Sát Nhân Mạng

CHƯƠNG 30



Âm thanh phát ra từ cỗ máy của CCU chỉ đơn giản là một file dịnh dạng.wav được chuyển đi, nhưng với cả đội, nó như tiếng gầm của một con quái vật.
Wyatt Gillette chạy đến bàn làm việc. “Có thế chứ!”, hắn thì thầm. “Phate đã xem ảnh. Virus đã vào trong máy hắn.”
Màn hình lóe lên dòng chữ:
Config.sys modified
“Được rồi. Nhưng chúng ta không có nhiều thời gian đâu, hắn chỉ cần kiểm tra hệ thống một lần thôi là sẽ nhận ra chúng ta đang xâm nhập”
Gillette ngồi xuống bên chiếc máy. Nhấc hai bàn tay lên bàn phím, cảm nhận niềm hứng khởi không gì sánh bằng mỗi khi hắn bắt đầu cuộc hành trình vào một phần chưa được thám hiểm – một miền đất cấm của Miền xanh thẳm vô định.
Hắn bắt đầu nhấn phím.
“Gillette!”, một giọng đàn ông quát lớn, cùng lúc đó, cửa trước của CCU bật mở.
Tay hacker quay lại và nhìn thấy ai đó bước vào phòng máy chủ. Gillette há hồc miệng. Đó là Shawn – kẻ đã giả dạng Charles Pittman.
“Chúa ơi”, Shelton hoảng hốt la lên.
Tony Mott di chuyển rất nhanh, với lấy khẩu súng to bằng bạc của mình. Nhưng súng của Shawn đã lên nòng, trước khi Mott kịp rút súng, khẩu súng của Shawn nghển lên và chĩa vào đầu chàng cảnh sát trẻ. Mott chậm chạp giơ tay lên. Shawn ra hiệu cho Sanchez và Miller lùi lại và tiến về phía Gillette, chĩa thẳng khẩu súng vào đầu hắn.
Tay hacker đứng dậy và vấp ngã ngữa ra, hai tay giơ lên.
Không còn nơi nào để trốn chạy nữa.
Nhưng, khoan đã… Chuyện gì đang xảy ra thế này?
Mặt hằm hằm, Frank Bishop bước qua cửa trước, hai bên là hai người đàn ông tầm thước mặc vét.
Vậy là, gã này không phải Shawn.
Anh ta giơ ra chiếc thẻ căn cước. “Tôi là Arthur Backle, cục Điều tra tội phạm Bộ Quốc phòng.” Anh ta hất đầu về phía hai đồng sự, “Họ là đặc vụ Luis Martinez và Jim Cable”.
“Ông đến từ Cục điều tra hình sự? Chuyện gì ở đây thế?”, Shelton gắt lên.
Gillette nói với Bishop, “Chúng ta đã kết nối được với máy của Phate. Nhưng chúng ta chỉ có vài phút thôi. Tôi phải thâm nhập ngay bây giờ!”.
Bishop toan cắt lời nhưng Backle đã nói với một đồng sự, “Còng tay hắn lại”.
Người này bước lên và tra còng vào tay Gillette. “Không!”
Mott nói, “Ông nói với tôi ông là Pittman”.
Backle nhún vai. “Tôi phải cải trang. Tôi có lý do để nghi ngờ rằng anh sẽ không chịu hợp tác nếu tôi xưng danh thật”
“Không hợp tác là quá đúng rồi”, Bob Shelton nói.
Backle nói với Gillette, “Chúng tôi đến đây để hộ tống anh về trại giam San Jose”.
“Anh không thể!”
Bishop nói, “Tôi đã nói chuyện với Lầu Năm Góc, Wyatt. Việc này đúng luật. Chúng ta phá sản rồi”. Ông lắc đầu.
Mott nói, “Nhưng ngài tư lệnh đã đồng ý thả anh ấy”.
“Dave Chambers không nắm quyền nữa”, viên thám tử giải thích. “Bây giờ Peter Kenyon giữ Quyền Tư lệnh của CID. Ông ta đã hủy lệnh thả.”
Gillette nhớ lại, Keynon là người giám sát sự ra đời của chương trình Mã hóa Standard 12. Chính là người có khả năng bị bẽ mặt nhất; chưa nói đến chuyện bị sa thải, nếu chương trình này bị bẻ khóa. “Chuyện gì xảy ra với Chambers?”
