ của đường sắt Punjab.

Sau đó, tôi có thể đi theo hành trình cũ qua Ấn Độ tới Ceylon và tới Miến Điện. Nhưng thật sai lầm khi dự đoán trước quá nhiều thứ và quá sớm trong chuyến đi, dù sao, ở đây tôi mới đi khỏi Waterloo vài phút, đang ở trên đường ray chuyển làn sáng bóng vì cơn mưa như trút tại trạm trung chuyển Clapham, tôi nghĩ: tôi đã từng ở đây. Trên đường đi qua phía Nam London, khuôn mặt hoảng sợ của tôi in trên cửa sổ, cuộc sống trước đây của tôi, một người ở London, bắt đầu trôi qua mắt tôi.

Quang cảnh của những năm bảy mươi, dọc theo con đường này, qua Vauxhall và rẽ tại đường Queenstown, đi qua đường Clapham High và Brixton rồi đi qua Clodharbour Lane, một cái tên làm tôi ớn lạnh. Ở đây vào năm 1978, đã nổ ra một cuộc nổi loạn liên quan tới chủng tộc tại khu Battersea Rise, gần cửa hàng Chiesman (“thành lập năm 1895”), nơi các nhân viên rụt rè tới hỏi, “Anh có được phục vụ không?” Tôi mua cái máy thu hình màu đầu tiên ở đó, gần con phố trên Lavender Hill nơi Sarah Ferguson, sau này trở thành nữ Công tước vùng York, từng sống; vào ngày hôn sự của bà và Hoàng tử Andrew được công bố, bà giúp việc nhà tôi, đang cầm một cái giẻ và thùng nước lau sàn, cười khẩy nói, “Cô này thuộc tầng lớp cặn bã.”

Chúng tôi đang đi trên đường tàu hỏa nằm sâu dưới đất, ngày càng xa khỏi trạm trung chuyển Clapham và từ trên tàu, tôi thoáng nhìn thấy một rạp chiếu phim mình từng đến xem cho đến khi nó biến thành chỗ đánh bạc, cái nhà thờ đã biến thành trung tâm chăm sóc trẻ con và trường cấp một Alfarthing tọa lạc bên kia khu vực công cộng, nơi các con tôi, mặt đều xanh xám, đi chân trần, được cô Quarmby dạy hát. Có những con phố tôi biết rõ: trên một con phố tôi mất xe đạp, trên con phố khác xe ô tô của tôi bị hỏng; phố tôi đã từng mua hoa quả thịt thà; gái điếm, người bán hoa, cửa hàng bán hoa quả của người Tàu; tòa soạn báo, một người Ấn Độ ở Mwanza thích nói tiếng Swahili với tôi bởi anh ta nhớ vùng bờ hồ Victoria; quán Fishmonger’ Arms – được gọi là Fish – một quán rượu Ireland nơi những người tị nạn Ulster chửi thề tục tĩu bất cứ khi nào họ thấy Thái tử Charles trên máy thu hình và cười giống như trẻ con vào cái ngày Huân tước Mountbatten bị IRA đặt bom giết chết, và là nơi vào mọi buổi tối, tôi uống một panh rượu Guinness, đọc tờ Evening Standard. Khu vực này thật đặc biệt.

Với bối cảnh như thế, tôi quả thực đã có cuộc sống kiểu London của mình. Trong những ngày đó, tôi cầu trời mưa, vì như vậy mới giữ chân tôi ở nhà – viết về thời tiết. Những gì tôi nhìn thấy hôm nay thật thân quen, nhưng không lặp lại – công thức quen thuộc cho một giấc mơ. Tôi nhìn gần hơn. Cây cối trơ trụi lá dưới những đám mây xám tan tác, đa số các tòa nhà không thay đổi gì, nhưng trước đây London trẻ trung hơn, thịnh vượng hơn. Khi tôi mới dọn đến đây, khu phố này bị bỏ hoang đến một nửa – những ngôi nhà trống trải, những ngôi nhà bị chiếm dụng bất hợp pháp, những ngôi nhà chậm trả tiền thuê – giờ trở nên sang trọng. Cửa hàng tạp phẩm của người Hoa đã trở thành tiệm rượu, và một quán bar đã trở thành hộp đêm, một cửa hàng bán đồ ăn nhanh gồm cá tẩm bột chiên và khoai tây chiên giờ là một quán sushi.

