Putin - Sự Trỗi Dậy Của Một Con Người

Chương VIII: NGOẠI GIAO HAI CÁNH



Hướng ra thế giới, ưu tiên kinh tế thương mại

Trong bản báo cáo tình hình năm 2002, Pu-tin đã nói nhiều, nói đặc biệt đến vấn đề Nga gia nhập Tổ chức thương mại thế giới.

 Điều này cho thấy, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới đã trở thành vấn đề trọng đại mà các nhà quyết sách tối cao của Nga quan tâm chú ý.

Mấy năm gần đây, việc có gia nhập Tổ chức thương mại thế giới hay không đã dẫn đến tranh luận cực kỳ lớn ở Nga. Những người phản đối nói, nền kinh tế Nga không có sức cạnh tranh lớn lắm, sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới rồi, không đủ để ứng phó với thách thức mà WTo đem đến. Một cuộc điều tra dân ý cho thấy, trong các doanh nghiệp của Nga chỉ có khoảng 10% cho rằng mình có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, khoảng 90% doanh nghiệp cho rằng mình thiếu sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Còn có người phân tích, trong các thiết bị sản xuất của Nga hiện nay, có tới 2/3 đã lỗi thời, còn ngành dịch vụ thì đang ở trong giai đoạn mới cất bước, điều nguy hiểm hơn là nông nghiệp ì ạch không tiến được. Các chuyên gia phân tích nói, cho dù doanh nghiệp có thiết bị tiên tiến giống như nước ngoài, thì giá thành của sản phẩm sản xuất ra cũng cao hơn so với nước ngoài, điều này chủ yếu là do điều kiện khí hậu, diện tích rộng lớn của Nga dẫn đến chi phí vận tải gia tăng. Trong giá thành sản phẩm của Nga, phí vận chuyển chiếm tỷ lệ tương đối lớn.

Còn những người tán đồng thì cho rằng, bất kỳ một nước nào trên thế giới hiện nay có thuận theo xu thế toàn cầu hoá kinh tế hay không, có hội nhập không gian kinh tế thế giới hay không đã không còn không gian để lựa chọn nữa. Thị trường của Nga đã là một bộ phận của thị trường lớn thế giới. phó giám đốc Viện nghiên cứu châu Âu của Viện khoa học Nga i-va-nốp nói, đối với Nga hình thành kinh tế thị trường kiểu mở cửa và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới là lựa chọn duy nhất về chiến lược. Nó có thể dọn sạch đường cho hàng hoá của Nga xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, đồng thời khiến cho cạnh tranh trong nước trở nên kiện toàn hơn. Nga sẽ mượn pháp quy của Tổ chức thương mại thế giới, đưa một loạt pháp quy hiện đại trình độ thế giới vào pháp quy của Nga.

Thông qua so sánh những ý kiến của hai phe nói trên, Pu-tin cho rằng, Tổ chức thương mại thế giới là một thứ công cụ. giỏi sử dụng nó, ai cũng có thể trở nên lớn mạnh hơn. Ai không biết sử dụng nó hoặc không muốn sử dụng nó, không muốn học, muốn ngồi trong hàng rào hạn ngạch và thuế suất của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, thì người đó chắc chắn sẽ thất bại, chắc chắn sẽ thất bại về mặt chiến lược.

Năm 2001 và nửa đầu năm 2002, qua tin tức từ trong nước Nga truyền ra, số người tán thành Nga gia nhập Tổ chức thương mại thế giới đã dần dần chiếm ưu thế. Nói theo cách nói của Pu-tin, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới cần phải suy nghĩ kỹ càng.

Đầu năm 2002, Nga đã triển khai đàm phán với các bên hữu quan về việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Ngày 14 tháng 3, căn cứ vào tiến trình đàm phán, chính phủ Nga xác định rõ hơn lập trường của Nga. Ngày 18 tháng 3, lại tiến hành một vòng đàm phán nữa tại giơ-ne-vơ. Bắt đầu từ tháng 4 khởi thảo nghị định thư điều kiện Nga gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Cảm giác gây cho mọi người là cánh cửa Nga bước vào WTo đã không còn xa nữa.

Từ chính phủ cho tới doanh nghiệp, từ công nhân cho tới nông dân, từ thành thị cho tới nông thôn ở Nga đều đang gấp rút cải cách, nhằm đón nhận thách thức to lớn đem lại cho các ngành các nghề của Nga, khi gia nhập WTo.

Về công nghiệp, hiệp hội công thương Nga thông qua điều tra đưa ra cơ chế khởi động nhà nước kích thích công nghiệp xuất khẩu, chính sách bao gồm cung cấp khoản vay của nhà nước, khuyến khích tiến bộ kỹ thuật, do nhà nước đặt mua sản phẩm mới…

Về mặt thuế suất nhập khẩu, đoàn đại biểu Nga tham gia đàm phán giơ-ne-vơ đã đưa ra sau khi Nga gia nhập WTo, thuế suất nhập khẩu của Nga sẽ duy trì mức hiện có. hơn nữa, đa số hàng hoá trong thời gian quá độ từ 3 đến 10 năm, thuế suất nhập khẩu hạ xuống không quá 5%. lĩnh vực dịch vụ, các ngành như tài chính tiền tệ, kế toán, vận tải, y tế và bưu chính viễn thông cũng đang khổ luyện nội công, chiếm cứ địa bàn.

Về mặt nông nghiệp, Bộ nông nghiệp Nga căn cứ vào quy tắc của Tổ chức thương mại thế giới, đưa ra con số chi ngân sách tài trợ cho nông nghiệp của nước mình.

Về mặt nhân tài, Pu-tin đưa ra yêu cầu cần bồi dưỡng cán bộ có trình độ tương ứng. Mỗi một nước thành viên Tổ chức thương mại thế giới đều có hàng ngàn người làm công tác điều hành thương mại và giải quyết tranh chấp. Mà nghiên cứu vấn đề này của cơ quan nhà nước của Nga chỉ có vài chục công chức. Pu-tin yêu cầu các cơ quan nhà nước đẩy nhanh việc bồi dưỡng nhân tài nắm bắt được kiến thức WTO.

Xét từ xu thế toàn cầu hoá kinh tế thế giới ngày nay, qua hành động của Nga, việc Nga trở thành một thành viên của WTo đã không còn xa nữa.

Tổng cán sự của Tổ chức thương mại thế giới Mu-en bày tỏ, Nga có thể gia nhập Tổ chức thương mại thế giới vào cuối năm 2003, thế nhưng Nga còn cần phải cố gắng thúc đẩy các cải cách kinh tế chủ yếu, nhằm có được tư cách trở thành hội viên.

Ông ta nói, mức độ mà Tổ chức thương mại thế giới cần Nga cũng như Nga cần Tổ chức thương mại thế giới vậy. Thiếu sự tham gia của Nga, Tổ chức thương mại thế giới sẽ không hoàn chỉnh. Ông ta bày tỏ, sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, thế giới càng cần Nga trở thành hội viên, nếu không Tổ chức thương mại thế giới hoàn toàn không phải là một tổ chức thương mại có tính thế giới thực sự. Nền kinh tế Nga tăng trưởng ổn định lành mạnh, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống và vận hành doanh nghiệp công khai hơn, có lợi cho Nga gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Thế nhưng, Nga còn cần phải cố gắng gấp bội. Ông ta nói, Nga cần phải hoàn toàn tiến hành cải cách kinh tế, nếu như bỏ dở giữa chừng, thì sẽ khiến cho nỗ lực gia nhập Tổ chức thương mại thế giới trở thành công cốc.

Pu-tin bày tỏ sự tán đồng về điểm này, ông nói, tiếp tục hội nhập cộng đồng quốc tế, trong đó bao gồm cả tranh thủ gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, cũng là nhiệm vụ chủ yếu của chính phủ Nga. Đồng thời ông cũng nhấn mạnh, Nga sẽ chỉ gia nhập Tổ chức thương mại thế giới “trong điều kiện có thể chấp nhận được”.

Song song với việc tích cực tìm kiếm gia nhập “WTo”, Pu-tin cũng đang tăng cường mối liên hệ với các nước thuộc tổ chức châu á – Thái Bình Dương. Khi phát biểu tại hội nghị các nhà lãnh đạo công thương Tổ chức hợp tác kinh tế châu á – Thái Bình Dương (APEC) năm 2001, Pu-tin bày tỏ, Nga sẽ tăng cường hợp tác với các nước thành viên APEC khác.

Pu-tin nói, kinh nghiệm công tác gần 10 năm nay của APEC chứng tỏ nó đã trở thành một mô hình văn minh nhất trong nhất thể hoá kinh tế quốc tế, không bị ảnh hưởng bởi trình độ phát triển của các nước và bất đồng về hình thái ý thức và chính trị. là một khối cộng đồng khu vực lớn mạnh, APEC đã dung hoà lợi ích của các bên, thích hợp với thể chế kinh tế các loại hình và trình độ phát triển khác nhau. Cơ chế vận hành của nó đã trở thành nhân tố ổn định của thể chế kinh tế tài chính thế giới, là bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống an ninh kinh tế quốc tế ngày nay.

Pu-tin nói, thế kỷ mới yêu cầu khu vực châu á – Thái Bình Dương có sự điều chỉnh mới trong quá trình phát triển kinh tế, bao gồm điều chỉnh về các mặt như chính sách năng lượng, vận tải và công nghệ thông tin. Ông nói, đến năm 2002, nhu cầu đối với năng lượng của khu vực châu á – Thái Bình Dương sẽ chiếm 45% của thế giới, khoảng cách giữa trữ lượng năng lượng và tiêu dùng của khu vực này sẽ mở rộng hơn. Sản xuất năng lượng của Nga ổn định, tài nguyên dầu khí phong phú ở miền đông không những có thể đáp ứng nhu cầu trong nước, mà còn có thể bảo đảm xuất khẩu với số lượng lớn. Pu-tin hy vọng tất cả các Nước thành viên APEC có thể trở thành đối tượng xuất khẩu tài nguyên dầu khí của Nga.

EU và phương Tây cũng là trọng điểm hợp tác đối ngoại của Pu-tin, hơn nữa hiệu quả trước mắt rõ rệt. Tại hội nghị thượng đỉnh EU – Nga tháng 4 năm 2002, Chủ tịch ủy ban EU tuyên bố EU chính thức thừa nhận rằng Nga đã phát triển thành một nước kinh tế thị trường chín muồi, cải cách kinh tế mấy năm gần đây cũng tương đối thành công. Việc đưa ra tuyên bố này khiến cho EU trở thành lực lượng kinh tế đầu tiên thừa nhận cải cách kinh tế của Nga.

Trong bài diễn văn khai mạc, Chủ tịch ủy ban EU nói: “Tôi tuyên bố một cách rất vui mừng rằng, EU sẽ chính thức thừa nhận Nga chuyển đổi mô hình thành một nước kinh tế thị trường. Đồng thời EU cũng sẽ tuân thủ những cam kết trước đây. là đối tác kinh tế thương mại chủ yếu của Nga, tin rằng hành động đi đầu thừa nhận cải cách kinh tế mấy năm gần đây của Nga là cách làm tương đối chính xác và thích đáng. hành động này đối với Nga mà nói, chắc chắn là một mốc tương đối quan trọng để Nga trở thành một nước thành viên của WTo”.

Còn phản ứng của Pu-tin đối với điểm này là, mục đích chủ yếu của việc Nga hợp tác kinh tế với EU là thực hiện “nhất thể hoá kinh tế”, ông bày tỏ sự hoan nghênh đối với việc EU thừa nhận Nga là nước có nền kinh tế thị trường.

Tại cuộc họp báo sau khi kết thúc hội nghị thượng đỉnh Nga – EU, Pu-tin nói, giữa Nga và EU tuy tồn tại một số vấn đề, nhưng sự hợp tác giữa hai bên sẽ không dừng lại, đối thoại năng lượng giữa hai bên đang phát triển nhanh chóng, trong đó bao gồm cả kế hoạch cung ứng dầu mỏ lâu dài của Nga cho EU.

Ngày 6 tháng 6 năm 2002, Tổng thống Mỹ Bu-sơ, khi nói chuyện điện thoại với Pu-tin, cũng thừa nhận Nga là nước kinh tế thị trường.

Bu-sơ nói, Bộ Thương mại Mỹ đã quyết định thừa nhận Nga là nước kinh tế thị trường. Pu-tin bày tỏ sự hoan nghênh về điều này, và chỉ ra điều này sẽ tăng thêm động lực mạnh mẽ cho việc phát triển quan hệ kinh tế Nga – Mỹ.

Phó chủ nhiệm văn phòng chính phủ Nga Vô-rin khi đánh giá quyết định của Mỹ thừa nhận Nga là nước kinh tế thị trường đã chỉ ra, chính phủ Nga hy vọng sau này các nhà doanh nghiệp Nga sẽ không còn gặp phải những biện pháp và hạn chế có tính kỳ thị bất hợp lý tại thị trường Mỹ và EU nữa. Ông ta nhấn mạnh, việc EU và Mỹ đều thừa nhận sự thị trường hoá của nền kinh tế Nga khiến người ta vui mừng.