“Sai sót tài chính”, Backle mặt ngắn cau có nói. “Giao dịch tay trong với các tập đoàn nước ngoài. Tôi không biết và cũng chẳng quan tâm. Rồi Backle nói với Gillette, “Chúng tôi có lệnh cho phép kiểm tra toàn bộ những file anh đã truy cập để xem xét liệu có bằng chứng liên quan đến việc anh truy cập trái phép vào phần mềm mã hóa của Bộ Quốc phòng hay không”.
Tony Mott tuyệt vọng nói với Bishop, “Chúng ta đang Online với Phate đây, Frank. Ngay lúc này đây!”.
Bishop nhìn chằm chằm vào màn hình. Ông nói với Backle, “Làm ơn! Chúng tôi đang có cơ hội tìm ra chỗ ẩn nấp của kẻ tình nghi này. Wyatt là người duy nhất có thể giúp chúng tôi”.
“Để hắn ta Online à? Ông cứ mơ đi.”
Shelton ngắt lời, “Ông cần có lệnh bắt nếu…”
Đồng sự của Backle giơ ra tờ giấy có mặt sau màu xanh. Bishop đọc nhanh rồi gật đầu chua xót. “Họ có thể bắt cậu ấy và tịch thu tất cả đĩa cũng như bất kỳ máy tính nào mà cậu ấy đã sử dụng”
Backle nhìn quanh, thấy một phòng trống và bảo các đồng sự nhốt Gillette trong khi họ kiểm tra các file.
“Đừng để họ làm thế Frank!”, Gillette kêu lên. “Tôi sắp nắm được quyền truy cập gốc trong máy hắn. Đây là máy thật của hắn, chứ không phải một chiếc máy nóng. Có thể có những địa chỉ trong đó. Thậm chí cả tên thật của Shawn. Và địa chỉ nạn nhân tiếp theo của hắn.”
“Im lặng, Gillette”, Backle ngắt lời.
“Không!”, tay hacker phản kháng, vật lộn với các đặc vụ, những người đang kéo hắn về phía căn phòng một cách dễ dàng. “Bỏ bàn tay chết tiệt của các ông khỏi người tôi! Chúng tôi…”
Họ quăng Gillette vào trong rồi đóng cửa lại.
“Anh có thể vào máy của Phate không?”, Bishop hỏi Stephen Miller.
Người đàn ông to béo lo lắng nhìn vào màn hình. “Tôi không biết. Có lẽ. Chỉ là… Chỉ cần gõ sai một phím Phate sẽ phát hiện ra chúng ta đang đột nhập vào máy.”
Bishop cảm thấy tuyệt vọng. Đây là lần đầu tiên họ thật sự xâm nhập thành công vậy mà cơ hội lại bị nẫng mất chỉ vì những trò đấu đá nội bộ vô nghĩa và sự quan liêu của Chính phủ. Đây là cơ hội duy nhất để nhìn thấu bên trong bộ óc điện tử của tên giết người.
“Những file của Gillette ở đâu?”, Backle hỏi “Cả đĩa của hắn nữa?”
Không ai tình nguyện trả lời. Cả đội lầm lì nhìn tay đặc vụ. Backle nhún vai và nói với giọng hớn hở, “Thế thì chúng tôi sẽ tịch thu tất cả. Không có vấn đề gì. Đơn giản là chúng tôi mang đi và các người sẽ nhận lại sau sáu tháng – nếu các người may mắn”.
Bishop gật đầu với Sanchez.
“Chỗ làm việc ở kia”, cô chỉ tay, nói khẽ.
Backle và những mật vụ khác bắt đầu lục tìm chồng đĩa cao ba inch rưỡi như thể họ có thể nhìn xuyên những bìa đĩa bằng nhựa sắc sỡ và nhận biết được dữ liệu bên trong bằng mắt thường.
Trong khi Miller nhìn chằm chằm màn hình một cách lo lắng, Bishop quay sang Patricia Nolan và Morgan. “Có ai trong hai người có thể chạy chương trình của wyatt không?”