Nhưng điều tuyệt vời là tôi đã lướt nhanh qua khu phía Nam London một cách hiệu quả đến vậy, tôi đã hơi phung phí nỗi đau nội tâm khi soi lại quá khứ. Tôi đang lướt qua các đường ngầm và cầu vượt, đường ray xuyên núi, nhìn sang trái, sang phải để ngắm quang cảnh trong ký ức của mình và vui vẻ đi tiếp, tới những nơi khác, mà chẳng bận lòng chút nào về thứ ký ức mơ hồ. Đừng đắm chìm vào đó, đó là câu nói của người Anh thể hiện sự căm ghét lời than phiền. Không được càu nhàu. Đừng ủ ê nữa. Chuyện đó có thể không bao giờ xảy ra.

Tôi yêu tốc độ của con tàu này, nó không dừng lại bất kỳ đâu, chỉ thẳng tiến ra bờ biển, đi qua Penge, Beckenham, Bromley – nằm ở bên rìa bản đồ London và những ngôi nhà chòi cũ trông kỳ cục khiến tôi liên tưởng đến những tiểu thuyết nói về vùng ngoại ô, những câu chuyện nhiều nút thắt, diễn tiến chậm rãi và những gia đình lo lắng, đặc biệt là Kipps và Mr Beluncle (Ông Belunch) của các nhà văn quê Bromley là H. G. Wells và V. S. Princhett, họ đã trốn đi và sống sót để viết về quê mình.

Trên kệ sách văn học đáng tự hào của Anh có đề cập đến những gì chúng ta nhìn thấy qua ô cửa của tàu hoả, những bài thơ với những câu nổi lên: “Ôi, người đàn bà da trắng to béo chẳng được ai yêu thương” và “Vâng, tôi nhớ Adlestrop”, rồi những đoàn tàu lao lên rồi trượt xuống trong những trang sách của P. G. Wodehouse và Agatha Christie. Nhưng với tôi đoạn mô tả thành công nhất, diễn đạt trọn vẹn những trải nghiệm của đường sắt Anh là của Madox Ford trong tác phẩm lấy cảm hứng từ thành phố này, cuốn sách thành công đầu tiên của ông – The soul of London (Tâm hồn London),xuất bản một trăm năm trước. Nhìn ra ngoài ô cửa sổ của toa tàu, Ford nói về cảm giác tĩnh lặng khi ngồi trong một đoàn tàu nhìn ra thế giới náo nhiệt (nhưng không nghe thấy tiếng động) ở bên ngoài, điều ấy khiến ta thấy u hoài. “Người ta ngồi sau tấm kính, như thể đang nhìn vào một bảo tàng tĩnh lặng; người ta không thể nghe thấy tiếng rú rít ngoài phố, không tiếng kêu gào của trẻ con.” Từ London cho đến Tokyo, tôi vẫn thấy những gì ông mô tả thật đúng: “Người ta cũng nhìn thấy có quá nhiều mảnh vụn nhỏ nhặt của cuộc sống dang dở.”

Ông ghi lại hình ảnh một chiếc xe buýt gần nhà thờ, một đứa trẻ rách rưới, một viên cảnh sát trong bộ đồng phục màu xanh. Tôi đã thấy một người đàn ông đi xe đạp, một người phụ nữ bước xuống từ xe buýt, mấy cậu học sinh đang đá bóng, một người mẹ trẻ đẩy xe nôi. Và đây là khung cảnh ở vườn sau của London, một người đàn ông đang đào đất, một phụ nữ đang phơi đồ, một công nhân – hay là một tên trộm? – đang dựa thang vào cửa sổ. Và “một loạt sự việc nhỏ nhặt liên tiếp diễn ra trước mặt ta, ta chẳng bao giờ xem được hết, khiến việc nhìn ra ngoài cửa sổ tàu đem lại một cảm giác xúc động và không được thỏa mãn. Cũng như cảm giác ăn sâu vào bản chất con người khi tha thiết muốn có một cái kết cho mỗi câu chuyện.”

“Những mảnh vụn nhỏ nhặt của cuộc sống dang dở” – điều mà người đi du lịch thường thấy – khơi nguồn cảm xúc và thơ ca, cũng như cảm giác phát điên khi bị là người ngoài cuộc, nhảy sang những kết luận, khái quát hóa, sáng tạo hoặc tái tạo nhiều nơi chốn từ những cái nhìn vu vơ. Chỉ mất hai mươi phút để đi từ khu Waterloo bám đầy bồ hóng sang bên kia, khu nông trang Kent thoáng đãng, nhiều cánh đồng đã được cày bừa, đang đợt gieo hạt trong tuần đầu tiên của tháng Ba.

