Sát Nhân Mạng

PHẦN II: ÁC QUỶ – CHƯƠNG 10



Hắn là thế hệ hacker mới, không phải là thế hệ thứ ba được khuyến khích bởi sự tò mò trong sáng… mà là thế hệ thứ tư, những kẻ bị tước quyền công dân vì sự giận dữ.
– Jonathan Littman – The Watchman
 
o O o
 
Lúc một giờ chiều, một người đàn ông cao ráo trong bộ vét màu xám bước vào Đơn vị điều tra tội phạm máy tính CCU.
Đi cùng anh ta là một người phụ nữ to lớn mặc bộ pantsuit màu xanh thẫm. Hai cảnh sát bang mặc sắc phục đi cạnh họ. Vai họ ướt đẫm nước mưa và khuôn mặt đau buồn vô hạn. Họ bước về phía khoang làm việc của Stephen Miller.
Người đàn ông cao lớn nói, “Steve”.
Miller đứng dậy, lấy tay chải mái tóc đang thưa dần của mình. Anh nói, “Đại úy Bernstein”.
“Tôi có chuyện cần nói với anh”, viên đại úy nói với âm điệu mà Wyatt Gillette ngay lập tức nhận ra rằng đó là điềm báo cho một tin bi thảm. Ông ta nhìn cả Linda Sanchez và Tony Mott. Họ cũng nhìn ông ấy. “Tôi muốn đích thân đến báo tin. Chúng tôi mới tìm thấy xác của Andy Anderson trong Công viên Milliken. Có vẻ như hung thủ – kẻ gây ra cái chết của Gibson đã giết ông ấy.”
“Ôi”, Sanchez choáng váng, đưa hai tay lên miệng. Cô bắt đầu nức nở. “Không thể là Andy được… Không!”
Khuôn mặt Mott tối sầm lại. Anh lẩm bẩm điều gì đó mà Gillette không thể nghe thấy được.
Nửa tiếng qua, Patricia Nolan ngồi với Gillette, suy đoán về việc liệu hung thủ đã sử dụng phần mềm nào để xâm nhập vào máy tính của Lara Gibson. Trong lúc họ bàn bạc, cô mở túi xách của mình lấy ra một cái lọ nhỏ, và bắt đầu làm cái việc chẳng phù hợp với hoàn cảnh chút nào là quẹt sơn bóng lên móng tay. Giờ thì chiếc bàn chải nhỏ xíu đang ủ rũ trên bàn tay cô. “Ôi, Chúa ơi.”
Stephen Miller nhắm mắt lại một lúc. “Chuyện gì đã xảy ra?”, ông hỏi bằng giọng run run.
Cánh cửa mở ra và Frank Bishop cùng Bob Shelton vội vã bước vào phòng. “Chúng tôi đã nghe tin rồi”, Shelton nói. “Chúng tôi đã cố quay lại nhanh hết sức có thể. Có thật như thế không?”
Trước mặt họ là những khuôn mặt đau buồn, mặc dù vậy, vẫn có chút hoài nghi.
Sanchez hỏi qua làn nước mắt, “Các anh đã nói với vợ ông ấy chưa? Ôi, Chúa ơi, ông ấy còn cô con gái nhỏ nữa, Connie. Con bé mới năm hay sáu tuổi thôi”.
“Chỉ huy và luật sư đang trên đường tới nhà họ.”
“Chuyện quái quỉ gì đã xảy ra vậy?”, Miller nhắc lại.
Đại úy Bemstem nói, “Chúng tôi có một giả thiết khá hợp lý, nhân chứng là một phụ nữ dắt chó đi dạo trong công viên. Có vẻ như Andy mới tóm được một gã nào đó tên là Peter Fowler”.
“Đúng vậy”, Shelton nói. “Hắn là kẻ buôn bán hàng cấm mà chúng tôi cho rằng đã cung cấp vũ khí cho hung thủ.”
Đại úy Bernstein nói tiếp, “Chỉ là hình như ông ấy đã tưởng rằng Fowler là hung thủ giết người. Hắn ta có mái tóc vàng và mặc một chiếc áo khoác bò. Những sợi vải đó giống những gì được tìm thấy ở hiện trường vụ Lara Gibson, chúng hẳn đã dính vào con dao mà hung thủ mua từ Fowler. Dù vậy, trong lúc Andy đang mải còng tay Fowler, một người đàn ông da trắng đã tiến tới phía sau ông ấy. Hắn tầm cuối hai mươi đầu ba mươi, tóc sẫm màu, mặc bộ quần áo màu xanh hải quân và mang theo một chiếc vali. Hắn đâm Andy từ phía sau. Người phụ nữ chạy đi gọi giúp đỡ và đó là tất cả những gì bà ấy nhìn thấy. Hung thủ cũng đâm Andy đến chết”.