Nolan nói, “Tôi biết cách nó hoạt động về mặt lý thuyết. Nhưng tôi chưa từng đột nhập máy của ai bằng Backdoor-G. Tất cả những gì tôi từng làm là cố gắng tìm ra con virus đó và cách chống lại nó”“.
Mott nói, “Tôi cũng thế. Và chương trình của wyatt là do anh ấy tự làm ra. Có thể nó có một số dòng lệnh đặc biệt”.
Bishop đưa ra quyết định. Ông chọn thường dân, tức là Patricia Nolan, “Hãy làm hết sức có thể”.
Cô ngồi xuống bàn làm việc. Lau tay vào bộ váy lùng bùng của mình và vén tóc khỏi mặt, nhìn chăm chú vào màn hình, cố gắng hiểu những lệnh trên bảng chọn, những thứ Bishop cảm thấy khó hiểu ngang tiếng Nga.
Chiếc di động của viên thám tử reo lên. Ông trả lời, “Vâng?”, ông lắng nghe một lát. “Vâng, thưa ngài. Ai, đặc vụ Backle?”
Tay đặc vụ nhìn lên.
Bishop nói tiếp vào điện thoại. “Anh ấy có ở đây, thưa ngài… Nhưng… Không, đây không phải là đường dây an toàn. Để tôi nhắn anh ấy gọi lại cho ngài bằng một trong những đường viễn thông trong văn phòng. Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ làm ngay.” Viên thám tử viết vội một con số và cúp máy. Ông nhướng mày về phía Backle. “Là Sacramento. Anh có bổn phận gọi cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ở Lầu Năm Góc. Ông ấy muốn anh gọi lại bằng một đường dây an toàn. Đây là số riêng của ông ấy.”
Một đồng sự liếc sang Backle vẻ băn khoăn. “Bộ trưởng Metzger?”, anh ta lẩm bẩm. Giọng nói kính cẩn của Bishop cho thấy ông chưa từng nhận được cuộc gọi như thế.
Backle chậm rãi cầm chiếc điện thoại mà Bishop đưa. “Ông có thể sử dụng cái này”, viên thám tử nói.
Tay đặc vụ lưỡng lự rồi bấm điện thoại. Trong chốc lát, anh ta trở lên tập trung. “Đây là đặc vụ Backle, Cục điều tra hình sự, thưa ngài. Tôi đang ở đường dây đảm bảo… Thưa vâng”, Backle gật đầu quả quyết. “Thưa vâng… Là theo lệnh của Peter Keynon. Sở cảnh sát California không thông báo với chúng tôi. Họ đưa anh ta ra dưới danh nghĩa không xác định… Tuân lệnh. Ồ, nếu ngài muốn thế. Nhưng ngài biết việc Gillette đã làm rồi đấy. Anh ta…” Backle lại gật đầu. “Xin lỗi, tôi không có ý bất tuân lệnh. Tôi sẽ lo liệu, thưa ngài.”
Anh ta gác máy rồi nói với các đồng sự, “Hẳn là ai đó có bạn bè giữ chức vụ cao phải biết”. Anh ta ra hiệu về phía tấm bảng trắng. “Kẻ tình nghi của các anh hả? Là Holloway? Một trong số những người hắn giết ở Virginia có liên quan đến một nhân vật đã đóng góp quan trọng cho Nhà Trắng. Vậy nên Gillette được tại ngoại cho tới khi các anh tóm cổ tên tội phạm.” Anh ta bật ra tiếng thở dài giận dữ. “Chính trị khốn kiếp.” Liếc mắt sang đồng sự, anh ta nói, “Hai anh rút lui, về văn phòng”. Quay sang Bishop, anh ta nói, “Tạm thời anh có thể giữ hắn ta. Nhưng tôi vẫn trông chừng cho đến khi vụ này kết thúc”.
“Tôi hiểu”, Bishop nói, chạy đến căn phòng nơi những tay đặc vụ đã ném Gillette vào và mở khóa cửa.
Thậm chí không kịp hỏi lý do được thả, Gillette chạy vội về bàn làm việc. Patricia Nolan nhường ghế cho anh.
Gillette ngồi xuống. Anh ngước lên nhìn Bishop, ông nói, “Trước mắt anh vẫn ở trong đội”.
