Tam Giác Vàng Ma Qủy

CHƯƠNG V – HỒI THỨ TƯ



Đại uý, vậy là anh đã phạm phải hai điều ngu ngốc. Thứ nhất là đã không báo trước cho tôi rằng Grégoire là một phụ nữ. Thứ hai…
Nhưng tình trạng suy sụp của chàng quân nhân mà don Luis vừa bất chợt nhận thấy đã ngăn ông tiếp tục. Đặt tay lên vai anh, ông nói:
– Thôi nào đại uý, đừng mềm yếu quá thế. Tình hình không đến nỗi tệ hại như anh tưởng đâu.
Patrice thì thầm:
– Để trốn thoát khỏi con người ấy, Coralie đã nhảy qua cửa sổ này.
Don Luis nhún vai.
– Coralie vẫn còn sống… trong tay Siméon, nhưng vẫn sống.
– Kìa! Ông biết sao được điều đó? Mà ở trong tay con quái vật ấy, đó chẳng phải là cái chết, cái chết khủng khiếp rồi sao?
– Đó là hiểm họa về cái chết, nhưng vẫn là cuộc sống, nếu ta có mặt kịp thời. Và ta sẽ có mặt.
– Ông đã có cách nào rồi sao?
– Thế anh nghĩ tôi đã khoanh tay đứng nhìn chắc? Và rằng nửa tiếng lại không đủ cho một tay lõi đời như tôi để giải đáp những điều bí ẩn được đặt ra tại nơi đây hay sao?
– Nếu vậy thì lên đường thôi, Patrice, đã sẵn sàng cho cuộc chiến, kêu lên.
– Chưa đâu, vừa nói, Don Luis vừa tiếp tục tìm kiếm quanh mình. Hãy nghe tôi. Này đại uý, đây là những gì mà tôi biết, và tôi sẽ nói rất gọn ghẽ với anh mà không cố làm anh phải chói mắt bởi những suy luận của tôi, và thậm chí sẽ không cần phải nêu ra với anh những điều rất nhỏ làm bằng chứng cho những suy diễn đó. Chỉ có sự thật trần trụi. Thế thôi. Như vậy là…
– Như vậy là?
– Coralie đến điểm hẹn vào lúc chín giờ. Siméon và đồng bọn của y đã có mặt ở đó. Hai kẻ đó đã trói và bịt miệng cô ấy rồi đưa cô ấy đến đây. Hãy để ý rằng đối với chúng nơi ẩn náp là rất an toàn, bởi lẽ dường như tôi và anh chưa phát hiện ra cái bẫy. Tuy nhiên có thể cho rằng đây chỉ là chỗ ẩn náu tạm thời, được sử dụng cho một quãng thời gian trong đêm mà thôi, và Siméon có ý định để cho một tên nữ đồng bọn canh chừng Coralie và tự mình tìm kiếm một hang ổ cuối cùng, một nhà tù. Nhưng may thay – về điều này tôi không che giấu một niềm tự hào nhỏ: Ya-Bon đã xuất hiện. Ya-Bon, giấu mình trong bóng tối và canh chừng mọi sự từ chiếc ghế băng của anh ta. Chắc anh ta đã thấy những người đó đi qua bờ đê và từ xa đã nhận ra dáng đi của Siméon, hẳn là vậy.
– Ngay lập tức, Ya-Bon nhảy lên cầu chiếc xà lan và đến nơi đây cùng lúc với hai kẻ bắt cóc, trước khi bọn này kịp đóng cửa lại. Bốn người ở trong căn phòng quá hẹp này, tất nhiên sẽ phải tạo ra một cuộc xô xát ghê gớm. Tôi biết rất rõ Ya-Bon: trong những trường hợp như thế này, anh ta thật khủng khiếp. Thật đen đủi, kẻ bị anh ta siết chặt trong bàn tay không khoan nhượng của mình lại không phải là Siméon, đó là… là người phụ nữ đồng bọn của y. Siméon đã biết lợi dụng bối cảnh này. Không buông tha Coralie, y mang cô ta theo, ném cô xuống từ trên cầu thang, và quay lại khoá trái cửa, giam hai đối thủ đang quần nhau lại.
