Suối nguồn

XV.



Chín giờ sáng hôm đó, Peter Keating đi đi lại lại trong phòng, khoá trái cửa. Anh quên rằng bây giờ là chín giờ sáng và Catherine đang đợi anh. Anh buộc mình quên cô và tất cả những gì mà cô có thể gợi ra.

Căn phòng anh khoá trái để bảo vệ anh khỏi bà mẹ. Đêm qua, khi thấy sự bồn chồn nóng nảy của anh, bà đã bắt anh nói sự thât. Anh gắt lên rằng vừa mới cưới Dominique Francon và anh đã thêm vào một lời giải thích, rằng Dominique Francon không có mặt vì cô phải đi đâu đó để thông báo về lễ cưới cho một người họ hàng cũ.

Mẹ anh quá bận rộn với hàng loạt câu hỏi và choáng váng vì sung sướng đến mức anh không phải trả lời cụ thể cái gì và cũng không bị phát hiện rằng anh đang hoảng sợ. Anh không chắc chắn rằng mình có một người vợ và anh không chắc liệu cô có quay lại với anh vào sáng hôm sau.

Anh đã cấm mẹ công bố tin này với bất cứ ai, nhưng đêm qua bà đã gọi điện cho vài người và sáng nay thì gọi thêm vài người nữa. Và lúc này thì điện thoại liên túc đổ chuông. Những giọng nói háo hức hỏi: “Có thật không đấy?”, rồi cứ thế tuôn ra những lời lẽ ngạc nhiên và những câu chúc mừng. Keating có thể thấy tin tức lan ra khắp thành phố thành những vòng tròn nở rộng dần, theo tên tuổi và vị trí của những người gọi điện. Anh từ chối cầm máy. Anh có cảm giác mọi góc phố ở New York đều ngập lụt sự mừng vui với lễ cưới của anh; chỉ riêng anh trốn trong căn phòng khoá chặt là thấy lạ lùng, hoang mang và hoảng sợ.

Gần trưa cửa rung lên và anh lấy hai tay bịt tai để khỏi phải biết ai vừa đến và họ muốn gì. Rồi anh nghe thấy tiếng mẹ anh. Tiếng bà thất thanh vì sung sướng, đến mức nó trở nên ngớ ngẩn một cách đáng xấu hổ.

“Peter con yêu, con không muốn ra ngoài hôn vợ con sao?”

Anh bay ra hành lang. Dominique đứng đó. Cô đang bỏ chiếc áo khoác lông chồn ra. Từ mặt lông, một làn hơi lạnh của đường phố trộn lẫn với nước hoa thoang thoảng của cô phả vào mũi anh. Cô đang mỉm cười rất đúng mực và nhìn thẳng vào anh trong lúc nói: “Chúc buổi sáng tốt làh, Peter.”

Anh đứng rúm người lại trong một giây và trong giây phút đó anh nhớ đến những cú điện thoại. Anh cảm thấy niềm vui chiến thắng mà những cú điện thoại này đã trao cho anh. Anh cử động như một võ sĩ trong một đấu trường chận kín người. Anh mỉm cười như thể anh cảm thấy một vòng hào quang ánh sáng bao phủ lấy nụ cười của anh. Anh nói:

“Dominique em yêu, đây là một giấc mơ đã thành hiện thực.”

Sự ngầm hiểu bất đắc dĩ giữa họ đã bị phá vỡ và giờ đây, cuộc hôn nhân của họ trở thành cái mà cả hai đã dự định.

Cô có vẻ hài lòng với điều này. Cô nói: “Xin lỗi vì anh đã không được bế em qua ngưỡng cửa, Peter.” Anh không hôn cô nhưng anh cầm tay cô và hôn vào ngay phía trên cổ tay với một vẻ dịu dàng, thân mật.

Anh thấy mẹ anh đứng đó và anh nói với một chút hân hoan chiến thắng trong họng nói: “Mẹ – Dominique Keating.”

Anh thấy mẹ mình hôn cô. Dominique hôn trả lại bà một cách lạnh lẽo. Bà Keating lắp bắp: “Con yêu quý, mẹ thật hạnh phúc, thực sự hạnh phúc. Chúa phù hộ cho con; mẹ không biết là con đẹp thế này!”

Anh không biết phải làm gì tiếp nhưng Dominique đã chủ động giành lấy phần việc đó một cách giản dị. Cô không cho họ thời gian để suy nghĩ. Cô bước vào phòng khách và nói: “Hãy ăn trưa đã, rồi anh sẽ dẫn em đi xem nhà. Đồ đạc của em sẽ đến trong vòng một tiếng.”

Bà Keating rạng rỡ: “Bữa trưa cho ba người sẽ sẵn sàng, cô Fra…” Bà dừng lại. “Ôi con yêu quý, mẹ nên gọi con là gì? Cô Keating hay …”

“Dominique, dĩ nhiên” Dominique trả lời mà không mỉm cười.

“Chúng ta có định thông báo lễ cưới hay mời ai…” Keating lên tiếng, nhưng

Dominique cắt lời anh:

“Để sau đã, Peter. Đám cưới sẽ tự nó thông báo.”

Sau đó, khi đồ đạc của cô được đưa đến, anh thấy cô bước vào phòng ngủ của anh mà không hề do dự. Cô hướng dẫn người hầu gái cách treo quần áo của cô. Cô yêu cầu anh giúp cô sắp xếp các tủ quần áo.

Bà Keating hoang mang. “Nhưng chả nhẽ các con không đi tuần trăng mật sao?

Thế này thật là bất ngờ và lãng mạn, nhưng mà… chả nhẽ không hề có tuần trăng mật sao?”

“Không,” Dominique trả lời, “con không muốn Peter phải nghỉ việc.”

Anh nói: “Dominique, dĩ nhiên những thứ này chỉ là tạm thời. Rồi chúng ta sẽ chuyển đến một căn hộ khác, to hơn. Anh muốn để em chọn.”

