Sự trả thù ngọt ngào

Chương 6



Hồi bé, Hầu tước Staunton luôn có một cảm giác lạ lùng rằng mái vòm phía trên cao sảnh lớn sẽ dồn trọng lượng của nó lên vai anh ngay khi anh bước vào cửa, gần giống như cả vũ trụ đè nặng lên vai thần Atlas. Tám năm sau khi xa nhà và sống đời tự do, anh lại trải qua đúng cảm giác ấy ngay khi bước qua ngưỡng cửa và đứng dưới mái vòm.

Đó là một cảm giác nặng nề và u ám. Lại là những con người ấy, những con người vẫn ám ảnh anh trong mỗi cơn ác mộng. Họ vẫn ở đó, chờ sẵn để lại kéo anh vào, lôi anh xuống cho đến khi anh hớp hớp không khí, chìm trong nước và biết mình đã tận số. Anh rất mừng vì đã mang một cô vợ về cùng, vì anh đã có những kế sách hữu hiệu để chống lại sức ảnh hưởng tinh vi của họ. Và tất cả bọn họ đều ở đó, anh nhìn thấy họ qua một cái liếc mắt.

Không một ai trong số họ từng tới London trong tám năm anh sống ở đấy. Đó là một sự thật kỳ lạ khi tính đến địa xã hội và tuổi tác trưởng thành của bọn họ, trừ người nhỏ tuổi nhất. Đó là cách nhắc nhở lạnh lùng về quyền lực của Công tước Withingsby đối với gia đình ông. Đứa con trai cả và là người thừa kế của ông đã bỏ đi mà không được sự cho phép của ông. Đám con ông sẽ không một đứa nào được gặp nó để tránh ảnh hưởng xấu từ nó. Ngay cả Twynham cũng phải chịu lép dưới bàn tay Công tước. Anh tang Marianne tới thành phố hoặc thậm chí đến đó một mình, theo như Hầu tước biết. Anh chưa từng gặp chồng của em gái mình.

Và thế là khi rời bỏ ông bố thì anh cũng bị cắt đứt với cả gia đình, kể cả đứa em còn nằm nôi. Đó là sự lựa chọn anh buộc phải đưa ra – sự lựa chọn đã gần như giết chết anh. Anh đã bỏ lại sau lưng một đứa em mới sinh và Charles mười hai tuổi. Anh nhìn thấy con bé trong đám người im lìm sau lưng Công tước. Hẳn con bé là đứa trẻ sơ sinh ngày xưa. Và người thanh niên còn rất trẻ hẳn là Charles. Anh gắng không nhớ lại đã bao lần anh tự giày vò bản thân, nhất là trong mấy năm đầu, với nỗi băn khoăn là mình có hèn nhát không khi bỏ chúng lại. Và bao lần anh bị nỗi nhớ da diết hành hạ, bào mòn tâm trí.

Trông cha anh không già đi lấy một ngày so với hồi xưa, mặc dù sắc da xanh xám chứng tỏ ông đã không nói dối về sức khỏe sa sút của mình.

Tất cả những điều này Hầu tước thấy và cảm nhận được ngay những giây đầu tiên bước qua ngưỡng cửa vào sảnh lớn. Trong thời khắc đó, anh gần như bị một cảm giác bất thường chôn vùi. Anh đã tự rèn luyện bản thân trớ thành vô cảm. Và thề có Chúa, bây giờ anh sẽ sử dụng kết quả rèn luyện đó vào lúc cần nó nhất. Anh ném một cái nhìn nhạo báng vào hàng ngũ lặng phắc của đám gia nhân ăn mặc cực kì tề chỉnh trước khi băng qua sảnh và bắt đầu trò chơi trí não với cuộc sum họp gia đình này.

