Sát Nhân Mạng

CHƯƠNG 31



Màn hình trước mặt Gillette bất chợt hiện lên dòng chữ:
BẮT ĐẦU MÃ HÓA KHỐI DỮ LIỆU
Ngay sau đó, lại là một thông báo nữa:
ĐANG MÃ HÓA STANDARD 12 BỘ QUỐC PHÒNG
“Không!”, Gillette gào lên, việc tải file từ máy Phate dừng lại và nội dung của file Những dự án sắp tới chuyển thành mớ số học hỗn độn.
“Chuyện gì xảy ra thế?”, Bishop sốt sắng hỏi.
“Chắc chắn Phate có cài cảnh báo tải file”, Nolan lẩm bẩm, tức giận với chính mình. “Tôi đã nhầm.”
Gillette tuyệt vọng chụp lại màn hình. “Hắn đã chặn việc tải file nhưng lại không thoát ra. Hắn nhấn một phím nóng và đang mã hóa mọi thứ ở trong máy”
“Cậu có thể giải mã nó được không?”, Shelton lên tiếng.
Điệp vụ Backle vẫn chăm chú quan sát Gillette.
“Không thể nếu không có mã giải của Phate”, tay hacker quả quyết. “Ngay cả cỗ máy Fort Meade chạy cả dãy máy một lúc cũng không thế giải mã từng này dữ liệu trong một tháng.”
Shelton đáp, “Tôi không hỏi là cậu có mã giải không. Tôi hỏi là cậu có thể bẻ khóa nó được không?”.
“Tôi không thể. Tôi nói rồi. Tôi không biết cách bẻ khóa Standard 12.”
“Mẹ kiếp”, Shelton lẩm bẩm, nhìn chằm chăm Gillette. “Sẽ có thêm người chết nếu chúng ta không tìm ra thông tin trong máy của hắn.”
Đặc vụ Backle thở dài. Gillette để ý thấy anh ta nhìn sang bức ảnh Lara Gibson trên tấm bảng trắng, rồi anh ta quay sang nói với Gillette, “Làm đi. Nếu việc đó có thể cứu mạng người thì cậu cứ làm đi”.
Gillette quay lại màn hình. Lần này, những ngón tay hắn vẫn đang đung đưa phía trước, như thể đang cố kìm nén không gõ vô thức vào không khí khi nhìn trước dòng thác kí tự vô nghĩa chạy trên màn hình. Bất cứ cái gì trong số những thứ này có thể là đầu mối cho biết Shawn là ai, Phate ở đâu, hay ai là nạn nhân tiếp theo.
“Cứ làm đi, vì Chúa”, Shelton lẩm bẩm.
Backle thì thầm, “Tôi nghiêm túc đấy. Tôi sẽ coi như không biết chuyện này”.
Gillette nhìn như thôi miên vào dòng dữ liệu chạy qua trước mắt. Đôi tay hắn chạm vào bàn phím. Hắn cảm thấy mọi cặp mắt đang đổ dồn về mình.
Nhưng Bishop chợt hỏi bằng giọng lo lắng, “Đợi đã. Sao hắn không đơn giản là chuyển sang chế độ offline? Tại sao hắn lại mã hóa? Việc này chẳng có nghĩa lý gì”.
“Ôi, Chúa ơi”, Gillette nói. Hắn ngay lập tức nhận ra câu trả lời. Hắn quay ra nhìn xung quanh rồi chỉ vào một hộp màu xám trên tường, nổi bật giữa hộp là một nút màu đỏ. “Nhấn cái nút khẩn cấp đó đi! Ngay!”, hắn gào lên với Stephen Miller, người đang đứng gần nhất.
Miller nhìn công tắc rồi lại nhìn Gillette. “Tại sao?”