“Không,” cô nói, “em nghĩ điều đó không cần thiết. Chúng ta sẽ ở đây.”

“Mẹ sẽ chuyển ra ngoài,” bà Keating đề nghị. Bà không hề nghĩ, bà chỉ bất thần buột miệng nói ra vì cảm giác sợ hãi trước Dominique. “Mẹ sẽ thuê một chỗ nhỏ.”

“Không,” Dominique trả lời. “Con muốn mẹ cứ ở đây. Con không muốn thay đổi bất cứ thứ gì. Con muốn hoà hợp với cuộc sống của Peter đúng như cuộc sống của anh ấy bây giờ.”

“Con thật tốt bụng!” Bà Keating mỉm cười trong lúc Keating cay đắng nghĩ rằng cô chẳng hề tốt bụng chút nào.

Bà Keating biết rằng khi bà bình phục khỏi cơn hào hứng ban đầu, bà sẽ căm ghét con dâu của bà. Bà có thể chấp nhận sự hỗn hào. Nhưng bà không thể tha thứ cho sự lịch thiệp lạnh lẽo của Dominique.

Điện thoại đổ chuông. Thiết kế trưởng của Keating gọi từ văn phòng đến để chúc mừng. Anh ta nói: “Chúng tôi mới biết tin, Peter, và Guy rất ngạc nhiên. Tôi nghĩ anh nên gọi cho ông ấy hoặc là đến đây hoặc làm gì đó.”

Keating vội vã đến văn phòng. Anh mừng rỡ được thoát khỏi nhà một lúc. Anh bước vào văn phòng với dáng vẻ hoàn hảo của một chàng trai trẻ rạng rỡ vì tình yêu. Anh cười vang và bắt tay mọi người trong phòng thiết kế giữa những lời chúc mừng ồn ào, những tiếng hú vui vẻ xem lẫn ghen tỵ và một vài lời bóng gió tục tĩu. Rồi anh vội vã đi tới phòng Guy Francon.

Trong một khoảnh khắc, anh cảm thấy tội lỗi khi anh bước vào và nhìn thấy nụ cười trên môi Francon – nụ cười như một sự ban phước. Anh thân mật ôm vai Francon và lẩm bẩm:

“Con rất hạnh phúc, Guy, con rất hạnh phúc.”

Francon lặng lẽ nói:

“Ta đã luôn mong đợi chuyện này, và giờ thì ta thấy yên tâm rằng chuyện này là đúng. Tất cả đúng là phải thuộc về anh, Peter, tất cả, căn phòng này, mọi thứ, sẽ sớm thôi.”

“Cha nói gì thế?”

“Nào, anh luôn hiểu. Ta mệt rồi, Peter. Anh biết đấy, sẽ đến một lúc mà anh trở nên mệt mỏi đến mức mọi thứ kết thúc ở đó và sau đó… Không, anh sẽ không hiểu đâu, anh còn trẻ quá. Nhưng quỷ tha ma bắt, Peter, ta còn có ích gì ở đây nữa. Buồn cười là ta thậm chí cũng chẳng buồn giả vờ rằng ta có ích… Thỉnh thoảng ta cũng muốn thành thật. Đấy là một cảm giác dễ chịu… Chà, được rồi, chắc sẽ mất một hai năm nữa, nhưng rồi ta sẽ nghỉ hưu. Khi đó tất cả sẽ là của anh. Có thể ta sẽ qua lại thêm một thời gian – anh biết đấy, ta thực lòng yêu quý chỗ này – nó luôn bận rộn, nó đang phát đạt, mọi người tôn trọng chúng ta – nó là một hãng tốt, Francon & Heyer, đúng không nhỉ? – Nhưng mà ta đang nói cái quái gì thế này? Francon và Keating. Rồi sẽ chỉ còn là Keating… Peter ạ.”

Ông hỏi khẽ.

“Tại sao trông anh không vui?”

“Dĩ nhiên là con vui. Con rất biết ơn… nhưng tại sao cha lại nghĩ đến chuyện nghỉ hưu vào lúc này chứ?”

“Cha không có ý thế. Tức là – tại sao trông anh không vui khi ta nói rằng mọi thứ sẽ thuộc về anh? Ta… cha muốn con vui mừng về chuyện đó, Peter.”

“Vì Chúa, Guy… cha đang ốm rồi, cha…”

“Peter, chuyện này rất quan trọng với cha – chuyện anh vui mừng khi cha để lại các thứ cho anh. Chuyện anh sẽ tự hào về nó. Anh có tự hào, đúng không Peter? Đúng không?”

“Dào, ai mà lại không?” Anh không nhìn Francon. Anh không thể chịu được âm điệu van vỉ trong giọng nói của Francon.

“Phải ai lại không? Dĩ nhiên rồi… Còn anh thì sao, Peter?”

“Cha muốn gì?” Keating gắt lên giận dữ.

“Ta muốn anh cảm thấy tự hào về ta, Peter” – Francon nói với vẻ nhún nhường, đơn giản và tuyệt vọng – “Ta muốn biết rằng ta đã làm được một cái gì đó. Ta muốn cảm thấy rằng nó có ý nghĩa. Vào lúc cuối cùng, ta muốn biết chắc rằng tất cả không phải vô nghĩa.”

“Cha không chắc về điều đó sao? Cha không chắc sao?” – Ánh mắt Keating ánh lên nét độc ác, như thể Francon đang bất chợt trở thành một hiểm hoạ của anh.

“Có chuyện gì thế, Peter?” Francon hỏi nhẹ nhàng, gần như thờ ơ.

“Quỷ tha ma bắt ông đi, ông không có quyền – không có quyền không biết chắc!