“Tại sao ông ấy không gọi hỗ trợ nhỉ?”, Mott hỏi.
Bernstein cau mày.
“Chà, điều này thật kỳ lạ, chúng tôi đã kiểm tra điện thoại của ông ấy và số điện thoại cuối cùng được liên lạc là số của trung tâm điều phối. Đó là một cuộc gọi được kết nối kéo dài đến ba phút. Nhưng không có dữ liệu nào từ trung tâm về việc nhận được cuộc gọi đó và không có điều phối viên nào đã nói chuyện với ông ấy cả. Không ai biết điều đó xảy ra như thế nào.”
“Dễ thôi”, tay hacker nói. “Hung thủ đã crack tổng đài.”
“Anh là Gillette”, viên đại úy nói. Hắn không cần phải gật đầu để xác nhận danh tính, cái còng chân là bằng chứng quá rõ ràng. “Điều đó có nghĩa là gì, crack tổng đài sao?”
“Hắn đã hack vào máy tính của công ty viễn thông và khiến tất cả các cuộc gọi từ điện thoại của Andy chuyển tới điện thoại của hắn. Hẳn là hắn đã giả làm một điều phối viên và nói với ông ấy rằng đội hỗ trợ đang tới. Rồi hắn ngắt dịch vụ trên điện thoại của Andy khiến ông ấy không thể gọi ai khác để cầu cứu nữa.”
Viên đại úy chậm rãi gật đầu. “Hắn làm tất cả điều đó sao? Chúa ơi, chúng ta đang đối mặt với cái quái quỷ gì vậy?”
“Một cao thủ giỏi nhất về social engineering mà tôi từng biết”, Gillette nói.
“Mẹ kiếp!”, Shelton hét vào mặt hắn. “Sao cậu không bỏ quách kiểu nói bằng thuật ngữ máy tính rối rắm ấy đi hả?”
Frank Bishop đặt tay lên cánh tay người đồng sự và nói với viên đại úy, “Đây là lỗi của tôi, thưa ngài”.
“Lỗi của anh?”, Đại úy Bernstein hỏi viên cảnh sát còm nhom “Ý anh là sao?”
Đôi mắt Bishop chậm rãi di chuyển từ Gillette xuống sàn nhà. “Andy là một cảnh sát văn phòng. Ông ấy không hề được huấn luyện cho một vụ bắt giữ tội phạm.”
“Ông ấy vẫn là một thanh tra được đào tạo có kinh nghiệm”, viên đại úy nói.
“Huấn luyện khác xa với những gì xảy ra ngoài đường”, Bishop ngẩng lên. “Theo suy nghĩ của tôi, thưa ngài.”
Người phụ nữ đi cùng Bernstein khua khua tay. Viên đại úy nhìn cô và thông báo, “Đây là Thám tử Susan Wilkins từ Đội điều tra trọng án ở Oakland. Cô ấy sẽ tiếp quản vụ này. Cô ấy có một đội đặc nhiệm về hiện trường và tác chiến đang tới và tiến hành cả ở trụ sở chỉ huy ở San Jose”.
Quay sang Bishop, viên đại úy nói, “Frank, tôi đã chấp nhận yêu cầu đó của các anh về vụ MARINKILL. Có một báo cáo rằng các hung thủ đã được nhận diện khoảng một tiếng trước bên ngoài cửa hàng tạp hóa khoảng hai mươi cây số về phía nam Walnut Creek. Có vẻ chúng đang hướng về đó”. Ông nhìn Miller, “Steve, anh sẽ tiếp nhận những gì Andy đang làm, phần việc liên quan tới máy móc. Và cộng tác với Susan”.
“Tất nhiên rồi, thưa đại úy.”
Viên đại úy quay sang Patrica Nolan. “Cô chính là người mà chỉ huy trưởng nói với chúng tôi, phải không? Cố vấn an ninh từ một hãng dịch vụ mạng? Horizon Online?”
Cô gật đầu.
Họ hỏi xem liệu cô có thể tiếp tục tham gia không?”
“Những người đầy-quyền-lực ở Sacramento ấy.”
“À. Chắc chắn rồi, tôi rất vui được tham gia.”
Gillette lại không đáng được nêu danh. Viên đại úy nói với Miller, “Những cảnh sát ở đây sẽ đưa phạm nhân trở lại San Jose”.
“Kìa”, Gillette phản kháng, “đừng trả tôi về đó”.