“Ngài có dùng rượu vang cho bữa trưa không?”

Một phụ nữ trong bộ đồng phục xanh mang cho tôi chai Les Jamelles Chardonnay Vin de Pays d’Oc 2004, được ca ngợi trong thực đơn là “phảng phất hương vani tinh tế từ cây sồi và kết thúc với vị bơ.”

Sau đó là khay đồ ăn trưa: patê gà với cải xanh, tương cà chua, món chính là một lát phi lê cá hồi rắc ít tiêu, và một viên kem sô cô la tráng miệng. Chuyến đi như thế này, ít nhất về hình thức, là cả một thế giới rất khác với phiên chợ đường sắt Phương Đông, hành trình từ rất lâu rồi, đi đến Folkestone, sau đó dừng lại ở đường ray phà, cảm thấy tội lỗi và bối rối, ăn một chiếc bánh thịt lợn lạnh ngắt.

Đường hầm đúng là một phép mầu trong hai mươi phút, như một lỗ hang thỏ dài vô tận, đưa tôi đi từ ký ức nước Anh, vượt qua đường ngầm dưới kênh đào để đến Pháp, tại đây tôi chỉ nhớ lại láng máng và hời hợt về cảm giác thích thú và hiểu lầm, về chuyện ăn uống, ngắm nhìn những bức tranh hoặc nghe mấy chuyện kỳ quặc, ví dụ như chuyện một thiếu nữ Pháp trẻ đẹp, nói với tôi rằng “Tôi sẽ gặp người tình vị hôn phu của tôi tối nay. Tôi định là chúng tôi sẽ làm tình với nhau. Tôi thích những phụ nữ ngu ngốc.” Và sau đó cô ta nói: “Ông đang cười. Mấy người Mỹ các ông!”

Sau khi đi qua đường hầm, mưa bắt đầu rơi từ bầu trời nước Pháp xuống những mái nhà nghiêng nghiêng và những chiếc ô tô nhỏ xíu đang lái theo lề bên phải, nhưng ngoài chuyện đó ra, nó cũng giống khu Kent: cũng những ngọn đồi nhẵn nhụi và cao nguyên đá vôi, cũng không gian mờ sương, những khu nhà kho, những nhà xưởng và nhà phụ công nghiệp thấp tè, những dãy cây dương trần trụi trong một buổi chiều mù sương.

Chuyến tàu thật nhanh, khoảng cách giữa Anh và Pháp thật gần, thật khó mà nghĩ rằng Pháp là một đất nước hoàn toàn khác biệt, với những món ăn, các vụ xì căng đan, ngôn ngữ, tôn giáo và những vấn đề nan giải riêng. Các thanh niên đạo Hồi điên cuồng đốt xe hơi là một trong những vấn đề hiện nay; chỉ có một người chết nhưng rất nhiều xe Renaults bị cháy.

Tại sao văn hóa đi mô tô trên xa lộ ở châu Âu lại ảm đạm hơn bất cứ nơi nào ở Mỹ? Có lẽ vì như thế sẽ giống bắt chước và trông nhàm chán, không có phong cách, và không phù hợp, người châu Âu không thể hợp khi đội một chiếc mũ của dân bóng chày. Trong khi đó các nhà ga và khu công nghiệp lại rất hợp với hình ảnh ảm đạm nhàm chán của kiến trúc Mỹ, trông ngang bướng, trái ngược với phong cảnh kiểu Pháp với những đường xoắn ốc kiểu gothic và những biệt thự gỗ kiểu Trung cổ ở phía xa xa, giống như sự chà đạp lên giá trị cũ, những ngôi làng chen chúc cùng những cánh đồng đã cày xới, bãi cỏ bị những con đường xấu xí và hàng rào cũ nát cắt ngang.

Vì cái mà Freud gọi là “sự tự say mê những khác biệt tiểu tiết,” tất cả những chiến trường rộng lớn, những chiến trường từ thời cổ đại đã là quang cảnh của những đội quân hiếu chiến, một ví dụ đẫm máu của nền văn minh và nỗi bất mãn của nó. Nhưng dù người ta nói gì đi nữa, tuyến đường xe lửa vẫn là một thực tế, nơi đã từng chìm trong máu và dày đặc những hố huyệt của lính chết trận – hàng triệu người – giờ đây đã bình yên trong suốt nửa thế kỷ qua, có lẽ đây là giai đoạn hòa bình dài nhất.

