Sử Ký Tư Mã Thiên

HẠNG VŨ BẢN KỶ



HẠNG TỊCH, người ở đất Hạ Tương, tên tự là Vũ. Khi khởi nghĩa (209 trước Công nguyên), Tịch hai mươi bốn tuổi. Chú Tịch là Hạng Lương. Cha của Hạng Lương là Hạng yên làm tướng nước Sở, bị tướng nước Tần là Vương Tiễn giết. Họ Hạng đời đời làm tướng nước Sở, được phong ở đất Hạng cho nên lấy họ là họ Hạng. Lúc còn nhỏ, Tịch học chữ, học chẳng nên, bỏ đi học kiếm thuật, cũng chẳng nên. Hạng Lương nổi giận. Tịch nói :

– Biết chữ chỉ để đủ viết tên họ mà thôi. Kiếm chỉ đánh lại một người, không bỏ công học. Nên học cái đánh lại được vạn người !

Hạng Lương bèn dạy cho Tịch binh pháp. Tịch mừng lắm. Tịch chỉ học để biết qua ý nghĩa, chứ không chịu học cho đến nơi đến chốn.

Trước đấy, Hạng Lương phạm tội và bị bắt ở Lịch Dương. Lương nhờ quan coi ngục ở đất Kỳ là Tào Cữu viết thư cho Tư Mã hân làm quan coi ngục ở Lịch Dương, nhờ vậy mà việc này thu xếp xong (việc này để chuẩn bị cho sự biệt đãi của Tịch đối với Tư Mã Hân ở đoạn 7).

Hạng Lương có lần giết người , để tránh báo thù, Lương cùng Tịch bỏ trốn đến đất Ngô Trung. Các kẻ hiền sĩ và đại phu ở đất Ngô Trung đều thua kém Hạng Lương. Mỗi khi ở Ngô Trung có việc làm xâu hay tang lễ, Hạng Lương thường đứng ra lo liệu. Lương lén lút dùng binh pháp để tập hợp tân khách, và trai tráng ở đấy, và nhờ đó, được biết năng lực của họ.

Tần Thuỷ Hoàng đi chơi đất Côi Kê, vượt qua Chiết Giang, Lương và Tịch cùng đi xem. Tịch nói :

– Có thể cướp và thay thế hắn ! Lương bịt miệng Tịch :

– Đừng nói bậy! Bị giết cả họ bây giờ !

Nhân việc này Lương coi Tịch là kẻ khác thường. Tịch, mình cao hơn tám thước, có sức mạnh cất nổi cái vạc (Ở trước cửa miếu của vua Hạng Vũ có cái vạc nặng không ai cất nổi, chỉ có Vũ cất được), tài năng, chí khí hơn người. Các con em ở đất Ngô Trung đều sợ Tịch (Đoạn thứ nhất giới thiệu gia thế Tịch và Lương. Tiểu sử Tịch lúc còn nhỏ, nêu bật những đặc điểm khác người của Tịch về học vấn, chí khí, sức lực).

Tháng bảy, năm thứ nhất đời Tần Nhị Thế ( – 209), bọn Trần Thiệp khởi nghĩa ở Đại Trạch (Xem Trần Thiệp thế gia). Tháng chín năm ấy, Thái thú quận Côi Kê, tên là Thông, nói với Hạng Lương :
– Dân Giang Tây (Đây là ở phía tây sông Trường Giang) đều làm phản, nay chính là lúc trời tiêu diệt nhà Tần. Tôi nghe nói : “Ai đi trước thì làm chủ người khác; ai đi sau thì bị người khác làm chủ”. Tôi muốn xuất quân, phong ông và Hoàng Sở làm tướng.

Bấy giờ Hoàn Sở đang trốn tránh trong chốn giang hồ. Lương nói :

– Hoán Sở hiện nay đang trốn tránh, chẳng ai biết ở đâu; chỉ có Tịch biết chỗ ở của ông ta mà thôi.

Lương liền đi ra, dặn Tịch cầm kiếm đứng đợi ở ngoài. Lương lại quay vào, ngồi với thái thú. Lương nói :

– Xin cho gọi Tịch vào để giao cho y mệnh lệnh triệu Hoàn Sở về. Thái thú nói :

– Phải !

Lương gọi Tịch vào. Lát sau, Lương đưa mắt ra hiệu cho Tịch, nói : – Làm được rồi đấy !

Tịch liền tuốt kiếm chém đầu thái thú. Lương tay cầm đầu thái thú, mang ấn và dây buộc ấn của thái thú lên người ( Lý do của việc giết thái thú : cướp lấy ấn để dùng nó mà hiệu triệu nhân dân, trưng tập quân). Bọn môn hạ hoảng hốt, rối loạn. Tịch giết chết ngót trăm người, cả phủ đều sợ hãi, cúi đầu không dám kháng cự. Lương liền triệu tập quan lại và hào kiệt đã quen từ trước, hiểu dụ duyên cớ khởi nghĩa rồi trưng quân ở Ngô Trung và sai người thu gọi các trai tráng ở các huyện trong phủ, được tám ngàn quân tinh nhuệ (Chuẩn bị cho đoạn cuối khi nói đến “tám nghìn con em Giang Đông). Lương cất nhắc những hào kiệt ở Ngô Trung làm các chức hiệu uý, hậu, tư mã (3). Có một người không được dùng, đến nói với Lương. Lương đáp :

Trước đây có một lễ tang, ta cắt ông làm một việc gì đấy mà ông làm không xong, vì vậy ta không dùng ông…(Ứng với câu ở đoạn 1 : Hạng Lương qua việc tang lễ làm xâu biết năng lực từng người).