“Gì cơ?”
“Các ông cần tôi. Tôi phải…”
Viên đại úy từ chối bằng một cái phẩy tay và quay sang Susan Wilkins, ra hiệu về phía tấm bảng trắng và nói chuyện với cô về vụ án.
“Đại úy”, Gillette gọi, “ông không thể trả tôi về được”.
“Chúng ta cần sự giúp đỡ của anh ta”, Nolan nhấn mạnh.
Nhưng viên đại úy chỉ liếc nhìn hai cảnh sát to lớn đã đi cùng ông vào đây. Họ còng Gillette lại, bước vào vị trí của mình ở hai bên như thể hắn chính là tên giết người, và bắt đầu bước ra khỏi văn phòng.
“Không”, Gillette phản kháng. “Các ông không biết gã này nguy hiểm tới mức nào đâu!”
Tất cả những điều mà Gillette vừa nói chỉ nhận được một cái nhìn từ viên đại úy. Những cảnh sát lại bắt đầu lôi hắn xềnh xệch về phía cửa ra. Gillette định nhờ đến sự can thiệp của Bishop nhưng viên thanh tra lại đang thả hồn đi đâu mất, hẳn là vụ án MARINKILL của ông ta. Ông nhìn chằm chằm một cách vô hồn xuống sàn nhà.
“Được rồi”, Gillette nghe thấy Thanh tra Susan Wilkins nói với Miller, Sanchez và Mott. “Tôi rất tiếc vì những gì đã xảy ra với chỉ huy của các bạn nhưng tôi cũng từng trải qua chuyện như thế này rồi và tôi chắc chắn là các bạn cũng thế. Và cách tốt nhất để thể hiện sự quan tâm của các bạn tới ông ấy là tóm cổ gã hung thủ này đó chính là điều mà chúng ta đang thực hiện. Giờ thì, tôi nghĩ rằng chúng ta đã có cùng chung một mục tiêu rồi. Tôi sẽ làm việc nhanh chóng với hồ sơ vụ án và các báo cáo hiện trường, tôi cũng đã có sẵn một kế hoạch chủ động trong đầu rồi. Bản báo cáo sơ bộ cho thấy Thanh tra Anderson – cũng như tên Fowler đó, đã bị đâm. Nguyên nhân gây ra cái chết là vết thương ở tim. Họ… “
“Khoan!”, Gillette hét lên ngay khi hắn sắp bị lôi ra khỏi cửa.
Wilkins dừng lại. Bernstein ra hiệu cho các cảnh sát kéo hắn ra ngoài. Nhưng Gillette nói thật nhanh, “Thế còn Lara Gibson thì sao? Có phải cô ấy cũng bị đâm ở ngực không?”
“Ý anh là gì?”, Bernstein hỏi.
“Có đúng thế không?”, Gillette nhấn mạnh. “Và các nạn nhân ở các vụ án khác ở Portland và Virginia?”
Không ai nói được điều gì lúc đó. Cuối cùng, Bob Shelton nhìn vào bản báo cáo về vụ án Lara Gibson. “Nguyên nhân chết là một vết đâm vào… “
“Vào tim, đúng không?”, Gillette hỏi.
Shelton nhìn cộng sự rồi nhìn Bernstein. Ông gật đầu. Tony Mott nói, “Chúng ta không biết về vụ Virginia và Oregon – hắn đã xóa hết các file dữ liệu”.
“Nó cũng y như vậy”, Gillette nói. “Tôi đảm bảo.”
Shelton hỏi, “Làm sao mà cậu biết được?”.
“Vì tôi đã tìm ra động cơ của hắn.”
“Đó là?”, Bernstein hỏi.
“Access.” (Xâm nhập hoặc truy cập).
“Thế nghĩa là gì?”, Shelton cau có lẩm bẩm.
Patricia Nolan nói, “Đó là điều mà mọi hacker theo đuổi. Truy cập vào thông tin, các bí mật và dữ liệu”.
“Khi ta hack”, Gillette nói “Quyền truy cập là Chúa trời – là Đấng toàn năng”.
“Vậy thì nó liên quan gì tới việc đâm chém?”
“Tên sát nhân là một người chơi MUDs.”
“Chắc chắn rồi”, Tony Mott nói. “Tôi biết MUDs.” Có vẻ là Miller cũng biết. Ông cũng đang gật gật.
