Rắc rối với ngày Valentine

chương 06a



Kate nhìn quanh phòng khách, ngả đầu dựa vào ghế sofa. Tiếng kéo kẹt khe khẽ từ cái ghế tựa của ông cùng tiếng bộ phim Những cô gái Vàng (Golden Girls: bộ phim truyền hình nổi tiếng năm 1980 của Mỹ) phát lại vang vọng khắp ngôi nhà nhỏ. Hôm nay là lễ Thánh Patrick, và cô đang dành cả ngày này để xem tivi cùng ông. Cô mang trong mình nửa dòng máu Ireland. Thông thường vào thời gian này trong năm, cô và bạn bè đang ra ngoài nhậu nhẹt, ngêu ngao bài “Too Ra Loo Ra Loo Ra” (một bài hát ru dân gian Ireland).

Ông cô cũng mang trong mình dòng máu Ireland. Ông nên ra ngoài và làm sống lại huyết thống đó. Có lẽ cô nên gợi ý cho ông gọi một vài chiến hữu của ông đến nhà và mời họ bia tươi. Mặc dù lần cuối cùng cô thúc ông làm việc gì đó, ông đã ép cô đi với ông tới đêm thơ. Tối đó thật là một thảm họa.

Khi lớn lên, cô biết Gospel hơi kỳ quặc. Nhưng sau tối hôm đó, cô bị thuyết phục rằng nó còn có gì đó hơn cả kỳ quặc. Giờ thì cô biết mình đang sống ở một nơi phức tạp, bên ngoài thì có vẻ bình thường, nhưng ẩn sau bộ mặt đó thì vô cùng quái gở. Bốn đêm trước, cô đã thoáng nhận thấy sự điên dại ẩn sau những khuôn mặt bình thường, và chuyện đó thật đáng sợ. Người duy nhất không hành động giống như một tên điên là Rob Sutter. Anh trông giận dữ hơn là mất trí.

-Sao cháu không ra ngoài, Katie?

Cô quay sang nhìn ông.

-Ông đang cố đuổi cháu đi đó hả?

-Đúng rồi. Cháu làm ông mệt mỏi quá. – Ông quay lại nhìn tivi. – Ông yêu cháu, Katie à, nhưng ông cần xa cháu một chút để nghỉ ngơi.

Cô ngồi thẳng dậy. Cô đến Gospel phụ ông một tay trông nom cửa hàng và giúp ông vượt qua đau khổ. Cô cũng cần tạm xa ông một chút, nhưng cô không quá khiếm nhã để nói với ông chuyện đó. Hiển nhiên là ông cũng không chịu được cảnh bị kìm kẹp tương tự.

-Đi uống trà tươi ở đâu đó chẳng hạn.

Cô không muốn uống ở một quán bar một mình. Có vài chuyện hơi buồn liên quan tới nó, với cả, lần gần đây nhất cũng chẳng ra làm sao. Cô đã say không biết trời đất đâu để rồi tới giờ vẫn đang phải trả giá cho chuyện đó.

-Chơi vài ván bi-a, gặp gỡ bạn bè cùng lứa cháu chẳng hạn.

Bi-a. Cô có thể chơi bi-a. Việc đó không đáng buồn, cũng chẳng đáng khinh, và nếu không uống quá nhiều, cô sẽ không làm chuyện gì ngu ngốc.

-Quán nào có bàn hả ông?

-Quán Buckborn có vài bàn ở đằng sau. Ông nghĩ Rocky’s Bar không có. Nhưng Hiching Post có thể vẫn còn đôi bàn. – Trong khi Kate cố nhớ xem quán nào gần nhất, ông nói thêm. – Tất nhiên cháu nên tránh xa quán Hiching Post ra vì nhà vệ sinh ở đó vẫn là nền đất thô.

Kate ngó xuống nhìn cái quần sweat và đôi dép lê Tasmanlan Devil.

-Nền quán Buckborn có phải đất thô không ạ?

Cô đã tới quán đó vài lần, đoán nó phải cỡ một trăm tuổi. Không xập xề, chỉ là rất quê mùa.