– Ông tin vậy chứ? Ông nghĩ rằng chính Ya-Bon chứ không phải là Siméon đã giết người đàn bà này?
– Chắc chắn. Nên không có bằng chứng nào khác thì đã có vết gãy thanh quản này, một dấu tích đặc trưng của Ya-Bon. Điều tôi không hiểu, đó là lý do tại sao Ya-Bon không xô đổ cánh cửa bằng một cú huých vai để đuổi theo Siméon, sau khi đã hạ gục đối phương. Tôi giả thiết rằng anh ta bị thương và không còn đủ sức để làm việc đó. Tôi cũng cho rằng người phụ nữ không chết ngay lập tức, và đã khai ra những điều bất lợi cho Siméon, kẻ đã bỏ rơi thay vì bảo vệ cô ta. Theo đó, Ya-Bon đã phá vỡ kính cửa…
– Để nhảy xuống sông Seine khi đã bị thương và lại chỉ có một cánh tay ư? Patrice phản đối.
– Không đời nào. Có một gờ mép dọc theo cửa sổ này để anh ta có thể đặt chân lên và thoát ra theo lối đó.
– Cứ cho là thế, nhưng khi đó anh ta đã bị chậm tới mười giờ hai mươi phút so với Siméon.
– Có hề gì đâu, nếu như trước khi chết, người đàn bà này đã kịp cho anh ta biết nơi ẩn náu của Siméon?
– Làm sao mà biết được điều đó?
– Đó chính là điều mà tôi tìm kiếm từ khi bắt đầu cuộc đối thoại của chúng ta, đại uý thân mến ạ… và là điều mà tôi vừa khám phá được.
– Tại đây?
– Mới đây thôi, và tôi không chờ đợi điều gì kém thế ở Ya-Bon. Người đàn bà này đã chỉ cho anh ta một chỗ nào đó trong cabin – đây, chắc là cái ngăn kéo mở toang này – có một cái danh thiếp ghi một địa chỉ nào đó. Ya-Bon đã thấy tấm danh thiếp trứ danh này và đã cài nó lên tấm rèm này để báo hiệu cho tôi. Tôi đã nhìn thấy nó từ nãy nhưng đến bây giờ mới nhận ra chiếc ghim đính nó. Một chiếc ghim bằng vàng mà chính tay tôi đã dùng để gắn lên ngực Ya-Bon huân chương của Maroc.
– Và địa chỉ này?
– Amédée Vacherot, số 18 phố Guimard. Phố Guimard ở ngay gần đây thôi, điều này khẳng định rằng thông tin là chính xác.
Họ lập tức đi ra, bỏ lại xác chết của người đàn bà. Như don Luis đã nói, cảnh sát sẽ đảm trách phần việc đó.
Đi ngang qua công trường Berthou, họ liếc nhìn vào ngôi nhà nhỏ, và Don Luis nhận xét:
– Ở đây thiếu một cái thang. Hãy nhớ lấy chi tiết này. Vậy là Siméon chắc đã qua đây, và bản thân Siméon cũng đã bắt đầu phạm sai lầm.
Ô tô đưa họ đến phố Guimard, một phố nhỏ với số nhà mười tám là một khu nhà cho thuê cũ kỹ. Họ bấm chuông gọi cửa, vào lúc hai giờ sáng.
Người ta mở cửa khá chậm chạp và khi họ đi qua vòm cổng, người gác cổng vươn cổ ra hỏi.
– Ai thế?
– Chúng tôi cần gặp ông Amédée Vacherot gấp.
– Tôi đây.
– Ông à?
– Chính tôi đây, người gác cổng. Nhưng có việc gì?
– Lệnh của quận trưởng. Don Luis vừa nói vừa đưa ra một huy chương nào đó.
Họ bước vào phòng gác.
Amédée Vacherot là một ông già hom hem, với một chòm râu trắng, trông như một ông thủ từ coi giữ nhà thờ.