Gillette nói, “Một từ viết tắt khác thôi. Nó có nghĩa là tên miền nhiều người sử dụng, Multi-User Domain hoặc Dimension. Nó là một hệ thống các phòng chat, hoặc các địa điểm trên mạng Internet mà mọi người thường đăng nhập để chơi các game nhập vai. Các trò chơi phiêu lưu, nhiệm vụ, hay khoa học viễn tưởng, chiến tranh. Những người chơi MUD thường khá tử tế hiền lành – các doanh nhân, các lập trình viên, rất đông sinh viên, và các giáo sư. Nhưng ba đến bốn năm trước, có một cuộc tranh cãi lớn về trò chơi tên là Access”.
“Tôi đã nghe về nó”, Miller nói. “Rất nhiều nhà cung cấp Internet từ chối game này”
Gillette gật đầu. “Trong cách hoạt động của nó, có một thành phố ảo. Dân cư của thành phố đó là những người đang sống cuộc sống bình thường – đi làm, hẹn hò, xây dựng gia đình, vân vân. Nhưng vào ngày lễ tưởng niệm cái chết của một người nổi tiếng, giống như vụ ám sát John Kennedy, ngày Lennon bị bắn chết hay Thứ sáu tốt lành Good Friday – chiếc máy quay số ngẫu nhiên sẽ chọn một người chơi trở thành sát thủ. Anh ta có một tuần thực hiện cách thức của mình để nhắm vào mạng sống của mọi người và phải giết càng nhiều càng tốt”.
“Hung thủ có thể lựa chọn bất cứ ai làm nạn nhân của mình nhưng vụ giết người càng khó khăn bao nhiêu thì hắn sẽ giành được nhiều điểm bấy nhiêu. Một chính trị gia với một vệ sỹ đáng giá mười điểm. Một cảnh sát có vũ trang thì tận năm mươi điểm. Điểm hạn chế duy nhất đối với sát thủ là hắn phải tiếp cận các nạn nhân đủ gần để đâm vào trái tim họ bằng một con dao – đó là phương thức cơ bản của Access.”
“Chúa ơi, đó mới chỉ là vắn tắt về hung thủ của chúng ta”, Tony Mott nói. “Con dao, những vết đâm vào vùng ngực, những ngày kỷ niệm, săn đuổi những người khó bị ám sát. Hắn đã chiến thắng trò chơi ở Portland và Virginia. Và giờ hắn ở đây, chơi trò chơi chết người đó ở Thung lũng Silicon này.” Viên cảnh sát trẻ bồi thêm một cách nhạo báng, “Hắn ta đã đạt tới level thượng thừa rồi”.
“Level?”, Bishop hỏi.
“Trong các trò chơi máy tính”, Gillette giải thích, “ta sẽ trải qua các cấp độ thách thức từ trình độ đơn giản đến phức tạp nhất, từ level thấp tới cao”.
“Vậy thì, tất cả chuyện này đối với hắn chỉ là một trò chơi khốn kiếp mà thôi?”, Shelton nói. “Thật khó tin.”
“Không”, Patricia Nolan nói. “Tôi lại e là nó khá dễ hiểu. Đơn vị Khoa học hành vi của FBI ở Quantico đã nhận định, hacker tội phạm như những kẻ hung hăng và bị ám ảnh. Giống như những kẻ sát nhân hàng loạt với động cơ ham muốn thôi thúc. Như Wyatt nói, quyền truy cập là Chúa trời – là Đấng toàn năng. Chúng phải tìm đến những tội ác tột cùng để thỏa mãn chính mình. Gã này đã tốn quá nhiều thời gian chìm đắm trong Thế giới ảo tới mức hắn không thấy chút khác biệt nào giữa một nhân vật ảo với một con người.” Nhìn vào tấm bảng trắng, Nolan tiếp tục, “Tôi thậm chí còn có thể nói rằng, đối với hắn, bản thân những chiếc máy tính còn quan trọng hơn cả con người. Cái chết của một người chẳng là gì cả, nhưng một chiếc ổ cứng bị hỏng thì, quả là một bi kịch”.
Bernstein gật đầu. “Thông tin này hữu ích đây. Chúng tôi sẽ lưu tâm vấn đề này.” Ông ta hất đầu về phía Gillette, “Nhưng anh vẫn sẽ phải quay lại nhà tù”.
“Không!”, tay hacker rền rĩ.
“Hãy xem, chúng ta đã mạo hiểm khi thả một tội phạm liên bang theo lệnh của một người đã hy sinh. Andy sẵn sàng chấp nhận sự mạo hiểm này. Nhưng tôi thì không. Chấm hết.”
Ông ta chỉ vào mấy tay cảnh sát và họ đưa tên hacker ra khỏi phòng máy. Với Gillette, có vẻ như lần này họ nắm hắn chặt hơn, như thể họ cảm thấy sự tuyệt vọng của hắn. Nolan thở dài và lắc đầu, nở một nụ cười buồn chào tạm biệt Gillette khi hắn bị lôi ra ngoài.