Bộ trưởng phát triển kinh tế và thương mại Nga bày tỏ, quyết định này của Mỹ đánh dấu trên thực tế Mỹ đã thừa nhận cải cách của Nga, cải cách này đã giành cho các nhà doanh nghiệp Nga quyền làm việc bình đẳng trên thị trường Mỹ. Ông ta còn chỉ ra, Mỹ thừa nhận Nga là nước kinh tế thị trường sẽ tạo cơ hội mới cho Nga thu hút vốn nước ngoài. là nước láng giềng, Trung Quốc lại càng trở thành đối tượng chiến lược hợp tác đối ngoại của Pu-tin.

Kể từ khi liên Xô giải thể, quan hệ kinh tế thương mại Trung- Nga mặc dù có gặp trắc trở, nhưng xét về tổng thể vẫn là tăng trưởng vững chắc. Kim ngạch thương mại hai bên từ 4,63 tỷ đô- la Mỹ năm 1992 tăng lên đến 8,03 tỷ đô-la Mỹ năm 2000, năm 2001 lại đột phá mức 10 tỷ đô-la Mỹ. Tháng 8 năm 2002, kim ngạch thương mại hai bên Trung – Nga đạt tới 7,64 tỷ đô-la Mỹ. Mặc dù trước mắt kim ngạch thương mại Trung – Nga không thể so sánh được với kim ngạch thương mại Trung – Mỹ mỗi năm hơn 100 tỷ đô-la Mỹ được, nhưng chúng ta không thể không thấy được, thực tế này là do chịu sự hạn chế của tình hình ngoại thương chỉnh thể của Nga. Kim ngạch thương mại Nga – Mỹ năm 2000 cũng không quá 8 tỷ đô-la Mỹ, hợp tác kinh tế thương mại Trung – Nga so với nó cũng không hề thua kém.

Mặc dù trước mắt kim ngạch kinh tế thương mại Trung – Nga còn tương đối nhỏ, nhưng hợp tác kinh tế giữa hai nước đã có đủ cơ sở tương đối thiết thực.

Hợp tác kinh tế thương mại Trung – Nga đã có đủ bảo đảm cơ chế vững chắc. Để thúc đẩy hợp tác kinh tế hai nước Trung – Nga, hai nước đã thiết lập cơ chế gặp gỡ định kỳ giữa hai thủ tướng, thành lập ủy ban gặp gỡ định kỳ Thủ tướng Trung – Nga. Bên dưới ủy ban này còn thành lập các cơ quan trực thuộc như phân hội hợp tác kinh tế thương mại, phân hội hợp tác ngân hàng, phân hội hợp tác giao thông vận tải, phân hội hợp tác năng lượng, phân hội hợp tác khoa học kỹ thuật, phân hội hợp tác bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin, thúc đẩy toàn diện hợp tác kinh tế Trung – Nga phát triển. lãnh đạo hai nước Trung – Nga coi trọng cao độ hợp tác kinh tế song phương, xác định hướng ưu tiên cho phát triển quan hệ kinh tế thương mại song phương trong thế kỷ XXi. “hiệp ước hợp tác láng giềng hữu nghị Trung – nga” quy định: “hai bên sẽ triển khai hợp tác về kinh tế thương mại, quân sự, khoa học kỹ thuật, năng lượng, vận tải, năng lượng hạt nhân, tài chính tiền tệ, hàng không vũ trụ, công nghệ thông tin và các lĩnh vực mà hai bên cùng quan tâm, thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại giữa biên giới hai nước và các địa phương phát triển, và căn cứ vào luật pháp nước mình tạo điều kiện tốt đẹp cần thiết cho việc này”. Từ ngày 21 đến 23 tháng 8 năm 2002, Thủ tướng hai nước Trung – Nga đã tiến hành cuộc gặp gỡ định kỳ lần thứ 7. hai bên đã ký một loạt văn kiện quan trọng như “Thông cáo chung gặp gỡ định kỳ lần thứ 7 Thủ tướng hai nước Trung – nga”, “Kỷ yếu hội nghị lần thứ 6 ủy ban gặp gỡ định kỳ Thủ tướng hai nước Trung – nga”, “hiệp định thanh toán ngân hàng giữa ngân hàng nhân dân Trung Quốc và ngân hàng Trung ương liên bang Nga về mậu dịch khu vực biên giới”, “Thoả thuận khung ngân hàng công thương Trung Quốc cung cấp tín dụng bên mua xuất khẩu 200 triệu đô-la Mỹ cho ngân hàng ngoại thương nga”. Thủ tướng hai nước thoả thuận, trọng điểm hợp tác giữa hai bên trong thời gian tới là: Tối ưu hoá cơ cấu thương mại hàng hoá, nâng cao tỷ trọng thương mại sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm cơ điện và các hàng hoá có giá trị phụ thêm cao; tăng cường hợp tác kinh tế kỹ thuật và đầu tư, hoàn thiện quan hệ dịch vụ thương mại, thông qua phát triển mối liên hệ kinh tế hình thức tiên tiến, làm cho hợp tác kinh tế thương mại hai nước càng phù hợp với quy phạm quốc tế hơn; tăng cường hợp tác năng lượng Trung – Nga, điều hành thực hiện các dự án năng lượng có triển vọng. Trước mắt cần đẩy nhanh việc phê duyệt dự án xây dựng đường ống dẫn dầu từ An-sát-xcơ của Nga đến đại Khánh của Trung Quốc, làm cho nó mau chóng đi vào giai đoạn thiết kế bước đầu. hai bên sẽ còn tăng cường hợp tác về dự án “vận chuyển khí từ tây sang đông” và hợp tác sử dụng năng lượng hạt nhân hoà bình; đi sâu hợp tác trong lĩnh vực vận tải, tăng cường phối hợp giữa hai Bộ giao thông hai bên; tích cực triển khai hợp tác khoa học kỹ thuật, thúc đẩy cơ quan nghiên cứu khoa học hai nước tiếp xúc, thúc đẩy phát triển các khu công viên khoa học kỹ thuật liên hợp; đi sâu hợp tác hàng không vũ trụ, song song với thực hiện những dự án hợp tác ưu tiên đã được xác định, bắt đầu nghiên cứu những dự án hợp tác mới trong tương lai; mở rộng hợp tác giữa ngân hàng hai nước, cung cấp dịch vụ tài chính tiền tệ vững chắc cho hợp tác kinh tế thương mại của hai bên trong các lĩnh vực; triển khai hợp tác trong lĩnh vực thông tin, bưu chính viễn thông; đi sâu trong hợp tác hàng không vũ trụ. Điều này cho thấy, tiếp sau cuộc gặp gỡ định kỳ lần thứ 6 Thủ tướng hai nước Trung – Nga khiến cho hợp tác kinh tế thương mại Trung – Nga bước vào “đường cao tốc”, hợp tác kinh tế thương mại Trung – Nga lại bắt đầu sự chuyển biến từ tăng trưởng về lượng sang nâng cao về chất.

Tham gia vào hợp tác kinh tế đa phương sẽ trở thành con đường quan trọng trong việc đi sâu hợp tác kinh tế Trung – Nga. Trước mắt, Trung – Nga đều là thành viên của APEC, tăng cường hợp tác kinh tế trong khuôn khổ này đã được chính phủ hai nước coi là sự bổ sung quan trọng mở rộng lĩnh vực hợp tác song phương. Cùng với việc Trung Quốc gia nhập WTo và tiến trình Nga gia nhập WTo đang đẩy nhanh, Trung – Nga sẽ tìm kiếm được nhiều cơ hội hợp tác hơn trong thể chế thương mại toàn cầu. hướng tới thế kỷ XXi, cùng với sự tăng trưởng hơn nữa của nền kinh tế Trung Quốc và sự phục hưng kinh tế của Nga, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu sa sút, hợp tác kinh tế thương mại Trung – Nga có thể trở thành biện pháp quan trọng thúc đẩy sự chấn hưng nền kinh tế hai nước, bảo đảm an ninh kinh tế của hai nước.

“Ngoại giao hai cánh” của Pu-tin

Sau khi Pu-tin lên nắm quyền, ông đứng trước thử thách nghiêm ngặt về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự trong và ngoài nước. Trong tình hình đó, ông đã đao to búa lớn tiến hành cải cách thể chế chính trị, kinh tế của đất nước, đồng thời đẩy nhanh trấn áp phần tử chia rẽ Che-sni-a, tấn công chủ nghĩa khủng bố, bảo vệ đất nước thống nhất. Tương ứng với những cái đó, về chính sách ngoại giao, ông tiến hành điều chỉnh, phát triển và sáng tạo trên cơ sở nền ngoại giao “chim ưng hai đầu”, đề ra chính sách ngoại giao toàn diện củng cố cộng đồng các quốc gia độc lập, cân bằng đông tây. Trong chính sách ngoại giao này, phương đông phương Tây giống như hai cánh của nền ngoại giao Nga, chỉ có hai cánh cùng bay, thì mới có thể tự do bay lượn trên vũ đài quốc tế được.

“Ngoại giao hai cánh” của Pu-tin là sự kế thừa và phát triển của “ngoại giao chim ưng hai đầu” của En-xin. Thời kỳ đầu độc lập nước Nga, từng một độ thực hiện chính sách đối ngoại “nhất biên đảo”, về ngoại giao hoàn toàn nghiêng về phương Tây, ảo tưởng có thể dùng thoả hiệp và nhượng bộ để đổi lấy sự tiếp nhận của phương Tây. Thế nhưng tâm nguyện của nước Nga đã khiến cho mình phải trả một cái giá nặng nề. Chiến tranh lạnh tuy đã kết thúc, nhưng sự cảnh giác của phương Tây đối với Nga vẫn chưa bị loại bỏ, mưu đồ làm suy yếu nước Nga vẫn không hề thay đổi. Nga hoà nhập vào phương Tây không thành, ngược lại mất đi ảnh hưởng truyền thống ở phương đông, lợi ích của bản thân và hình tượng nước lớn bị tổn hại nghiêm trọng.

Đòn đau nhớ lâu, En-xin bị buộc phải điều chỉnh chiến lược ngoại giao, bắt đầu thúc đẩy thực hiện “ngoại giao chim ưng hai đầu” đồng thời hướng về cả phương đông và phương Tây. Thông qua cải thiện và phát triển quan hệ với các nước phương đông như Trung Quốc, Nga từng bước thoát khỏi cảnh khốn đốn ngoại giao, xây dựng một sự cân bằng về ý nghĩa nhất định giữa phương đông và phương Tây. Nhưng do tình hình chính trị trong nước tiếp tục chao đảo, cộng thêm tình hình quốc tế không ngừng xấu đi, tính cân bằng của “ngoại giao chim ưng hai đầu” cực kỳ không ổn định, thiếu rõ rệt tính chủ động, tính có thể dự báo trước và tính liên tục nhất quán.

Sau khi Pu-tin lên nhậm chức Tổng thống, Nga đã phát triển thêm trên cơ sở kế thừa chính sách này, trong chính sách ngoại giao và thực tiễn, đặt cộng đồng các quốc gia độc lập vào vị trí đặc biệt, còn Âu Mỹ và châu á thì được liệt vào hướng ưu tiên phát triển. Thứ tự sắp xếp phương đông phương Tây tuy có trước có sau, nhưng vị trí của chúng trong nền ngoại giao của Nga vẫm gần như quan trọng như nhau. Đúng như Pu-tin đã chỉ ra: “đặc điểm của chính sách ngoại giao của Nga là ở chỗ tính cân bằng, đây là do vị trí địa chính trị là nước lớn Âu á của Nga quyết định.”

Đồng thời, “ngoại giao hai cánh” của Pu-tin cũng là do tính đến nhu cầu hiện thực và lợi ích lâu dài của Nga quyết định. Nước Nga nằm vắt ngang lục địa Âu á, do đó nó cần phải đồng thời xây dựng và duy trì môi trường xung quanh tốt đẹp với cả Âu và á, nhằm có lợi cho sự phục hưng của Nga. Đặc biệt là đứng trước việc nATo tiếp tục mở rộng sang phía đông và Mỹ phát triển NMD, đứng trước sự chèn ép toàn diện, Nga cần phải xuất phát từ tính toán chiến lược sâu xa về an ninh quân sự, tích cực phát triển sự hợp tác với Tây Âu, đồng thời tranh thủ phát triển quan hệ với phương đông, nhằm xây dựng một hậu phương lớn chiến lược ổn định, đồng thời cố gắng thúc đẩy hợp tác kinh tế, khai thác thị trường tiềm lực to lớn, chính là trong bối cảnh đó, ngoại giao của Pu-tin lấy củng cố cộng đồng các quốc gia độc lập làm điểm tựa, thúc đẩy thực hiện “ngoại giao hai cánh” cân bằng phương đông phương Tây.