Mọi người đều thán phục. Lương bèn làm thái thú Côi Kê, Tích làm ti tướng (phó tướng), chiêu hàng các huyện trong quận (Đoạn thứ 2, nói cách Tịch khởi nghĩa khác thường).

Thiệu Binh, người Quảng Lăng, theo lệnh Trần Vương (Tức Trần Thắng – xem Trần Thiệp thế gia), đi chiêu hàng đất Quảng Lăng, nhưng chưa hạ được thành. Nghe tin Trần Vương thua chạy, quân Tần sắp đến. Bình liền vượt Trường Giang, giả làm mệnh lệnh của Trần Vương, phong Lương làm thượng trụ quốc (Chức tương đương với thừa tướng) nước Sở. Bình nói :

– Đất Giang Đông đã bình định rồi ! Mau mau đem binh về hướng tây đánh quân Tần !

Hạng Lương bèn đem tám ngàn người, vượt Trường Giang đi về hướng tây. Nghe tin Trần Anh đã lấy được huyện Đông Dương, Lương liền cho sứ giả đến giảng hoà để cùng nhau đem quân đi về hướng tây.

Trần Anh nguyên là thư lại huyện Đông Dương, ngày thường ở trong huyện là người tin cẩn, được khen là bậc trung hậu đứng đắn. Những người trai tráng ở huyện Đông Dương giết quan huyện, tụ họp đến mấy nghìn người, muốn cử một người cầm đầu, nhưng không có ai xứng đáng. Họ bèn mời Trần Anh. Anh từ chối không thể làm nổi. Họ bèn ép Anh làm thủ lĩnh. Người trong huyện theo Anh đến hai vạn. Họ muốn nhân tiện lập Anh làm vương luôn, quân sĩ đầu đội mũ màu lục để cho khác với các quân khác.

Mẹ Trần Anh bảo Anh :

Từ khi về làm dâu ở nhà con đến nay, mẹ chưa hề nghe nói tổ tiên của con ngày trước đã có ai làm quan sang, nay bỗng dưng con được cái danh vọng lớn, đó là điều không may. Bây giờ chi bằng mình dựa vào người khác. Nếu công việc thành thì được phong hầu; nếu thất bại cũng dễ trốn tránh, không bị người ta vạch mặt chỉ tên.

Do đó, Anh không dám làm vương, nói với các quan lại :

Họ Hạng đời đời làm tướng, nổi tiếng ở nước Sở. Nay muốn làm việc lớn mà không có người tướng giỏi thì không xong. Chúng ta dựa vào một gia tộc có tiếng (Ứng với điều nói ở đoạn 1 : Họ Hạng đời đời làm tướng ở nước Sở) thì chắc chắc sẽ tiêu diệt được tần !

Mọi người nghe theo lời Anh, giao quân cho Hạng Lương điều khiển. Hạng Lương qua sông Hoài. Kình Bố (Kình Bố họ Anh, tức là Anh Bố, nhưng bị tội khắc chữ vào trán, nên bị gọi là Kình – xem Kình Bố liệt truyện) , Bồ tướng quân cũng đem quân theo Lương. Số quân được tất cả sáu bảy vạn, đóng ở Hạ Bì.

Bấy giờ Tần Gia đã lập Cảnh Câu làm Sở vương, đóng quân ở phía đông Bành Thành, muốn chống lại Hạng Lương.

Hạng Lương nói với người quan lại :

Trần Vương là người khởi nghĩa đầu tiên, vì chiến trận không lợi, nay không biết ở đâu. Bây giờ Tần Gia phản Trần Vương, lập Cảnh Câu, tức là phản nghịch, vô đạo! Lương bèn tiến quân đánh Tần Gia. Quân của Tần Gia thua chạy. Lương đuổi theo đến Hồ Lang, Gia quay lại đánh trong một ngày. Gia chết, quân đầu hàng. Cảnh Câu bỏ chạy, chết ở nước Lương. Sau khi đã sáp nhập thêm quân của Tần Gia, Lương đóng quân ở Hồ Lăng, định đi đến hướng tây.

Quân của Chương Hàm đến đất Lật, Hạng Lương sai biệt tướng (vị tướng chỉ huy một cánh quân riêng) là Chu Kê Thạch, Dư Phàn Quân đánh lại. Dư Phàn Quân chết, quân của Chu Kê Thạch thua, bỏ chạy đến Hồ Lăng. Hạng Lương đem quân vào đất Tiết, giết Kê Thạch.

Trước đây, Hạng Lương đã sai Hạng Vũ đi một đường khác đánh Tương Thành. Tương Thành cố sức giữ nên Vũ không hạ được. Đến khi hạ được thành, Vũ sai chôn sống tất cả dân trong thành, rồi trở về báo tin cho Hạng Lương. Hạng Lương nghe tin Trần Vương đã chết thật, bèn gọi các biệt tướng họp ở đất Tiết để bàn bạc. Bấy giờ Bái Công đã khởi binh ở đất Bái, cũng đến hội họp.

Phạm Tăng người đất Cư Sào, bảy mươi tuổi, xưa nay ở nhà, thích mưu kế lạ, đến nói với Hạng Lương :

Trần Thắng thua là phải lắm. Trong sáu nước bị Tần diệt, thì nước Sở là vô tội nhất. Từ khi vua Hoài Vương vào đất Tần rồi không về nữa, người Sở vẫn còn thương xót ông ta cho đến ngày nay (Xem Khuất Nguyên liệt truyện). Vì vậy, Sở Nam Công nói, “nước Sở dù chỉ còn ba hộ, nhưng tiêu diệt nhà Tần, chính là nước Sở.”