Không có gì làm anh bất ngờ. Cha anh nghênh đón con trai với sự khoa trương lạnh lùng như thể không có chuyện anh đã rời nhà ra đi trong cay đắng và sống tự lập trong tám năm. Và – cũng nằm trong dự liệu của anh – cha anh đón nhận tin tức cuộc hôn nhân của anh mà không có một chút thất thần, hay xúc động thoáng qua. Ông làm quen với cô con dâu mới bằng cử chỉ nhã nhặn lạnh lùng. Những người còn lại cũng thế. Tuy nhiên, Hầu tước thấy mừng vì tính hình thức này. Không có nó, anh không biết làm cách nào để nhìn vào mắt William, hay Claudia, và mở miệng nói chuyện với hai người đó. Anh đã thấy, gần như trước khi bước qua cửa, trước khi trông thấy cha anh, rằng hai vợ chồng họ ở đó, đứng sát bên nhau, rằng Claudia xinh đẹp hơn bao giờ hết.

Anh cảm thấy thỏa mãn vô bờ – thậm chí hơn cả mong đợi – khi giới thiệu vợ mình. Để thưởng thức vẻ bàng hoàng ngây dại của cha mình. Để cho bọn họ thấy cuối cùng anh đã kết hôn vì ý thích riêng, rằng anh cóc quan tâm đến những lý do về triều đại. Đến giây phút này Hầu tước mới nhận ra anh đã đúng khi chọn một cô dâu như vậy và cưới cô ta trước kh về nhà.

Và rồi khoảnh khắc quyết định đã đến. Ngay khi sắp được bà quản gia đưa đi, vợ anh chợt mỉm cười. Không, cô không chí mỉm cười – cô thắp sáng cả gian sảnh bằng vẻ ấm áp của mình và bất chấp bộ đồ ảm đạm dễ sợ, trông cô đáng yêu đến sửng sốt. Và cô gọi ông ta là Cha. Đó là khoảnh khắc vô giá. Chưa một ai từng dám gần gũi với Công tước Withingsby. Không có lấy một sự thô tục dù nhỏ nhất trong nụ cười cũng như lời nói của cô. Chúng chỉ bị đặt nhầm vào ngôi nhà này và biến thành chướng tai gai mắt.

Và thế là một ý tưởng chợt nảy ra trong đầu, anh liền gọi cô là ‘em yêu’ – một từ rõ ràng là thô tục trong vốn từ của ngài Công tước. Anh đã được trải nghiệm khoảnh khắc chiến thắng tuyệt vời, vượt xa tất cả những gì anh mơ ước.

Staunton vào thư viện nhưng không đứng ngay gần cửa, ra dáng phục tùng với ngài Công tước đang ngồi đối diện, bên kia chiếc bàn gỗ sồi to rộng như anh vẫn luôn làm thế mỗi khi được gọi tới. Không, anh sẽ không bao giờ đứng ở đó nữa. Anh băng qua phòng tới cửa sổ và nhìn ra ngoài mặt hồ.

“Ngài có khỏe không?” Anh hỏi. Cha anh không ốm mòn trên giường bệnh, nhưng rõ ràng sức khỏe ông không tốt.

Ông bỏ qua câu hỏi. “Anh mới kết hôn,” ông nói. Đó không phải một câu hỏi. Hầu tước không hề nghi ngờ việc cha anh biết rõ nhất cử nhất động của anh trong tám năm qua, cho dù họ không trao đổi tới một lá thư – ngoài lá thư triệu anh về nhà.

“Ngày hôm qua,” anh nói. “Đêm qua là đêm tân hôn, anh thêm vào, đột ngột vui mừng vì có thể nói ra chuyện đó một cách thành thực. Cho dù anh đã định kết hôn mà không có đêm tân hôn.

“Cô ta là ai?” Công tước hỏi.

“Cô ấy là Charity Duncan, một người có dòng dõi ở Hampshire,” Hầu tước nói. “Cô ấy kiếm sống bằng nghề gia sư trước khi kết hôn với tôi.”

“Ta cho rằng,” Công tước nói, “anh bị mê mụ bởi đôi mắt xanh cùng nụ cười quyến rũ và thái độ hỗn xược trơ tráo đó.”