Ở tuổi ông, với tên tuổi của ông, với danh tiếng của ông, với…” “Ta muốn cảm thấy chắc chắn, Peter. Ta đã làm việc rất vất vả.”
“Nhưng ông vẫn không chắc chắn!” Anh giận dữ và hoảng sợ và vì thế anh muốn làm tổn thương một ai đó. Anh buột miệng nói ra cái điều có thể gây tổn thương nhiều nhất mà quên mất rừng nó làm anh tổn thương chứ không phải Francon và rằng Francon sẽ không hiểu, chưa bao giờ hiểu và thậm chí không thể đoán ra:

“Chà, tôi biết một người sẽ biết chắc chắn vào lúc cuối đời anh ta, anh ta biết chắc chắn đến mức tôi muốn cắt cổ anh ta vì chuyện đó.”

“Ai?” Francon hỏi khẽ một cách thờ ơ.

“Guy! Guy, chúng ta làm sao thế này? Chúng ta đang nói chuyện gì thế này?”

“Ta không biết.” Francon trả lời. Trông ông mệt mỏi.

Tối hôm đó, Francon đến nhà Keating ăn tối. Ông ăn mặc thoải mái và con người ông lại toả ra vẻ hào hoa quen thuộc khi ông hôn tay bà Keating. Nhưng trông ông lạnh lẽo khi ông chúc mừng Dominique và ông chẳng nói gì mấy với cô. Ánh mắt ông có một vẻ ăn năn khi ông nhìn vào mặt cô. Thay vì vẻ giễu cợt sắc sảo và linh lợi mà ông chờ đợi, ông thấy một sự thấu hiểu bất thần. Cô không nói gì nhưng cô cúi xuống hôn vào trán ông và cảm thấy tràn ngập một cảm giác biết ơn ấm áp – và rồi ông hoảng sợ. “Dominique” – ông thì thầm mà không để những người khác nghe thấy – “con mới bất hạnh làm sao…” Cô phá ra cười vui vẻ và cầm lấy tay ông, “Ồ không đâu cha, sao cha lại nói thế!” “Tha thứ cho cha!” – ông lẩm bẩn – “Ta thật ngớ ngẩn… Chuyện này thực sự là tuyệt vời…”

Tối nào họ cũng có khách – toàn khách không mời và đến mà không báo trước. Tất cả những ai nghe tin đám cưới của họ đều cảm thấy có đặc quyền được ghé vào chúc mừng. Keating không chắc chắn anh có vui mừng khi gặp họ hay không. Mọi việc có vẻ ổn, chừng nào sự lùng nhùng vui vẻ này còn tồn tại. Dominique cư xử một cách tuyệt vời. Anh không hề thấy một chút bóng dáng của sự mỉa mai trong điệu bộ của cô.

Đêm đã khuya khi vị khách cuối cùng rời nhà họ. Họ còn lại một mình với những gạt tàn đầy và những chiếc cốc rỗng không. Họ ngồi ở hai góc đối diện nhau của phòng khách và Keating cố gắng trì hoãn cái khoảnh khắc phải nghĩ đến những gì anh buộc phải nghĩ vào lúc này.

“Được rồi, Peter.” Dominique nói và đứng dậy. “Hãy giải quyết chuyện này cho xong.”

Khi anh nằm cạnh cô trong bóng tối, cơ thể anh được thoả mãn những thèm muốn nhưng nó lại trở nên thèm khát hơn bao giờ hết bởi vì cái cơ thể bất động ở cạnh anh đã không hề đáp lại, thậm chí không cả chống cự. Khi anh cảm thấy mình bị đánh bại ở ngay cái hành động điêu luyện mà anh đã hy vọng có thể dùng để chế ngự cô, những lời thì thầm đầu tiên của anh với cô là” “Quỷ tha ma bắt cô đi!”

Anh không hề thấy bất cứ cử động nào từ phía cô.

Rồi anh nhớ lại cái phát hiện mà những giây phút kích động đã quét khỏi đầu óc

anh.

“Hắn là ai?” Anh hỏi.

“Howard Roark,” cô trả lời.

“Được rồi” – anh ngắt lời – “cô không phải nói nếu cô không muốn nói.”

Anh bật đèn lên. Anh thấy cô nằm bất động, trần truồng, đầu ngửa ra sau. Khuôn mặt cô trông bình thản, trong sáng, thánh thiện. Cô nói với cái trần nhà, giọng cô dịu dàng:

“Peter, nếu tôi có thể làm điều này… từ giờ tôi có thể làm bất cứ điều gì…”

“Nếu cô nghĩ là tôi sẽ phiền cô thường xuyên, nếu đấy là ý nghĩ của cô về…”

“Thường xuyên hay không tuỳ anh, Peter.”

*

* *

Sáng hôm sau, khi cô bước vào phòng ăn để dùng bữa sáng, Dominique thấy một hộp hoa dài và trắng nằm đối diện với đĩa của cô.

“Cái gì đây?” Cô hỏi người hầu gái.

“Nó được mang đến sáng nay thưa bà; người ta bảo để nó lên bàn ăn sáng của bà.”

Cái hộp đề gửi bà Peter Keating, Dominique mở ra. Bên trong là một vài cành hoa ly trắng sang trọng hơn những thứ hoa đang có vào mùa này. Một tấm các nhỏ đính kèm, trên đó có một cái tên được viết bằng những nét chữ lớn. Nét chữ bay bướm, quả quyết, như thế chúng đang phá ra cười trên tấm thiệp: “Ellsworth M. Toohey.”

“Thật tử tế làm sao” Keating nói. “Thế mà anh đã boăn khoăn là tại sao hôm qua chúng ta không nghe tin gì từ ông ấy.”

“Mang cắm chúng vào nước đi Mary. “Dominique đưa cái hộp cho người hầu.

Buổi chiều, Dominique gọi điện cho Toohey và mời ông tới ăn tối.