Nay Trần Thắng khởi sự không lập con cháu vua Sở mà tự lập làm vương thì tình thế không thể lâu dài được. Bây giờ ngài khởi nghĩa ở Giang Đông, các tướng nước Sở kéo đến theo ngài như ong về tổ, là vì nhà ngài đời đời làm tướng nước Sở, họ cho rằng ngài có thể lập lại con cháu vua Sở làm vua.

Hạng Lương cho là phải, bèn tìm người cháu của Sở Hoài Vương, tên là Tâm, chăn dê cho người ta, lập làm Sở Hoài Vương để thoả lòng mong mỏi của dân chúng.

Trần Anh làm thượng trụ quốc của nước Sở, được phong năm huyện cùng đóng đô ở đất Vu Thai với Hoài Vương, Hạng Lương tự xưng là Vũ Tín Quân.

Được mấy tháng, Lương đem quân đánh thành Cang Phủ cùng với Điền Vinh và Tư Mã Long Thư nước Tề. Lương đem quân cứu Đông A, phá tan quân Tần ở Đông A. Điền Vinh liền đem quân về đuổi vua Tề là Giả. Giả chạy trốn sang nước Sở. Tướng quốc (1) của Giả là Điền Nhàn trước kia là tướng nước Tề ở lại nước Triệu, không dám về. Điền Vinh lập con của Điền Đam, tên là Thị , làm Tề Vương. Sau khi đã đánh

phá quân Tần ở gần Đông A, Hạng Lương đuổi theo quân Tần. Lương mấy lần sai sứ giả giục Điền Vinh đem binh của nước Tề đến, để cùng kéo quân sang hướng tây. Điền Vinh nói :

Nước Sở có giết Điền Giả, nước Triệu có giết Điền Giác, Điền Nhàn thì ta mới đem quân đến.

Hạng Lương nói :

Điền Giả là vua một nước giao hiếu với ta, cùng đường phải đến đây theo ta, ta không nỡ giết.

——————

Dịch là tướng quốc cho khỏi lẫn với tướng quân. Tướng quân chỉ huy về chính trị, đường lối, còn tướng quân chỉ huy về quân sự. Hai chữ này viết khác nhau nhưng đều gọi là tướng, cho nên dịch là tướng quốc và tướng quân.

————

Nước Triệu cũng không giết Điền Giác, Điền Nhàn để mua chuộc nước Tề, cho nên Tề không chịu đem quân đến giúp nước Sở. Hạng Lương sai Bái Công và Hạng Vũ đem binh đi theo đường riêng đến Thành Dương làm cỏ quân dân trong thành. Rồi tiến quân về hướng tây, đánh phá quân Tần ở phía đông thành Bộc Dương. Quân Tần rút vào thành Bộc Dương. Bái Công và Hạng Vũ bèn đánh thành Định Đào. Chưa hạ được thành, họ liền bỏ đi, cướp đất đai ở phía tây cho đến Ung Khâu, đánh quân Tần thua to, chém Lý Do (Con của Lý Tư), rồi quay lại đánh Ngoại Hoàng, nhưng chưa hạ được.

Hạng Lương đem quân từ phía tây đất Đông A, qua hướng bắc đến Định Đào, đánh tan quân Tần lần thứ hai. Bọn Hạng Vũ giết được Lý Do, cho nên Lương càng khinh thường quân Tần và tỏ ra kiêu căng.

Tống Nghĩa bèn can Hạng Lương :

– Nếu đánh thắng mà tướng kiêu căng, quân sĩ trễ nãi thì sẽ thất bại. Nay quân sĩ đã hơi trễ nãi rồi đấy ! Quân Tần ngày càng tăng, tôi lo cho ngài !

Hạng Lương không nghe, bèn sai Tống Nghĩa đi sứ nước Tề. Giữa đường Nghĩa gặp sứ giả nước Tề là Cao Lăng Quân, tên là Hiển. Nghĩa hỏi :

Ông định yết kiến Vũ Tín Quân phải không ?

Vâng.

Tôi cho rằng Vũ Tín Quân thế nào cũng thua. Ông cứ thủng thẳng mà đi thì sẽ khỏi chết, nếu đi nhanh thì sẽ mắc tai hoạ đấy !

Tần quả nhiên đem hết quân tiếp viện cho Chương Hàm. Chương Hàm đánh quân Sở một trận tan tành ở Định Đào. Hạng Lương chết .

Bái Công ,Hạng Vũ rời bỏ Ngoại Hoàng, đến đánh huyện Trần Lưu, huyện Trần Lưu giữ vững không hạ được. Bái Công, Hạng Vũ bàn với nhau :

Bây giờ quân của Hạng Lương đã tan vỡ, sĩ tốt đều lo sợ.

Hai người bèn cùng với quân của Lữ Thần đi về hướng đông. Lữ Thần đóng quân ở phía đông Bành Thành. Hạng Vũ đóng quân ở phía tây Bành Thành, Bái Công đóng quân ở đất Đường (1).

Sau khi đã đánh bại quân của Hạng Lương. Chương Hàm cho rằng quân của nước Sở không đáng lo, nên vượt Hoàng Hà qua đánh nước Triệu, phá tan quân Triệu. Lúc bấy giờ Triệu Yết làm vua, Trần Dư làm tướng quân. Trương Nhĩ làm tướng quốc, cả ba đều chạy vào thành Cự Lộc. Chương Hàm đóng quân ở phía nam thành này, xây ,một con đường ống để chuyên chở thóc. Trần Dư làm tướng, đem vài vạn quân đóng ở phía bắc thành Cự Lộc (2), toán quân ấy gọi là quân Hà Bắc.