Quyến rũ? Hỗn xược trơ tráo? Con chuột nhỏ lặng lẽ của anh ư? Môi Staunton nhếch lên nhưng anh không nói gì. Cha anh sẽ sớm nhận ra lời nhận xét ban đầu của ông dành cho cô con dâu sai lệch tới đâu, nhưng cũng chẳng có hại gì nếu cô mỉm cười thường xuyên hơn. Anh quay khỏi cửa sổ và nhìn vào Công tước, người đang ngồi, như thường lệ, đằng sau bàn, từ vị trí uy thế ấy ông đã đưa ra những phán xét lạnh lùng đối với gia nhân cũng như đám con cái từ tháng ngày xa xưa nhất anh có thể nhớ. Và không có lấy một chút yêu thương.

“Tôi đã cưới cô ấy,” anh bình thản nói, “theo sự lựa chọn của tôi, thưa ngài. Tôi đã qua tuổi trưởng thành từ bảy năm trước rồi.”

“Anh đã cưới cô ta,” Công tước nói, “bất chấp ta, bất chấp tất cả những gì anh được dạy dỗ. Anh đã cưới một phụ nữ cố giữ vẻ trâm anh trong cảnh sa sút và cung cách có vấn đề. Ta dám chắc rằng cô ta đã được lựa chọn kỹ càng.”

“Đúng thế, thưa ngài,” con trai ông nói, cảm giác chiến thắng dâng lên trong anh. “Bởi tình yêu.”

Đó là điều anh không định thốt ra, điều anh thậm chí chưa từng nghĩ sẽ tuyên bố, vì tình yêu – trong mọi biểu hiện của nó – là thứ cảm xúc khiến anh rùng mình ghê sợ. Nhưng ý nghĩ ấy đã nảy ra với anh khi cô làm gia đình anh sửng sốt bằng một câu nói và một nụ cười ngời sáng. Đó là một ý hay. Các đời Công tước Withingsby và người thừa kế của họ chẳng bao giờ kết hôn vì tình yêu, nhất là với những phụ nữ quý tộc nghèo. Ý nghĩ đứa con thừa kế của mình dại dột tới mức dính vào yêu đương – một hành động tột cùng thô bỉ – sẽ giáng một đòn nặng vào cha anh.

“Ngày mai Bá tước Tillden sẽ tới đây cùng với phu nhân và con gái,” Công tước nói. “Họ tới để tiến hành lễ đính hôn giữa tiểu thư Marie Lucas và con trai cả của ta. Sẽ có một vũ hội mừng lễ đính hôn vào tối hôm sau. Anh sẽ giải thích với họ ra sao, Staunton?”

“Tôi nghĩ rằng, thưa ngài,” Hầu tước đáp, “tôi không có gì phải giải thích hết.”

“Anh biết rõ sự kết giao này đã được đồng ý từ mười bảy năm trước,” Công tước nói. “Và nếu anh có quên, thì bức thư ta gửi đây hai tuần ắt sẽ nhắc nhở anh, bức thư anh đã nhận trước khi quen với nữ Hầu tước hiện giờ, ta dám chắc thế. Rất có thể Tillden sẽ cho là anh vi phạm giao ước.”

“Nếu có một bản giao ước tồn tại,” con trai ông lạnh nhạt đáp, “thì nó không có chữ ký của tôi, thưa ngài. Nếu sự đồng ý là ngoài miệng, thì nó không thông qua giọng nói của tôi. Bản giao ước ấy không liên quan đến tôi.”

“Cô gái trẻ đã lớn lên với ước mong một ngày nào đó trở thành nữ Công tước Withingsby,” Công tước nói, “sẽ bị nhục nhã ê chề.”

“Tôi không tham gia vụ nhen lên những hy vọng cho cô ta.” Hầu tước nói. “Và tôi nghĩ hẳn là ngài đồng ý, thưa ngài, rằng cuộc trò chuyện này thật vô nghĩa. Tôi đã kết hôn. Lễ cưới đã được tiến hành, những người tham gia đã ký tên và chứng nhận, và sự kết hợp đã được hoàn tất.”

