Sát Nhân Mạng

CHƯƠNG 39



Trong Trung tâm điều khiển của phòng công ích hạt Santa Clara, ngụ trong một khu phức hợp với hàng rào dây thép gai bao quanh, ở phía tây nam San Jose, là máy tính trung tâm có tên Alanis, được đặt theo tên một ca sỹ nhạc pop.
Cỗ máy này giải quyết hàng nghìn nhiệm vụ cho DPW (Dept. of Public works – Sở giao thông công chính), chẳng hạn như lên lịch bảo dưỡng và sửa chữa những con đường, điều chỉnh việc cấp phát nước vào mùa khô, giám sát hệ thống cống thoát nước và xử lý rác thải, điều phối hàng chục ngàn đèn giao thông trên toàn Thung lũng Silicon.
Nằm không xa Alanis là một trong những liên kết chính của cỗ máy với thế giới bên ngoài, một giá đỡ băng kim loại cao sáu feet mang trên mình ba mươi hai modem tốc độ cao. Vào thời điểm này 13:30 chiều, rất nhiều cuộc điện thoại đang kết nối đến những modem này. Có một kết nối từ người thợ sửa chữa công ích kì cựu ở Mountain View. Ông ta đã làm việc cho DPW nhiều năm và gần đây mới miễn cưỡng làm theo chính sách của cơ quan về việc đăng nhập thông qua một laptop từ khu vực mình quản lý để nhận nhiệm vụ mới – nhận biết địa điểm phát sinh trục trặc trong hệ thống công ích rồi báo cáo khi nào cả đội hoàn thành việc sửa chữa. Từng nghĩ máy tính chỉ là thứ tốn thời gian vô ích, người đàn ông năm mươi lăm tuổi mập mạp đó giờ lại trở nên say mê thứ máy móc này và luôn chực chờ từng cơ hội được đăng nhập.
Email mà ông ta gửi đến Alanis là bản tóm tắt về việc hoàn thành sửa chữa một đoạn cống.
Tuy nhiên, tin nhắn mà chiếc máy tính nhận được lại hơi khác một chút. Chèn thêm vào đoạn tin nhắn của người thợ sửa chữa là một mã lạ: một Trapdoor demon.
Giờ đây, bên trong “nàng Alanis” không mảy may ngờ vực, demon này nhảy ra khỏi email và chui vào tận sâu bên trong hệ điều hành của chiếc máy.
Cách đó bảy dặm, ngồi bên chiếc máy của mình, Phate chiếm giữ quyền truy cập gốc rồi nhanh chóng rà soát toàn bộ Alanis, định vị những câu lệnh mà hắn cần. Hắn chép lại chúng vào một mẩu giấy màu vàng, rồi quay lại công việc chính. Hắn tra cứu tờ giấy đó rồi gõ permit/g/segment và nhấn ENTER. Giống như rất nhiều câu lệnh trong những hệ điều hành máy tính kỹ thuật, câu lệnh này bí ẩn nhưng lại gây ra hậu quả nặng nề.
Tiếp đó, Phate phá hủy chương trình ghi đè và cài đặt lại mật khẩu gốc thành ZZY?a##9\%48?95, một mật khẩu không con người nào có thể đoán ra được, còn một siêu máy tính phải mất ít nhất nhiều ngày để bẻ khóa.
Rồi hắn thoát ra.
Ngay khi bắt đầu thu xếp đồ đạc trốn chạy khỏi Thung lũng Silicon này, hắn bắt đầu nghe thấy những âm thanh mơ hồ từ công việc mà hắn vừa đích thân làm bao trùm bầu trời ban chiều.
 
o O o
 
Chiếc Volvo màu đồng phóng qua một ngã tư trên đại lộ Stevens Creek và cứ thế lao về phía chiếc xe cảnh sát của Bishop.
Người lái xe trợn mắt hoảng loạn trước vụ va chạm không tránh khỏi.
“Ôi trời, cẩn thận!”, Gillette hét, hai cánh tay giơ lên theo bản năng tự vệ, quay đầu về phía bên trái và nhắm chặt mắt khi biểu tượng đường chéo mạ crôm nổi tiếng của hãng xe Thụy Điển lao thẳng về phía hắn.
“Được rồi”, Bishop bình tĩnh nói.
Có thể bản năng hoặc kĩ năng lái xe của một cảnh sát đã khiến ông quyết định không phanh lại. Bishop nhấn mạnh chân ga xuống sát sàn xe và văng chiếc Crown Victoria về phía chiếc xe đang lao đến. Mẹo này đã phát huy tác dụng. Hai chiếc xe sượt qua nhau trong khoảng cách vài inch và chiếc Volvo đâm sầm vào chắn bùn trước của chiếc Porsche đằng sau. Bishop đã kiểm soát được cú văng xe và phanh lại.