“Tuyệt”, tay hacker xúc động nói, lần lại gần bàn phím. Nhưng khi đã ngoài tầm nghe của Backle, Bishop nở nụ cười và thì thầm với Gillette, “Làm thế quái nào mà cậu làm thế được?”.
Vì sự thật là chẳng có Lầu Năm Góc nào gọi cho Bishop, đó chính là Gillette. Hắn gọi vào máy của Bishop từ một chiếc máy ở chỗ bị nhốt. Cuộc nói chuyện thực ra có hơi khác.
Bishop đã trả lời, “Vâng?”.
Gillette: “Frarik, Wyatt đây. Tôi đang gọi bằng máy trong phòng. Hãy giả như tôi là sếp của ông. Hãy nói với tôi là Backle đang ở đó”.
“Vâng, thưa ngài. Ai, đặc vụ Backle?”
“Tốt lắm”, tay hacker đáp.
“Anh ấy có ở đây, thưa ngài.”
“Giờ hãy nói hắn ta gọi cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhưng hãy đảm bảo hắn gọi bằng đường dây điện thoại chính của văn phòng CCU. Không phải bằng di động của hắn hay của ai khác. Hãy nói đó là một đường dây an toàn”
“Nhưng…”
Gillette cam đoan, “Không vấn đề gì đâu. Cứ làm thế đi. Và cho hắn số này”. Rồi hắn đọc cho Bishop một số điện thoại từ Washington, D.c.
“Không, đây không phải là đường dây an toàn. Để tôi nhắn anh gọi lại cho ngài bằng một máy bàn trong văn phòng. Vâng. Tôi sẽ làm ngay.
Giờ thì Gillette thì thầm giải thích, “Tôi phá khóa hệ thống quay số của Pac Bell ở đây bằng máy tính trong đó và khiến cho tất cả các cuộc gọi từ CCU đến số mà tôi cho ông đều chuyển đến tôi”.
Bishop lắc đầu, vừa băn khoăn vừa thích thú. “Số đó là của ai?”
“Ồ, chính xác là của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Bẻ khóa đường điện thoại của ông ấy cũng dễ như của người khác thôi. Nhưng đừng lo. Tôi cài đặt lại rồi”
Thế rồi, dường như ngay khi hắn liếc mắt nhìn màn hình, tất cả những ý nghĩ về việc hack công ty điện thoại và chuyện chính trị ở Washington bốc hơi khỏi đầu Gillette, những ngón tay hắn lại bắt đầu thảo ra câu thần chú mà họ hy vọng sẽ đưa kẻ sát nhân vào tầm với của họ.
Phiên bản chương trình Backdoor-G của Gillette lập tức đưa hắn vào trong máy của Phate. Thứ đầu tiên hắn nhìn thấy là một thư mục mang tên Trapdoor.
Tim Gillette bắt đầu đập mạnh và toàn thân như phát sốt vì cảm giác bồn chồn xen lẫn hứng khởi, sự tò mò như một liều thuốc chiếm lĩnh tâm hồn hắn. Đây là cơ hội để tìm hiếu về phần mềm kì diệu này, thậm chí có thể được nhìn thấy mã gốc của nó nữa.
Tuy nhiên, hắn gặp phải một tình huống nan giải: Dù có thể lẻn vào thư mục Trapdoor này để xem xét chương trình, hắn cũng rất dễ dàng bị phát giác vì đang nắm quyền kiểm soát gốc. Cũng với cách tương tự mà Gillette có thể nhìn thấy Phate khi hắn xâm chiếm máy tính của CCU. Nếu điều đó xảy ra, Phate sẽ ngay lập tức tắt máy và tạo một nhà cung cấp dịch vụ Internet và địa chỉ email mới. Họ sẽ không bao giờ có thể tìm thấy hắn nữa, chắc chắn là không kịp để cứu nạn nhân tiếp theo.
Không, hắn hiểu điều đó, cũng mạnh mẽ như nỗi khát khao tò mò mà hắn cảm nhận được, hắn phải từ bỏ Trapdoor để tìm kiếm những manh mối giúp họ tìm ra nơi lẩn trốn của Phate hoặc Shawn hay nạn nhân tiếp theo.
Với sự miễn cưỡng khó nhọc, Gillette đành ngoảnh mặt với Trapdoor và bắt đầu lén lút lục soát máy của Phate.