Cha anh nhìn anh lạnh lùng và vô cảm. Đó là giây phút chiến thắng huy hoàng của con trai ông, người đang nhìn lại ông.

“Hy vọng rằng,” cuối cùng Công tước lên tiếng, “anh biết cách phục sức cho vợ mình, Staunton. Trang phục cô ta đã mặc để đi đường sẽ biến mất không chút dấu vết sau hôm nay, ta tin là thế. Ta cảm thấy rất rõ là bà quản gia đã nhầm vợ anh với một cô hầu.”

Ra đó là lý do cô vẫn đứng ở cửa khi anh quay lại định giới thiệu cô với cha anh? Hầu tước cười thầm.

“Tôi cảm mến vợ tôi bởi con người cô ấy,” anh nói. “Tôi không quan tâm váy áo của cô ấy ra sao.”

“Một thái độ bậy bạ khi mà vẻ ngoài của vợ anh phản ánh địa vị trong xã hội của anh,” Công tước nói. “Nếu cô ta vẫn xuất hiện y như lúc mới tới, thì cô ta khó mà chiếm được một chỗ trong nhà bếp.”

“Là cha tôi và là chủ nhà,” Hầu tước nói, sự cứng rắn và lạnh lùng trong giọng anh khá mâu thuẫn với niềm thỏa mãn bí mật của anh, “ngài có quyền nói thế, thưa ngài. Tuy nhiên, tôi sẵn lòng tranh cãi vấn đề này với bất cứ ai khác cảm thấy phải thốt ra những ý kiến tương tự.

Cô ấy có những gì trong cái rương bé tẹo đó vậy? Hầu tước tự hỏi.

“Chắc anh muốn lên gác trước khi xuống phòng khách dùng trà,” Công tước nói, “và hộ tống phu nhân Staunton xuống. Anh không nên xuống muộn. Và hãy chỉ cho phu nhân của anh biết phải xưng hô với ta ra sao, Staunton.”

Con trai ông đứng nhìn ông hàng mấy giây trước khi đi ra cửa mà không nói một lời. Anh vẫn nhớ hồi còn bé anh đã tôn thờ cha thế nào, người anh hiếm khi được gặp, anh đã nuốt lấy từng lời nhận xét về sự giống nhau giữa anh và cha ra sao, cả tuổi thơ của anh dường như được định hướng bởi khao khát làm cho cha hài lòng, để ganh đua cho bằng ông, để làm một người thừa kế xứng đáng của ông. Chao ôi, những nỗ lực của anh đã bị làm ngơ. Thế nhưng mỗi một thất bại trong học tập, mỗi một trò nghịch ngợm trẻ con, mỗi một trận cãi nhau vặt với đứa em đều đưa anh đến căn phòng này cho một buổi thẩm vấn hay một bài răn dạy. Anh đứng trước cái bàn đó, biết rằng đến cuối cùng sẽ được lệnh úp mặt xuống bàn, để nhận một trận đòn đau và chưa bao giờ kết chúc nhanh.

Anh không đếm được số lần bị cha đánh. Anh cũng không bao giờ đếm được số lần cha thể hiện tình yêu mến với anh vì chúng không tồn tại.

Có lẽ anh sẽ tha thứ cho sự khắc nghiệt của cha đối với mình. Nhưng Công tước không có tình cảm với bất cứ ai – ngay cả với vợ ông, người đã sinh cho ông mười ba đứa con và đã sảy thai bốn đứa khác. Ông chỉ tỏ ra sốt ruột và cáu bẳn khi đứa con trai cả gắng thuyết phục ông hãy đến xem đứa con gái út của ông vừa chào đời – và khi nữ Công tước qua đời.

Đó là một trong những lý do khiến anh bỏ nhà ra đi.

Dần dần anh tiến tới căm ghét sự giống nhau giữa mình và cha – ở vẻ ngoài, và quan trọng hơn, ở cả bên trong. Rồi anh căm ghét luôn cả bản thân, cho đến khi anh tự giải thoát cho mình. Giờ anh đã tự do. Anh đã trở về khi được gọi, nhưng anh trở về với những giá trị của anh. Công tước không còn bất kỳ quyền lực nào với anh nữa.