-Không phải thời gian này trong năm. Nó chỉ thế khi khách du lịch tứ xứ tới vào mùa hè.

-Tại sao hai ông cháu ta không đi chơi bi-a cùng nhau nhỉ? Cháu cá là vài người bạn của ông cũng đang ở đó.

Ông lắc đầu.

-Ông không muốn đi đâu hết. – Trước khi cô kịp phản đối, ông tiếp luôn. – Ông sẽ gọi Jerome xem ông ấy có muốn đến uống bia không.

Cô đứng lên. Nếu ông cô có nổi hơn một người bạn, ông sẽ chẳng cần cô làm bầu bạn làm gì.

-Được rồi. Có lẽ cháu sẽ đi làm vài ván bi-a.

Cô vào phòng ngủ, đổi sang mặc áo lót không quai, áo len dài tay cổ rộng sọc đen trắng và quần jean. Cô xỏ đôi bốt đen, xịt nước hoa vào cổ tay. Đánh răng xong, cô chải tóc cho thật mượt mà, xõa ngang vai. Cô không tốn quá nhiều công sức vào việc trang điểm. Xong xuôi, cô vớ lấy áo khoác cùng cái ba lô nhỏ màu đen hiệu Dooney & Bourke rồi đi ra ngoài.

-Chắc là cháu sẽ về muộn đó ông ạ. – Cô nói với ông khi đi ngang qua cái bàn bếp bày những miếng lót đĩa in hình Tom Jones.

-Trông cháu dễ thương lắm. – Stanley giúp cô mắc áo khoác. – Nếu trót uống nhiều quá, nhớ phải gọi cho ông đấy.

-Cảm ơn ông, cháu sẽ gọi. – Cô đáp, nhưng thực sự cô không định uống quá chén. Cô rút chùm chìa khóa ra khỏi ba lô rồi bước ra cửa.

-À Kate này.

Cô ngước nhìn vào đôi mắt ông.

-Gì ạ?

-Đừng có đánh thắng tất cả bọn con trai trên bàn bi-a nhé. – Ông bật cười, nhưng Kate không dám chắc là ông đang đùa.

Bên ngoài bar Buckborn nhìn giống như rất nhiều quán xá ở Gospel, được dựng từ gỗ xẻ, với một mái che bằng sắt tây màu xanh lá. Nhưng không giống những cửa hàng khác, quán không có mái che kẻ sọc hay chậu hoa để làm dịu đi vẻ bề ngoài thô ráp. Không có người Da Đỏ bằng gỗ hay những dòng chữ vàng trên các ô cửa sổ sơn đen. Tay nắm cửa làm bằng một cái sừng. Một biển hiệu neon lớn hình con hươu Bắc Mỹ treo trên mái hiên đã mòn. Những khe hở trên vách gỗ cũ kỹ được trét lại bằng xi-măng, nhưng ánh đèn mờ mờ và tiếng đàn ghi-ta rền rĩ vẫn lọt ra ngoài.

Bước vào trong Buckhorn giống như vào trong hàng trăm quán bar khác của những tay cao bồi ở các thị trấn nhỏ. Với khách quen, đây là ngôi nhà thứ hai, còn người lạ thường bị dò xét với ánh mắt nghi ngờ.

Chủ quán là Burley Mortpn, nặng hơn một trăm ba mươi cân nhưng chỉ cao có hơn một mét chín. Anh ta cắt một cây gậy bóng chày Louisville Slugger và một khẩu súng cưa nòng đằng sau quầy bar. Anh ta đã không động tới cái gậy Slugger kể từ năm 85, khi một tay khách du lịch định đập anh ta bằng một thùng bia Coor Lite và một hộp đậu phộng. Anh ta không còn gặp rắc rối kiểu như vậy nhiều năm nay, nhưng vẫn giữ hai vũ khí đó ở chỗ thuận tiện để phòng bất trắc. Thỉnh thoảng một trong những quán rượu trong vùng cũng có vụ lộn xộn hay đám say xỉn gây rối, nhưng anh ta có thể giải quyết nhanh gọn bằng việc gọi cảnh sát, hoặc bằng chính hai nắm đấm của anh ta.