Thanh tra Susan Wilkins bắt đầu bài độc thoại của mình một lần nữa nhưng giọng của cô nhỏ dần khi Gillette bước chân ra ngoài. Cơn mưa đang rơi xuống dày đặc. Một người trong những đám cảnh sát nói, “Rất tiếc vì điều đó”, dù đó là lời an ủi cho nỗ lực ở lại CCU bất thành của hắn hay việc hắn chẳng có cái ô nào để che mưa. Gillette không hề biết.
Người cảnh sát đưa hắn xuống hàng ghế sau trên chiếc xe cảnh sát và sập cửa.
Gillette nhắm mắt, dựa đầu lên tấm kính. Lắng nghe âm thanh trống rỗng của tiếng mưa trút xuống mui xe.
Hắn cảm thấy một nỗi chán chường tột cùng trước sự thất bại.
Chúa ơi, hắn đã gần làm được rồi mà…
Hắn nghĩ tới những tháng ngày nằm trong nhà tù. Hắn nghĩ tới tất cả những kế hoạch mà mình đã làm. Công cốc. Đó là tất cả…
Cánh cửa xe bật mở.
Frank Bishop đang cúi xuống. Nước chảy thành dòng trên mặt ông ta, lấp lánh hai bên mai và ướt đẫm áo, nhưng ít nhất thì mái tóc xịt bóng lộn chẳng hề hấn gì trước những hạt mưa. “Có một câu hỏi cho ngài”
Ngài?
Gillette hỏi, “Là gì vậy?”.
“Cái thứ MUD ấy. Nó không chỉ là trò chơi đúng không?”
“Không. Tên sát nhân đang chơi phiên bản trò chơi của riêng hắn – một phiên bản đời thực.”
“Lúc này liệu có ai vẫn còn chơi nó không? Ý tôi là, ở trên mạng ấy.”
“Tôi nghi ngờ điều đó. Những tay nghiện game MUD thật sự đã bị nó làm khó chịu tới mức phải tìm cách phá hoại trò chơi và gửi bom thư tới những người chơi khác cho tới khi họ bỏ thì thôi.”
Viên thám tử quay lại nhìn vào chiếc máy bán nước giải khát hoen gỉ phía trước tòa nhà CCU. Rồi ông hỏi, “Ngài cảnh sát trong kia, Stephen Miller ấy, ông ta là một tay gà mờ, phải không?”.
Gillette suy nghĩ một chút rồi nói, “Ông ấy thuộc thế hệ cũ”.
“Gì cơ?”
Ý Gillette muốn ám chỉ thập niên sáu mươi và bảy mươi – thời đại cách mạng trong lịch sử máy tính, và nó kết thúc trước hay sau khi chiếc máy PDP-10 của Tập đoàn Thiết bị số Digital Equipment Corporation xuất hiện, chiếc máy tính đã thay đổi diện mạo Thế giới máy tính mãi mãi. Nhưng Gillette không giải thích điều này. Hắn chỉ nói một cách đơn giản, “Ông ấy từng rất giỏi, tôi cho là vậy, nhưng ông ấy đã qua thời hoàng kim của mình rồi. Và đúng vậy, ở Thung lũng Silicon thì có nghĩa là, ông ấy đã không còn hợp thời”.
“Tôi hiểu”, Bishop đứng thẳng dậy, nhìn ra dòng xe đang lao vun vút trên đường cao tốc gần đó. Rồi ông nói với mấy tay cảnh sát, “Làm ơn hãy đưa anh ta quay lại”.
Họ nhìn nhau, và khi Bishop gật đầu một cách quả quyết, tất cả cùng kéo Gillette ra khỏi xe.
Khi họ trở lại văn phòng của CCU, Gillette nghe thấy giọng Susan Wilkins vẫn vang đều đều,… “liên lạc với bộ phận an ninh ở Mobile America và Pac Bell nếu cẩn thiết, và tôi đã thiết lập một đường dây liên lạc với các đội đặc nhiệm liên quan đến việc thực hiện những nhiệm vụ ưu tiên. Hiện tại, theo đánh giá của tôi thì nó phải hiệu quả hơn gấp rưỡi nếu chúng ta đặt trụ sở ở gần các nguồn chủ lực, do đó chúng ta sẽ di chuyển Đơn vị điều tra tội phạm máy tính CCU tới trụ sở ở San Jose. Tôi hiểu là các bạn đang thiếu vắng sự hỗ trợ hành chính từ vị trí lễ tân và chúng ta có thể giải tỏa được vấn đề đó ở trụ sở..”