Bữa tối diễn ra sau đó vài ngày. Mẹ Keating đã xin phép đi có việc bận và chạy trốn khỏi buổi tối; bà tự trấn an mình rằng bà chỉ cần thời gian để làm quen với mọi việc. Vì thế, chỉ có ba bộ đĩa ăn được bày trên bàn ăn; nến được thắp trên những chân nến thuỷ tinh, chính giữa bàn là một lọ hoa thuỷ tinh cắm hoa xanh.

Khi Toohey bước vào, ông cúi đầu chào chủ nhà theo nghi lễ ở một cung điện. Dominique trông như một nữ chủ nhà thượng lưu đã quen vai trò tiếp tân từ lâu. Cô khiến người ta khó tưởng tượng nổi cô ở vai trò nào khác.

“Chà, Ellsworth? Thế nào?” Keating hỏi và khoát tay ám chỉ cả phòng khách, cả không khí trong phòng và Dominique.

“Peter thân mến của tôi,” Toohey trả lời, “hãy bỏ qua những thứ hiển nhiên.”

Dominique dẫn họ vào trong phòng khách. Cô trang phục theo kiểu dạ tiệc – một chiếc áo khoác ngoài dài bằng sa-tanh trắng được may như áo khoác nam, một chiếc váy dài màu đen, suôn và giản dị; tóc cô cũng buông giản dị. Vòng đai hẹp của chiếc váy quanh eo cô như muốn tuyên bố rằng chỉ cần hai bàn tay là có thể vòng quanh được eo cô và ngắt thành hai nửa mọt cách dễ dàng. Tay áo ngắn để lộ cánh tay cô. Cô đeo một chiếc vòng tay bằng vàng ròng – cái vòng quá to và nặng đối với cổ tay thanh mảnh của cô. Sự tao nhã của cô gần như trở nên choáng ngợp – đấy là một vẻ chín chắn khôn ngoan và đáng sợ được ngụy trang dưới vẻ ngoài của một cô gái trẻ trung.

“Ellsworth, thật tuyệt phải không?” Keating vừa nói vừa quan sát Dominique như người ta quan sát một tài khoản ngân hàng bộn tiền.

“Không dưới những gì tôi kỳ vọng.” Toohey trả lời. “Và cũng không vượt quá.”

Bên bàn ăn, Keating nói là chủ yếu. Anh như thể anh bị mắc bệnh nói nhiều. Anh nói như thể người say.

“Thực ra, Ellsworth, chính Dominique mời ông. Tôi không hề yêu cầu cô ấy. Ông là vị khách chính thức đầu tiên của chúng tôi. Tôi nghĩ như thế thật là tuyệt vời. Vợ tô và người bạn thân nhất của tôi. Tôi đã luôn có cái ý nghĩ ngớ ngẩn rằng hai người không thích nhau. Có Chúa biết vì sao tôi có ý nghĩ ấy. Nhưng tôi mới vui làm sao khi thấy ba chúng ta cùng nhau.”

“Vậy là anh không tin vào toán học, đúng không Peter?” – Toohey nói – “Sao anh lại ngạc nhiên nhỉ? Khi người ta cộng một vài thứ với nhau thì kết quả sẽ là tất yếu. Có ba phân tử như Dominique, anh và tôi – thì kết quả này là hiển nhiên.”

“Người ta bảo có ba người là thành một đám đông ầm ỹ” – Keating cười phá ra – “Họ nói láo. Hai người bao giờ cũng tốt hơn một, và đôi khi ba người lại tốt hơn hai người, tuỳ lúc.”

Toohey nói:

“Sai lầm duy nhất với câu ngạn ngữ đó là việc ám chỉ ‘đám đông’ như một thứ xấu xa. Thực ra là ngược lại. Và anh cũng đã phát hiện ra điều đó đấy. Ba người, cho phép tôi được nói thêm là một con số bí hiểm. Ví dụ như Chúa Ba Ngôi. Hoặc tam giác ba người – không có ý niệm này thì sẽ không hề có điện ảnh. Có rất nhiều biến thể khác nhau của quan hệ tam giác, và không phải lúc nào cũng là bi kịch. Như cái tam giác ba người chúng ta chẳng hạn – tôi đang đóng thế cho cái cạnh huyền; đây thật là một sự thế chỗ hợp lý vì tôi đang đóng thế cho cái hoàn toàn đối lập với tôi, cô có nghĩ thế không, Dominique?”

Họ đang ăn tráng miệng thì Keating phải đi trả lời điện thoại. Họ có thể nghe thấy giọng nói bồn chồn của anh ở phòng bên cạnh. Anh đang gắt giọng với một người thợ vẽ đang cố hoàn thành một công trình cần gáp và cần giúp đỡ. Toohey quay đầu nhìn Dominique và mỉm cười. Nụ cười đã nói tất cả những điều mà điệu bộ của cô từ đầu buổi tối đã không cho phép ông nói ra. Mặt cô không hề có một cử động rõ ràng nào khi cô nhìn lại ông, nhưng nét mặt cô thay đổi như thể cô đang thừa nhận những gì ông nói thay vì phủ nhận nó. Ông hẳn đã muốn có một cái nhìn phủ nhận hơn. Sự chấp nhận của cô còn miệt thị hơn cả sự phủ nhận.

“Vậy là cô lại quay lại với bầy súc vật à, Dominique?”

“Phải, Ellsworth.”

“Không còn cầu xin lòng thương nữa sao?”

“Điều đó có còn cần thiết không?”

“Không. Tôi ngưỡng mộ cô, Dominique… Cô có thích chuyện đó không? Tôi đoán Peter chắc cũng chẳng tồi, mặc dù hẳn là không được tuyệt như cái người mà cả hai chúng ta cùng nghĩ đến, anh ta chắc hẳn là xuất sắc trong chuyện đó, nhưng cô sẽ không bao giờ có cơ hội khám phá.”

Cô không có vẻ kinh tởm khi nghe những lời này. Trông cô thành thực ngạc nhiên.