Nhiều người nghĩ cấu trúc máy tính giống như một tòa nhà hoàn toàn cân đối và vô trùng: cân xứng, hợp lý, ngăn nắp. Tuy nhiên, wyatt Gillette biết rằng phần bên trong của một cỗ máy mang tính hữu cơ hơn thế nhiều, cũng giống như một sinh vật sống, nơi sự thay đổi diễn ra liên tục. Trong một chiếc máy, có hàng ngàn nơi để bạn thăm thú và vô số những đường đi khác nhau để tới mỗi điểm đến. Và từng chiếc máy lại khác biệt so với những chiếc máy khác. Khám xét máy tính của người khác cũng giống như đi tham quan địa điểm du lịch gần đó. Ngôi nhà Kỳ bí Winchester chẳng hạn, một lâu đài trải rộng với một trăm sáu mươi phòng, nơi người vợ góa chồng của nhà phát minh ra súng tự động winchester từng sống. Đó là một nơi đầy rẫy những hành lang khuất và các căn phòng bí mật (Và, theo lời bà chủ nhà lập dị thì cũng có vô số hồn ma).
Những đường đi ảo trong máy của Phate cuối cùng cũng dẫn tới một folder có tên Thư từ, và Gillette lần theo nó như một con cá mập săn mồi.
Hắn mở thư mục con đầu tiên, Thư gửi đi.
Mục này chủ yếu chứa những email Holloway đã gửi đến địa chỉ [email protected] dưới cả hai usemame, Phate và Deathknell.
Gillette thì thầm, “Tôi nói rồi mà. Shawn sử dụng cùng một nhà cung cấp Internet với Phate – Monterey Online. Cũng không có cách nào lần được ra hắn”.
Hắn nhấp chuột hú họa vào một vài email và đọc. Hắn thấy ngay là bọn chúng chỉ sử dụng tên màn hình, Phate hoặc Deadthknell và Shawn. Nội dung toàn mang tính kỹ thuật – các bản vá phần mềm, bản sao dữ liệu điều hành cùng những thông số kỹ thuật tải về từ mạng và vô số các cơ sở dữ liệu khác. Như thể lo ngại rằng ai đó sẽ chiếm máy của chúng, Phate và Shawn đã thống nhất là không bao giờ đề cập đến cuộc sống riêng tư hay con người thật của mình ngoài đời. Không hề có chút bằng chứng nào tiết lộ Shawn là ai hay nơi hắn và Phate đang sống.
Nhưng rồi Gillette tìm thấy một email có phần khác thường. Nó được Phate gửi cho Shawn vài tuần trước vào lúc 3:00 sáng, thời điểm được coi là giờ phù thủy của giới hacker, thời điểm chỉ những tay cao thủ nhất lên mạng.
“Kiểm tra cái này xem”, Gillette nói với cả đội.
Patricia Nolan đọc bức email qua vai Gillette. Hắn cảm nhận được những sợi tóc của cô quét qua vai mình khi cô vươn người về phía trước và chạm tay vào màn hình. “Có vẻ như bọn chúng hơn mức bạn bè một chút đây.”
Anh đọc đoạn đầu cho cả đội. “Đêm qua sau khi hoàn thành việc vá lỗi, tôi nằm dài trên giường. Giấc ngủ mãi không đến, và tất cả những gì tôi có thể làm là nghĩ về anh, sự dễ chịu anh mang lại cho tôi… Tôi bắt đầu tự vuốt ve mình. Tôi thực sự không thể dừng…”
Gillette ngước lên. Toàn đội, cả đặc vụ Backle, đang nhìn anh chằm chằm. “Tôi có nên tiếp tục không?”
“Trong đó có gì giúp ta tìm ra hắn không?”, Bishop hỏi.
Tay hacker nhanh chóng đọc lướt phần còn lại của email. “Không. Khá là nhạy cảm đấy.”
“Có lẽ cậu có thể tìm kiếm tiếp đi”, Frank Bishop nói.