Nhưng quỷ tha ma bắt, Hầu tước nghĩ khi đi hai bước một lên cầu thang về phòng mình, cái mái vòm lại đang đè lên vai anh rồi.

Dãy buồng anh đã ở từ lúc anh rời phòng trẻ cho đến lúc rời khỏi nhà lại được chuẩn bị cho anh. Hẳn chúng vẫn được giữ cho anh suốt thời gian qua, anh nghĩ. Lời tuyên bố rằng anh sẽ ra đi, không bao giờ trở lại, đã bị coi nhẹ – và đúng là, anh đã lại về đây. Anh những tưởng dãy buồng ấy sẽ dành cho William và Claudia. Nhưng có vẻ là không. Hẳn hai người họ ở trong dãy buồng nào đấy nhỏ hơn.

Anh tìm thấy vợ mình trong gian tiếp khách riêng. Cô đang đứng trước cửa sổ, nhìn ra ngoài, nhưng cô ngoái đầu lại ngay lúc anh vừa mở cửa. Gian phòng nơi anh chưa từng sử dụng nom ấm áp kỳ lạ, đầy sức sống và nữ tính, anh nghĩ, mặc dù không có gì thay đổi ngoại trừ có cô đang đứng đó. Nó là một căn phòng của phụ nữ, anh nhận ra, hoặc một căn phòng cần sự hiện diện của phụ nữ.

Thật kỳ lạ khi có một phụ nữ – một người vợ – trong dãy buồng quen thuộc này.

Lần đầu tiên kể từ lúc anh gặp cô, cô không mặc màu nâu. Cô đã thay sang một chiếc váy dài chiết eo cao bằng vải muslin thêu hoa. Trông nó đã bạc màu do nhiều lần giặt giũ. Tóc cô chải đơn giản và búi gọn phía sau. Nó sáng màu hơn so với anh nghĩ lúc ban đầu. Trông cô, anh nghĩ, giống người họ hàng nghèo của một ai đó, một người họ hàng rất nghèo. Cô cũng trẻ trung và xinh xắn đến ngạc nhiên, với thân hình thon thả khá lôi cuốn, như anh nhớ rõ khi khám phá nó đêm hôm trước.

“Khung cảnh thật tuyệt vời,” cô nói.

“Phải,” anh băng qua phòng đến đứng cạnh cô. Không hiểu sao anh luôn thấy ngôi nhà làm mình bức bối. Ở bên ngoài anh mới thấy tự do – hoặc ảo ảnh của tự do. Ánh tà dương hắt xuống mặt hồ, biến nó thành màu vàng óng. Khu rừng phía xa – vốn là sân chơi và vùng đất yêu thích thời niên thiếu của anh – âm u và mời gọi.

“Ngài rất giống cha ngài.” Cô đang nhìn nét mặt anh hơn là nhìn ra ngoài cửa sổ.

“Phải,” quai hàm anh nghiến lại.

“Và ngài ghét phải giống ông ấy,” cô nói nhỏ nhẹ. “Em xin lỗi vì đã nói thẳng.”

Anh không thích những thấu hiểu của cô, những cố gắng đọc tính cách và tâm trí anh của cô. Anh không chia sẻ tâm sự với bất cứ ai, kể cả bạn thân nhất – cô phải hiểu là cô không có đặc quyền của một người vợ là thăm dò mọi ngóc ngách trong cuộc sống của anh – điều đó thật ghê tởm. Cô phải được nhắc nhở rằng giữa họ thuần túy là giao dịch.