Gillette không để vào tai những gì cô ta nói và tự hỏi Bishop định làm gì.
Viên cảnh sát bước tới chỗ Bob Shelton, thì thầm một lúc. Đoạn hội thoại của họ kết thúc với câu hỏi của Bishop, “Anh với tôi làm vụ này?”.
Viên cảnh sát to lớn dò xét Gillette với một ánh nhìn khinh khỉnh rồi lẩm bẩm điều gì đó xác nhận sự đồng tình một cách miễn cưỡng.
Trong khi Wilkins tiếp tục nói, Đại úy Bernstein cau mày và bước về phía Bishop. Bishop nói, “Tôi sẽ xử lý vụ này, thưa ngài, và tôi muốn Gillette ở đây làm việc cùng với chúng tôi”.
“Anh đã yêu cầu vụ MARINKILL.”
“Tôi đã muốn thế, thưa ngài. Nhưng giờ tôi thay đổi quyết định rồi.”
“Tôi biết trước đây anh nói gì, Frank. Nhưng cái chết của Andy – đó không phải là lỗi của anh. Anh ấy đáng nhẽ phải hiểu rõ khả năng của mình. Không ai ép buộc anh ấy bám theo gã đó một mình.”
“Tôi không quan tâm đó có phải là lỗi của mình hay không. Vấn đề không nằm ở đó. Vấn đề là chúng ta cần tóm cổ tên sát nhân nguy hiểm này trước khi lại có ai đó bị giết.”
Đại úy Bernstein hiểu ý của ông và liếc nhìn Wilkins. “Susan đã từng thực hiện điều tra án mạng trước đây. Cô ấy rất giỏi.”
“Tôi biết điều đó, thưa ngài. Chúng tôi đã từng làm việc cùng nhau. Nhưng cô ấy chỉ là một quyển sách. Cô ấy chưa bao giờ dầm mình xuống hào, giống như tôi. Tôi có trách nhiệm thực hiện vụ này. Nhưng một vấn đề khác đó là chúng tôi đang làm một việc nằm ngoài khả năng của mình. Chúng tôi cần ai đó thật sự xuất sắc về lĩnh vực này.” Mái tóc lởm chởm cứng ngoắc hất về phía Gillette. “Và tôi cho rằng anh ta cũng ngang ngửa với hung thủ.”
“Chắc chắn là vậy rồi”, Bernstein lầm bầm. “Nhưng đó không phải là nỗi lo của tôi.”
“Tôi sẽ xử lý chuyện này, thưa ngài. Nếu có gì xấu, thì tôi sẽ chịu tất cả trách nhiệm. Không một ai khác ở sở chỉ huy phải chịu bất cứ áp lực hay sự chỉ trích nào.”
Patricia Nolan tham gia vào cuộc nói chuyện và nói, “Đại úy, để ngăn gã nguy hiểm này, chúng ta sẽ cần nhiều hơn là chỉ lấy dấu tay và thẩm vấn các nhân chứng”.
Shelton thở dài. “Chào mừng đến với thiên niên kỷ mới khỉ gió này.”
Bernstein miễn cưỡng gật đầu với Bishop. “Okay, anh sẽ đảm nhiệm vụ này. Anh sẽ có đủ hỗ trợ từ lực lượng đặc nhiệm và khám nghiệm hiện trường. Và hãy chọn vài người từ đơn vị Trọng án ở San Jose sang giúp đỡ.”
“Huerto Ramirez và Tim Morgan”“, Bishop nói không hề do dự. “Tôi muốn họ có mặt ở đây càng sớm càng tốt nếu như ngài có thế sắp xếp được. Tôi muốn tập trung tất cả mọi người.”
Viên đại úy gọi cho Sở chỉ huy để điều động các cảnh sát tới. Ông dập máy. “Họ đang trên đường đến dây.”
Rồi Bernstein thông báo cho Susan Wilkins, cảm thấy lúng túng khó hiểu hơn là thất vọng khi bị tước mất nhiệm vụ mới, cô ấy rời đi. Viên đại úy hỏi Bishop, “Anh có muốn đưa đơn vị trở lại trụ sở không?”.
Bishop đáp, “Không, chúng tôi sẽ ở đây, thưa ngài”. Ông hất đầu về phía dãy màn hình máy tính. “Đây sẽ là nơi chúng tôi thực hiện phần lớn công việc. Tôi có linh cảm như vậy.”
“Chà, chúc may mắn, Frank.”
Bishop nói với những cảnh sát đến để đưa Gillette quay trở lại San Ho, “Các anh có thể tháo còng tay”.