Tay hacker bật dậy, bỏ mặc chiếc ghế đổ kềnh ra phía sau. Hắn phóng đến chỗ cái nút bấm. Nhưng đã quá muộn. Trước khi hắn kịp nhấn nút, một tiếng động rít lên từ hộp máy chủ của CCU, rồi tất cả màn hình trong phòng chuyển thành màu xanh đậm vì hệ thống đã ngừng hoạt động, “màn hình xanh chết chóc” khét tiếng mà ai cũng biết.
Bishop và Shelton giật lùi lại vì những tia lửa bắn ra từ một lỗ thông trên hộp. Mùi khói khét lẹt bắt đầu tràn ngập căn phòng.
“Chúa lòng lành…”, Mott vội bước ra xa khỏi chiếc máy.
Tay hacker đập cả tay lên nút khẩn cấp, nhưng điện đã bị cắt, khí halon phụt đầy phòng và dập tắt ngọn lửa.
“Xảy ra chuyện quái quỷ gì vậy?”, Shelton hỏi.
Gillette tức tối lầm bầm, “Đây là lý do tại sao Phate mã hóa các dữ liệu nhưng vẫn để chế độ Online – Để hắn có thể gửi cho hệ thống của chúng ta một quả bom”.
“Hắn đã làm gì?”, Bishop hỏi.
Tay hacker nhún vai. “Ý tôi là hắn gửi một lệnh làm tắt quạt làm mát, sau đó chỉ thị cho ổ cứng tìm một khu vực không hề tồn tại trên ổ đĩa. Việc đó khiến cho mô tơ của ổ bị kẹt và trở lên quá nóng.”
Bishop kiểm tra chiếc hộp bị cháy. Ông nói với Miller, “Tôi muốn mọi thứ hoạt động trở lại trong vòng nửa tiếng nữa. Anh lo việc đó, được chứ?”.
Miller dè dặt nói, “Tôi không biết trung tâm dịch vụ ổ cứng có sẵn thiết bị trong kho không nữa. Họ hay găm hàng. Lần trước phải mất vài ngày để thay ổ, mặc kệ cái máy đi. Vấn đề là…”.
“Không”, Bishop giận dữ nói. “Nửa tiếng thôi.”
Anh chàng có dáng người hình quả lê hướng mắt xuống sàn nhà. Anh hất đầu về phía những chiếc máy tính cá nhân nhỏ. “Chúng ta có thể thiết lập một mạng lưới mini với những chiếc máy đó và tải lại những file dự phòng. Rồi…”
“Vậy hãy làm đi”, Bishop nói và nhặt những tờ giấy cạnh máy in, những gì họ lấy được từ máy của Phate nhờ thao tác in màn hình trước khi hắn mã hóa dữ liệu. Quay lại toàn đội, ông nói, “Hãy xem chúng ta có tìm được gì không”.
Mắt và miệng Gillette cay xè vì khói từ chiếc máy bị chập. Hắn để ý thấy Bishop, Shelton và Sanchez đang đứng im, băn khoăn nhìn chiếc máy ám khói, chắc chắn họ cũng đang nghĩ đến điều mà hắn lo lắng: Thật đáng sợ khi một thứ ảo như mã phần mềm, đơn giản chỉ là một dãy những con số lại có thể dễ dàng mơn trớn thân thể bằng xương bằng thịt của con người bằng cái vuốt ve gây đau đớn, thậm chí là chí mạng.
 
o O o
 
Trong gian phòng khách, những con người trong bức ảnh gia đình giả như đang chằm chằm nhìn hắn, Phate đi tới đi lui, gần như nghẹt thở vì cơn giận điên người.
Valleyman đã đột nhập vào máy của hắn…
Và, tệ hại hơn, hắn làm được việc này chỉ với một chương trình backdoor đơn giản, loại chương trình mà một tên nhóc trung học cũng có thể làm được.
Tất nhiên hắn ngay lập tức thay đổi nhận dạng máy tính và địa chỉ Internet. Không đời nào Gillette có thể xâm nhập lần nữa.