Sau khi Pu-tin lên nắm quyền, đã lần lượt ký hai văn kiện có tính cương lĩnh về vấn đề ngoại giao: Tháng 4 năm 2000 ký “nguyên tắc chung chính sách ngoại giao liên bang nga”, tháng 7 năm 2000 ký “ý tưởng chính sách ngoại giao liên bang nga”. Trong “ý tưởng”, Pu-tin chỉ rõ: “Chính sách đối ngoại của liên bang Nga cần nhằm thúc đẩy thực hiện phương châm ngoại giao tích cực; củng cố cơ chế quản lý đa phương tiến trình chính trị và kinh tế có tính mấu chốt, trước hết là hội đồng Bảo an liên hợp quốc; tạo điều kiện có lợi cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, bảo đảm ổn định toàn cầu và khu vực; bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân Nga sinh sống ở nước ngoài; phát triển quan hệ với các nước thành viên cộng đồng các quốc gia độc lập theo chuẩn mực luật quốc tế, phát triển tiến trình nhất thể hoá thích ứng với lợi ích của Nga trong phạm vi cộng đồng các quốc gia độc lập; bảo đảm Nga gia nhập cơ cấu kinh tế, chính trị toàn cầu và khu vực với tư cách một thành viên được hưởng quyền lợi đầy đủ; hỗ trợ giải quyết xung đột, bao gồm tham gia vào các hoạt động gìn giữ hoà bình mà liên hợp quốc, hội đồng Bảo an và cộng đồng các quốc gia độc lập lãnh đạo; tìm kiếm tiến bộ trong lĩnh vực giám sát vũ khí hạt nhân, bảo vệ sự ổn định chiến lược, bảo vệ và tăng cường địa vị của “hiệp ước chống tên lửa đạn đạo” ký kết năm 1972; thực hiện nghĩa vụ trong lĩnh vực cắt giảm và tiêu huỷ vũ khí giết người hàng loạt và vũ khí thông thường, thi hành biện pháp củng cố sự tín nhiệm và ổn định, bảo đảm thực hiện giám sát quốc tế đối với xuất khẩu hàng hoá và kỹ thuật, cung cấp dịch vụ quân dụng và hai mục đích; sửa đổi hoặc ký kết thoả thuận mới mà pháp luật yêu cầu trong vấn đề hạn chế và cắt giảm quân bị, mở rộng nghĩa vụ chính trị về biện pháp tăng cường tin cậy và an ninh; thúc đẩy xây dựng khu vực không có vũ khí giết người hàng loạt; triển khai hợp tác quốc tế trong mặt trận tấn công tội phạm quốc tế và chủ nghĩa khủng bố”.

Còn về mặt sách lược ngoại giao cụ thể, hai văn kiện này nhấn mạnh nổi bật mấy mặt sau: Thứ nhất, nguyện hợp tác hơn nữa với Mỹ về mặt hạ thấp vai trò của nhân tố vũ lực trong quan hệ quốc tế; Thứ hai, coi liên minh châu Âu là đối tác chính trị kinh tế cực kỳ quan trọng, quan hệ với các nước châu Âu là mặt ưu tiên truyền thống của chính sách ngoại giao của nga; Thứ ba, cho rằng ngoại giao châu á là một trong những phương hướng cực kỳ quan trọng của nó, và cần phát triển nền ngoại giao châu á, tích cực phát triển quan hệ hữu nghị với Trung Quốc là điều cực kỳ quan trọng; Thứ tư, cho rằng mặt ưu tiên của chính sách ngoại giao của nó là bảo đảm hợp tác đa phương và song phương tiến hành với các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập phù hợp với lợi ích an ninh quốc gia, trọng điểm ở chỗ phát triển quan hệ láng giềng và quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập.

Đối xử khách quan với “đối thủ cũ”

Quan hệ Nga – Mỹ là vấn đề phức tạp nhất, gai góc nhất và cũng thu hút sự chú ý của mọi người nhất trong chính sách ngoại giao của Nga. Sau khi Pu-tin lên nhậm chức, đứng trước sự thách thức của quan hệ Nga – Mỹ, thích ứng với tình hình khác nhau, đã xử lý quan hệ song phương với tinh thần linh hoạt, thực tế, tiến thủ, giành được sự phát triển rất lớn. Và trong đó lại lấy sự kiện 11 tháng 9 làm điểm chuyển ngoặt và cơ hội, mở ra cục diện mới của quan hệ ngoại giao Nga – Mỹ.

Khi Pu-tin lên nắm quyền, cũng đúng là lúc ông phải đứng trước điểm thấp nhất của quan hệ Nga – Mỹ kể từ khi thành lập cộng đồng các quốc gia độc lập. Thời kỳ đầu nước Nga độc lập, quan hệ Nga – Mỹ từng có một đoạn “tuần trăng mật”. Nhưng cùng với việc nền kinh tế Nga xấu đi, Mỹ và NATO không ngừng chèn ép Nga, hai nước Nga – Mỹ xuất hiện nhiều bất đồng nghiêm trọng trong nhiều vấn đề lớn như NATO mở rộng sang phía đông, khủng hoảng Bốt-xni-a – héc-xe-gô-vi-na, sự kiện Che-sni-a, khủng hoảng Kô-xô-vô…, hơn nữa do Mỹ đẩy nhanh nghiên cứu chế tạo hệ thống phòng ngự tên lửa đạn đạo quốc gia (NMD), khiến cho lợi ích quốc gia của Nga đứng trước thách thức mới nghiêm trọng hơn, quan hệ Nga – Mỹ lập tức có chiều hướng xấu đi. Trong tình hình đó, về việc quan hệ Nga – Mỹ phát triển như thế nào, là tiếp tục hợp tác hay là đi tới đối kháng, nhất thời mỗi người một ý kiến. Nhưng xét hiện nay nước Mỹ vẫn là quốc gia lớn mạnh nhất về thực lực kinh tế, quân sự trên thế giới, lại có ảnh hưởng chính trị rộng rãi, sự thực tàn khốc này đã quyết định chính sách của Nga đối với Mỹ là cần phải xây dựng trên nền tảng hợp tác. “ý tưởng chính sách ngoại giao liên bang nga” được Pu-tin phê chuẩn năm 2000 lại một lần nữa xác định quan hệ Nga – Mỹ cần phát triển trong khuôn khổ hợp tác. Nó chỉ ra: “…Mặc dù tồn tại bất đồng nghiêm trọng, trong nhiều trường hợp tồn tại bất đồng căn bản, quan hệ lẫn nhau của Nga và Mỹ vẫn là điều kiện cần thiết để cải thiện tình hình quốc tế và bảo đảm ổn định chiến lược toàn cầu…. Chỉ có trong trường hợp tích cực đối thoại với Mỹ mới có thể giải quyết được vấn đề hạn chế và cắt giảm vũ khí hạt nhân. Vì lợi ích của đôi bên, cần duy trì tiếp xúc song phương thường xuyên và không ngừng ở tất cả các cấp, chứ không cho phép quan hệ đình trệ”.

Sau khi Pu-tin lên, thách thức bên ngoài ở ngay trước mắt, nghiêm trọng nhất mà Nga gặp phải chính là việc Mỹ gấp rút nghiên cứu chế tạo NMD. Tháng 7 năm 1999, Tổng thống Mỹ Clin-tơn bất chấp “hiệp ước chống tên lửa đạn đạo” mà Mỹ và liên Xô ký kết năm 1972, đã ký dự thảo luật về xây dựng NMD hoàn toàn đi ngược lại hiệp ước này. Tháng 10 cùng năm, quân đội Mỹ tiến hành thử nghiệm lần đầu tiên đối với kỹ thuật đánh chặn tên lửa đạn đạo của NMD và giành được thành công. Theo kế hoạch của chính phủ Mỹ, Mỹ xác định lại tiến hành hai lần thử nghiệm tương tự vào tháng 1 và tháng 7 năm 2000, sau đó Clin-tơn căn cứ vào kết quả thử nghiệm, tháng 9 chính thức quyết định có lập tức bắt tay vào bố trí NMD hay không.

Nga cho rằng kế hoạch bố trí NMD, lật đổ “hiệp ước chống tên lửa đạn đạo” năm 1972 của Mỹ là một bộ phận cấu thành quan trọng của ý đồ xây dựng thế giới đơn cực của Mỹ, điều này tất sẽ phá vỡ sự ổn định chiến lược quốc tế, làm tăng tính nguy hiểm của tình hình quốc tế, khiến cho an ninh quốc gia của Nga bị đe doạ. Trong nước, Nga vẫn còn phổ biến và tồn tại cách nhìn sau: Mỹ xúc tiến kế hoạch nghiên cứu chế tạo hệ thống chống tên lửa đạn đạo, suy cho cùng là muốn hạ thấp năng lực tiềm tàng sức mạnh hạt nhân của Nga. Mà tình hình kinh tế trước mắt của Nga khiến cho Nga không có bất cứ khả năng nào để tăng chi phí quốc phòng quy mô lớn, triển khai chạy đua hạt nhân với Mỹ. Nếu như Nga không có năng lực kiềm chế hạt nhân lớn mạnh, sẽ khiến cho Nga mất đi địa vị nước lớn, và chỉ có thể đóng vai trò loại hai trên vũ đài thế giới. Ban lãnh đạo của Nga còn cho rằng, kế hoạch tăng cường sức mạnh hạt nhân của Mỹ còn có mục đích về quân sự. Bộ trưởng Quốc phòng Nga Xéc-gây-ép chỉ ra trên “Báo độc lập” rằng, Mỹ bố trí NMD,“không loại trừ trường hợp này, tức có người lại muốn khiến cho Nga cuốn vào một cuộc chạy đua quân bị mới, hòng ngăn cản sự phát triển kinh tế của nga”. Vì vậy, để duy trì nhân tố có lợi ảnh hưởng tới chính sách của Mỹ là cân bằng chiến lược quân sự Nga – Mỹ này, bảo đảm lợi ích an ninh quốc gia và địa vị nước lớn, Nga bày tỏ kiên quyết không chấp nhận đối với kế hoạch bố trí NMD và sửa đổi “hiệp ước chống tên lửa đạn đạo” của Mỹ. Vì vậy, Pu-tin đã xác định hết sức rõ ràng việc ngăn chặn Mỹ bố trí NMD là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của chính sách đối ngoại Nga.

Về vấn đề NMD, Pu-tin cũng nhận thức được rằng, bất đồng và đối kháng khó có thể đạt được mục đích ngăn chặn kế hoạch phát triển NMD của Mỹ, vì vậy, ông đã áp dụng biện pháp ứng phó linh hoạt, song song với phản đối Mỹ phát triển hệ thống phòng ngự tên lửa đạn đạo quốc gia, cũng đưa ra một loạt phương án có tính xây dựng, và cố gắng thông qua các loại biện pháp ngoại giao để giải quyết vấn đề này. Với sự thúc đẩy của Pu-tin, Đu-ma quốc gia Nga đã phê chuẩn “hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược giai đoạn hai Nga – Mỹ” (START II) và “hiệp ước cấm toàn diện thử hạt nhân” đã bị gác lại nhiều năm, thông qua hành động này, Pu-tin đã tăng cường lập trường bảo vệ “hiệp ước chống tên lửa đạn đạo”. Nhưng đồng thời Nga cũng bày tỏ sẽ gắn “STArT ii” với “hiệp ước chống tên lửa đạn đạo”, tức nếu như Mỹ phát triển hệ thống chống tên lửa đạn đạo quốc gia, Nga sẽ phế bỏ mọi hiệp ước kiểm soát quân sự trong đó có cả “hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược giai đoạn hai Nga – Mỹ”.

Đồng thời, thông qua biện pháp ngoại giao, Pu-tin tích cực tìm kiếm sự ủng hộ của các nước lớn Tây Âu như Anh, Đức, Pháp và Ca-na-đa. Các nước này lo lắng tiến trình cắt giảm vũ khí hạt nhân xoay ngược lại và xuất hiện chạy đua vũ trang mới, Pu-tin có thái độ phản đối hoặc tiêu cực đối với việc Mỹ bố trí NMD. Năm 2000, Pu-tin đã đi thăm tất cả các nước lớn Tây Âu và Ca-na-đa, tìm kiếm sự ủng hộ của các nước đối với Nga trong vấn đề chống tên lửa đạn đạo. Pu-tin thậm chí kiến nghị cùng với NATO và châu Âu liên hợp xây dựng hệ thống phòng ngự tên lửa đạn đạo, và trao đổi ý kiến với nhà lãnh đạo các nước về kiến nghị này. Những cái đó đều thể hiện thành ý Nga muốn cùng các nước tích cực giải quyết cái gọi là vấn đề “uy hiếp tên lửa đạn đạo”. Ngoài ra, Pu-tin còn tích cực tìm kiếm sự hợp tác với các nước trong đó có Trung Quốc trong vấn đề này. Tháng 7 năm 2000, khi Pu-tin thăm Trung Quốc, đã cùng với Trung Quốc ký kết “Tuyên bố chung Trung – Nga về vấn đề chống tên lửa đạn đạo”, thể hiện đầy đủ lập trường kiên định của hai nước phản đối việc Mỹ bố trí NMD. Việc thông qua những nỗ lực này đã khiến cho việc Mỹ kiên trì phát triển và bố trí hệ thống chống tên lửa đạn đạo quốc gia gặp phải sự phản đối phổ biến của Nga, và gần như của tất cả các nước trong liên minh châu Âu, Trung Quốc và cộng đồng quốc tế. Trong tình hình đó, xuất phát từ các sự tính toán, Clin-tơn đã tuyên bố hoãn việc quyết định bố trí hệ thống phòng ngự tên lửa đạn đạo. Tuy vậy, Mỹ vẫn không từ bỏ phát triển NMD, mâu thuẫn gay gắt trong vấn đề này giữa Nga và Mỹ vẫn chưa kết thúc.