Một người trong số họ làm điều đó và anh ta chỉ vào chiếc khóa chân, “Thế còn cái này thì sao?”.
“Không”, Bishop nói, nở một nụ cười không biểu lộ gì cả, “Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ giữ nó ở đó”.
Một lúc sau, hai người đàn ông tới gia nhập Đội CCU: Một người Mỹ Latinh to lớn, da ngăm đen, cơ bắp cuồn cuộn, hẳn là đến từ phòng tập của Gold”s Gym và một thám tử cao, có mái tóc vàng cát trong một bộ vét bốn khuy sành điệu, áo sơ mi tối màu với cà vạt đồng màu. Bishop giới thiệu Huerto Ramirez và Tim Morgan, hai thám tử đến từ Trụ sở mà Bishop đã yêu cầu.
“Giờ thì tôi muốn nói đôi lời”, Bishop nói, nhét chiếc áo nhàu nhĩ vào trong quần và bước lên phía trước Đội phá án. Ông nhìn khắp mọi người, dừng lại ở từng người một. “Cái gã mà chúng ta đang săn đuổi là một kẻ có quyết tâm tuyệt đối để giết một ai đó theo cách của hắn, không chừa những cảnh sát hay người vô tội. Hắn là một chuyên gia về social engineering”. Ánh mắt hướng về phía những người mới tới, Ramuez và Morgan “Nó được hiểu một cách đơn giản là cải trang và đánh lạc hướng. Do đó chúng ta thực sự cần liên tục tự nhắc nhở bản thân về những gì đã biết về hắn.”
Bishop tiếp tục độc thoại với giọng nói thấp và dứt khoát, “Tôi cho rằng chúng ta có đủ chứng cứ để khẳng định hắn tầm cuối hai mươi, đầu ba mươi, tầm vóc trung bình, tóc hắn có thể màu vàng hoặc đã được nhuộm sẫm màu, mày râu nhẵn nhụi nhưng có lúc lại cải trang bằng râu giả. Hắn ưa dùng loại dao Ka-bar để làm hung khí giết người và muốn tiếp cận đủ gần với nạn nhân để đâm một phát chí mạng vào ngực. Hắn có thể xâm nhập hệ thống của công ty điện thoại và ngắt dịch vụ hay chuyển cuộc gọi. Hắn có thể hack cả hệ thống máy tính của các lực lượng hành pháp”, lúc này ánh mắt hướng vào Gillette, “thứ lỗi cho tôi vì đã đột nhập vào các máy tính và phá hủy hết hồ sơ dữ liệu của cảnh sát. Hắn thích đương đầu với thử thách, hắn xem việc giết người như một trò chơi. Hắn từng sống khá lâu ở các bang ven biển phía đông và đâu đó trong khu vực Thung lũng Silicon, nhưng chúng ta không có địa điểm đích xác. Chúng ta cho rằng hắn đã mua một vài vật dụng hóa trang ở một cửa hàng cung cấp dụng cụ sân khấu ở Camino Real, Mountain View. Hắn là một kẻ tài năng có xu hướng rối loạn nhân cách và bị kích thích bởi dục vọng, mất đi ý thức về thực tại và coi những gì mình đang làm chỉ như một trò chơi máy tính”.
Gillette thực sự ngạc nhiên. Viên cảnh sát đang đứng quay lưng với tấm bảng trắng trong khi nhắc lại toàn bộ thông tin được viết trên đó. Tay hacker nhận ra rằng hắn đã đánh giá nhầm ông. Tất cả những khi Bishop có vẻ như đang nhìn một cách vô thức ra ngoài cửa sổ hay xuống sàn nhà thì ông ta hẳn đang ghi nhớ các thông tin bằng chứng.
Bishop cúi thấp đầu xuống nhưng vẫn giữ ánh mắt hướng về phía tất cả mọi người, “Tôi sẽ không để mất bất cứ ai khác trong đội này nữa. Vì vậy hãy đề phòng và đừng tin bất cứ ai, ngay cả những người mà các anh cho là đã biết rõ họ. Hãy bám chặt lấy giả thiết này: Chẳng có gì thực sự giống như vẻ ngoài của nó”.
Gillette nhận ra chính mình cũng đang gật đầu như những người khác.