“Ông đang nói chuyện gì vậy, Ellsworth?”

“Thôi nào, cô gái thân mến, chúng ta chả cần phải giả vờ với nhau nữa, đúng không? Cô đã phải lòng Roark từ lần đầu cô thấy anh ta trong phòng khách nhà Kiki Holcombe – hay là tôi nên nói trắng ra – cô đã muốn ngủ với anh ta – nhưng anh ta sẽ không buồn nhổ vào mặt cô – và vì thế mà cô đã làm những gì cô đã làm.”

“Ông nghĩ thế à?” cô hỏi khẽ.

“Chả nhẽ chuyện đó không hiển nhiên sao? Đàn bà trả thù. Hiển nhiên như chuyện Roark phải là người mà cô thèm muốn. Và cô phải thèm muốn anh ta theo cách hoang dã nhất. Và anh ta thì không thèm biết đến sự tồn tại của cô.”

“Tôi đã đánh giá ông quá cao, Ellsworth,” cô nói. Cô đã mất hoàn toàn sự hứng thú với ông, thậm chí cô không cần phải cảnh giác. Trông cô buồn chán. Ông nhăn mặt ngạc nhiên.

Keating quay lại bàn. Toohey vỗ vai anh khi anh đi ngang qua ghế của ông.

“Trước khi tôi về Peter, chúng ta phải nói chuyện một tí về việc xây lại Đền Stoddard. Tôi muốn anh bốc đít cái chỗ đó”

“Ellsworth…” anh há hốc miệng.

Toohey phá ra cười.

“Đừng có cổ lỗ sĩ thế, Peter. Chỉ là một chút tục tĩu nghề nghiệp ấy mà. Dominique chả ngại đâu. Cô ấy cũng từng là nhà báo mà.”

“Ông làm sao thế, Ellsworth?” Dominique hỏi “Tuyệt vọng quá à? Vũ khí của ông không được công hiệu như mọi khi sao?”

Cô đứng lên.

“Chúng ta uống cà-phê trong phòng đọc chứ?”

*

* *

Hopton Stoddard bỏ thêm một khoản tiền lớn vào số tiền ông thắng kiện từ Roark và Đền Stoddard được sửa lại cho một mục đích mới. Ellsworth Toohey chọn ra một nhóm kiến trúc sư để làm việc này: Peter Keating, Gordon L.Prescott, John Erik Snyte và một người có tên là Gus Webb. Anh chàng này mới 24 tuổi. Anh ta thích buông ra những nhận xét tục tĩu khi thấy một người đàn bà nở nang đi ngang qua. Anh ta chưa bao giờ được giao bất cứ công trình kiến trúc nào. Ba người kia đều có vị thế xã hội và nghề nghiệp; Gus Webb chẳng có gì. Toohey đưa anh ta vào chính vì lý do này. Trong bốn người, Gus Webb nói to nhất và ngạo mạn nhất. Anh ta nói rằng anh ta chẳng sợ bất cứ thứ gì; và anh ta đã nói thật. Tất cả bọn họ đều là thành viên của Hiệp hội các Nhà Xây dựng Hoa Kỳ.

Hiệp hội các Nhà Xây dựng Hoa Kỳ đã mở rộng. Sau phiên toà Stoddard, đã có rất nhiều cuộc thảo luận sôi nổi trong các phòng họp của Hiệp hội Kiển trúc sư Hoa Kỳ. A.G.A vốn không ưa Ellsworth Toohey, nhất là sau khi ông lập ra Hiệp hội Xây dựng. Nhưng phiên toà Stoddard đã mang đến một thay đổi nhỏ; nhiều người cho rằng chính bài báo trên mục Một tiếng nói nhỏ là ngòi nổ đưa đến phiên toà; và rằng một người có thể khiến cho một khách hàng kiện một kiến trúc sư cần phải được đối xử một cách thận trọng. Vì thế, người ta gợi ý rằng nên mời Toohey phát biểu tại một bữa trưa của A.G.A. Một vài thành viên của Hiệp hội phản đối, trong đó có Guy Francon. Người phản đối mạnh mẽ nhất là một kiến trúc sư trẻ. Anh ta phát biểu sôi nổi, giọng anh run lên vì xúc động khi lần đầu tiên phát biểu trước đám đông; anh nói rằng anh ngưỡng mộ Ellsworth Toohey, nhưng nếu như một nhóm người cảm thấy rằng quyền lực của mình đang bị một cá thể nào đó tước mất, thì đấy chính là lúc người ta phải chiến đấu chống lại cá thể kia. Họ phủ quyết ý kiến của anh ta. Toohey được mời diễn thuyết tại buổi tiệc trưa. Số người tham dự buổi tiệc rất lớn và Toohey đã có một bài thuyết trình hài hước, hùng hồn. Rất nhiều thành viên của A.G.A đã tham gia vào Hiệp hội các Nhà Xây dựng Hoa Kỳ. John Erik Snyte là người đầu tiên.

Bốn kiến trúc sư chịu trách nhiệm xây lại Đền Stoddard họp nhau ở văn phòng của Keating. Họ ngồi quanh một chiếc bàn trải đầy những bản sao thiết kế của ngôi đền, những bức ảnh chụp bản vẽ gốc của Roark mà họ lấy được từ nhà thầu, và một mô hình đất sét mà Keating đã đặt làm. Họ nói về cuộc khủng hoảng và những tác động xấu của nó lên ngành xây dựng; họ nói về đàn bà và Gordon L.Prescott kể vài câu đùa tục tĩu. Rồi Gus Webb giơ nắm đấm lên và đấm xuống cái mô hình đất sét vẫn còn chưa khô hẳn. Cả ngôi đền biến thành một đống đất bẹp dúm. “Nào, các vị” – anh ta nói – “Hãy làm việc thôi.” “Gus, đồ vô lại” – Keating nói – “Cái đó mất tiền đấy.” “Vớ vẩn” – Gus trả lời – “Chúng ta đâu có phải trả tiền.”