“Thằng ngu nào lại vượt đèn đỏ”, Bishop lầm bầm, tay lôi bộ đàm ra để báo cáo về vụ tai nạn.
“Không, anh ta không ngu đâu”, Gillette nói, ngoái lại phía sau. “Nhìn kìa, cả hai bên đều đèn xanh.”
Ở dãy phố trước mặt họ, thêm hai chiếc xe lật nghiêng ngay giữa ngã tư, khói bốc lên từ mui xe.
Tiếng bộ đàm lạo xạo, lùng bùng với những báo cáo tai nạn và rối loạn đèn giao thông. Họ nghe ngóng thêm một chút.
“Tất cả đèn đều xanh”, viên thám tử nói. “Cả hạt đều thế. Là Phate, đúng không? Hắn đã gây ra việc này.”
Gillette cười chua chát. “Hắn đã đột nhập mạng giao thông công chính. Đây là màn tung hỏa mù để hắn và Miller trốn thoát.”
Bishop tiếp tục đi, nhưng vì tình hình giao thông, họ phải di chuyển với tốc độc vài dặm một giờ. Đèn nhấp nháy trên nóc xe không còn tác dụng nên Bishop đành tắt đi. Ông quát át cả những tiếng còi, “Ở chỗ giao thông công chính người ta có thể làm gì để sửa nó?”.
“Có thể hắn đã làm đơ hệ thống hoặc để lại một mật khẩu không thể phá nổi. Họ sẽ phải tải lại mọi thứ từ đĩa dự phòng, sẽ mất hàng tiếng đồng hồ.” Tay hacker lắc đầu. “Nhưng tình hình giao thông này cũng sẽ làm hắn mắc kẹt. Để làm gì nhỉ?”
Bisphop nói, “Không, hắn sẽ ở ngay bên đường cao tốc. Có thể là ngay cạnh con dốc dẫn lên đường lớn. Đại học Bắc California cũng nằm ở vị trí như thế. Hắn sẽ giết nạn nhân tiếp theo, rồi nhảy trở lại đường cao tốc và chuồn đi đâu không ai biết, đào tẩu êm thấm”.
Gillette gật đầu và nói thêm, “ít nhất thì không có ai ở công ty máy tính San Jose biến mất”
Còn cách điểm đến một phần tư dặm thì giao thông hoàn toàn tê liệt, nên Bishop và Gillette buộc phải bỏ xe lại. Họ nhảy khỏi xe và cuốc bộ phăm phăm về phía trước với tâm trạng phấp phỏng đầy tuyệt vọng. Phate chắc chắn chỉ tạo ra vụ kẹt xe ngay trước khi hắn sẵn sàng cho cuộc tấn công vào trường học. Nếu may mắn lắm thì ngay cả khi một ai đó ở công ty máy tính San Jose tìm ra địa chỉ gửi hàng, họ cũng không thể đến kịp chỗ của Phate trước khi nạn nhân bị giết, còn hắn và Miller đã cao chạy xa bay.
Họ đến được tòa nhà trụ sở của công ty và dừng lại, dựa vào một hàng rào, thở dốc.
Không gian tràn ngập tiếng còi xe inh ỏi và tiếng chiếc trực thăng bay lượn gần đó, một đài địa phương đang ghi lại hậu quả sự phá hoại của Phate và sự mong manh của hạt Santa Clara cho người dân cả nước chứng kiến.
Hai người họ lại đi tiếp, khẩn trương tiến đến một cánh cửa để ngỏ cạnh khu chất hàng của công ty. Họ trèo qua khu chất hàng và bước vào trong. Một công nhân mập mạp, tóc hoa râm đang chất những thùng các tông lên giá để hàng, ngước lên nhìn họ.
“Xin lỗi ông. Cảnh sát đây” Bishop nói và giơ phù hiệu ra. “Chúng tôi cần hỏi ông một vài câu.”
Người đàn ông nheo mắt sau cặp-kính dầy khi xem xét phù hiệu của Bishop. “Vâng, tôi có thể giúp gì cho ông?”
“Chúng tôi đang tìm ông Joe McGonagle.”
“Tôi đây”, ông ta nói. “Là về vụ tai nạn hay cái gì? Những tiếng còi xe đó là gì vậy?”
“Đèn giao thông bị hỏng.”
“Lộn xộn thật. Cũng sắp đến giờ cao điểm rồi.”
Bishop hỏi, “Ông sở hữu công ty này?”.
“Cùng với em họ tôi. Chính xác là có vấn đề gì vậy, anh cảnh sát?”