Ngoài ra, việc Pu-tin kiên định bảo vệ lợi ích quốc gia hơn so với En-xin khi ông này nắm quyền, khiến cho mâu thuẫn và bất đồng trong nhiều vấn đề lớn đã tồn tại từ lâu giữa Nga và Mỹ không những không dịu đi, mà trong một chừng mực khác, còn căng thẳng hơn.

Trước tiên là vấn đề Che-sni-a, Mỹ lấy cớ “nhân quyền”, không ngừng phê phán chính sách Che-sni-a của Nga. Tháng 2 năm 2000, quan chức cao cấp phụ trách công tác nhân quyền và dân tị nạn của chính phủ Mỹ đã tiếp người được gọi là “phó chủ tịch nghị viện nước Cộng hoà Che-sni-a” Ba-sa-ép tại oa- sinh-tơn. Bộ ngoại giao Nga đã đưa ra kháng nghị mạnh mẽ đối với điều này, chỉ ra kiểu tiếp xúc này chỉ có thể được cho là Mỹ “công nhiên có những bước đi không hữu nghị với nga”, là “tuyệt đối không thể chấp nhận được”. Pu-tin kiên quyết chủ trương bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, sau khi ông lên nhậm chức Thủ tướng chính phủ Nga không lâu, chính phủ Nga đã một lần nữa đưa quân sang Che-sni-a vào tháng 9 năm 1999, bắt đầu cuộc chiến tranh Che-sni-a lần thứ hai, tấn công chủ nghĩa ly khai và phần tử khủng bố Che-sni-a. Mỹ chỉ trích quân Nga đã xâm phạm nhân quyền, gây nên thảm họa chủ nghĩa nhân đạo, yêu cầu Nga ngừng hành động quân sự, tiến hành đàm phán chính trị với nhà đương cục Che-sni-a nhằm giải quyết vấn đề, và yêu cầu làm người hoà giải. Những chỉ trích và yêu cầu này của Mỹ đã vấp phải sự tẩy chay kiên quyết của Nga. Tháng 2 năm 2000 chính phủ Mỹ đưa ra “Báo cáo nhân quyền của một số nước năm 1999”, chỉ trích hành động quân sự của Nga tại Che-sni-a đã xâm phạm nhân quyền, Bộ ngoại giao Nga bày tỏ mạnh mẽ rằng, chính phủ Mỹ đầy rẫy những thành kiến đối với tình hình nhân quyền của Nga, bản báo cáo này không thể nào chấp nhận được, và ra thông cáo phê phán Mỹ “không có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của nga”.

Tiếp đến là về mặt tranh giành các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập. Sau khi liên Xô giải thể, do Nga thiếu sự coi trọng về ngoại giao đối với các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập, và tình hình nền kinh tế của bản thân Nga xấu đi, dẫn đến “lực ly tâm” của các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập không ngừng gia tăng. Mỹ nắm lấy cơ hội đó, không ngừng thâm nhập vào khu vực này, sức ảnh hưởng dần dần tăng lên. Ngày 20 tháng 4 năm 1999, các nước gru-di-a, A-déc-bai- dan và U-dơ-bê-xtan rút ra khỏi hiệp ước an ninh tập thể cộng đồng các quốc gia độc lập, mở ra một lối đi khác bảo đảm an ninh quốc gia. Và dưới sự ủng hộ của Mỹ, tháng 4 năm 1999, năm nước gru-di-a, U-crai-na, U-dơ-bê-xtan, A-déc-bai-dan và Môn-đô-va đã thành lập liên minh “gAM”, có khuynh hướng chống Nga rõ rệt. Và Mỹ càng thông qua biện pháp kinh tế lôi kéo các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập, đặc biệt là U-crai-na. Theo thống kê, viện trợ và các loại tiền vốn chuyên dụng mà Mỹ mỗi năm cung cấp cho các nước Trung á và Bắc Cáp-ca-dơ lên tới 2,2 tỷ đô-la Mỹ. U-crai-na ngay từ mấy năm trước đã trở thành nước tiếp nhận viện trợ của Mỹ lớn thứ ba sau i-xra-en và Ai Cập. phía Mỹ cũng tuyên bố không hề giấu diếm rằng, viện trợ các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập như Trung á và Cáp-ca-dơ có “vị trí địa lý có ý nghĩa chiến lược và tài nguyên năng lượng hết sức phong phú” là “rất phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ”.

Đứng trước thế tiến công lấn lướt của Mỹ, sau khi Pu-tin lên nắm quyền, cũng tăng cường ngoại giao đối với các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập, lần lượt thông qua phương thức đi thăm và mời thăm, thực hiện gặp gỡ với nguyên thủ và người đứng đầu chính phủ của các nước như Bê-la-rút, U-crai- na, U-dơ-bê-xtan, Tuốc-mê-ni-xtan và Ca-dắc-xtan. Pu-tin đã tiến hành thảo luận sâu sắc với những nước này về các lĩnh vực kinh tế và an ninh, ký kết nhiều hiệp định quân sự và kinh tế.

Một loạt những biện pháp mà Pu-tin áp dụng này đã cải thiện rõ rệt quan hệ của Nga với các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập, khiến cho khuynh hướng xa Nga thân Mỹ từ nhiều năm nay của nhiều nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập đã có sự thay đổi.

Về vấn đề NATO mở rộng sang phía đông, Nga và Mỹ cũng tồn tại bất đồng nghiêm trọng. Năm 1999, sau khi Ba lan, hung-ga-ri và Tiệp Khắc gia nhập NATO, Mỹ và các nước đồng minh NATO của nó bày tỏ NATO sẽ tiếp tục mở rộng sang phía đông, đối tượng của nó tất nhiên là một số nước đông Âu và ba nước vùng biển Ban-tích. Nga cho rằng, ba nước vùng Ban-tích gia nhập NATO sẽ khiến cho tình thế chiến lược quân sự khu vực biên giới tây bắc của Nga đứng trước mối đe doạ thực tế, do đó phản đối kịch liệt kế hoạch tiếp tục mở rộng sang phía đông của NATO. Tháng 6 năm 2000 Pu-tin chỉ rõ, kế hoạch mở rộng hơn nữa sang phía đông của NATO “không phải là một kế hoạch hữu hảo, mâu thuẫn với an ninh châu Âu”. Ông cảnh cáo nói, “NATO vượt qua biên giới của liên Xô cũ sẽ dẫn đến xuất hiện một cục diện hoàn toàn mới đối với cả Nga và châu Âu”, điều này sẽ “có hậu quả cực kỳ nghiêm trọng đối với toàn bộ hệ thống an ninh và lục địa châu Âu”. Sau đó, vào ngày 23 tháng5 năm 2001, Đu-ma quốc gia Nga đã thông qua nghị quyết về phản đối NATO mở rộng sang phía đông.

Thế nhưng, trước thái độ kiên quyết mở rộng NATO sang phía đông của Mỹ và các nước liên minh châu Âu, Pu-tin cũng cố gắng thông qua phương thức linh hoạt giải quyết hoặc làm dịu di. Tháng 2 năm 2000, với kiến nghị của Pu-tin, Bộ ngoại giao Nga mời Tổng thư ký mới của NATO rô-bớt-sơn thăm Nga, khiến cho quan hệ giữa Nga và NATO bị đông kết từ sau khủng hoảng Kô-xô-vô được dịu đi, Nga cũng khôi phục tiếp xúc với NATO. Còn khi Pu-tin gặp rô-bớt-sơn, đã công nhiên đưa ra ý muốn gia nhập NATO, càng khiến cho NATO không kịp trở tay. Tuy đây có thể chỉ là một sách lược ngoại giao của Pu-tin, NATO cũng từ chối đề nghị này, nhưng điều này rõ ràng đã phản ánh được tính linh hoạt trong chính sách ngoại giao của Pu-tin.

Sau khi Pu-tin trúng cử, trong vấn đề quan hệ với các nước i-ran, i-rắc, Nga xuất phát từ tính toán lợi ích kinh tế và lợi ích chiến lược của bản thân, mâu thuẫn với chính sách ngoại giao của Mỹ vẫn tồn tại. Nhiều năm nay, Mỹ luôn gây áp lực lớn đối với Nga, yêu cầu Nga ngừng bán kỹ thuật hạt nhân cho i-ran, tuyên bố i-ran có thể sẽ lợi dụng kỹ thuật hạt nhân mà Nga cung cấp để chế tạo vũ khí hạt nhân, nhưng Pu-tin đã chống đỡ được áp lực của Mỹ. Tháng 3 năm 2000, Tổng thống i-ran Kha-ta-mi thăm Nga, thúc đẩy hơn nữa quan hệ hai nước phát triển về phía trước, hai bên đã ký kết hiệp ước nền tảng quan hệ và nguyên tắc hợp tác hai nước, tuyên bố chung về địa vị pháp luật biển đen, đạt được thoả thuận liên quan tới hợp tác kỹ thuật quân sự và Nga giúp i-ran xây dựng nhà máy điện nguyên tử Bu-si-ơ, kim ngạch giao dịch vũ khí lên tới 30 tỷ đô-la Mỹ. Tháng 10 năm 2000 Nga tuyên bố sẽ tiếp tục cùng với i-ran tiến hành hợp tác về mặt sử dụng năng lượng nguyên tử, vào mục đích hòa bình, bao gồm lại xây dựng cho i-ran ba nhà máy điện hạt nhân nữa. Trong vấn đề i-rắc, Nga nhiều lần tuyên bố lập trường đối với vấn đề I-rắc, yêu cầu cộng đồng quốc tế mau chóng huỷ bỏ trừng phạt đối với i-rắc, và yêu cầu Mỹ, Anh lập tức huỷ bỏ vùng cấm bay thiết lập bất hợp pháp ở i-rắc và ngừng ném bom i-rắc. Về điểm này, Nga đi đầu khôi phục đường bay từ Mát-xcơ-va tới Bát-đa.

Ngoài ra, sau khi Pu-tin lên nắm quyền, để bảo vệ lợi ích quốc gia, Nga còn khôi phục hoặc tăng cường quan hệ với các nước mà Mỹ không thích như Triều Tiên, Cu-ba, li-bi, điều này lại càng gia tăng hơn nữa sự bất mãn của Mỹ.

Tháng 1 năm 2001, Bush con được bầu làm Tổng thống Mỹ. Ông ta thực hiện chính sách cứng rắn trong các công việc quốc tế, mâu thuẫn với Nga trong các vấn đề như NMD, NATO mở rộng sang phía đông có tăng mà không có giảm, quan hệ hai bên ngừng trệ không tiến lên được. Thế nhưng, sự kiện khủng bố 11 tháng 9 đã làm thay đổi tình hình an ninh và cục diện ngoại giao thế giới, Pu-tin nắm bắt được cơ hội này, tích cực cải thiện quan hệ với Mỹ, khiến cho quan hệ Nga – Mỹ từ lâu bị đình trệ đã xuất hiện chuyển biến lớn và đột phá có tính thực chất.

Sau khi xảy ra sự kiện tấn công khủng bố nước Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tổng thống Nga Pu-tin lập tức đưa ra phản ứng sớm nhất, Mát-xcơ-va chỉ trích mạnh mẽ hành động tấn công của chủ nghĩa khủng bố. Đồng thời, Tổng thống Pu-tin cũng là nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên gọi điện thoại cho Tổng thống Mỹ Bush bày tỏ quan tâm, hỏi thăm đối với ông ta. Đối với việc Bush coi sự kiện 11 tháng 9 là chủ nghĩa khủng bố tuyên chiến với Mỹ, và chính sách cơ bản Mỹ thề rằng sẽ thông qua chiến tranh để báo thù này, trong một loạt bài phát biểu có tính chính sách của Pu-tin sau đó cũng có sự ủng hộ tương đối lớn. Sau đó, Nga điều chỉnh lớn ý tưởng an ninh chiến lược, cho rằng hiện nay không tồn tại đe doạ chiến tranh quy mô lớn, mối đe doạ mà Nga gặp phải không phải là đến từ nước Mỹ và NATO, mà là chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Trên cơ sở nhận thức đó, Nga và Mỹ đã xây dựng “quan hệ chiến lược kiểu mới”, cùng NATO xây dựng cơ chế hợp tác mới.