Mỗi người trong bọn họ đều có một tập ảnh chụp những bản vẽ gốc với chữ ký “Howard Roark” rõ nét ở góc ảnh. Họ mất nhiều buổi tối và nhiều tuần liền để vẽ lại ngôi đền dựa trên bản vẽ gốc. Họ cố tái tạo và cải thiện nó. Họ mất nhiều thời gian hơn mức cần thiết. Họ thay đổi nhiều hơn yêu cầu. Dường như họ thấy thỏa mãn khi làm việc này. Sau đó, họ đặt bốn bản vẽ cạnh nhau và phối hợp chúng thành một. Họ chưa bao giờ thích thú với công việc của họ như thế này. Những cuộc gặp mặt của họ kéo dài và thân mật. Có một vài bất đồng nho nhỏ; ví dụ như khi Gus Webb nói “Quỷ tha ma bắt, Gordon, nếu như ông đòi vẽ bếp thì phải để nhà vệ sinh cho tôi chứ”; nhưng những bất đồng này rất nhỏ. Họ cảm thấy một tình đoàn kết và gần như là yêu thương với nhau – đấy là một thứ tình bằng hữu khiến cho một người dám chịu đựng sự tra tấn thay vì chỉ điểm đồng bọn của mình.

Người ta không kéo đổ Đền Stoddard nhưng bộ khung của nó được ghép vào trong năm tầng nhà, bao gồm nhà ở, phòng học, bệnh xá, bếp ăn, phòng giặt đồ. Sảnh ra vào được lát bằng nhôm xoắn; những bồn tắm được quây kính, phòng thể dục có những trụ tường Corinthian đắp nổi những chiếc lá mạ vàng. Những cửa sổ lớn được để nguyên, bị các nền nhà cắt thành từng khúc.

Bốn kiến trúc sư đã quyết định sẽ hợp tác với nhau và vì thế sẽ không bê nguyên bất cứ một phong cách kiến trúc cổ điển nào vào. Peter Keating thiết kế một mái vòm kiểu bán- Doric bằng cẩm thạch trắng phía trên cửa chính và trổ những cửa mới ra những ban-công kiểu bán-Gorthic, phía trên có hình thập tự; cộng thêm với những hoạ tiết trang trí gồm những chiếc lá ô-rô kết lại thành chuỗi và được khắc chìm vào trong mặt tường đá vôi. Gordon L.Prescott thiết kế một mái nhà kiểu bán-Phục hưng và một mái hiên lớn ở tầng ba được bao quanh bằng kính. Gus Webb thiết kế một hình vuông trang trí để gắn quanh những khung cửa sổ gốc. Anh làm một tấm biển được thắp sáng bằng đèn nê-ông trên nóc toà nhà. Tấm biển đề chữ: Nhà tình thương Hopton Stoddard dành cho trẻ thiểu năng.

“Nếu cách mạng nổ ra, tất cả trẻ con trên đất nước này sẽ có một ngôi nhà như thế!” – Gus Webb tuyên bố khi nhìn vào công trình đã hoàn thiện.

Người ta vẫn có thể nhận ra hình dạng ban đầu của ngôi đền. Trông nó không giống như một tử thi mà các bộ phận đã bị một bàn tay tàn bạo ném ra khắp nơi. Trông nó giống như một tử thi bị chặt thành nhiều mảnh rồi đem ghép lại.

Tháng Chín, những chủ nhân của toà nhà chuyển vào đó sống. Một đội ngũ nhân viên nhỏ, thạo viện đã được Toohey lựa chọn để phục vụ toà nhà. Việc tìm những đứa trẻ đủ tiêu chuẩn vào sống ở đây khó khăn hơn việc tìm nhân viên. Hầu hết những đứa trẻ được lựa chọn từ các trung tâm khác. Sáu mươi lăm đứa trẻ, tuổi từ ba đến mười lăm, đã được lựa chọn. Những người chọn chúng kiên quyết từ chối những đứa trẻ có thể được chạy chữa và chỉ lựa chọn những trường hợp hoàn toàn vô vọng. Có một cậu bé mười lăm tuổi chưa bao giờ biết nói; một đứa bé hở hàm ếch không biết đọc, không biết viết; một bé gái sinh ra đã không có mũi vì cha của cô bé cũng đồng thời là ông của cô bé; một đứa bé có tên “jackie” mà người ta không biết chắc chắn về tuổi cũng như giới tính. Tất cả bọn trẻ được dẫn vào nhà mới; mắt chúng trống rỗng. Đấy là cái nhìn của tử thần. Cái nhìn đó không thừa nhận sự tồn tại của bất cứ thế giới nào.

Vào những buổi tối ấm áp, lũ trẻ từ các khu ổ chuột xung quanh đó sẽ lẻn vào công viên của nhà Stoddard và nhìn trộm qua các cửa sổ lớn vào các phòng chơi, phòng thể thao, hay bếp. Những đứa trẻ ăn mặc rách rưới, mặt mũi bẩn thỉu, người còi cọc gầy gò. Chúng cười ngạo ngược và mắt chúng rực sáng với vẻ linh hoạt sôi sục và quyết liệt. Những nhân viên trong nhà tình thương đuổi chúng đi và gọi chúng là bọn “gangster nhóc con.”