Cánh cửa Buckhorn đóng lại sau lưng Kate, gợi cho cô nhớ tới những khách sạn thân quen và sòng bài ở Vegas. Mùi rượu và xì gà ám vào gỗ quầy bar như vec-ni. Chủ quán đã cố tẩy bằng thuốc khử mùi có mùi anh đào nhưng cũng không cải thiện được bao nhiêu.

Máy hát bật bài của Kenny Chesney hát về một ngôi sao nổi tiếng, trong khi một vài đôi đang khiêu vũ ở giữa phòng lớn. Kate không phải là fan cuồng nhiệt của nhạc đồng quê, nhưng xem ra Kenny khá hơn hẳn Tom. Những vòng hoa kết bằng cỏ ba lá trang trí dọc theo quầy bar và dãy ghế salon đỏ. Tấm bảng tin dán đầy những tờ bướm quảng cáo lòe loẹt đóng trên những tường phía bên tay phải Kate.

Kate đeo ba lô lên vai, đi thẳng tới quầy bar. Cô len lỏi qua mấy bàn, tìm một cái ghế xoay cạnh dàn đèn neon có hình chữ Coor.

-Cô em cần gì nào? – Tay chủ quán Buckhorn hỏi, mồm phì phèo điều xì gà.

-Anh có lúa mì vụ đông không?

Cặp lông mày đen rậm của Burley xích lại gần nhau. Anh ta nhìn cô như thể cô vừa gọi Shirley Templer (Shirley Templer (23/04/1928) là nữ diễn viên nổi tiếng người Mỹ. Bà nổi tiếng từ các vai diễn thiếu nhi những năm thập kỷ ba mươi thế kỷ hai mươi) thêm nhiều trái anh đào.

-Cho tôi một chai Bud Lite. – Cô chữa lại.

-Chuẩn đấy. – Anh ta gật gù, quay đi lấy bia, để lại một lần khói thuốc mỏng manh bám theo sau.

-Cô là cháu gái ông Stanley đúng không nhỉ?

Cô quay sang nhìn người đàn ông ngồi bên cạnh, ngay tức khắc nhận ra Hayden Dean, nguồn cảm hứng bất tận cho bài thơ “Con chuột ghẻ”.

-Vâng. Ông có khỏe không, ông Dean?

-Khỏe. – Lão với lấy bia, khẽ cọ vào vai Kate. Cô không chắc đây là một sự vô ý.

Burley quay lại, đặt hai cốc bia tươi trước mặt cô.

-Hai đô năm mươi xen.

-Tôi chỉ gọi một thôi mà. – Cô ngạc nhiên.

Máy hát tự động chuyển sang một bài ca của Clint Black. Anh ta cầm điếu xì gà ra khỏi miệng, chỉ vào biển hiệu sau lưng.

-Tối thứ tư mua một tặng một.

Ôi chà, mua một tặng một. Kate không thích mua một tặng một từ hồi còn học đại học. Giờ đây, bia bọt không còn hấp dẫn với cô như hồi mới đôi mươi, khi cô còn là một nhà vô địch uống bia bom trong tư thế trồng cây chuối hay bằng vòi.

-Tôi chưa tới đây bao giờ. – Cô nói với Hayden trong khi lục trong cái túi Dooney lấy tờ năm đô-la đưa cho Burley.

Cô liếc qua vai trái, phía sau quầy bar. Qua khe hở, cô có thể thấy ống đèn treo trên hai bàn bi-a. Cô đưa cốc lên nhấp môi và cảm giác có gì đó cọ vào đùi.

-Tôi yêu những cô em tóc đỏ. – Hayden nói.

Cô nhìn xuống thấy bàn tay lão đang đặt lên chân mình, rồi lại ngước lên nhìn khuôn mặt nhăn nheo của lão. Như vậy nghĩa là gã đàn ông duy nhất để ý đến cô trong một năm lại là một thằng già đến sởi gai ốc, hơi thở nồng nạc mùi bia và nổi tiếng thô lỗ.