Quân Sở đã bị thua ở Định Đào, Hoài Vương lo sợ, từ Vu Thai đến Bành Thành, dồn cả quân của Hạng Vũ, Lũ Thần làm một, và thân hành cầm quân. Hoài Vương cho Lữ Thần làm tư đồ, cha của Thần là Lữ Thanh làm lệnh doãn, cho Bái Công làm thái thú Đường Quận, phong làm Vũ An Hầu, coi đạo quân Đường Quận.

————–

Đoạn 3 – Lai lịch Hạng Lương từ khi khởi nghĩa đến khi thất bại. Giới thiệu những nhân vật quan trọng của cuộc khởi nghĩa : Trần Anh, Phạm Tăng, Kình Bố, Bái Công. Hạng Lương vì kiêu căng nên thất bại, quân Tần từ bại chuyển thành thắng.
Trước khi quân Tần bao vây, Trần Dư đã mang quân ra ngoài thành (xem Trương Nhĩ, Trần Dư liệt truyện).

——————————

Sứ giả nước Tề là Cao Lăng Quán tên là Hiển, bấy giờ đang ở trong quân đội nước Sở. Trước đấy, Hiển có gặp Tống Nghĩa, cho nên Hiển yết kiến vua Sở và nói :

– Tống Nghĩa nói rằng quân của Vũ Tín Quân nhất định thua, vài ngày sau; quả nhiên quân ấy bị bại. Quân chưa giao chiến mà ông ta đã thấy trước cái cơ thất bại như thế, có thể gọi ông ta là người biết binh pháp.

Hoài Vương gọi Tống Nghĩa vào cùng bàn công việc. Hoài Vương rất là đẹp lòng, bèn cho y làm thượng tướng quân, Hạng Vũ làm thừa tướng, phong Lỗ Công, Phạm Tăng làm mạt tướng để cứu nước Triệu. Các biệt tướng đều ở dưới quyền Tống Nghĩa, hiệu là Khanh Tử Quán Quân. Tống Nghĩa đi đến An Dương, ở lại bốn mươi sáu ngày không tiến quân. Hạng Vũ nói :

– Tôi nghe nói quân Tần vây Triệu Vương ở Cự Lộc, ngài nên mau mau đem quân qua sông, quân Sở đánh ở bên ngoài, quân Triệu tiếp ứng ở bên trong, thì chắc chắn phá được Tần.

– Không phải thế đâu. Phàm con mòng đốt trâu thì không thể nào giết được rận chấy (Câu này có nhiều sách giải nghĩa khác nhau. Có sách giải thích : thành Cự Lộc tuy nhỏ, quân Tần không thể lấy ngay được. Có sách giải thích : Muốn lấy được Tần thì không thể chú ý Cự Lộc. Ý sau hợp hơn. Con mòng chỉ cốt đốt trâu, không có thì giờ đâu chú ý đến bọn chấy rận trên lưng trâu, cũng như Tống Nghĩa chỉ cốt đánh Tần, không có thì giờ để ý đến việc vụn vặt như Cự Lộc). Nay Tần đánh Triệu, nếu Tần đánh thắng thì quân mệt mỏi, ta lợi dụng lúc nó kiệt quệ mà đánh, nếu Tần không thắng thì ta hợp quân kéo về hướng tây, chắc chắn cướp lấy được nước Tần. Vì vậy, không gì bằng trước tiên để cho Tần và Triệu đánh nhau. Mang áo giáp dày, cầm binh khí sắc thì Nghĩa này không bằng ông, nhưng ngồi để trù tính sách lược thì ông không bằng Nghĩa (Câu này ám chỉ Hạng Vũ).

Tống Nghĩa bèn ra lệnh trong quân :

Ai mạnh như hổ, bướng như dê, tham như sói, cứng đầu không thể sai khiến được, đều chém tuốt!

Nghĩa bèn sai con là Tống Tương sang làm tướng nước Tề, thân hành tiễn y đến đất Vô Diêm, uống rượu, hội họp linh đình. Trời lạnh, mưa to, quân sĩ đều đói rét . Hạng Vũ nghĩ thầm :

Đáng lý phải cố sức đánh Tần, thế mà lại cứ dằng dai mãi không chịu đi. Nay năm đói, dân nghèo, sĩ tốt ăn rau ăn khoai, quân không có lương thực sẵn sàng. Thế mà cứ uống rượu, hội họp linh đình, không đem binh vượt Hoàng Hà để dùng lương thực nước Triệu, cùng Triệu chung sức đánh Tần. Lại còn nói “lợi dụng khi nó kiệt quệ”! Một nước mạnh như nước Tần, đánh nước Triệu là nước mới thành lập, thì nhất định là lấy đứt rồi ! Nước Triệu mất, Tần lại càng mạnh, chứ có mong gì nó kiệt quệ mà lợi dụng kia chứ ? Vả chăng, quân ta vừa bị tan tác, vua ngồi không yên chiếu, vét tất cả binh lính, lương thực trong nước, giao cho một mình tướng quân, nước nhà yên hay nguy là ở trận này. Nay không thương xót sĩ tốt, lại mưu đồ việc riêng, thật không phải hạng bầy tôi trung thành với nước (Đoạn này phản lại nhận xét của Tống Nghĩa, và chứng tỏ Hạng Vũ là người dũng mãnh, yêu sĩ tốt, nhiều mưu trí và quyết đoán trong lúc hành động).