Pu-tin tích cực điều chỉnh bất đồng với Mỹ trong vấn đề chống tên lửa đạn đạo và vấn đề NMD, vừa thu được thành quả tích cực, lại đổi lấy sự cải thiện quan hệ song phương bằng bước đi thích hợp. Tháng 5 năm 2002, Pu-tin cùng Tổng thống Mỹ Bu-sơ đang ở thăm Nga ký “hiệp ước cắt giảm lực lượng chiến lược có tính tiến công Nga- Mỹ”, và đã ra Tuyên ngôn chung Nga – Mỹ, tuyên bố thời đại coi nhau là “kẻ thù và uy hiếp chiến lược” đã kết thúc, hai bên đang xây dựng “quan hệ chiến lược kiểu mới”. Pu-tin và Bu-sơ ra Tuyên bố chung đồng thời ký kết hiệp ước cắt giảm lực lượng chiến lược có tính tiến công tuy không có sức ràng buộc chặt chẽ, nhưng về hình thức đã kết thúc cuộc tranh luận của hai nước trong vấn đề hệ thống phòng ngự tên lửa đạn đạo. Ngày 22 tháng 11, Pu-tin thăm Mỹ, hội đàm với Bu-sơ về các vấn đề như i-rắc, chống khủng bố, NATO mở rộng sang phía đông, hợp tác năng lượng, đã tăng cường mối “quan hệ chiến lược kiểu mới” của hai bên.

Đối với các vấn đề Mỹ rút khỏi hiệp ước chống tên lửa đạn đạo và Mỹ bố trí hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo, phía Nga đã có thái độ thấp giọng và mặc nhận. Ngày 6 tháng 11 năm 2001, khi trả lời phỏng vấn của công ty phát thanh Mỹ, Pu-tin bày tỏ, hai nước Nga, Mỹ muốn đi đến đạt được thoả thuận về vấn đề chống tên lửa đạn đạo còn cần phải đối thoại gian khổ, nhưng “lập trường của Nga là linh hoạt”. Điều này có nghĩa là Nga tiến hành thoả hiệp có tính lịch sử đối với hệ thống phòng ngự tên lửa đạn đạo của Mỹ. Vì vậy, ngày 3 tháng 6 năm 2002, khi nước Mỹ chính thức tuyên bố rút ra khỏi hiệp ước chống tên lửa đạn đạo ký với liên Xô năm 1972, chính quyền Pu-tin đã làm nhạt bớt sự tổn hại mà nó gây ra đối với lợi ích an ninh hạt nhân Nga về mặt dư luận, về tổng thể phản ứng ngoại giao tương đối nhạt. Mục tiêu căn bản của nó là muốn loại bỏ sự quấy nhiễu của chính sách của Mỹ đối với việc Nga nhanh chóng chấn hưng nền kinh tế của mình, và giành được điều kiện bên ngoài cần thiết, hòng thu được lợi ích kinh tế lớn hơn trong quan hệ Nga – Mỹ.

Phía Nga cũng đối mặt thản nhiên với việc Mỹ quyết định bố trí hệ thống phòng ngự tên lửa đạn đạo. Kế hoạch này của Mỹ từng bị Nga phản đối mạnh mẽ, nay thái độ chính thức của Nga đã có thay đổi rõ rệt. Tháng 5 năm 2002, ngoại trưởng Nga i-va-nốp tuyên bố khi trả lời phỏng vấn, hệ thống phòng ngự tên lửa đạn đạo của Mỹ “có tính chất phòng ngự, sẽ không gây tổn hại tới lợi ích của nga”. Nhà lãnh đạo quân sự Nga thì nhấn mạnh, hệ thống này trong vòng 10 năm sẽ không gây mối đe doạ cho Nga, hơn nữa tên lửa đạn đạo nhiều đầu đạn của Nga có thể đột phá hệ thống phòng ngự này.

Trong cuộc chiến tranh chống khủng bố mà Mỹ tiến hành, Nga cũng tích cực phối hợp. Quan chức giới quân sự Nga từng một độ phản đối việc quân Mỹ sử dụng căn cứ quân sự ở các nước Trung á làm trận địa tiền tiêu tấn công Áp-gha-ni-xtan, nhưng chính quyền Pu-tin rất nhanh đã thay đổi lập trường này, chuyển thành đồng ý các nước hữu quan ở Trung á mở cửa căn cứ cho Mỹ. Quân Mỹ bắt đầu tiến vào đóng ở khu vực Trung á, và Nga cũng cung cấp hành lang trên không cho máy bay quân dụng của Mỹ. Sau khi chiến tranh Áp-gha-ni-xtan bắt đầu, Nga tăng thêm binh lính tại biên giới Áp-gha-ni-xtan của các nước Trung á, và phái nhóm quân sự đặc biệt. Một mặt tăng cường công tác tình báo và theo dõi đối với thế lực Ta-li-ban và Bin la-đen, một mặt khác tham gia vào cứu trợ nhân đạo đối với Áp-gha-ni-xtan, lấy đó để ủng hộ hành động quân sự của Mỹ.

Trong vấn đề NATO mở rộng sang phía đông, Tổng thống Mỹ thông qua ký kết với nguyên thủ các nước thành viên NATO “Tuyên ngôn rô-ma”, thành lập hội đồng NATO – Nga. Cơ chế “19 + 1” chuyển biến thành “cơ chế 20 nước”. Mối quan hệ kiểu mới này chưa cho Nga quyền phủ quyết đối với hành động tương lai của NATO, nhưng Mát-xcơ-va hy vọng thông qua hình thức này có ảnh hưởng thật sự đối với NATO, giúp Nga hoá giải mối uy hiếp tiềm tàng.

Đối với các căn cứ ở nước ngoài không có ý nghĩa chiến lược lớn trong tình hình mới, chính quyền Pu-tin áp dụng chính sách thu hẹp. Ngày 17 tháng 10 năm 2001, Pu-tin tuyên bố sẽ lần lượt rút ra khỏi căn cứ quân sự của Nga ở Cu-ba và Việt nam vào năm 2002 và 2003. Thời kỳ chiến tranh lạnh, Nga đặt trạm giám sát vô tuyến điện ở Cu-ba là trận địa tiền tiêu thu thập thông tin tình báo chính trị quân sự Mỹ, vịnh Cam ranh của Việt nam lại như hòn đá tảng quan trọng để Nga tiến hành tranh giành với Mỹ trên biển. Nga đưa ra quyết định này, ngoài tiết kiệm chi phí quân sự, rõ ràng có động cơ gây uy tín hơn nữa với Mỹ. Những thay đổi này phản ánh thái độ cực kỳ linh hoạt của Pu-tin trong quan hệ Nga – Mỹ, đem lại cho nền ngoại giao Nga sự đột phá và cơ hội chuyển biến.

Việc ký kết một loạt hiệp ước và văn kiện song phương giữa Nga và Mỹ đã thúc đẩy hơn nữa quan hệ song phương và hợp tác trong nhiều lĩnh vực, nhưng mâu thuẫn giữa hai nước còn chưa hoàn toàn bị loại bỏ, thậm chí trong vấn đề chống khủng bố hai nước cũng còn tồn tại bất đồng quan trọng: Tại liên hợp quốc, Nga trước sau không đồng ý nghị án hội đồng Bảo an tự động uỷ quyền cho Mỹ sử dụng vũ lực đối với i-rắc; trong các vấn đề như quan hệ với các nước gọi là “trục ác quỷ” như i-rắc, i-ran, Nga Mỹ va chạm liên tục; tuy cho phép quân Mỹ vào Trung á, nhưng Nga rất cảnh giác đối với việc Mỹ đóng lâu dài ở Trung á; Nga còn thậm chí hết sức bực mình khi nhân viên quân sự Mỹ tiến vào gru-di-a tháng 2 năm 2002. Trong các vấn đề như chống tên lửa đạn đạo và NMD, tuy Nga đã có thái độ mặc nhận, nhưng cần thấy được, Nga luôn có lập trường không lùi bước trước việc Mỹ cố tình rút ra khỏi “hiệp ước chống tên lửa đạn đạo”, đây chỉ là biện pháp ứng phó bất đắc dĩ sau khi việc rút ra của Mỹ đã thành sự thực. Đồng thời, Nga gấp rút tiến hành chuẩn bị kỹ thuật, nhằm ứng phó với việc Mỹ từ chối rõ ràng tiêu huỷ đầu đạn hạt nhân, tiếp tục thúc đẩy thực nghiệm NMD. Mỹ tuy tuyên bố thừa nhận Nga là nước kinh tế thị trường, nhưng không từ bỏ những điều kiện hà khắc đối với Nga trong vấn đề gia nhập WTo. Tổng kim ngạch mậu dịch Nga – Mỹ từ 10 tỷ của năm 2000 giảm xuống còn 9 tỷ trong năm 2001 so với xu thế tăng trưởng của thương mại Trung – Nga, lại càng đặc biệt khiến người ta chú ý. Ngoài ra, đường ống dẫn dầu sang phía tây Ca-xpiên mà Mỹ chủ đạo (từ A-déc-bai-dan tới Thổ nhĩ Kỳ) đã tổ chức lễ khởi công vào ngày 20 tháng 9 năm 2002, đấu tranh ngoại giao giữa Nga và Mỹ xoay quanh vấn đề dầu mỏ Ca-xpiên sẽ không tránh khỏi quyết liệt hơn.

Tiến triển của quan hệ Nga và Mỹ cho thấy điều chỉnh chính sách đối ngoại kể từ khi Pu-tin lên nắm quyền đã thu được thành quả. Nhưng quan hệ Nga – Mỹ muốn phát triển hơn nữa chắc chắn còn cần trải qua thời kỳ cọ xát, hai bên vừa cần xây dựng sự tin cậy lẫn nhau thực sự, lại cần tìm được tiếp điểm có thể triển khai hợp tác có tính thực chất, mà điều này còn khó khăn hơn nhiều so với một cuộc gặp gỡ cấp cao ra Tuyên bố chung hay ký một hiệp ước.

Tích cực dựa vào liên minh châu Âu

Châu Âu luôn là một lực lượng quan trọng trong cục diện chính trị kinh tế thế giới, còn Nga tuy nằm vắt ngang hai châu Âu á, nhưng luôn luôn coi mình là nước châu Âu, tồn tại “mối tình châu Âu” sâu nặng. Trong vấn đề NATO mở rộng sang phía đông liên quan tới thông tin chiến lược an ninh Nga, tuyệt đại đa số các nước liên quan đều là nước châu Âu; và có quan hệ phát triển và hợp tác kinh tế mật thiết nhất với Nga cũng là liên minh châu Âu. là đối tác kinh tế thương mại và nhà đầu tư quan trọng nhất của Nga, thị trường EU chiếm 40% kim ngạch nhập khẩu và 38% kim ngạch xuất khẩu của Nga, 70% xuất siêu ngoại thương của Nga đến từ các nước châu Âu. Trong toàn bộ số vốn nước ngoài mà Nga thu hút được có trên một nửa là đến từ Tây Âu. Tăng cường và cải thiện hợp tác với EU, đặc biệt là với Tây Âu phù hợp với lợi ích quốc gia của Nga, vừa có thể mở rộng hợp tác kinh tế, lại có thể tranh thủ sớm hội nhập châu Âu, tăng thêm quyền phát ngôn trong những công việc của châu Âu, làm suy yếu đi ảnh hưởng của Mỹ ở châu Âu. Vì vậy, trong chính sách ngoại giao của Pu-tin, tất nhiên châu Âu được đặt vào vị trí đặc biệt quan trọng.

Sau khi Pu-tin giữ chức Tổng thống, đã xử lý mối quan hệ với các nước lớn châu Âu bằng phương châm ngoại giao linh hoạt, thực dụng, tích cực tiến thủ. Tháng 4 năm 2000, ông đã lựa chọn nước Anh làm nước phương Tây đầu tiên đến thăm sau khi nhậm chức. lựa chọn nước Anh có tính toán về kinh tế, vì nước Anh có thể nói giúp nước Nga tại Tổ chức quỹ tiền tệ quốc tế, có thể đóng vai trò “thuyết khách”. Đồng thời, nước Anh không những có địa vị quan trọng trong liên minh châu Âu, hơn nữa cũng có mối quan hệ đặc biệt với Mỹ. Vì vậy, cải thiện quan hệ Nga – Anh còn có thể gián tiếp thúc đẩy quan hệ Nga – Mỹ phát triển, giảm bớt sự đối lập Nga – Mỹ, mở ra lối thoát nhằm làm hoà dịu mối quan hệ giữa Nga và phương Tây đang ở trong cảnh bế tắc.

Trong thời gian thăm Anh, Pu-tin đã cùng với Ble tiến hành cuộc hội đàm dài tới ba tiếng đồng hồ. hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quan hệ hai nước, tình hình Che-sni-a và hai nước tăng cường hợp tác trong mặt tấn công tội phạm buôn lậu ma tuý. Đồng thời, Pu-tin kêu gọi các nhà doanh nghiệp Anh đến Nga đầu tư, và bày tỏ rõ ràng sẽ áp dụng mọi biện pháp cải thiện môi trường đầu tư của Nga, bảo vệ lợi ích kinh tế của những nhà đầu tư phương Tây. Thông qua chuyến thăm này, Pu-tin và Ble đã đưa ra quyết định quan trọng là xây dựng cơ chế gặp gỡ hàng năm lãnh đạo hai nước Nga – Anh và thành lập đường dây nóng kinh tế hai nước, cũng bước được một bước quan trọng trong việc cùng Anh xây dựng “quan hệ đối tác đặc biệt”.