Nhưng điều khiến Phate đau đầu nhất bây giờ là: Bọn cớm đã nhìn thấy những gì? Không có gì ở trong máy có thể đưa chúng đến nhà hắn ở Los Altos nhưng nó chứa rất nhiều thông tin về những cuộc tấn công hiện tại và sắp tới của hắn. Liệu Valleyman đã thấy thư mục Những dự án sắp tới? Hay hắn đã thấy việc Phate định làm trong vài giờ tới chưa?
Hắn đã lên toàn bộ kế hoạch cho cuộc tấn công sắp tới… Chết tiệt, mọi việc đều đã được sắp xếp.
Hắn có nên chọn một nạn nhân khác?
Nhưng ý nghĩ phải từ bỏ một kế hoạch mà hắn đã mất rất nhiều công sức và thời gian thật quá khó khăn với Phate. Tuy vậy, khó chịu hơn cả việc mất công toi, chính là ý nghĩ phải bỏ dở kế hoạch chỉ vì kẻ đã phản bội hắn – kẻ đã bán đứng hắn cho cảnh sát Massachusetts, phơi bày công cuộc đại Social Engineering của hắn, và kết cục, giết chết Jon Patrick Holloway, khiến Phate phải sống cuộc đời chui lủi mãi mãi.
Hắn lại ngồi xuống bên chiếc máy tính, thả lỏng những ngón tay chai sần trên bàn phím nhựa bóng láng, như thể những móng tay được chăm chút của phụ nữ. Hắn nhắm mắt lại, và giống như bất cứ hacker nào đang cố gắng tìm ra cách vá bản lỗi, hắn mặc cho tâm trí lang thang đến bất cứ nơi nào nó muốn.
 
o O o
 
Jennie Bishop đang phải mặc một bộ đồ hở lưng xấu tệ mà các bệnh viện vẫn phát cho bệnh nhân.
Và chính xác thì mấy cái chấm bi nhỏ xíu này để làm gì cơ chứ, cô nghĩ.
Cô dựng chiếc gối lên và lơ đễnh nhìn quanh căn phòng màu vàng trong khi đợi bác sỹ Williston. Đã mười một giờ mười lăm rồi và ông bác sỹ đang trễ buổi hẹn.
Cô nghĩ về những gì cần làm sau khi hoàn tất các xét nghiệm ở đây. Đi mua sắm, đón Brandon ở trường, dẫn cậu bé đến sân tennis. Hôm nay thằng bé sẽ đấu với Linda Garland, cô bé dễ thương nhất khối lớp bốn và cũng là đứa trẻ khó chịu với chiến lược duy nhất là lên lưới bất cứ lúc nào có thể, trong một nỗ lực mà Jennie tin là để đập vỡ mũi đối thủ bằng một cú volley chết người.
Tất nhiên cô cũng nghĩ về Frank nữa. Và quả quyết rằng thật nhẹ nhõm làm sao khi chồng không ở đây. Ông quả là một người mâu thuẫn. Đuổi theo những tên tội phạm trên đường phố Oakland, không chút nao núng khi bắt mấy gã giết người to gấp đôi mình và tám chuyện vui vẻ với những cô gái điếm cùng những gã bán ma túy. Cô không nghĩ là mình từng thấy ông run sợ.
Cho đến tuần trước. Khi một đợt kiểm tra sức khỏe cho thấy lượng tế bào bạch cầu của Jennie đang ở mức bất thường mà không có lý do hợp lý nào. Khi cô báo tin cho Bishop, mặt ông trắng bệch và không thốt lên lời. Ông cứ gật đầu thật mạnh cả tá lần. Cô tưởng như ông sắp khóc đến nơi – một điều cô chưa từng thấy và Jennie tự hỏi chính mình rằng sẽ phải giải quyết việc này như thế nào.
“Vậy tóm lại thế là sao?”, Frank hỏi bằng giọng run rẩy.
“Có lẽ là một chứng bệnh nhiễm trùng nào đó”, cô nói, nhìn thẳng vào mắt ông, “hoặc có thể là ung thư”.