Mỗi tháng một lần, một phái đoàn gồm những nhà bảo trợ lại xuống thăm nhà tình thương. Đấy là một nhóm người sang trọng có tên trong nhiều danh bạ xã hội kín mặc dù họ không thực sự có một thành quả cá nhân cụ thể nào. Đấy là một nhóm người khoác áo lông chồn và đeo trang sức kim cương; thỉnh thoảng có người hút xì-gà đắt tiền và đội mũ quả dưa bóng lộn. Ellsworth Toohey luôn có mặt để dẫn họ đi thăm quan. Chuyến viếng thăm làm cho những chiếc áo khoác lông chồn trở nên ấm hơn và những người mặc chúng cảm thấy họ có quyền mặc như thế bởi vì chuyến viếng thăm làm cho họ thấy mình cao cả và đức hạnh còn hơn cả việc đi đến một tang lễ. Trên đường trở về từ những chuyến thăm quan, Ellsworth Toohey nhận những lời khen ngợi về những công việc tuyệt vời mà ông đang làm, và ông không khó khăn gì trong việc nhận những tấm séc tài trợ cho các hoạt động từ thiện khác của ông – ví như việc xuất bản, việc tổ chức các khoá học, các chương trình phát thanh và cả Hội thảo khoa học xã hội.

Catherine Hasley được giao chịu trách nhiệm hướng đạo nghề nghiệp cho bọn trẻ. Cô chuyển hẳn vào sống ở nhà tình thương. Cô đã nhận việc với một sự háo hức lớn. Cô nói về nó với bất cứ ai chịu nghe cô nói. Giọng cô khô và giả tạo. Khi cô nói, những chuyện động của miệng cô che kín hai vết hằn mới xuất hiện trên mặt cô. Những vết hằn kéo từ hai bên cánh mũi xuống đến cằm. Người ta thường bảo cô cứ để nguyên kính; mắt cô không được đẹp lắm. Cô khăng khăng nói rằng công việc của cô không phải từ thiện mà là “khai sáng con người.”

Thời gian quan trọng nhất trong ngày của cô là khoảng thời gian trông nom các hoạt động nghệ thuật của bọn trẻ. Người ta gọi đó là “Giờ sáng tạo”. Có một phòng dành riêng cho việc này – căn phòng có cửa sổ trông ra thành phố ở phía xa. Bọn trẻ được đưa các vật liệu và dụng cụ rồi được để tự do sáng tạo dưới sự hướng dẫn của Catherine. Cô đứng nhìn chúng như một thiên thần đứng cạnh sự chào đón của một đứa trẻ.

Cô thấy tự hào vào cái ngày mà Jackie, đứa bé ít hy vọng nhất trong bọn trẻ ở đây, hoàn thành một tác phẩm tưởng tượng. Jackie cầm một nắm phấn mầu và một lọ hồ, rồi mang chúng lại một góc phòng. Ở đó có một bờ tường dốc được trát vữa và sơn xanh lá cây – nó vốn bị bỏ lại từ thiết kế của Roark – anh đã dùng nó để khống chế ánh sáng tắt dần vào lúc hoàng hôn. Catherine tiến về phía Jackie và thấy cô bé đã vẽ nguệch ngoạc trên bờ tường đó một con chó năm chân màu nâu với những đốm xanh da trời. Khuôn mặt Jackie ánh lên niềm tự hào. “Nào, thấy chưa, thấy chưa?” – Catherine nói với các đồng nghiệp của cô. “Thật tuyệt vời và cảm động. Không thể nói được một đứa trẻ có thể tiến xa đến đâu khi được khuyến khích hợp lý. Hãy nhìn xem điều gì sẽ xảy ra khi những linh hồn bé nhỏ của chúng không được thoả mãn những thôi thúc sáng tạo! Chúng ta phải cho chúng cơ hội được bày tỏ bản thân. Các chị có thấy vẻ mặt của Jackie không?”

*

* *

Bức tượng Dominique đã được bán. Không ai biết người mua là ai. Người mua chính là Ellsworth Toohey.

*

* *

Văn phòng của Roark trở lại còn có một phòng. Sau khi toà nhà Cord khánh thành, anh không tìm được công việc nào nữa. Khủng hoảng đã tàn phá ngành xây dựng; chẳng mấy người có việc làm. Người ta nói rằng thời của những toà nhà chọc trời đã hết. Nhiều kiến trúc sư đóng cửa văn phòng.

Thỉnh thoảng vẫn có một vài công trình được dựng lên và một nhóm kiến trúc sư bâu lấy chúng như những kẻ ăn xin kiếm miếng ăn thừa. Trong số đó có cả những người như Ralson Holcombe, những người chưa bao giờ phải cầu xin mà luôn đòi hỏi phải có sự giới thiệu trước khi chấp nhận làm việc cho một khách hàng. Khi Roark cố tìm một hợp đồng xây dựng, người ta từ chối anh với hàm ý rằng nếu anh đã dám cả gan đi tìm việc thì người ta cũng chẳng cần phải lịch sự với anh làm gì. “Roark ư?” – những doanh nhân thận trọng nói – “Cái tay người hùng lá cải ấy hả? Thời buổi này, chả ai muốn phí tiền vào những vụ kiện tụng cả.”

Anh kiếm được một vài việc – như sửa nhà trọ. Công việc này chỉ đòi hỏi việc dựng lại những bức vách và sắp xếp lại đường ống dẫn nước. “Đừng nhận, Howard” – Austen Heller giận dữ nói. “Làm sao anh có thể làm cái loại việc như thế. Sau những toà nhà như Cord! Sau nhà Enright!”

“Tôi sẽ nhận,” Roark trả lời.

Tiền đền bù cho Stoddard vượt qua những gì anh nhận được từ toà nhà Cord. Nhưng anh đã tiết kiệm đủ để có thể sống được một thời gian. Anh trả tiền thuê nhà cho Mallory và anh trả tiền hầu hết những bữa ăn mà họ thường xuyên ăn cùng nhau.

Mallory đã cố phản đối.

“Im đi, Steve,” Roark đã nói. “Tôi không làm việc này vì cậu. Vào những lúc như thế này, tôi nợ bản thân tôi một số sự xa xỉ nhất đinh. Vì thế, tôi chỉ đang mua thứ có giá trị nhất mà tôi có thể mua – thời gian của cậu. Tôi đang cạnh tranh với cả đất nước này – và đó là một sự xa xỉ lớn, đúng không? Họ muốn cậu nặn những tượng trẻ con và tôi thì không muốn thế, và tôi thích thắng họ ở chuyện này.”