“Tôi cưới em và đưa em về đây, như em biết rõ,” anh nói, quay sang nhìn cô – cô nhìn lại anh rất thẳng thắn bằng đôi mắt xanh tuyệt đẹp của mình, “để chứng tỏ với ông ta rằng tôi sống cuộc sống của tôi theo cách của tôi. Không ai được phép điều khiển cuộc đời tôi thay tôi và không ai được mời vào xâm phạm sự riêng tư của tôi. Tôi là người thừa kế tước hiệu Công tước Withingsby – không gì ngoài cái chết của tôi thay đổi được điều đó. Nhưng ngoài sự thật chủ yếu ấy ra, tôi là chính mình. Em là bằng chứng tôi mang theo để chứng tỏ tôi sẽ không làm bất cứ điều gì chỉ vì tôi là người thừa kế.”

“Ngài không có can đảm nói với cha điều đó?” Cô hỏi.

“Phu nhân,” anh nói, “em thật xấc xược.”

Cô mở miệng định nói nhưng lại ngậm vào. Nhưng cô không rời mắt khỏi anh. Cô nhìn anh bằng đôi mắt to. Staunton có cảm giác kỳ cục rằng nếu anh nhìn sâu vào trong chúng, anh sẽ thấy tâm hồn cô. Nếu cô cứ giữ đôi mắt mở to như thế, anh nghĩ với chút bực bội, thì sớm muộn gì cuộc đời cũng sẽ làm cô tổn thương sâu sắc.

“Em đã diễn vai của mình rất đạt,” anh nói. “Em hãy tiếp tục như lúc bắt đầu. Em không cần phải xấu hổ vì không có một tủ áo thời trang, cũng không cần xấu hổ vì không biết cách nói chuyện – gia đình tôi không dễ trò chuyện đâu. Chúng ta phải xuống phồng khách ngay bây giờ. Em có thể ở gần tôi và cứ để việc trò chuyện cho tôi. Em không bắt buộc phải gây ấn tượng với bất cứ ai.”

Cô khẽ mỉm cười với anh. “Augusta hẳn còn rất nhỏ lúc ngài ra đi,” cô nói.

“Con bé được một tuần tuổi,” anh nói. “Tôi ở lại vì đám tang mẹ tôi.” Ông ta không nhỏ lấy một giọt nước mắt cho mẹ anh. Anh đã khóc trong đau đớn, với đứa bé trên tay, ngay trước lúc ra đi. Đó là lần cuối cùng anh rơi nước mắt.

“À,” vợ anh khẽ nói, và anh thề là cô đã xâm nhập vào tâm trí anh lần nữa và biết được anh đã khóc cho sợi dây tình cảm cuối cùng của mình, cho sự ngu ngốc cuối cùng của mình.

Anh sẽ không cho cô vào trong đầu – hay bất cứ nơi nào trong anh nữa.

“Chuyện của chúng ta diễn ra rất nhanh,” anh bảo cô. “Em là gia sư trong nhà một người quen của tôi. Tôi đã gặp em ở đó, chúng ta yêu nhau, và chúng ta vứt bỏ mọi sự cẩn trọng. Chúng ta đã kết hôn ngày hôm qua, động phòng đêm hôm qua, và hôm nay đang chìm đắm trong hạnh phúc.”

Cô đỏ mặt và trong khoảnh khắc nhìn lảng đi nơi khác. Nhưng rồi cô nhìn lại anh khá bình tĩnh. “Vậy thì, thưa ngài “ cô nói, “ngài phải biết cách mỉm cười.”

Anh nhướng mày.

“Trông ngài,” cô nói, ánh mắt lang thang trên gương mặt anh, “giống như một người đàn ông vừa cưới một người xa lạ với mục đích duy nhất là làm cho ai đó tức giận và ghê tởm. Như người đang đắm mình trong một chiến thắng không vui vẻ chút nào.”

Mắt Staunton nheo lại. Anh tự hỏi cuộc phỏng vấn ngắn ngủi hai hôm trước liệu đã đủ để biết về tính cách cô hay chưa. Nhưng có lẽ cô có quan điểm riêng, anh buộc phải thừa nhận như vậy.

“Em sẽ có những nụ cười của em,” anh nói. “Nhưng là ở dưới nhà, nơi chúng sẽ được những người khác nhìn thấy. Chúng ta không cần đến chúng khi chỉ có hai ta với nhau.”