“Được rồi, được rồi”, ông lặp đi lặp lại bằng giọng thì thầm, như thể nếu nói to hơn hay nói điều gì khác sẽ đẩy cô vào nguy hiểm đến nơi.
Họ trao đổi vài chi tiết linh tinh khác – những lần hẹn khám, giấy ủy nhiệm của bác sỹ williston. Rồi cô bảo ông ra ngoài chăm sóc vườn cây ăn quả của mình, trong khi cô chuẩn bị bữa tối.
Có thể là một bệnh nhiễm trùng nào đó…
Ồ, cô yêu Frank Bishop hơn bất kỳ ai từ trước đến giờ, nhiều hơn tất cả những người mà mình có thể yêu. Nhưng Jennie thấy thật biết ơn khi chồng không có ở đây. Cô chẳng có tâm trạng để nắm tay bất cứ ai bây giờ.
Có thể là ung thư…
Ừ thì, cô sẽ sớm biết đó là bệnh gì thôi. Cô nhìn đồng hồ. Bác sỹ Williston đâu nhỉ? Cô không ngại đến bệnh viện, không ngại những cuộc xét nghiệm khó chịu, nhưng cô ghét chờ đợi. Có lẽ trên ti vi có chương trình nào đó. Khi nào thì có Những đứa trẻ hiếu động nhỉ? Hay là nghe radio vậy, có lẽ…
Một nữ y tá mập mạp đẩy xe chở thuốc vào phòng. “Xin chào”, người phụ nữ nói bằng âm điệu Latin nằng nặng.
“Xin chào”
“Cô là Jennie Bishop?”
“Vâng.”
Cô y tá gắn tay Jennie vào máy theo dõi treo trên tường phía trên giường bệnh. Một tiếng bíp nhỏ bắt đầu vang lên nhịp nhàng. Rồi nữ y tá quay sang xem một bản in từ máy tính, và xem xét chỗ thuốc trên xe.
“Cô là bệnh nhân của bác sỹ Williston đúng không?”
“Đúng vậy.”
Cô ta nhìn chiếc vòng tay bằng nhựa của Jennie rồi gật đầu.
Jennie mỉm cười. “Không tin tôi à?”
Người y tá nói, “Luôn phải kiểm tra kĩ. Cha tôi là một thợ mộc và ông luôn nói đo hai lần, cắt một lần”
Jennie cố nhịn cười, thầm nghĩ đó chắc hẳn không phải là cách diễn đạt hay ho nhất để chia sẻ với bệnh nhân trong một bệnh viện.
Cô thấy nữ y tá rút thứ chất lỏng không màu vào kim tiêm nên hỏi, “Bác sỹ Williston chỉ định tiêm?”.
“Đúng vậy.”
“Tôi chỉ đến làm xét nghiệm thôi mà”
Kiểm tra bản in một lần nữa, người phụ nữ gật đầu. “Đúng là chỉ định của ông ấy.”
Jennie nhìn tờ bản in nhưng không hiểu những dòng chữ và con số trong đó.
Người y tá sát trùng tay cô bằng bông cồn rồi tiêm thuốc. Sau khi cô ta rút kim, Jennie cảm nhận một cơn râm ran khác lạ lan truyền trong tay gần chỗ tiêm một cơn buốt lạnh.
“Bác sỹ sẽ đến gặp cô ngay thôi.”
Cô ta bỏ đi khi Jennie chưa kịp hỏi loại thuốc vừa tiêm là gì. Mũi tiêm đó, nó khiến cô hơi lo lắng. Jennie biết rằng người ta phải hết sức cẩn thận nếu ở trong tình trạng như cô, nhưng rồi lại tự nhủ rằng không có gì phải lo lắng hết. Việc cô đang mang thai đã được ghi lại rõ ràng trong bệnh án, Jennie biết điều đó, và chắc chắn là chẳng có ai ở đây sẽ làm gì gây hại cho em bé.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.