Gillette ra khỏi mục Thư đi và xem xét những file Thư đến. Phần lớn là tin nhắn từ các máy chủ liệt kê, những dịch vụ email tự động gửi bản tin về những chủ đề quan tâm đến những người đăng ký theo dõi. Có vài thư cũ từ Vlast và Triple-X, thông tin kỹ thuật về phần mềm. Chẳng giúp ích gì. Số còn lại là thư của Shawn nhưng chúng chỉ là phản hồi những yêu cầu của Phate về gỡ rối Trapdoor hay viết bản vá cho các chương trình khác. Đống email này thậm chí còn nặng tính kỹ thuật hơn và hé lộ ít thông tin hơn thư của Phate.
Hắn mở thêm một thư.
Tù: Shawn Đến: Phate
Re: FWD: Những Công tỵ điện thoại di động.
Shawn đã tìm được một bài viết trên mạng mô tả những công ty điện thoại nào là hiệu quả nhất và chuyển tiếp cho Phate.
Bishop nhìn thấy liền nói, “Có thể trong đó có nói về mạng điện thoại chúng đang dùng. Cậu có thể sao chép lại không?”.
Tay hacker nhấn phím In-màn hình (Print-screen) – còn gọi là phím In-cam, để gửi nội dung trên màn hình đến máy in.
“Tải xuống”, Miller nói. “Như thế sẽ nhanh hơn nhiều.”
“Tôi không nghĩ chúng ta muốn làm thế đâu” Tay hacker tiếp tục giải thích rằng thao tác in màn hình không ảnh hưởng gì đến hoạt động trong máy của Phate mà chỉ đơn giản là gửi hình ảnh và văn bản trên chính màn hình máy của CCU đến máy in. Phate không đời nào biết được Gillette đang sao chép dữ liệu. Trong khi thao tác tải file lại dễ khiến Phate chú ý hơn nhiều. Nó thậm chí còn có thể kích hoạt báo động trong máy của Phate.
Hắn tiếp tục lục soát máy tính của tên giết người.
Nhiều file được kéo qua, mở ra rồi lại đóng. Lướt thật nhanh, rồi lại tiếp tục với một file mới. Gillette không thể ngăn được cảm giác hứng khởi và choáng ngợp trước những tài liệu kỹ thuật tuyệt đỉnh nhiều vô kể trong máy tính của tên giết người này.
“Cậu có thể suy ra điều gì về Shawn dựa trên những email của hắn không?”, Tony Mott hỏi.
“Không nhiều lắm”, Gillette đáp. Hắn đưa ra nhận định rằng Shawn rất tài giỏi, thực dụng, lạnh lùng. Những câu trả lời của Shawn đều cộc lốc và có vẻ am hiểu sâu rộng về Phate, khiến Gillette nghĩ rằng hắn là một kẻ ngạo mạn và thiếu kiên nhẫn với những ai không thể bắt kịp hắn. Có thể hắn có ít nhất một bằng đại học của một trường danh giá, mặc dù hắn hiếm khi chịu viết câu cú đầy đủ, nhưng ngữ pháp, cú pháp và chấm câu thì hoàn hảo. Phần nhiều mã phần mềm trao đổi qua lại được viết theo phiên bản bờ đông của Unix, không phải phiên bản Berkeley.
“Vậy thì”, Bishop phỏng đoán, “rất có thể Shawn quen Phate ở Harvard”.
Viên thám tử ghi chú điều này lên tấm bảng trắng và yêu cầu Bob Shelton gọi đến nhà trường xem liệu có ai tên là Shawn từng theo học hoặc giảng dạy tại đó trong vòng mười năm qua.
Patricia Nolan liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Rolex của mình và nói, “Anh đã xâm nhập được tám phút rồi. Hăn có thể kiem tra hệ thống bất cứ lúc nào”.
Bishop nói, “Hãy khẩn trương lên. Tôi muốn xem chúng ta có thể tìm ra điều gì đó về nạn nhân tiếp theo không”.
Lướt bàn phím thật nhẹ như thể sợ Phate nghe thấy, Gillette quay lại bảng chọn chính – một biểu đồ các folder và subfolder.
A: /
C: /
1 – -Hệ điều hành
– – -Thư từ
– – -Trapdoor
– – -Kinh doanh
– – -Trồ chơi
– – -Công cụ
– – -Viruses
– – -Tranh ảnh D: /
– – -Backup
“Trò chơi!”, Gillette và Bishop thốt lên cùng lúc, và tay hacker đi vào thư mục này.