“Vâng,” cô nói.

“Hãy khoác tay tôi,” anh đưa tay ra. “Chúng ta bị muộn rồi. Ông ta không khoan dung cho sự chậm trễ đâu.”

“Đó là lý do chúng ta cứ đứng ở đây nói chuyện thay vì sẽ xuống đó ngay lập tức phải không?” Cô hỏi anh. Có một vẻ rất giống sự hớn hở trong đôi mắt cô.

Nhưng anh chỉ chờ cô khoác lấy cánh tay anh.

***

Cả nhà Công tước Withingsby đã từ ngoài sảnh đi thẳng vào phòng khách. Mặc dù tiết trời đẹp có thể dụ dỗ một số người ra ngoài đi dạo cho đến giờ dùng trà, song mọi người đều có một mong muốn không nói ra là ở lại với nhau và ở ngoài tầm tai của đám gia nhân.

“Tôi đã đoán trước,” William Earheart là người đầu tiên lên tiếng sau khi cánh cửa đóng lại, “khi Staunton ngoan ngoãn đồng ý về Enfield chỉ cách một tuần sau khi Công tước gửi thư, thì anh ấy ắt sẽ giấu một hoặc hai mánh lới trong tay áo. Nếu ý kiến của tôi được coi trọng thì tôi đã khuyên ông ấy đừng viết bức thư đó rồi.”

“Ôi, William,” vợ anh nói đầy quở trách, buông cánh tay anh ra và đặt hai tay lên vai Augusta, “anh sẽ không làm thế đâu. Anh biết mình mong Anthony trở về chẳng kém bất cứ ai mà.”

“Em nói huyên thuyên gì vậy?” Anh đột ngột cau mày. “Em mong muốn anh ấy trở về lắm à?”

“Tôi không tin được,” nữ Bá tước Twynham vừa nói, vừa ngồi xuống sofa một cách duyên dáng. “Tôi không tin được, sao anh ấy có thể? Đầu tiên là bỏ lên thành phố mấy năm trời – cứ tạm cho đó là giấc mơ của một thanh niên trẻ. Rồi lại sống ở đó một cách hoang đàng và mang tai tiếng là một…” cô liếc sang Augusta. “À, đó là điều đầu tiên. Thứ đến là tự ý kết hôn mà không được sự cho phép của Cồng tước rồi mang cô dâu về nhà này mà không nói một lời với ai. Chị có thấy cô ta không, Claudia? Em đến chết vì nhục nhã mất nếu con hầu của em bị trông thấy trong bộ đồ như vậy.”

Claudia, William phu nhân, đã dắt Augusta tới cửa sổ và ngồi xuống băng ghế sát cửa với cô bé. “Có lẽ là, Marianne,” cô nói, “họ đã trải qua một chuyến đi vất vả. Hôm qua trời đã mưa cả ngày, em nhớ chứ? Ai lại muốn mặc váy áo đẹp trong thời tiết đó?”

“Nhưng cô ta là ai vậy?” Bá tước Twynham lẩm bẩm trong lúc loay hoay trước tủ ly, rót cho mình một ly brandy trong khi còn thời gian. Không được uống rượu nặng trong bữa trà ở Enfield. “Staunton có nói gì không nhỉ? Anh ấy ắt sẽ nói nếu cô ta có tên có tuổi, chắc chắn thế. Sẽ có chút xấu hổ khi tiểu thư Marie đến đây ngày mai cho xem.”

“Ôi!” Marianne phất chiếc khăn tay trong không khí như để đầu hàng một vật thể tưởng tượng nào đấy, xong áp nó lên mũi. “Tôi chết mất thôi. Đã quá muộn để Công tước ngăn cô ấy đến. Và Tony biết chuyện cô ấy sắp đến. Hẳn là anh ấy biết. Sao anh ấy có thể làm điều này với chúng ta? Tôi không tin được. Anh ấy đã cưới một kẻ vô danh và đem cô ta về đấy để làm nhục chúng ta. Mà nhìn cách nào cô ta cũng tầm thường và xấu xí đến phát ghê.”