Buổi sáng, Hạng Vũ vào hầu thượng tướng quân Tống Nghĩa, Vũ bước vào trướng chặt đầu Nghĩa, liền ra lệnh trong quân :

Tống Nghĩa mưu với Tề để phản lại nước Sở. Sở Vương ra lệnh cho Vũ giết hắn !

Bấy giờ các tướng đều sợ hãi cúi đầu không ai dám ho he. Tất cả đều nói :

Người đầu tiên lập nước Sở là gia đình tướng quân. Nay tướng quân lại giết được đứa loạn thần.

Họ bàn nhau lập Vũ làm quyền thượng tướng quân, sai người đuổi theo con của Tống Nghĩa, đến Tề thì bắt được và giết đi. Vũ sai Hoàn Sở báo với Hoài Vương. Hoài Vương nhân đó phong Vũ làm thượng tướng quân. Đương Dương Quân và Bồ Tướng Quân đều ở dưới quyền Hạng Vũ.

Sau khi giết Khanh Tử Quán Quân, uy thế của Hạng Vũ vang dội ở nước Sở, danh tiếng nổi ở khắp các chư hầu, Vũ liền sai Đương Dương Quân, Bồ Tướng Quân cầm hai vạn quân vượt Hoàng Hà đến Cự Lộc. Vì chiến sự còn ít thắng lợi, nên Trần Dư lại xin quân tiếp viện. Hạng Vũ liền đem tất cả quân vượt Hoàng Hà, bắt quân lính đều phải dìm đắm thuyền, đập vỡ nồi nấu cơm, đốt lều trại, chỉ mang lương thực trong ba ngày để tỏ rõ sĩ tốt quyết tâm liều chết, không chịu quay về. Vũ đến vây Vương Ly, gặp quân Tần, đánh chín trận, cắt đứt con đường ống, phá tan quân Tần, giết Tô Gíac, bắt sống Vương Ly. Thiệp Nhân không đầu hàng Sở, tự thiêu mình mà chết.

Bấy giờ thanh thế quân của Sở át cả quân các nước chư hầu. Quân của chư hầu đến cứu Cự Lộc đóng ở gần đó hơn mười doanh trại, nhưng không ai dám đem quân ra đánh. Đến khi Sở đánh Tần, các tướng đều đứng trên tường mà nhìn. Các chiến sĩ nước Sở ai cũng đủ sức một người chống lại mười người, tiếng reo hò của quân Sở vang trời, quân chư hầu không ai không run sợ. Do đó, sau khi đã đánh tan quân Tần, Hạng Vũ triệu tập tướng các nước chư hầu. Khi vào cửa viên môn, mọi người đều quỳ gối xuống mà đi tới, không ai dám ngẩng lên nhìn !

Vì vậy, Hạng Vũ bắt đầu làm thượng tướng quân của chư hầu, chư hầu đều ở dưới quyền Vũ (Đoạn 4 – Hành động oanh liệt của Hạng Vũ trong việc giết Tống Nghĩa, đánh tan quân Tần ở Cự Lộc. Do đó, chuyển bại thành thắng. Tác giả nhấn mạnh thái độ kiên quyết chiến đấu của Hạng Vũ và quân Sở đối lập với thái độ khiếp nhược của quân chư hầu. Tác giả nhấn mạnh mấy lần chữ “không dám…”).

Chương Hàm đóng quân ở Cúc Nguyên, Hạng Vũ đóng quân ở phía nam sông Chương. Hai bên cứ giữ thế nhau chưa giao chiến. Quân của Tần nhiều lần rút lui. Tần Nhị Thế sai người đến quở trách Chương Hàm. Chương Hàm sợ, sai trưởng sử (chức quan tương đương với chức bí thư trưởng) là Hân đi yết kiến vua Tần để tâu xin định đoạt. Hân đến Hàm Dương đợi ở cửa tư ãm (Cửa ngoài của cung đình) ba ngày. Triệu Cao (Về Triệu Cao xem Tần Thuỷ Hoàng bản kỷ) không cho yết kiến, vì y có lòng ngờ. Trưởng sử Hân sợ hãi chạy về quân mình, nhưng không dám đi theo con đường lần trước. Quả nhiên Triệu Cao cho người đuổi theo, nhưng không kịp. Hân về đến quân doanh báo rằng :

– Ở triều đình, Triệu Cao chuyên quyền, ở dưới quyền của nó không thể làm được việc gì. Nay nếu đánh mà thắng thì thế nào Cao cũng ghen ghét công lao của chúng ta; lỡ đánh không thắng thì không khỏi chết. Xin tướng quân hãy suy nghĩ cho kỹ !

Trần Dư cũng đưa thư cho Chương Hàm nói :