-Bỏ tay ra khỏi đùi tôi, ông Dean.

Lão ta nhe răng cười. Cô để ý thấy lão đã rụng mất mấy cái răng hàm.

-Cô em nổi nóng. Tôi thích phụ nữ như thế.

Kate trợn mắt. Cô vẫn thuộc lòng các bài tự vệ từ khi nhận được chứng chỉ thám tử tư. Nếu muốn, cô có thể gỡ tay Hayden ra, gập ngón cái của lão tới tận cổ tay chỉ bằng một động tác. Nhưng cô không muốn làm lão đau. Chuyện đó có thể gây phiền hà khi lần sau lão mò tới M&S uống cà phê miễn phí. Cô khoác ba lô lên vai, đứng phắt dậy. Dù không thực sự muốn hai cốc bia, cô vơ vội lấy chúng khỏi quầy, tiến thẳng về phía gian trong. Vừa len lỏi qua các bàn, cô vừa hớp mỗi cốc một ít để chúng khỏi trào.

Ở gian trong chật hẹp, bốn người chơi đang dùng hai cái bàn. Vài người xem uống bia, đứng túm tụm dưới dòng chữ “Không khạc nhổ, không đánh nhau, không cá độ” khổ lớn.

Trong bóng tối, Rob Sutter thôi không dựa vào tường, đi tới vươn người qua một cái bàn.

-Bi số ba lỗ mười. – Anh ta nói, át tiếng bi chạm nhau ở bàn khác và tiếng ngâm nga của George Jones từ cái máy hát tự động phòng bên.

Kate đứng ở cửa quan sát anh ta chỉnh tay cơ. Cái đèn ống treo ngay phía trên bàn chiếu xuống bàn tay trái và cái nhẫn bạc ở ngón giữa của anh ta. Vải flanen màu xanh dương xắn cao trên hai cánh tay dài, để lộ cái đuôi hình xăm con rắn. Anh ta đội mũ lưỡi trai màu xanh nước biển có hình lưỡi câu móc mồi giả và chữ thêu “Chén tao đi”. Anh ta để gậy nằm giữa ngón cái và ngón trỏ rồi chọc: Động tác của anh ta thiếu sự khéo léo và dùng quá nhiều sức lực. Bi cái đập vào bi đỏ mạnh tới nổi nó bắn tung lên trước khi đập bảng và lăn vào lỗ. Ánh mắt anh ta dõi theo viên bi tới mép bàn, ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục lên tới hàng khuy áo khoác của Kate, qua cằm, miệng, tới đôi mắt cô. Dưới bóng lưỡi trai che trên khuôn mặt, ánh mắt anh ta bắt gặp ánh mắt cô, đơn giản anh ta chỉ nhìn chằm chằm. Mép anh ta khẽ nhếch lên vẻ khó chịu. Kate không biết liệu có phải anh ta khó chịu khi nhìn thấy cô hay vì đã chọc bi quá mạnh để mất lượt. Có lẽ cả hai.

Anh ta đứng vẻ khoan khoái, bóng vành mũ che hết phần mũi, chỉ để lộ đôi môi, bộ ria, râu cằm trong ánh đèn mờ ảo của căn phòng. Anh ta mặc áo phông trắng bên trong áo sơ mi vải flanen xanh dương không cài khuy. Anh ta không cắm thùng, đuôi áo buông quanh hông và dải khuy quần Levi’s.

Trong khi anh ta đứng đó, giống như người trong mộng của mọi cô gái, cô thấy mình trông không khác gì một con ngố đang giữ khư khư hai cốc bia.

Kate nghĩ tới việc rút lui. Nhưng nếu vây giờ cô rời bỏ khỏi phòng, anh ta sẽ nghĩ cô chuồn là vì anh ta, chuyện có lẽ là thật, nhưng cô không muốn anh ta biết điều đó. Anh ta nhoài người ra bàn một lần nữa. Cả thân hình duỗi dài ra tì vào mặt bàn. Cặp mông săn chắc làm chật căng cái quần Levi’s. Không còn nghi ngờ gì nữa, Rob Sutter quá hấp dẫn. Một mẫu đàn ông khiến mọi cô gái bị kích động ở những vị trí nhạy cảm. Nhưng với Kate thì không. Anh ta không khiến cô rung động. Cô miễn dịch với anh ta. Anh ta kéo tay cơ và cô quay đi.