William cào tay lên tóc. “Cô ta đã gọi Công tước là cha,” anh nói và nhăn mặt. “Cô ta mới vào nhà chưa đầy năm phút. Mọi người có tưởng tượng được tiểu thư Marie sẽ coi ông ấy là cha không? Cô ấy sẽ hiểu biết hơn. Tôi chẳng muốn ở vào tình cảnh của ông ấy ngày mai cho dù có được tất cả lượng trà ở Trung Hoa đi nữa.”

Nhưng phu nhân Staunton có nụ cười rất đáng yêu,” Claudia nói. “Có lẽ chúng ta cứ đợi và làm quen với cô ấy đã rồi hãy đưa ra bất kỳ nhận xét hấp tấp nào. Cậu nghĩ sao, Charles?”

Trung úy Charles Earheart đang đứng cạnh cô và Augusta, nhìn ra ngoài cửa sổ.

“Em sẽ chẳng về nhà vào kỳ nghỉ phép nếu ông ấy không gọi,” anh nói. “Khi mà em biết Staunton cũng được gọi về. Em không nghĩ ngợi gì hết đối với sự trở về của anh ta và việc anh ta đem theo một người vợ. Nó vô nghĩa đối với em.”

Nếu cậu định nói với sự nghiêm trang lạnh lùng, thì cậu đã thất bại thảm hại. Giọng cậu run run vì sự xúc động non trẻ. Claudia đưa tay ra chạm vào tay cậu. Cậu không giật ra, nhưng cũng không quay đầu lại để đáp lại nụ cười đầy thông cảm của cô.

“Còn em nghĩ thế nào về anh cả của em, Augusta?” Claudia hỏi.

“Em nghĩ anh ấy rất giống Công tước,” Augusta nói. “Em nghĩ anh ấy có vẻ khó chịu. Và em nghĩ vợ của anh ấy rất xấu.”

Bá tước Twynham cười khẩy còn vợ anh ta lại vẫy khăn tay trước mặt lần nữa. “Đúng là lời nói từ miệng con trẻ…” cô nói. “Em nói đúng, Augusta. Anh ấy trông thật khó chịu như thể đang tham dự một hoạt cảnh chán ngấy. Và cô ta không có triển vọng nào về sắc đẹp hay bất cứ cái gì khác, chị dám chắc thế. Chị sẽ không thấy ngạc nhiên nêu biết Tony tìm được cô ta trong một gian bếp hay trong một phòng học nhà ai đó. Chẳng biết cô ta có phải dòng dõi quý tộc không nữa. Chị thấy vô cùng khó khăn khi phải tỏ ra lịch sự với cô ta.”

“Công tước sẽ tỏ ra lịch sự, em có thể chắc chắn như thế Marianne,” William nói. “Và ông ấy sẽ mong đợi điều đó ở chúng ta. Xét cho cùng, cô ta là phu nhân Staunton, dù cô ta có là ai hay là cái gì trước khi Staunton quyết định cưới cô ta.”

“Và chẳng mấy chốc cô ta sẽ thành nữ Công tước,” em gái anh nói với vẻ ghê tởm sâu sắc. “Cô ta sẽ đứng đầu gia đình này và sẽ có quyền hơn Claudia, có quyền hơn tôi – hơn tất cả chúng ta. Điều đó thật không chịu đựng được. Sau này Twynham và tôi chắc sẽ chẳng mấy khi đến Enfield Park đâu. Có vô vàn cách để tỏ ra lịch sự, tôi sẽ tỏ ra lịch sự.”

Bá tước Twynham lại cười khẩy. “Không biết ngày mai Công tước Withingsby sẽ xử lý mọi việc ra sao,” anh ta nói. “Bá tước Tillden sẽ không vui vẻ gì đâu, hãy nhớ lời tôi. Và cô ta chắc chắn sẽ chiếm quyền em, Marianne. Cô ta là nữ Hầu tước Staunton mà.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.