– Bạch Khởi làm tướng nước Tần, phía nam chinh phục Yên Sinh (Kinh đô của Sở), phía bắc chôn sống Mã Phục (Triệu Quát, con Triệu Xa được phong làm Mã Phục quân, bị Bạch Khởi giết, đồng thời chôn sống 40 vạn quân Triệu), đánh lấy thành, cướp được đất không biết bao nhiêu mà kể. Thế mà cuối cùng Tần ra lệnh cho tự sát. Mông Điềm làm tướng nước Tần, phía bắc giết quân Nhung, mở mang đất Du Trung mấy ngàn dặm, thế mà cuối cùng cũng bị chém ở Dương Châu (Sử chép : Hồ Hợi giam Mông Điềm ở Dương Châu, rồi bắt Điềm phải uống thuốc độc chết ở đó. Đây nói “chém” ở Dương Châu là có ý nói thêm). Tại sao lại như thế ? Họ lập nhiều công, nước Tần không thể cấp đất đai cho hết, cho nên tìm cách giết họ đi. Nay tướng quân làm tướng nước Tần đã ba năm nay, quân chết và bỏ trốn tính đến chục vạn người, thế mà chư hầu nổi dậy càng nhiều. Tên Triệu Cao kia mấy lâu nay vốn hay nịnh hót, lừa dối nhà vua (Nịnh dối đã lâu ngày, sợ bại lộ ra), nay việc gấp, cũng sợ Nhị Thế giết, cho nên hắn muốn tìm cách giết tướng quân để trút lỗi, rồi sai người thay thế tướng quân để tránh khỏi tai hoạ. Tướng quân ở ngoài đã lâu, ở trong triều đình có nhiều hiềm khích : có công cũng bị giết, không có công cũng bị giết. Vả chăng trời làm tiêu diệt nhà Tần, người ngu độn hay khôn ngoan ai cũng đều biết như thế. Nay tướng quân ở triều đình thì không thể lấy lời thẳng để khuyên can ở ngoài biên cương thì làm vị tướng của một nước sắp mất. Cô độc đứng một mình mà muốn tồn tại được mãi thì chẳng đáng thương lắm sao ! Tại sao tướng quân không đem quân quay lại liên hiệp với chư hầu, giao ước cùng nhau đánh Tần, chia đất Tần để làm vương, ngoảnh mặt về hướng nam để xưng “cô” (Ngày xưa thiên tử và chư hầu đều ngồi quay mặt về hướng nam để cai trị, và tự xưng mình là “cô”, với nghĩa khiêm tốn là đứa con không cha, cũng như thiên tử xưng “quả nhân”, với nghĩa khiêm tốn là người ít nhân), điều đó chẳng hơn thân bị bú rìu, vợ con bị giết hay sao ?

Chương Hàm còn do dự, bí mật sai vị quân là Thi Thành đi sứ đến Hạng Vũ, muốn cùng giao ước. Giao ước chưa xong. Hạng Vũ sai Bồ Tướng Quân ngày đêm đem quân vượt bến Tam Hộ, đóng quân ở phía nam sông Chương, đánh nhau với quân Tần, lại đánh tan quân Tần lần thứ hai (Nên rõ mưu lược của Hạng Vũ, giao ước chưa xong đã đánh; dễ thắng vì quân địch còn hoang mang, nhân đó càng làm áp lực bắt Hàm phải hàng). Hạng Vũ đem tất cả quân đánh quân Tần trên sông Vu Thuỷ, phá tan tành. Chương Hàm sai người yết kiến Hạng Vũ, muốn giao ước. Vũ triệu các quân lại bàn :

Lương ta ít, ta muốn nghe theo giao ước của y. Các quân lại đều nói :

Phải .

Hạng Vũ bèn hẹn với Hàm gặp nhau ở Ân Khư, phía nam sông Hoàn Thuỷ. Sau khi ăn thề, Chương Hàm nhìn thấy Hạng Vũ, chảy nước mắt ròng ròng, kể lại việc Triệu Cao. Hạng Vũ bèn lập Chương Hàm làm Ung Vương giữ lại ở trong quân đội của Sở, cho trưởng sử Hân làm thượng tướng quân, cầm quân Tần để đi tiên phong.

Quân của Vũ đến Tân An, tướng sĩ các nước chư hầu xưa kia làm xâu hay đi thú ở trong đất Tần đều bị tướng sĩ của Tần đối đãi với họ như là nô lệ, tù binh, tha hồ làm nhục tướng sĩ nhà Tần. Tướng sĩ nhà Tần nhiều người nói trộm với nhau :

Bọn Chương tướng quân lừa chúng ta đầu hàng chư hầu, nên bây giờ họ có thể vào cửa quan đánh nước Tần. Nếu may ra mà đánh được nhà Tần thì tốt lắm, nếu không thì chư hầu sẽ bắt chúng mình đem về đông, còn Tần thì thế nào cũng giết chết cha mẹ, vợ con ta.

Các tướng nghe mang máng việc họ bàn, đem báo lại với Hạng Vũ. Hạng Vũ liền gọi Kình Bố và Bồ Tướng Quân để bàn :

Tướng sĩ của Tần vẫn còn đông, bụng chúng không phục ta, đến Quang Trung mà chúng không theo ta thì việc lớn sẽ nguy; chi bằng giết chúng đi, chỉ giữ lại Chương Hàm, trưởng sử Hân, đô uý

Ế để cùng vào đất Tần mà thôi.

Bấy giờ quân đội Sở ban đêm đến đánh và chôn sống hơn hai mươi vạn lính Tần ở phía Nam thành Tân An . (Đoạn 5 – Kể lại Chương Hàm đầu hàng Hạng Vũ và việc Hạng Vũ chôn sống quân Tần. Từ đoạn 7 trở đi là kể việc tranh chấp giữa Hạng Vũ và Lưu Bang để làm bá chủ thiên hạ.)

6. Vũ từ Tân An ra đi, muốn bình định được đất Tần, nhưng cửa Hàm Cốc có binh giữ cửa ải, Vũ không vào được (1). Lại nghe tin Bái Công đã phá Hàm Dương. Hạng Vũ nổi giận, sai bọn Đương Dương Quân đánh cửa ải. Hạng Vũ bèn vào đến phía tây sông Hí Thuỷ.