Sau đó, Pu-tin lại triển khai một loạt thế tiến công ngoại giao đối với các nước châu Âu. Ngay sau đó là chuyến thăm ý, Tây Ban nha, đức vào tháng 6, thăm pháp vào tháng 10, và đã thực hiện cuộc gặp thượng đỉnh Nga và châu Âu. Trong những chuyến thăm này, Pu-tin thực hiện chính sách đối ngoại “kinh tế thiết thực”, đặt vấn đề hợp tác kinh tế song phương và hợp tác kinh tế đa phương lên vị trí hàng đầu, đã giành được thành quả phong phú, đã thu được những lợi ích lớn trong hợp tác kinh tế và viện trợ kinh tế.

Trong thời gian thăm đức, ông đã tiến hành hội đàm với Thủ tướng đức Srôi-đơ về “quan hệ đối tác chiến lược” song phương và vấn đề liên quan tới an ninh quốc tế. Nga hy vọng thông qua chuyến thăm đức mở rộng hợp tác kinh tế hai nước Nga – đức, khiến cho đức tăng đầu tư tại Nga, phát huy “vai trò chủ đạo” trong quá trình Nga chấn hưng nền kinh tế. phía đức có thái độ tích cực đối với điều này, giới doanh nghiệp đức chuẩn bị đầu tư 1,7 tỷ USD tại Nga, chính phủ đức cũng sẽ cung cấp 1 tỷ USD vay tín dụng xuất khẩu. Đồng thời, đức là nước chủ nợ lớn nhất trên thế giới của Nga, theo thống kê, khoản nợ của Nga đối với đức lên tới 75 tỷ Mác, Nga hy vọng có thể nhân cơ hội Pu-tin thăm đức để miễn giảm được một số nợ. Mặc dù chính phủ đức từ chối yêu cầu miễn giảm một phần nợ, nhưng qua bàn bạc vào tháng 7 đã đạt được thoả thuận hoãn trả khoản nợ của đức. Thoả thuận quy định khoản nợ khoảng 8 tỷ Mác chưa trả xong từ năm 1998 đến năm 2000 sẽ lùi lại đến năm 2016 trả, trong đó một phần nhỏ có thể kéo dài đến năm 2020. Trong vấn đề Mỹ xây dựng hệ thống phòng ngự tên lửa đạn đạo quốc gia, lập trường của hai bên Nga – đức hết sức gần nhau, đều có thái độ phản đối. Để làm lễ ra mắt trong chuyến thăm đức của Pu-tin, Nga đã trả lại cho đức một phần “chiến lợi phẩm nghệ thuật” hồi Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Thông qua chuyến thăm đức lần này của Pu-tin, quan hệ Nga – đức đã nguội lạnh đi do các nguyên nhân trong đó có chiến tranh Kô-xô-vô đã có sự thay đổi, như một tờ báo đức bình luận: quan hệ Nga – đức băng giá đã “bắt đầu tan giá”.

Trong thời gian thăm ý và Tây Ban nha, Pu-tin cũng thảo luận trọng điểm vấn đề hợp tác kinh tế, ý hứa cung cấp cho Nga khoản viện trợ 1,5 tỷ USD. Tại cuộc gặp thượng đỉnh Nga và EU tổ chức tại Pa-ri vào tháng 10 năm 2000, EU bày tỏ sẽ tăng cường hơn nữa hợp tác với Nga trong lĩnh vực kinh tế, tiếp tục cung cấp viện trợ kỹ thuật cho Nga, thúc đẩy đầu tư đối với Nga, và giúp Nga nhanh chóng gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.

Về mặt an ninh châu Âu, Pu-tin cũng đưa ra kiến nghị mới. Ông đưa ra sáng kiến thành lập một tổ chức an ninh và hợp tác ở châu Âu, nhằm giữ sự ổn định của khu vực châu Âu, thúc đẩy hợp tác lẫn nhau. Pu-tin còn đưa ra đề nghị kết hợp với EU xây dựng hệ thống phòng ngự tên lửa đạn đạo, phối hợp đánh giá tính chất và quy mô phổ biến tên lửa đạn đạo và mối đe doạ tên lửa đạn đạo có thể xuất hiện, phối hợp nghiên cứu ý tưởng hệ thống phòng ngự chống tên lửa đạn đạo phi chiến lược toàn châu Âu và xây dựng, bố trí trình tự của hệ thống này; phối hợp xây dựng trung tâm cảnh báo trước việc bắn tên lửa đạn đạo toàn châu Âu, tổ chức phối hợp diễn tập bộ tư lệnh…, những đề nghị đó đã nhận được phản ứnh mạnh mẽ của các nước châu Âu, và đã giành được quyền chủ động đối với Mỹ trong vấn đề này.

Sau đó, trong một thời gian tương đối dài, quan hệ Nga – EU ở vào trạng thái phát triển chậm ổn định. hai bên tuy đều cố gắng cải thiện quan hệ song phương, nhưng luôn không tìm được điểm đột phá mới. Mãi đến sau sự kiện 11 tháng 9 xảy ra, hai bên lấy hợp tác an ninh và chống chủ nghĩa khủng bố làm tiếp điểm lợi ích chung, quan hệ Nga và EU đã được cải thiện rõ rệt. Tại hội nghị thượng đỉnh Nga – EU họp vào tháng 5 năm 2002, hai bên đã ký kết 5 tuyên bố chung về các vấn đề như quan hệ Nga – EU, tăng cường đối thoại chính trị và năng lượng song phương, bảo vệ an ninh châu Âu và hoà giải xung đột khu vực…, quan hệ hai bên đã có sự nâng cao mới. Ngày 27 tháng 6, Pu-tin tham dự hội nghị nhóm g8, đã giành được quyền đăng cai hội nghị nguyên thủ g8 năm 2006, Mỹ thúc đẩy 7 nước phương Tây cung cấp cho Nga 20 tỷ USD dùng vào tiêu huỷ vũ khí. Châu Âu và Mỹ lần lượt thừa nhận Nga là nước kinh tế thị trường vừa khẳng định đối với thành quả cải cách kinh tế của Nga, cũng khiến cho Nga cuối cùng giành được địa vị đối thoại bình đẳng với các đối tác kinh tế khác, có lợi cho thúc đẩy xây dựng không gian kinh tế thống nhất Nga – EU, bật đèn xanh cho Nga sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới và hội nhập kinh tế thế giới. Đồng thời, với sự nỗ lực của Pu-tin, hình tượng của Nga tại châu Âu đã được cải thiện, phê phán của các nước phương Tây đối với các vấn đề của Nga như Che-sni-a, nhân quyền, tự do báo chí đều giảm đi, có phần thông cảm hơn đối với việc Nga tấn công chủ nghĩa khủng bố.

Trong quan hệ với EU, Nga luôn luôn đặt lợi ích quốc gia, đặc biệt là lợi ích kinh tế lên vị trí hàng đầu. Mỹ hứa hẹn nhiều nhưng thực ra thì không thể sánh nổi, EU sẽ cung cấp cho Nga viện trợ mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế thương mại. Một chủ đề quan trọng trong hội nghị thượng đỉnh EU – Nga tổ chức vào tháng 6 năm 2002 chính là khởi động tiến trình nhất thể hoá Nga – EU, đưa nền kinh tế Nga hội nhập vào hệ thống kinh tế châu Âu, tạo ra “không gian kinh tế thống nhất”. Quả thực, thị trường, tiền vốn và kỹ thuật của EU sẽ là một chiếc môtơ mạnh nhất thúc đẩy cải cách kinh tế của Nga, còn năng lượng phong phú và tiềm lực thị trường to lớn của Nga đối với EU mà nói chắc chắn cũng là một miếng bánh gatô lớn cực kỳ hấp dẫn. Ngược lại, hợp tác về kinh tế và dựa vào nhau tất sẽ thúc đẩy Nga và EU xây dựng quan hệ tin cậy lẫn nhau trong lĩnh vực an ninh chính trị, từ đó tăng thêm khả năng xây dựng một quan hệ đối tác chiến lược Nga – EU thực thụ.

Trong vấn đề NATO mở rộng sang phía đông, Nga luôn kiên trì thái độ phản đối, sau khi Pu-tin lên nắm quyền, cũng không thay đổi lập trường này. Nga coi việc NATO mở rộng sang phía đông là thách thức lớn nhất mà môi trường an ninh Nga gặp phải. “Xét về căn bản, Nga phản đối NATO mở rộng sang phía đông là xuất phát từ lợi ích an ninh chiến lược của mình, mục đích là muốn bảo vệ địa vị nước lớn của nó, tranh giành quyền chủ đạo trong các công việc an ninh châu Âu với Mỹ và Tây Âu”. Chính vì vậy, mặc dù sau khi Tổng thư ký NATO rô-bơ- xơn thăm Mát-xcơ-va tháng 2 năm 2000 quan hệ giữa Nga và NATO đã được khôi phục, nhưng lập trường kiên quyết phản đối NATO mở rộng sang phía đông của Pu-tin vẫn không thay đổi. Ngày 23 tháng 5 năm 2001, Đu-ma quốc gia Nga đã thông qua nghị quyết phản đối NATO mở rộng sang phía đông.

Nhưng Pu-tin cũng ý thức được rằng, xét thực lực của bản thân, hoàn toàn không thể nào ngăn cản được xu thế mở rộng sang phía đông của NATO. Nhưng xét từ một mặt khác, Nga lấy việc cuối cùng hội nhập châu Âu làm mục tiêu theo đuổi của mình, muốn hội nhập châu Âu tất nhiên phải gia nhập hai tổ chức là EU và NATO, vì vậy cách làm sáng suốt là nâng cao trình độ quan hệ đối tác với NATO, suy cho cùng cứ một mực phản đối thì chỉ có hại chứ không có lợi, là một kiểu hành vi thiển cận. Vì vậy, trong vấn đề NATO mở rộng sang phía đông, Pu-tin vừa kiên trì nguyên tắc, lại nhấn mạnh tiến hành hợp tác với NATO, có tính linh hoạt rất lớn. Ngày 24 tháng 5 năm 2000, ngoại trưởng Nga i-va-nốp lại tham dự hội nghị ủy ban thường trực NATO – Nga, báo chí phương Tây cho rằng, đây là tiêu chí quan trọng của việc Nga và NATO đã khôi phục quan hệ bình thường.

Thế nhưng, sau chuyến thăm Nga của Rô-bơ-xơn, Nga luôn có thái độ cứng rắn trong vấn đề NATO mở rộng sang phía Đông. Mãi tới sau khi sự kiện 11 tháng 9 xảy ra, Tổng thống Pu-tin mới chuyển biến thái độ phản đối mạnh mẽ đối với việc NATO mở rộng sang phía đông. Đầu tháng 10 năm 2001, Pu-tin bày tỏ với phóng viên, rằng Nga hy vọng NATO có sự chuyển biến, trở thành một tổ chức “càng có tính chính trị hơn”. Nếu như NATO có sự thay đổi như vậy, Nga sẽ xem xét lại lập trường của mình đối với việc NATO mở rộng sang phía đông. Pu-tin nhấn mạnh, nếu như Nga cũng bị đưa vào trong tiến trình chính trị hoá này, vậy thì Nga sẽ “tự nhiên thay đổi lập trường của mình đối với việc NATO mở rộng sang phía đông”. Thông qua sự bày tỏ như vậy, chính quyền Pu-tin đã thể hiện ý nguyện cùng với NATO bàn bạc yêu cầu xây dựng một mối quan hệ mật thiết hơn, cùng tấn công chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Để đáp lại, ngày 7 tháng 12 năm 2001, ủy ban liên hợp NATO – Nga đã tổ chức hội nghị ngoại trưởng, trong tuyên bố hội nghị đã chỉ ra, NATO và Nga quyết định xây dựng một cơ chế hợp tác mới, nội dung bao gồm bàn bạc, hợp tác, cùng quyết sách và điều hoà hành động, phối hợp hành động. Tuyên bố còn bày tỏ, NATO và Nga đã tăng cường hợp tác trong đấu tranh chống khủng bố và trong các lĩnh vực khác.

Ngày 28 tháng 5 năm 2002, 19 nguyên thủ của các nước NATO và Pu-tin đã cùng ký kết “Tuyên ngôn rô-ma” tại ý, ủy ban NATO – Nga chính thức thành lập, nhằm thay thế ủy ban liên hợp NATO – Nga vốn có, tức sẽ chuyển cơ chế “19+1” thành “cơ chế 20 nước”. Trong “cơ chế 20 nước” này, NATO sẽ triển khai hợp tác bình đẳng với Nga trong các vấn đề như chống khủng bố, không quân, xử lý khủng hoảng, cứu hộ trên biển, ngăn ngừa phổ biến hạt nhân, ứng phó khủng hoảng dân sự… Thế nhưng, về vấn đề trung tâm liên quan tới phòng vệ NATO, can thiệp quân sự và NATO mở rộng sang phía đông, Nga vẫn không có quyền phát ngôn, càng không nói tới quyền quyết sách. Tuy vậy, Nga sẽ tham gia vào nhiều quyết định quan trọng của NATO một cách bình đẳng như một đối tác, điều này có nghĩa là Nga sẽ “bước thêm một bước hội nhập châu Âu” trong mặt phòng vệ.