“Anh muốn tôi làm gì, Roark?”

“Tôi muốn cậu làm việc mà không phải hỏi bất cứ ai xem họ muốn cậu làm gì.”

Austen Heller đã nghe chuyện này từ Mallory và ông nói riêng với Roark.

“Nếu anh giúp cậu ta, tại sao không để tôi giúp anh?”

“Tôi sẽ để ông giúp nếu ông có thể” – Roark trả lời – “Nhưng ông không thể. Tất cả những gì cậu ta cần là thời gian. Cậu ta có thể làm việc mà không cần khách hàng.

Tôi thì không thể.”

“Thật nực cười khi thấy anh đóng vai một nhà từ thiện, Howard.”

“Ông không cần phải lăng mạ tôi. Đấy không phải là từ thiện. Tôi sẽ nói với ông thế này: hầu hết mọi người đều bảo rằng họ quan tâm tới sự đau khổ của người khác. Tôi thì không. Tuy nhiên, có một điều mà tôi không hiểu. Bọn họ sẽ không bỏ qua nếu họ thấy một người đang chảy máu và bị bỏ lại bởi một tài xế vô liêm sỉ. Nhưng hầu hết bọn họ thậm chí không thèm ngoảnh đầu nhìn Steve Mallory. Chả nhẽ họ không biết rằng nếu như sự đâu khổ có thể đem đong đếm thì sự đau khổ của Mallory khi cậu ta không thể làm những việc cậu ta làm cũng chẳng kém gì đau khổ của cả một đoàn người bị xe tăng cán qua? Nếu như người ta muốn làm giảm nhẹ đau khổ trong thế giới này, chẳng phải họ nên bắt đầu từ Mallory sao? Tuy nhiên, đấy không phải là lý do tôi làm chuyện này…”

*

* *

Roark chưa bao giờ nhìn nhà Stoddard sau khi nó được sửa lại. Vào một buổi tối tháng Mười một, anh đến đó. Anh không biết liệu đây có là một sự đầu hàng hay là một chiến thắng trước nỗi sợ phải nhìn thấy nó.

Đêm đã khuya và khu vườn của nhà Stoddard hoàn toàn vắng vẻ. Toà nhà tối đen. Chỉ có một bóng đèn còn sáng trên một cửa sổ ở trên tầng. Roark đứng nhìn toà nhà một lúc lâu.

Cánh cửa dưới mái vòm kiểm Hy Lạp mở ra và một bóng đàn ông mờ xuất hiện.

Cái bóng đó đi vội vàng xuống thang gác… và dừng lại.

“Chào anh Roark,” Ellsworth Toohey nói.

Roark nhìn ông bình thản.

“Chào ông,” Roark nói.

“Đừng có bỏ chạy” – Giọng nói không hề giễu cợt mà có vẻ ân cần.

“Tôi không định thế.”

“Tôi đã biết là thế nào cũng có ngày anh đến và tôi muốn ở đây khi anh đến. Tôi đã phải bịa ra nhiều lý do để đến chỗ này.” – Giọng nói không hề có vẻ hả hê; nó có vẻ kiệt quệ và giản dị.

“Thì sao?”

“Anh không nên ngại phải nói chuyện với tôi. Anh thấy đấy, tôi hiểu các công trình của anh. Còn việc tôi làm gì với chúng lại là chuyện khác.”

“Ông được tuỳ ý làm bất cứ điều gì ông muốn với chúng.”

“Tôi hiểu các công trình của anh hơn bất cứ người nào… có lẽ trừ Dominique Francon. Và có thể là còn hơn cô ấy. Chuyện đó quan trọng đấy chứ, đúng không anh Roark? Không có nhiều người có thể nói với anh điều đó. Như thế còn tốt hơn nếu như tôi là người ủng hộ anh mà lại chẳng hiểu được công việc của anh.”

“Tôi biết là ông hiểu.”

“Vậy thì anh không ngại nói chuyện với tôi?”

“Về cái gì?”

Trong bóng tối, có vẻ Toohey đã thở dài. Một lúc sau ông chỉ vào toà nhà và hỏi:

“Anh có hiểu được cái này không?”

Roark không trả lời.

Toohey tiếp tục nói khẽ:

“Anh thấy nó như thế nào? Như một đống đất vô hồn? Như một đám gỗ mục bừa bãi? Như một đám hỗn ngu xuẩn? Nhưng có thật thế không, anh Roark? Anh không nhìn thấy quy luật nào ư? Anh – người biết ngôn ngữ của kiến trúc và ý nghĩa của các hình khối. Anh không thấy mục đích gì ở đây sao?”

“Tôi không thấy mục đích nào trong việc bàn về nó.”

“Anh Roark, chỉ có hai chúng ta ở đây. Sao anh không nói thẳng cho tôi biết anh nghĩ gì về tôi? Bằng bất kể từ ngữ nào anh muốn. Chẳng có ai nghe thấy chúng ta cả.”

“Nhưng tôi không nghĩ về ông.”

Khuôn mặt Toohey có một vẻ chăm chú của một người đang lặng lẽ lắng nghe một phán quyết đơn giản của số phận. Ông im lặng. Roark hỏi:

“Ông đã định nói chuyện gì với tôi?”

Toohey nhìn anh rồi nhìn những thân cây trơ trụi quanh họ. Ông nhìn dòng sông ở phía xa, nhìn bầu trời cao trên dòng sông.

“Không có gì,” Toohey trả lời.

Ông bước đi.Bước chân ông vang vọng trong im lặng; chúng sắc nét, đều đặn trong pít-tông của một động cơ.

Roark đứng một mình trên đường vào vắng lặng. Anh nhìn toà nhà.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.