Bái Công đóng quân ở Bá Thượng, chưa có dịp gặp Hạng Vũ. Quan tả tư mã của Bái Công là Tào Vô Thương sai người đến nói với Hạng Vũ :

Bái Công muốn làm vua ở Quan Trung, cho Tử Anh làm tướng quốc, lấy hết của cải châu báu.

Hạng Vũ nổi giận nói :

– Ngày mai cho quân sĩ ăn no, để đánh quân của Bái Công!

Lúc bấy giờ, quân Hạng Vũ bốn mươi vạn đóng ở Hồng Môn huyện Tân Phong. Quân của Bái Công mười vạn, đóng ở Bá Thượng. Phạm Tăng nói với Hạng Vũ :

Khi Bái Công ở Sơn Đông thì tham của cải, thích gái đẹp. Nay vào Quan Trung, ông ta không lấy của cải gì (2), không thân cận đàn bà con gái, điều đó chứng tỏ chí của ông ta không vừa ! Tôi sai người xem khí mây nơi ông ta ở, thì đều là khí long hổ thành năm sắc (3), chính là khí tượng thiên tử đấy, phải đánh gấp chớ có bỏ qua.

—————

Trong thời gian Hạng Vũ đem quân đến Cự Lộc. Bái Công vâng lệnh Sở Hoài Vương đã đem binh lấy nước Tần, cho người canh giữ Hàm Cốc Quan (xem Cao Tổ bản kỷ).

Nhận xét này của Phạm Tăng chứng tỏ lời của Tào Vô Thương là bịa đặt. Tham vọng của Bái Công to hơn thế nhiều.

Theo mê tín đời xưa, đế vương ở đâu, thì ở đấy có mây ngũ sắc phủ trên trời.——–

———————-

Quan tả doãn nước Sở là Hạng Bá, chú của Hạng Vũ, vốn quen thân Lưu hầu là Trương Lương. Lúc bấy giờ Trương Lương theo Bái Công, Hạng Bá bèn đang đêm ruỗi ngựa đến quân doanh Bái Công, gặp riêng Trương Lương , báo cho Lương biết đầu đuôi câu chuyện, muốn gọi Trương Lương cùng đi với mình cho thoát nạn. Hạng Bá bèn bảo Lương rằng :

– Chớ có theo mà bị chết cả đấy ! Trương Lương nói :

– Tôi vì vua Hàn mà theo Bái Công, nay Bái Công có việc nguy cấp, bỏ trốn đi là bất nghĩa, không thể không nói với ông ta.

Lương bèn đi vào kể đầu đuôi cho Bái Công nghe. Bái Công hoảng sợ nói :

Làm thế nào bây giờ ? Trương Lương hỏi :

Kẻ nào bày kế cho đại vương ? Bái Công nói :

Cái thằng tiểu nhân ấy bảo ta rằng, “Giữ lấy Hàm Cốc Quan, không cho quân của chư hầu vào, thì có thể làm vương trên toàn đất Tần”, vì vậy, ta nghe lời hắn!

Trương Lương nói :

Đại vương thử liệu xem sĩ tốt có đủ để chống lại Hạng Vương không ?

Cố nhiên là không bằng! Làm sao bây giờ ? Trương Lương nói :

Thần xin đến nói với Hạng Bá rằng, Bái Công không dám phản Hạng Vương.

Nhà ngươi với Hạng Bá quen nhau à ?

Trong thời nhà Tần, Hạng Bá chơi với thần, ông ta giết người, thần cứu sống; cho nên ngày nay gặp việc nguy cấp, ông ta đến đây báo cho thần biết.

Ông ta với nhà ngươi, ai lớn tuổi hơn ?

Ông ta lớn tuổi hơn thần.

Nhà ngươi hãy thay mặt ta mời ông ta vào, ta sẽ đãi ông ta là bậc anh.

Trương Lương đi ra mời Hạng Bá. Hạng Bá liền vào yết kiến Bái Công. Bái Công bưng chén rượu chúc thọ, hẹn làm thông gia, Bái Công nói :

Tôi vào Hàm Cốc Quan, tơ hào không dám động, ghi danh sách quan lại và dân chúng vào sổ, niêm phong các kho tàng để đợi tướng quân. Tôi sai tướng giữ cửa ải chỉ là đề phòng trộm cướp ra vào, và những việc bất trắc mà thôi. Ngày đêm mong tướng quân đến, chứ tôi đâu dám làm phản! Xin ông nói lại với tướng quân rằng, tôi đâu dám vong ân bội nghĩa !

Hạng Bá nhận lời, nói với Bái Công :

Ngày mai thế nào ông cũng phải đến sớm mà xin lỗi Hạng Vương! Bái Công nói : “Vâng”.

Hạng Bá liền ra đi trong đêm ấy. Về đến quân doanh, Bá đem những lời nói của Bái Công báo lại với Hạng Vũ, nhân tiện nói :

Nếu Bái Công không phá Quan Trung trước thì đại vương có dám vào không ? Người ta có công lớn mà mình lại đánh là bất nghĩa, chi bằng đối đãi với họ cho tử tế! Hạng Vương cho là phải.

Sáng hôm sau, Bái Công mang theo một trăm kỵ binh đến yết kiến Hạng Vương. Bái Công đến Hồng Môn xin lỗi :

Tôi và tướng quân đều hết sức đánh Tần. Tướng quân đánh ở Hà Bắc, tôi đánh ở Hà Nam, không ngờ tôi vào Hàm Cốc Quan trước, đánh phá nhà Tần, lại được gặp tướng quân ở đây. Nay vì lời nói của kẻ tiểu nhân nên tướng quân với tôi có hiềm khích !