Đối với Nga mà nói, cơ chế hợp tác mới xây dựng với NATO này có thể bảo vệ tối đa lợi ích quốc gia trong lần mở rộng mới sang phía đông của NATO. Đợt mở rộng mới sang phía đông của NATO đẩy trực tiếp phòng tuyến chiến lược tới biên giới tây bắc của Nga, hình thành mối uy hiếp trực tiếp đối với an ninh quốc gia của Nga. Để giảm nhẹ mối đe doạ đối với an ninh của bản thân, vỗ về tâm trạng phản đối trong nước, tránh dẫn đến xáo trộn chính trị bên trong, chính phủ Nga cần xác lập với NATO một cơ chế hợp tác mới. Đồng thời, xây dựng cơ chế mới cũng là cơ hội quan trọng để làm thay đổi tính chất của NATO. Nga luôn có mục đích lợi dụng “quan hệ kiểu mới” để cải tạo NATO, thúc đẩy NATO chuyển biến sang một tổ chức có tính chính trị, khiến NATO càng quan tâm tới an ninh của châu Âu hơn, lấy đó để tăng cường quan hệ tồn tại dựa vào nhau giữa Nga và các nước châu Âu, tạo điều kiện cho Nga sớm hội nhập châu Âu. Ngoài ra, Nga cũng muốn lấy đó để đổi lấy sự thừa nhận hội nhập phương Tây về chính trị, giành lấy viện trợ kinh tế và có được sự ủng hộ gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, khiến cho nền kinh tế Nga nhanh chóng được hồi phục và phát triển, tăng cường thực lực nâng đỡ địa vị nước lớn, mở rộng không gian xoay xở chiến lược trong cạnh tranh nước lớn.

Vì vậy, Nga và NATO đánh giá rất cao mối “quan hệ kiểu mới” này. Pu-tin nói, đây là một bước đi quan trọng của việc hai bên bước tới quan hệ hợp tác bình đẳng dựa trên sự tin cậy lẫn nhau thực sự. Tổng thư ký NATO rô-bơ-xơn thì nói, đây là “sự kết thúc của tư suy chiến tranh lạnh”. Bộ trưởng ngoại giao Anh Xtê-la nói: “đây là nghi lễ cuối cùng của lễ an táng chiến tranh lạnh, Nga không còn là kẻ thù nữa, mà là bạn bè và đồng minh”.

Khi trả lời phỏng vấn của phóng viên, Pu-tin bày tỏ, Nga không loại trừ khả năng gia nhập NATO, nhưng “chỉ khi lợi ích của chúng tôi thống nhất” thì mới làm như vậy. Nhưng, sự bày tỏ thái độ này được nhiều người cho rằng chỉ là tín hiệu cải thiện quan hệ mà Pu-tin phát sang phía NATO, là sự thể hiện của sự khôn khéo ngoại giao linh hoạt của Pu-tin. Vì sau đó nhà lãnh đạo Nga nhiều lần bày tỏ về vấn đề này, rằng Nga không định gia nhập NATO.

Bước vào năm 2002, để thúc đẩy quan hệ Nga và NATO phát triển hơn nữa, tạo ba điều kiện cho việc mở rộng hợp tác với NATO sau này thậm chí gia nhập NATO, tháng 11 năm 2002, Pu-tin đã bày tỏ sau khi hội đàm với Tổng thư ký NATO rô-bơ- xơn rằng, “nếu như NATO diễn biến hơn nữa, nếu như hợp tác giữa NATO và Nga phù hợp với lợi ích an ninh của liên bang Nga, nếu như chúng ta cho rằng NATO có thể trở thành công cụ giải quyết những vấn đề mà chúng ta cùng gặp phải và thúc đẩy hợp tác lẫn nhau, vậy thì phương thức Nga tham gia vào công việc của NATO sẽ có sự thay đổi, chúng tôi sẽ xem xét việc tham gia rộng rãi hơn vào công việc của NATO”. Những câu nói đó được đưa ra vào ngay trước ngày Pu-tin lên đường thăm Mỹ, chắc chắn càng có ý nghĩa sâu xa hơn. rốt cuộc sự bày tỏ thái độ này liệu có đem lại sự hưởng ứng tích cực của phía NATO hay không, liệu có khiến cho quan hệ giữa Nga và NATO phát triển lên một tầm cao hơn nữa hay không, điều này chúng ta cần chăm chú theo dõi, chờ đợi.

Củng cố, phát triển quan hệ Trung – Nga

Trong chính sách “ngoại giao hai cánh” của Pu-tin, phía đông là một cánh trong đó, Trung Quốc sẽ tiếp tục chiếm vị trí trung tâm của chính sách châu Á – Thái Bình Dương của Nga, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược giữa hai nước sẽ củng cố và phát triển hơn nữa. Vừa mới lên nắm quyền, Pu-tin đã phát đi tín hiệu này thông qua các con đường. Đầu năm 2000, khi gặp gỡ Thượng tướng Trì hạo điền, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, Pu-tin bày tỏ, Nga “sẽ kiên định bất di bất dịch tuân theo nhận thức chung đạt được giữa Tổng thống En-xin và Chủ tịch giang Trạch Dân, tiếp tục dốc sức vào phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược trong đó bao gồm cả chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá, quân sự”. Đồng thời bày tỏ, trong các công việc quốc tế, Nga và Trung Quốc cũng tiến hành hợp tác tốt đẹp, hai bên đều có lập trường thống nhất trong các vấn đề như xây dựng thế giới đa cực, phản đối xây dựng thế giới đơn cực, phản đối can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. hy vọng hai nước Nga – Trung Quốc sau này sẽ tiếp tục tăng cường bàn bạc và điều hoà trong các công việc quốc tế. Sau khi hội đàm kết thúc, hai bên đã ký kết “Bản ghi nhớ về tăng cường hơn nữa hiểu biết lẫn nhau trong lĩnh vực quân sự” giữa Bộ Quốc phòng Nga và Bộ Quốc phòng Trung Quốc. Ngày 1 tháng 3, trong hội đàm với ngoại trưởng Trung Quốc đường gia Triền đang ở thăm Nga, Pu-tin bày tỏ, ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong vấn đề đài loan, ủng hộ Trung Quốc thực hiện toàn vẹn lãnh thổ. Và cho rằng, thế giới đang phát triển theo hướng đa cực hoá, lãnh đạo hai nước đều ủng hộ xu thế này, phía nga muốn cùng phía Trung Quốc tiến hành hợp tác chặt chẽ, thúc đẩy tiến trình này.

Tháng 7 năm 2000, Pu-tin đã tiến hành chuyến thăm chính thức đầu tiên tới Trung Quốc trước khi đi dự hội nghị thượng đỉnh O-ki-na-oa. Vào trước ngày đi thăm, khi trả lời phỏng vấn, Pu-tin đã chỉ rõ, Trung Quốc là đối tác chiến lược của Nga, phát triển quan hệ với Trung Quốc là một trong những hướng ưu tiên chính của chính sách đối ngoại của Nga. Ông nói, sự phát triển lớn của quan hệ Nga – Trung Quốc không phải là kế tuỳ nghi, Nga sẽ tiếp tục tích cực phát triển hợp tác với nước Trung Quốc to lớn trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá và công việc quốc tế. Từ ngày 17 ~ 19 tháng 7 năm 2000, Pu-tin thăm Nga và đã ký kết “Tuyên ngôn Bắc Kinh Nga – Trung Quốc” và “Tuyên bố chung Chủ tịch nước cộng hoà nhân dân Trung hoa và Tổng thống liên bang Nga về vấn đề chống tên lửa đạn đạo”. Trong “Tuyên ngôn Bắc Kinh”, hai bên cùng trình bày rõ lập trường phản đối chủ nghĩa bá quyền, chính trị cường quyền và hành vi hòng sửa đổi chuẩn mực quốc tế, dùng vũ lực gây sức ép hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia có chủ quyền, chủ trương xây dựng một trật tự quốc tế công bằng hợp lý, thúc đẩy thế giới phát triển đa cực hoá. Để phản đối việc Mỹ bố trí TMD, “Tuyên bố chung về vấn đề chống tên lửa đạn đạo” còn nhấn mạnh, mục đích của việc Mỹ xây dựng kế hoạch phòng ngự tên lửa đạn đạo quốc gia mà “hiệp ước chống tên lửa đạn đạo” cấm là hòng tìm kiếm ưu thế quân sự và an ninh đơn phương, là sự phá hoại đối với ổn định chiến lược toàn cầu, hai nước Nga – Trung Quốc kiên quyết phản đối kế hoạch này.

Từ ngày 15 – 18 tháng 7 năm 2001, nhận lời mời của Tổng thống Pu-tin, Chủ tịch giang Trạch Dân tiến hành chuyến thăm nhà nước đối với Nga. hai nguyên thủ đã ký kết “Hiệp ước hợp tác hữu nghị láng giềng nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa và liên bang Nga”, và đã ra “Tuyên bố chung Mát-xcơ-va nguyên thủ Nga – Trung Quốc”. “hiệp ước hợp tác hữu nghị láng giềng Nga – Trung Quốc” xác định rõ sẽ cố định lại ý chí kiên định hai bên mãi mãi là láng giềng tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt bằng hình thức pháp luật, đặt nền tảng pháp luật chắc chắn cho Nga và Trung Quốc phát triển hơn nữa quan hệ láng giềng hữu nghị. hiệp ước định vị quan hệ Trung – Nga là quan hệ đối tác hợp tác chiến lược bình đẳng tin cậy, tập trung thể hiện lợi ích rộng rãi của Trung Quốc và Nga trong phát triển quan hệ song phương và công việc quốc tế. Việc ký kết hiệp ước đã đánh dấu quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung – Nga đã bước vào giai đoạn mới không ngừng lớn mạnh và phát triển đi vào chiều sâu.

Từ ngày 1 – 3 tháng 12 năm 2002, Tổng thống Nga Pu-tin đã tiến hành chuyến thăm chính thức lần thứ hai đến Trung Quốc. Trong thời gian ở thăm, Tổng thống Pu-tin và Chủ tịch giang Trạch Dân đã ký kết “Tuyên bố chung nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa và liên bang nga”. Nhấn mạnh trong “Tuyên bố chung”, cần tăng cường và đi sâu vào quan hệ đối tác hợp tác chiến lược giữa hai nước, tiếp tục tăng cường hợp tác trong mặt chống chủ nghĩa khủng bố, nhắc lại sẽ tuân thủ phương châm và nguyên tắc của “hiệp ước hợp tác hữu nghị láng giềng Trung- Nga”, và nhấn mạnh nổi bật ý nghĩa quan trọng của việc tăng cường hợp tác kinh tế thương mại Trung – Nga. Chuyến thăm này có ý nghĩa chính trị đặc biệt trong bối cảnh đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập thắng lợi “đại hội XVi”, chắc chắn sẽ thúc đẩy hợp tác hữu nghị láng giềng song phương Trung – Nga phát triển hơn nữa.

Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược Trung – Nga đã trở thành một nhân tố quan trọng trong nền chính trị quốc tế. là hai nước lớn ở gần nhau, hai nước thường trực liên hợp quốc, hai bên Trung – Nga lấy lợi ích chiến lược chung làm đầu mối, lấy toàn cầu hoá kinh tế và nhất thể hoá kinh tế khu vực làm hướng đi chính, lấy tin cậy chính trị cao độ và cơ chế hợp tác kiện toàn làm bảo đảm, quan hệ hai bên đã bước vào một thời kỳ phát triển mới, mối liên hệ trong các mặt an ninh quốc gia, hợp tác quốc tế và hợp tác kinh tế không ngừng được tăng cường và đi sâu.

Một là về mặt an ninh quốc gia chống chủ nghĩa khủng bố, chống chia rẽ đất nước, trong các loại lợi ích của quan hệ hai nước, tầng cơ bản nhất, ổn định nhất phải là lợi ích an ninh quốc gia của hai bên.

Nga và Trung Quốc đều là quốc gia đất đai rộng lớn, đều có dân số đông và quân đội khổng lồ, hai bên đều có vũ khí hạt nhân. hơn nữa lại là láng giềng, hai bên có hơn 4300 km đường biên giới. Tình hình đó đã quyết định hai nước Trung Quốc – Nga có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với an ninh của nhau.

Đặc biệt là sau sự kiện 11 tháng 9, tình hình quốc tế có sự thay đổi to lớn, cộng đồng quốc tế đứng trước mối đe doạ mới của chủ nghĩa khủng bố. Trong tình hình mới, tháng 6 năm 2001, Nga và Trung Quốc cùng với các nước Ca-dắc-xtan, Kư- rơ-gi-xtan, Tát-gi-ki-xtan và U-dơ-bê-xtan thành lập Tổ chức hợp tác Thượng hải trên cơ sở tăng cường tin cậy quân sự, cắt giảm lực lượng quân sự biên giới, tiến hành hợp tác trong các lĩnh vực rộng lớn như tấn công chủ nghĩa khủng bố khu vực, bảo vệ an ninh biên giới và hợp tác kinh tế. hợp tác chiến lược của hai nước Trung Quốc – Nga trong hợp tác quốc tế chống khủng bố đã trở thành nội dung quan trọng và điểm tăng trưởng mới của quan hệ song phương.