Chúng tôi đi qua một con sông có cái tên bi kịch. Một ngày tháng Bảy chín mươi năm về trước, đây là nơi cơn mưa nhẹ đã rơi xuống những đồng cỏ tuyệt đẹp, những dãy đồi thấp, những ngôi nhà cấu trúc xoắn ốc ở thành phố Amien, một bên là đoàn tàu và bên kia là thị trấn Peronne, thung lũng của con sông Somme, đã trở thành sân khấu của một tai họa kinh hoàng. Trong ngày đầu tiên của cuộc chiến, sáu mươi nghìn lính Anh đã bị giết, họ di chuyển chậm chạp, nặng nề vì phải vác trên lưng ba lô nặng hơn ba chục ki lô gam. Họ tiến vào họng súng máy của Đức, ngày hôm đó ghi nhận số quân lính chết nhiều nhất trong lịch sử nước Anh. Bốn tháng ròng cuộc chiến trong biển máu, trận đầu tiên ở Somme kết thúc vào tháng Mười một năm 1916, hơn một triệu quân bị giết – quân Anh: 420.000; Pháp: 194.000; Đức: 440.000. Và chẳng vì lý do gì cả. Chẳng thu lại được gì, chẳng có đất đai, cũng chẳng có lợi thế quân sự, cũng chẳng rút ra bài học gì trong cuộc chiến vô nghĩa này, và hai mươi nhăm năm sau đó – trong chính thời gian cuộc đời tôi – cũng những quân đội đó lại đến đây và chiến đấu trên chiến trường xưa. Tất cả đều là những nước thực dân quyền lực, đã xâm chiếm nhiều miền đất rộng lớn ở châu Phi và châu Á để lấy vàng và kim cương, và dạy cho người dân nơi đó bài học về văn minh.

Màu sắc và quần áo của những người đi bộ trên các con phố gần Paris phản ảnh lịch sử thực dân của Pháp – người Phi, Tây Ấn, Angeri, Việt Nam. Họ đang đá bóng trong mưa. Họ là những người mua sắm trong các khu chợ ngoài phố, cư dân trong các căn hộ của những tòa nhà ảm đạm, các quán rượu ven Paris nơi tàu tốc hành Ngôi Sao châu Âu đi ngang qua. Chúng tôi tiến vào thành phố bằng đá giống miếng pho mát thơm ngon với mặt ngoài thủng lỗ chỗ và những đại lộ lớn. London nói chung là thành phố của những mái nhà thấp nơi các gia đình riêng ở – nhà mái bằng, nhà tranh, nhà thành phố, nhà ổ chuột, nhà chòi, biệt thự liền vách. Còn Paris là thành phố của những chung cư theo kiểu Rococo[3], các ban công tròn đua ra, không thấy có ngôi nhà riêng nào.

[3] Giai đoạn cuối cùng trong thời kỳ kiến trúc Baroque, đặc trưng bởi nghệ thuật trang trí nội thất theo phong cách lãng mạn, hoa văn với các gam màu nhạt.

Với chiếc túi nhỏ và một va li, tôi trông đơn giản quá khiến mấy anh bốc dỡ hành lý ở ga Nord lờ tôi đi. Tôi đi qua nhà ga, đến cổng vào phía trước, ngập trong dòng ánh sáng phát ra từ mặt tiền ga với những bức tượng kiểu cổ điển tượng trưng cho các thành phố và thị trấn lớn ở Pháp. Các bức tượng được tạc vào đầu những năm sáu mươi của thế kỷ 19 (một tấm biển có ghi) là “những tên tuổi vĩ đại nhất trong Đế chế thứ Hai.”

Đường phố dày đặc những chiếc ô tô không nhúc nhích và tiếng còi xe inh ỏi lẫn tiếng hò hét giận dữ. Tôi hỏi một người đàn ông đang mỉm cười rằng có chuyện gì thế.

“Một cuộc biểu tình,” ông đáp.

“Sao lại là hôm nay?”

Ông ta nhún vai. “Vì hôm nay là thứ Ba.” Cứ vào thứ Ba là có một cuộc biểu tình lớn và ồn ào ở Paris. Nhưng với quy mô của nó và sự đập phá như thế này, thì đấy phải gọi là Ngày thứ Ba Đen Tối.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.