Hạng Vũ nói :

Đó là quan tả tư mã của Bái Công là Tào Vô Thương nói đấy (1). Nếu không thì Tịch đây làm như thế làm gì!

Hôm ấy Hạng Vương giữ Bái Công ở lại uống rượu. Hạng Vũ và Hạng Bá ngồi quay mặt về hướng nam, Bái Công ngồi quay mặt về hướng bắc, Trương Lương chầu quay mặt về hướng tây (2).

Phạm Tăng đưa mắt nhìn Hạng Vương, đưa cái vòng ngọc quyết (3) ra hiệu, như thế ba lần. Nhưng Hạng Vương vẫn im lặng không để ý. Phạm Tăng đứng dậy ra đi, gọi Hạng Trang đến bảo :

Quân Vương là người bất nhẫn ! Anh phải vào chúc thọ! Chúc thọ xong xin múa kiếm, nhân đó đâm Bái Công ở chỗ ngồi và giết đi. Nếu không, tất cả bọn anh đều bị ông ta bắt cầm tù cả đấy.

Hạng Trang liền vào chúc thọ. Chúc thọ xong, Hạng Trang nói :

Quân Vương và Bái Công uống rượu, trong quân doanh không có gì làm vui, tôi xin múa kiếm.

Hạng Vương nói :

Được !

———————–

Hạng Vũ lỡ lời.

Tác giả lưu ý đến cách ngồi của bốn người, đoạn này miêu tả hết sức sinh động, cử chỉ, nét mặt, tiếng nói, tất cả đều rất ngắn, nhưng rất điển hình.

Ngọc quyết là vòng ngọc đeo bên mình. Ở đây chữ “quyết” trong ngọc quyết đồng âm với chữ quyết trong “quyết định”. Ý Tăng bảo Vũ phải quyết định ngay.

——————————-

Hạng Trang tuốt kiếm, đứng dậy múa. Hạng Bá cũng tuốt kiếm đứng dậy múa, luôn luôn lấy thân mình che cho Bái Công nên Trang không đâm được. Trương Lương bèn ra đến cửa tìm Phàn Khoái. Phàn Khoái hỏi :

– Việc hôm nay ra sao ? Trương Lương nói :

– Nguy cấp lắm! Hiện nay Hạng Trang tuốt kiếm đang múa, xem hắn cốt nhằm Bái Công mà đâm.

Phàn Khoái nói :

– Như thế thì gấp quá rồi ! Tôi xin vào cùng liều chết.

Khoái liền mang kiếm, cắp khiên bước vào cửa viên môn. Vệ sĩ cầm giáo chéo nhau muốn cản không cho vào. Phàn Khoái cầm ngang cái khiên mà gạt vệ sĩ ngã lăn ra đất. Khoái liền vào, vén màn đứng quay mặt về hướng tây (tức là đối diện với Hạng Vũ), trợn mắt nhìn Hạng Vũ, khoé mắt rách toác! Hạng Vương chống kiếm quỳ nhổm dậy (có ý giữ thế thủ) mà hỏi :

– Ông khách làm gì thế ? Trương Lương nói :

Đó là Phàn Khoái, người tham thặng (người ngồi cùng một xe để hộ vệ ) của Bái Công.

Hạng Vũ nói :

Tráng sĩ ! Cho tráng sĩ chén rượu.

Liền cho Khoái một chén rượu. Khoái lạy tạ đứng lên mà uống.

– Cho ông ta một vai lợn!

Lại cho Khoái một vai lợn sống, Khoái đặt cái khiên xuống đất, đặt vai lợn lên trên, tuốt kiếm xẻo thịt lợn mà nhai (Tất cả bốn động tác trong một câu. Cách ăn thịt lợn thật đặc sắc.)

Hạng Vương nói :

Tráng sĩ có uống được rượu nữa không ? Phàn Khoái nói :

Thần chết còn chả tránh, dám đâu từ chối chén rượu. Vua Tần lòng lang dạ thú giết người nhiều không kể xiết, trị tội người như sợ không kịp. Thiên hạ đều nổi dậy làm phản. Vua Hoài Vương có giao ước với các tướng, “Ai phá được Tần, vào Hàm Dương thì phong vương”. Ngày nay Bái Công là người đầu tiên phá được Tần, vào Hàm Dương, tơ hào không dám phạm, niêm phong các cung thất, đem quân về đóng ở Bá Thượng để chờ đại vương đến. Bái Công sai tướng giữ cửa ải là chỉ để đề phòng bọn trộm cướp ra vào, và những việc bất trắc mà thôi. Bái Công khó nhọc mà công to như vậy, nhưng vẫn chưa được phong thưởng gì ! Nay đại vương nghe lời bọn tiểu nhân, muốn giết kẻ có công ,tức là noi theo đường lối nhà Tần đã mất ! Tôi trộm nghĩ đại vương không nên làm như vậy!

Hạng Vương chưa biết lấy câu gì đáp lại, bảo :

Ngồi xuống !

Phàn Khoái ngồi bên cạnh Trương Lương. Một lát, Bái Công đứng dậy đi ra ngoài.

Nhân đó gọi Phàn Khoái ra. Hạng Vương sai đô uý là Trần Bình mời Bái Công vào.

Bái Công nói :

Nay ta ra đi, chưa có lời từ biệt, làm thế nào bây giờ ? Phàn Khoái nói :

Làm việc lớn thì không để ý đến những điều vụn vặt; làm lễ lớn không câu nệ những điều nhỏ. Nay người ta là dao, là thớt, ta là cá, là thịt, từ biệt làm gì ?


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.