Ngoài ra, hai nước cũng đẩy mạnh hợp tác trong giao lưu kỹ thuật quân sự. Nga lần lượt bán cho Trung Quốc các loại vũ khí hiện đại như máy bay chiến đấu SU-27, SU-30MK, tàu khu trục tên lửa đạn đạo lớp hiện đại, tàu ngầm động lực chính quy lớp Kilô, hệ thóng tên lửa đạn đạo phòng không C-300. Thông qua thu hút kỹ thuật quân sự chín muồi tiên tiến của Nga, Trung Quốc đã nâng cao trình độ phòng vệ, đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá quân sự. hợp tác của hai bên trong các mặt chống chủ nghĩa khủng bố, chống chủ nghĩa ly khai đã tạo cơ sở vững chắc cho ổn định xã hội, phát triển kinh tế và bảo vệ thống nhất đất nước, cũng mở ra không gian rộng lớn cho hợp tác trong các mặt chính trị, kinh tế.

Hai là về mặt hợp tác quốc tế. Sau khi Nga độc lập, quan hệ hai bên Trung Quốc – Nga phát triển thuận lợi, vấn đề biên giới trong lịch sử ảnh hưởng lâu dài tới quan hệ hai nước đang được giải quyết, “Tuyên bố chung” mà hai bên ký kết khi Tổng thống Pu-tin thăm Trung Quốc lần thứ hai đã nêu rõ cần giải quyết triệt để vấn đề biên giới Trung – Nga do lịch sử để lại. Đồng thời, biện pháp an ninh ở khu vực biên giới cũng cố định bằng hình thức thoả thuận quốc tế song phương hoặc đa phương. Xét trước mắt và tương lai có thể thấy được, Trung Quốc và Nga không có xung đột lợi ích và đối lập nghiêm trọng lớn trong lĩnh vực quốc tế. Ngược lại, tính nhất trí về lợi ích chiến lược của hai nước, như chủ trương thế giới đa cực hoá, chống chủ nghĩa bá quyền, bảo vệ chủ quyền và thống nhất đất nước, chống chủ nghĩa khủng bố, phát triển kinh tế đất nước…, đều được tăng cường chưa từng có. Tất nhiên, đây không phải là minh chứng lợi ích trong lĩnh vực quốc tế của hai bên hoàn toàn thống nhất, không có bất kỳ bất đồng nào. Trong một số vấn đề liên quan tới lợi ích quốc gia đặc biệt nào đó, hai bên vẫn có thể tồn tại bất đồng hoặc cạnh tranh, cách nhìn vấn đề quốc tế cũng có thể không hoàn toàn thống nhất. Thế nhưng, trong tương lai có thể thấy trước, trong những vấn đề quốc tế lớn hai bên sẽ không xuất hiện đối lập hoặc xung đột lơi ích có tính chiến lược. hai bên Trung – Nga cũng đứng trước tình hình quốc tế nghiêm trọng. Nga và phương Tây tồn tại xung đột trong vấn đề NATO mở rộng sang phía đông và Ban-căng, có cách nhìn khác nhau so với các nước NATO trong đó có Mỹ về các vấn đề như cái gọi là “quốc gia vô lại”, Trung Quốc cũng tồn tại bất đồng nghiêm trọng với Mỹ và nhật Bản trong vấn đề như an ninh đông Bắc á, và hai bên đều phản đối Mỹ phát triển NMD và TMD, cảm thấy rất bất mãn trước xu thế ngày càng nghiêng về quyết định độc lập các vấn đề quốc tế lớn qua mặt các cơ quan quốc tế như liên hợp quốc. Những vấn đề này đều cần hai bên Trung – Nga tăng cường liên hệ, điều hoà lập trường, ủng hộ lẫn nhau. Mà trên thực tế, những vấn đề này cũng quả thực thúc đẩy hai bên tiến hành hợp tác nhiều hơn, mật thiết hơn trong lĩnh vực quốc tế.

Đồng thời, hai bên Trung – Nga cùng là nước thường trực hội đồng bảo an liên hợp quốc, có cách nhìn thống nhất trong việc tăng cường vai trò của liên hợp quốc và hội đồng Bảo an cùng các cơ quan chuyên môn của nó. hai bên đều nhất trí chủ trương cần cố gắng tăng cường vai trò trung tâm trong xử lý các công việc quốc tế, nhất là lĩnh vực an ninh và phát triển của tổ chức quốc tế có quyền uy nhất và có tính phổ biến nhất do các quốc gia chủ quyền cấu thành là liên hợp quốc này, bảo đảm vai trò trung tâm của hội đồng Bảo an trong lĩnh vực hoà bình và an ninh quốc tế, thông qua kiểu hợp tác chiến lược này, bảo vệ tốt hơn lợi ích quốc gia của hai nước trong công việc quốc tế, sẽ có lợi cho nâng cao địa vị quốc tế của hai nước, xây dựng trật tự kinh tế chính trị quốc tế mới công bằng hợp lý, thúc đẩy hoà bình thế giới.

Ba là về mặt hợp tác kinh tế. hai bên Trung – Nga đều đứng trước nhiệm vụ khó khăn tiến hành cải cách, đẩy nhanh phát triển kinh tế. Thế nhưng, trong quan hệ song phương, giao lưu thương mại và hợp tác kinh tế luôn là một khâu yếu, không tương xứng với hợp tác chính trị tương đối cao của hai bên. Mấy năm trước kim ngạch thương mại hai chiều Trung – Nga quanh quẩn mãi ở khoảng 6 tỷ USD, và kim ngạch đầu tư trực tiếp lẫn nhau của hai bên cũng vô cùng ít. Nhưng kể từ sau khi Tổng thống Pu-tin lên nắm quyền, hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực kinh tế phát triển ổn định. Cùng với sự chuyển đổi thể chế kinh tế và quan hệ chính trị hai nước phát triển mật thiết, chính phủ hai nước gấp rút cung cấp sự ủng hộ mềm như luật pháp, tài chính tiền tệ và trọng tài cho hợp tác kinh tế song phương, những nhân tố tích cực này sẽ thúc đẩy có lợi để kinh tế thương mại hai nước phát triển, khiến cho nền tảng kinh tế của quan hệ hợp tác chiến lược Trung – Nga được củng cố hơn nữa. Tháng 9 năm 2001, Thủ tướng Chu Dung Cơ thăm Nga, Thủ tướng hai nước đã tiến hành cuộc gặp gỡ định kỳ lần thứ sáu, khiến cho hợp tác kinh tế thương mại Trung – Nga bước lên một tầm cao mới, Thủ tướng hai nước đặc biệt nhấn mạnh hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn và vừa và hợp tác trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật cao giữa hai bên, hợp tác kinh tế thương mại hai nước từ đó xuất hiện phát triển mới nhanh chóng. Năm 2001, tổng kim ngạch thương mại song phương đạt tới mức kỷ lục là 10,67 tỷ USD, tăng trên 30% so với năm trước. phía Nga cho rằng, cộng thêm mậu dịch dân gian, kim ngạch thương mại hai nước đã vượt quá 20 tỷ USD. hơn nữa càng nhiều khu vực và doanh nghiệp Trung Quốc đã tham gia vào hợp tác thương mại song phương. Theo thống kê của cơ quan hải quan, từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2002, kim ngạch thương mại song phương Trung – Nga đạt tới 7,64 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước, và trình độ cũng như chất lượng của hợp tác kinh tế thương mại song phương cũng được nâng cao tương đối lớn.

Ngoài ra, hợp tác năng lượng giữa Trung Quốc và Nga là nội dung khiến người ta quan tâm trong hợp tác kinh tế thương mại trong thế kỷ mới. hai bên đang gấp rút trù tính xây dựng một hạng mục đường ống dẫn dầu từ Xi-bê-ri-a của Nga đến vùng đông Bắc Trung Quốc. Trong “Công báo chung” do Thủ tướng hai nước ký tại Thượng hải tháng 8 năm 2002, đã quy định rõ “cơ quan chủ quản nhà nước của các bên cần đẩy nhanh tiến hành xem xét phê chuẩn đối với dự án, nhằm sau khi được phê chuẩn rồi, nghiên cứu thoả thuận chung theo tính khả thi, chuyển dự án này vào giai đoạn thiết kế sơ bộ”. Công trình dự tính khởi công vào tháng 7 năm 2003, hoàn thành vào trước năm 2005, thời gian hợp tác là 25 năm. Kế hoạch bắt đầu từ năm 2005 vận chuyển dầu sang Trung Quốc, mỗi năm là 20 triệu tấn, bắt đầu từ năm 2010 nâng lên 30 triệu tấn mỗi năm.

Nhưng xét tình hình thực tế trước mắt, do nền kinh tế của hai nước đều ở vào thời kỳ phát triển, đều rất cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, hơn nữa sản phẩm của các bên đều không có mấy sức cạnh tranh quốc tế, điều này dẫn đến quan hệ kinh tế thương mại Trung – Nga vẫn tụt hậu xa so với quan hệ chính trị của hai nước. Thế nhưng, trong “ý tưởng chính sách ngoại giao liên bang Nga” cũng đã đặc biệt nhấn mạnh “nga sẽ nỗ lực phát triển hợp tác cùng có lợi trong các mặt với Trung Quốc, nhiệm vụ chủ yếu vẫn là tiến hành hợp tác kinh tế quy mô lớn phù hợp với trình độ quan hệ chính trị”. Khi trả lời phỏng vấn của phóng viên ngay trước ngày tiến hành chuyến thăm Trung Quốc lần thứ hai, Pu-tin nhấn mạnh: “Kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng, nhất là phát triển trong những năm gần đây khiến cho mọi người ngày càng quan tâm chú ý tới kinh nghiệm của Trung Quốc. Vì vậy chúng ta trước tiên cần hết sức coi trọng hợp tác trong lĩnh vực kinh tế. Về mặt này có nhiều vấn đề có thể thảo luận, chẳng hạn như dự án năng lượng mà tôi đã từng nhắc tới. Kinh tế Trung Quốc không ngừng tăng trưởng, nhu cầu năng lượng cũng đang tăng trưởng. Tài nguyên năng lượng của Trung Quốc có hạn, nhưng tài nguyên của Nga rất phong phú, về mặt này có thể đàm phán hợp đồng lâu dài, điều này vừa phù hợp với lợi ích của Nga, cũng phù hợp với lợi ích của Trung Quốc”. Vì vậy, cùng với nền kinh tế Nga từng bước phục hồi và kinh tế thị trường Trung – Nga ngày càng hoàn thiện và sự cố gắng chung của chính phủ hai nước, quy mô và lĩnh vực hợp tác kinh tế thương mại Trung – Nga tất sẽ tiếp tục mở rộng, nhân tố kinh tế sẽ từng bước mở rộng tỷ lệ trong quan hệ hai nước.

Tất nhiên, trong phát triển quan hệ hai nước Trung – Nga cũng tồn tại nhân tố trói buộc bất lợi. hiện nay hai bên Trung – Nga ở vào chế độ xã hội khác nhau, hình thái ý thức khác nhau chắc chắn sẽ tồn tại ảnh hưởng ít hoặc nhiều đối với quan hệ hai bên. Còn trong giới học thuật, chính giới và dân gian Nga, “thuyết mối đe doạ của Trung Quốc” vẫn có ảnh hưởng nhất định. Đặc biệt là những thay đổi to lớn trong phát triển kinh tế của Trung Quốc khiến cho luận điệu này có được thị trường nhất định. Đây cũng là nhân tố không xác định trong phát triển lâu dài quan hệ Trung – Nga.

Nhưng xét về tổng thể, triển vọng phát triển quan hệ Trung – Nga là tốt đẹp. Sau sự kiện 11 tháng 9, tình hình thế giới có sự thay đổi lớn, các nước đều đứng trước sự lựa chọn, cơ hội và thách thức mới. Trong tình hình đó, chuyến thăm Trung Quốc lần thứ hai của Tổng thống Pu-tin chắc chắn là có ý nghĩa quan trọng. Trong “Tuyên bố chung nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa và liên bang nga”, hai bên đã xác định hơn nữa mối quan hệ hợp tác chiến lược Trung – Nga, nhắc lại hai bên sẽ tuân thủ phương châm và nguyên tắc của “hiệp ước hợp tác hữu nghị láng giềng Trung – nga”, điều hoà lập trường và ủng hộ lẫn nhau trong những vấn đề mà hai bên quan tâm, “mãi mãi là láng giềng tốt, bạn bè tốt, đối tác tốt”.

Nền tảng hợp tác Trung – Nga vững chắc, triển vọng vô cùng rộng lớn. Đặc biệt là hai bên Trung – Nga đã xây dựng chế độ bảo đảm cơ bản, bao gồm các cơ chế hợp tác cố định như cơ chế gặp cỡ định kỳ nguyên thủ nhà nước, người đứng đầu chính phủ hai nước, cơ chế gặp gỡ định kỳ cấp Thủ tướng. Với tác dụng của cơ chế hợp tác kiện toàn, quan hệ Trung – Nga nhất định có sự phát triển liên tục, ổn định và lành mạnh.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.