Trò chơi Tuần ENIAC
Tuần IBM PC
Tuần Univac
Tuần Apple
Tuần Altair
Các dự án năm tới.
“Tên khốn đó sắp xếp tất cả ở đây, ngăn nắp và quy củ”, Bob Shelton nói.
“Và thêm nhiều vụ giết chóc đang xếp hàng chờ.” Gillette chạm vào màn hình. “Ngày chiếc Apple đầu tiên được tung ra. Máy tính Altair cũ. Và, lạy Chúa, còn cả năm sau nữa”
“Hãy kiểm tra tuần này – Univac”, Bishop nói.
Gillette mở rộng cây thư mục.
– – – Tuần Univac.
– – – Trò chơi đã hoàn thành
– – – Lara Gibson
– – – Học viện st. Francis
Các dự án tiếp theo
“Kia rồi!”, Tony Mott thốt lên. “Các dự án tiếp theo.”
Gillette nhấp chuột vào đó.
Danh mục này chứa hàng tá file – trang nối tiếp trang dầy đặc những ghi chú, hình họa, biểu đổ, ảnh, giản đồ, và các mẩu tin cắt ra từ báo. Có quá nhiều để có thể đọc lướt qua, vì vậy Gillette đọc tuần tự từ đầu, rê chuột qua file đầu tiên, nhấn nút in màn hình mỗi khi hắn chuyển sang trang mới. Hắn cố gắng nhanh hết mức có thể nhưng việc in màn hình rất chậm, để in một trang mất tới mười giây.
“Tốn nhiều thời gian quá”, hắn nói.
“Tôi nghĩ chúng ta nên tải nó về”, Patricia Nolan nói.
“Như thế quá mạo hiểm”, Gillette nói. “Tôi đã nói rồi mà.”
“Nhưng hãy nhớ Phate là kẻ cao ngạo”, Nolan tranh luận. “Hắn nghĩ không một ai đủ giỏi để thâm nhập vào máy của hắn, vì vậy có thể hắn không cài đặt cảnh báo trong máy.”
“Việc này chậm quá thể”, Stephen Miller nói. “Chúng ta mới xong có ba trang.”
“Tùy ý ông đấy”, Gillette nói với Bishop. Viên thám tử ngả người về phía trước, chăm chú nhìn màn hình, trong khi đôi bàn tay của Gillette giữ trong khoảng trống trước mặt hắn, gõ một cách dữ dội lên một bàn phím không hề tồn tại.
 
o O o
 
Phate đang ngồi thoải mái bên chiếc laptop của mình trong phòng ăn hoàn hảo ở ngôi nhà của hắn.
Dù vậy tâm trí hắn không hề ở đó.
Hắn đang chìm đắm trong Thế giới máy tính, lang thang trong chiếc máy mà hắn vừa hack được và lên kế hoạch cho cuộc tấn công cuối ngày.
Đột nhiên, từ loa máy, âm thành bíp bíp báo động phát ra. Cùng lúc đó, một hộp màu đỏ xuất hiện nơi góc phải bên trên màn hình. Trong hộp chỉ có duy nhất một từ:
ACCESS
Hắn há hốc miệng kinh ngạc. Ai đó đang tìm cách tải file từ máy của hắn! Việc này chưa từng xảy ra. Choáng váng, mồ hôi vã ra đầm đìa trên mặt, Phate thậm chí chẳng hề kiểm tra hệ thống để xem chuyện gì đang xảy ra. Ngay tức khắc hắn hiểu: Bức ảnh Vlast gửi thực ra là của Wyatt Gillette, để cấy một con virus back-door vào máy hắn.
Ngay lúc này, tên Valleyman phản bội khốn khiếp đó đang rình mò trong hệ thống của hắn!
Phate với tay ra nút tắt – giống như người tài xế ngay lập tức đạp phanh khi nhìn thấy một con sóc băng ngang đường.
Nhưng rồi, cũng như một số tài xế khác, hắn mỉm cười lạnh lùng và để cỗ máy tiếp tục chạy hết tốc lực. Đôi tay hắn quay về bàn phím, hắn nhấn tổ hợp phím SHIFT, CONTROL và E cùng lúc.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.