Không có bàn hay ghế xoay, Kate đặt hai cốc bia lên một cái ngăn nhô ra từ bức tường. Cô treo ba lô và áo khoác lên móc phía sau. Ở bàn bên cạnh Rob, hai trong ba anh em nhà Worsley chuẩn bị xong ván của họ. Kate chọn một cây gậy mười chín ao-xo trên tường. Cô đưa nó lên, ngắm như ngắm súng trường. Đầu tay cầm hơi vênh. Nhưng đầu cơ tốt và nặng. Cô chống gậy cạnh chân phải, chờ tới lượt.

Rob đánh trượt cơ tiếp theo. Không lấy gì làm lạ khi anh ta lại đánh bi gần như bắn ra khỏi bàn. Anh ta đứng thẳng dậy. Một cô gái tóc vàng với bộ ngực khổng lồ đưa anh ta một trai Heineken. Cô ta là Dixie Howe, chủ tiệm dưỡng tóc Curl Up & Dye. Móng tay cô ta dài, sơn đỏ. Cô ta móc một ngón xuyên qua móc đeo thắt lưng Rob, kéo mạnh một cái và thì thầm gì đó vào tai anh ta. Rõ ràng Dixie không biết Rob có vấn đề nghiêm trọng với đàn bà liều lĩnh chủ động tấn công trước. Anh ta hoàn toàn lãng phí vẻ đàn ông hoàn hảo.

Vài tuần trước, cô đã nghĩ tới việc điều tra Rob Sutter. Bên cạnh sự thô lỗ và đáng ghét, tất cả những gì cô biết chỉ là anh ta đi một chiếc Hummer, từng chơi hockey, và bị chấn thương ở đầu gối. Cô đoán chấn thương đó đã chấm dứt sự nghiệp của anh ta, nhưng không chắc chắn lắm. Cô có thể hỏi ông, nhưng thể nào ông cũng sẽ nghĩ cô thích Rob, một anh chàng lãng mạn. Nếu muốn biết nhiều hơn, cô phải lôi laptop ra khỏi hộp sắt trong tủ quần áo ở phòng ngủ. Cô biết biển số xe anh ta. Chỉ cần vài cái nhập chuột, cô sẽ dò được giấy phép lái xe, ngày sinh và mã số bảo hiểm xã hội của anh ta. Sau đó, cô có thể biết lý lịch việc làm và xem anh ta từng kết hôn hay chưa. Cô cũng sẽ khám phá ra những lời đồn đại về anh ta, như kiểu từng là tội phạm trong quá khứ chẳng hạn.

Nhưng cô không làm những việc như thế nữa. Không phải vì công việc. Thậm chí không để thỏa mãn trí tò mò của nó.

Cô uống một hớp bia, nhìn anh ta qua đáy cốc. Anh ta hơi tựa đầu vào Dixie khi nghe cô ta nói, nhưng Kate có thể cảm thấy anh ta đang nhìn cô. Cô không nhìn rõ đôi mắt bị vành mũ che khuất, nhưng cô có thể cảm nhận được ánh nhìn của anh từ dõi từ mặt cô xuống toàn bộ cơ thể bên dưới. Nếu cô không miễn dịch với anh ta, chắc hẳn lòng cô đã như có lửa đốt.

Ván bi-a của anh em nhà Worsley kết thúc. Kate bước tới thách đấu người thắng cuộc. Peirce Worsley cao hơn một mét chín, xỏ đôi giày cao bồi đóng riêng cho gã. Giống những người anh em, gã có mái tóc ngắn xoăn màu nâu. Cả ba anh em sống và làm việc tại nông trại của gia đình, cách Gospel khoảng hai mươi dặm. Ba anh em trạc tuổi hia mươi lăm đến ba mươi. Kate đã gặp anh em nhà này vài lần ghé cửa hàng M&S. Chúng không tỏ ra là những tên ngốc hung hãn, nhưng Kate không đến Buckhorn để nói chuyện thông minh.