“Tuần trước ông nhận được gói hàng là một vài linh kiện siêu máy tính”.
“Chúng tôi làm việc đó hàng tuần. Đó là công việc kinh doanh của chúng tôi.”
“Chúng tôi có lý do để tin rằng có lẽ ai đó đã bán cho ông linh kiện ăn cắp”.
“Ăn cắp?”
“Ông không bị điều tra, thưa ông. Nhưng việc tìm ra người đã bán chúng rất quan trọng với chúng tôi. Ông không phiền nếu chúng tôi xem qua sổ sách nhận hàng của ông chứ?”
“Tôi thề là không biết bất cứ thứ gì bị đánh cắp. Jim, em tôi, cũng không đời nào làm việc đó. Cậu ấy là một con chiên ngoan đạo.”
“Tất cả những gì chúng tôi muốn là tìm ra kẻ đã bán chúng. Chúng tôi cần địa chỉ hoặc số điện thoại của công ty nơi những linh kiện này được chuyển đi.”
“Tất cả tài liệu chuyển hàng đều ở trong này.” Ông ta bước xuống hành lang. “Nhưng nếu tôi cần luật sư hoặc đại loại thế trước khi nói chuyện với các anh, anh sẽ cho tôi biết chứ.”
“Vâng, tôi sẽ nói”, Bishop đáp chân thành. “Chúng tôi chỉ quan tâm đến việc truy tìm kẻ này thôi.”
“Tên hắn là gì?”, McGonagle hỏi.
“Có thể hắn dùng tên Warren Gregg.”
“Không gợi lên điều gì cả.”
“Hắn có rất nhiều tên.”
McGonagle bước vào một văn phòng nhỏ và đi đến tủ tài liệu, kéo cánh tủ ra. “Ông có biết ngày tháng không? Ngày giao hàng ấy?”
Bishop ngó vào sổ tay. “Chúng tôi nghĩ là vào ngày hai mươi bảy tháng ba.”
“Để xem nào…” McGonagle chăm chú nhìn vào tủ, bắt đầu lục lọi.
Wyatt Gillette không thể nhịn cười thầm. Thật là khôi hài khi một công ty cung cấp máy tính lại lưu hồ sơ vào tủ. Một thứ không liên quan máy tính. Hắn vừa định nói thầm điều này với Bishop thì tình cờ nhìn thấy bàn tay trái của McGonagle, đang đặt trên tay cầm của ngăn tủ hồ sơ.
Những ngón tay đó, rất vạm vỡ, đầu ngón tay bè ra và như bị bịt bởi một lớp chai tay vàng khè.
Móng tay của một hacker…
Nụ cười của Gillette biến mất và toàn thân hắn cứng đờ. Bishop nhận ra điều này và nhìn hắn chằm chằm. Tay hacker chỉ vào ngón tay của mình, rồi ra hiệu về phía bàn tay của McGonagle. Bishop cũng đã nhìn thấy.
McGonagle nhìn lên, bắt gặp đôi mắt kinh ngạc của Bishop.
Có điều tên ông ta, tất nhiên, không phải là McGonagle. Bên dưới bộ tóc nhuộm màu xám, những nếp nhăn giả, cặp kính, miếng độn thân, chính là Jon Patrick Holloway. Những mảnh ghép lướt qua trong đầu Gillette như một bản viết phần mềm: Joe McGonagle là một nhân dạng khác của hắn. Công ty này là một trong những bình phong của hắn. Hắn đã hack vào dữ liệu kinh doanh của bang và tạo ra một công ty hoạt động mười lăm năm và biến bản thân hắn, và có thể cả Stephen Miller, thành đồng sở hữu. Biên lai mà họ tìm thấy là của một linh kiện mà Phate đã mua, chứ không phải là bán.
Không một ai cử động.
Rồi…
Gillette thụp xuống, Phate nhảy lùi lại, lôi khẩu súng của hắn từ trong ngăn kéo tủ ra. Bishop không kịp rút súng, ông chỉ đơn giản là nhảy về phía trước và giáng một đòn vào tên sát nhân, khiến vũ khí rơi khỏi tay hắn. Bishop đá nó sang một bên trong khi Phate chụp lấy cánh tay thuận của viên cảnh sát và tóm lấy cái búa đang nằm trên nắp một thùng gỗ. Hắn bổ mạnh nó xuống đầu Bishop. Một tiếng ụych khủng khiếp vang lên.
Viên thám tử thở hắt ra rồi ngã sụp xuống. Phate lại bồi thêm một cú vào phía sau đầu Bishop, rồi buông chiếc búa và chộp lấy khẩu súng trên sàn nhà.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.