“Giờ thì nói về các nạn nhân của hắn… Chúng ta biết rằng hắn thích săn đuổi những người khó tiếp cận. Những người có vệ sỹ và hệ thống bảo vệ. Càng khó tiếp cận càng tốt. Chứng ta sẽ phải ghi nhớ điều này khi cố gắng đoán trước bước đi của hắn. Chúng ta sẽ bám chặt lấy kế hoạch chung của cuộc điều tra. Huerto và Tim, tôi muốn hai anh đảm nhận hiện trường vụ Anderson ở Palo Alto. Thẩm vấn bất cứ ai mà các anh có thể lần ra ở trong và xung quanh công viên Milliken. Bob và tôi đã không có cơ hội tìm ra nhân chứng nhìn thấy xe của hung thủ ở bên ngoài nhà hàng mà Gibson bị giết. Đó là việc mà anh ta và tôi sẽ làm. Còn Wyatt, cậu sẽ đảm nhận việc chỉ đạo những công việc liên quan đến máy tính trong cuộc điều tra”.
Gillette lắc đầu, không chắc chắn rằng mình hiểu đúng ý của Bishop. “Xin lỗi?”
“Cậu”, Bishop trả lời, “sẽ chỉ đạo những công việc liên quan đến máy tính trong cuộc điều tra”. Không giải thích gì thêm. Stephen Miller không nói gì, mặc dù đôi mắt ông vẫn lạnh lùng nhìn chằm chằm vào tay hacker khi tiếp tục sắp xếp chồng đĩa và giấy tờ lộn xộn trên bàn làm việc của mình một cách vô thức.
Bishop hỏi, “Liệu chúng ta có nên lo lắng về việc hắn đang nghe trộm điện thoại của chúng ta không? Ý tôi là, về cách mà hắn đã giết Andy”.
Patricia Nolan trả lời, “Đó cũng là một nguy cơ, tôi e là thế nhưng tên giết người sẽ phải kiểm soát hàng trăm tần số cho các số điện thoại của chúng ta”.
“Tôi đồng ý”, Gillette nói. “Và thậm chí nếu xâm nhập tổng đài, hắn sẽ phải ngồi cả ngày với chiếc tai nghe, nghe các cuộc nói chuyện của chúng ta. Có vẻ như hắn không có thời gian để làm điều đó. Ở trong công viên thì hắn ở gần Andy. Đó là lý do vì sao hắn bắt được tần số riêng của ông ấy.”
Bên cạnh đó, hóa ra không có nhiều việc để làm với mối nguy hiểm này. Miller giải thích rằng, trong khi CCU có một chiếc máy mã hóa bảo vệ sóng điện thoại, nhưng nó lại chỉ hoạt động khi người gọi ở đầu dây bên kia cũng có một cái như vậy. Với những điện thoại bảo mật an toàn, Miller giải thích, “Nó trị giá tới năm ngàn đô la một chiếc”. Và không nói gì nữa. Rõ ràng điều ấy có nghĩa là thứ đồ chơi như vậy sẽ không bao giờ nằm trong ngân sách của CCU.
Sau đó Bishop cử Ramirez và viên cảnh sát Tim Morgan tới Palo Alto. Sau khi họ rời đi, Bishop hỏi Gillette, “Cậu đã nói với Andy là cậu nghĩ rằng mình có thể tìm ra nhiều thông tin hơn về cách thức hung thủ xâm nhập vào máy tính của Gibson phải không?”.
“Đúng thế. Dù cho gã này đã làm gì đi chăng nữa, nhất định phải có những tin tức liên quan trong thế giới ngầm của hacker. Những gì tôi sẽ làm là lên mạng và…”
Bishop hất đầu về phía khu bàn làm việc. “Hãy làm những gì cậu cần và cho chúng tôi một bản báo cáo trong nửa tiếng đồng hồ nữa.”
“Chỉ thế thôi à?”, Gillette hỏi.
“Hãy làm nhanh hơn nếu cậu có thể. Hai mươi phút.”
“Uhm.”
Stephen Miller vẫy vẫy tay.
“Chuyện gì vậy?”, viên thám tử hỏi.
Gillette tưởng viên cảnh sát an ninh mạng có vài lời về việc mình bị cắt bớt thời gian hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng đó không phải là điều mà ông ta đang suy nghĩ. “Vấn đề là”, Miller phản kháng, “Andy nói anh ta chưa hề được phép lên mạng. Và tòa án cũng có lệnh là anh ta không được làm thế. Đó là một phần án phạt dành cho anh ta”.
“Đúng là như vậy”, Bishop nói, đôi mắt lướt trên tấm bảng trắng. “Nhưng Andy đã mất còn toà án thì không xử lý vụ này. Mà là tôi.” Ông liếc sang Gillette với ánh mắt thiếu kiên nhẫn một cách lịch sự. “Nên tôi sẽ rất biết ơn nếu anh bắt tay vào công việc ngay đi.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.