Peirce xếp bi, trong khi Kate tung đồng xu xem ai đi lượt đầu. Cô giành lượt đi trước. Cô xếp bi cái sát bảng dưới vạch foot string. Cô ngã người, nhẹ nhàng đẩy gậy cơ tựa lên ngón cái, nhắm bi mục tiêu rồi chọc. Mười lăm bi bị phá tung ra. Bi vàng đập quanh bàn và lăn trúng lỗ mười. Tiếp theo cô bắn bi số ba vào lỗ tít trái, bi số bảy vào lỗ tít phải. Cô điều bi cái dọc ra phía đầu băng, để bi xanh kề lỗ mười chờ lượt tiếp theo. Bốn cơ tuyệt vời. Cô gần như quên đi sự có mặt của Rob trong phòng.

Peirce đẩy vành mũ cao bồi của gã lên, đứng bên kia bàn nhìn cô. Gã có đôi mắt màu xanh kiểu Helter Skelter ( là tên cuốn sách viết bởi Vincent Bugliosi và Cart Gentry về một tội ác có thật. Cuốn sách nói về vụ giết người hàng loạt rùng rợn của băng nhóm tự xưng là Gia Đình Manson, do Charles Manson cầm đầu, một kẻ tôn sùng Phát xít, cực kỳ cực đoan. Hiện y vẫn đang chịu án tù chung thân tại Mỹ), đôi mắt gợi cho cô cảm giác mọi chuyện tối nay sắp trở nên điên loạn.

-Cô từ đâu tới? – Gã hỏi.

-Las Vegas.

-Cô làm gái ở đó hả?

Kate trợn mắt nhìn gã, cố nhớ rằng anh em nhà này không được thông minh cho lắm ngay cả khi không say. Nếu cô đang định gạ gẫm Peirce, gã nghĩ cô lại thừa nhận chuyện đó với gã ư?

-Không, tôi không phải điếm.

-Cô em chơi giải nhà nghề hay đại loại vậy à?

-Lúc tôi lớn lên, bố mẹ đã có một bàn bi-a trong nhà rồi. – Cô đáp rồi bước tới chỗ để bia.

Cô đưa vại bia Bud Lite lên miệng, liếc nhìn Dixie Howe tì rạp xuống bàn bên cạnh, để mọi người có cơ hội ngắm thật rõ đường rãnh sâu giữa ngực cô ta. Kate không thấy phiền với đám đàn bà thích phơi bày cái đó. Cô chỉ không phải một trong số họ. Đúng vậy, ngoại trừ lần duy nhất kia. Kate liếc nhìn Rob, giống như bao gã đàn ông khác, cũng đang dán mắt vào bộ ngực gợi cảm của Dixie. Anh ta nói gì đó khiến Dixie bật cười, rồi anh ta đưa chai bia lên miệng tu.

Kate chuyển hướng chú ý sang Peirce khi gã đi lượt của mình và điều một cơ khác. Kate nhớ đến cái đêm đầu tiên cô gặp Rob đủ để gợi lại rằng anh ta đã quyến rũ tới mức nào. Cô đã bị lừa, bị cho vào tròng, nhưng cô tự bào chữa rằng khi đó cô đã say mèm.

-Nếu thắng Peirce, tiếp theo cô sẽ gặp tôi.

Cô ngoảnh lại nhìn một gã khác trong ba anh em.

-Anh là Worsley gì? – Cô hỏi.

-Tuttle. – Gã chỉ tay về bên trái. – Còn đây là Victor. Nếu đánh bại tôi, cô sẽ chơi với Victor. Nhưng tôi không nghĩ cô thắng được tôi đâu.

Gã nói như thể cô không còn một chút cơ hội nào vậy.

-Tôi không nghĩ tôi nán ở đây lâu đâu, Tuttle à.

-Cô sợ tôi thắng hả?


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.