– Hãy trả lời rõ ràng, don Luis ra lệnh bằng một giọng khô khốc, và đừng giở trò vòng vèo ra, hiểu chưa? Chúng tôi tìm ông Siméon Diodokis.
Người gác cống hốt hoảng.
– Để hại ông ấy ư? Nếu vì thế thì đừng hy vọng gì ở tôi. Thà thiêu tôi chết dần còn hơn là làm hại cái ông Siméon tốt bụng ấy.
Don Luis dịu giọng.
– Hại ông ấy? Ngược lại, chúng tôi tìm ông ấy để giúp ông ấy tránh khỏi một tai hoạ lớn.
– Một tai hoạ lớn, ông Vacherot kêu lên. Trời ạ, điều này chẳng làm tôi ngạc nhiên chút nào. Tôi chưa bao giờ thấy ông ấy bị kích động đến thế.
– Vậy là ông ấy đã đến đây?
– Vâng, sau nửa đêm một chút.
– Ông ấy còn ở đây chứ?
– Không, ông ấy đi rồi.
Patrice không giấu nổi một cử chỉ thất vọng và hỏi:
– Ông ấy có để lại ai ở đây không?
– Không, nhưng ông ấy muốn đem một người đến đây.
– Một phụ nữ?
Ông Vacherot lưỡng lự.
– Chúng tôi biết, don Luis tiếp tục, rằng ông Siméon Diodokis đang cố gắng giúp một người đàn bà ẩn náu và đây là một người mà ông ta tôn kính sâu sắc.
– Ông có thể cho tôi biết tên của người đàn bà đó không? Người gác cổng, không hết nghi ngờ, hỏi dò.
– Tất nhiên. Bà Essarès, vợ goá của ông chủ ngân hàng tại đó ông Siméon làm việc với tư cách là thư ký. Bà Essarès đang bị lùng tìm, ông ấy bảo vệ bà chống lại kẻ thù, và do chúng tôi cũng muốn giúp họ đồng thời nắm gọn toàn bộ vụ án nguy hiểm này, chúng tôi khẩn thiết yêu cầu ông…
– Vậy thì tốt, ông Vacherot hoàn toàn vững dạ nói. Tôi biết ông Siméon Diodokis từ nhiều năm nay. Ông ấy đã giúp đỡ tôi từ khi tôi còn làm nghề thợ mộc, cho tôi vay tiền, giúp tôi có được chỗ này và thường hay đến đây nói chuyện với tôi về nhiều thứ…
– Về những câu chuyện của ông ấy với ngài Essarès? Hay về các dự định của ông ta liên quan tới Patrice Belval của ông ta? don Luis hỏi, vẻ hờ hững.
Người gác cổng lại lưõng lự và rồi tiếp tục:
– Về đủ thứ. Cái ông Siméon ấy thật là một người tuyệt vời. Ông ấy đã làm được nhiều điều tốt đẹp, và đã dùng tôi để giúp ông hoàn thành những điều thiện của mình. Mới lúc nãy thôi, ông ấy liều cả thân mình để giúp bà Essarès…
– Một điều nữa thôi. Từ khi ngài Essarès mất, ông có gặp ông ấy nữa không?
– Không, đây là lần đầu tiên. Ông ấy đến đây vào lúc chuông đồng hồ điểm một giờ, vừa thở dốc vừa nghe ngóng tiếng động từ ngoài phố. – Người ta đuổi theo tôi, ông nói với tôi như vậy… Người ta đuổi theo tôi… tôi thề đấy… – Nhưng ai kia? tôi hỏi. “Anh không biết hắn đâu… hắn chỉ có một tay, nhưng hắn có thể vặn cổ anh… ” Và ông ấy câm bặt… để rồi lại tiếp tục hạ thấp giọng đến mức tôi phải khó khăn lắm mới nghe được: “Thế này, anh hãy đi theo tôi, chúng ta sẽ đi tìm một phụ nữ, bà Essarès… Người ta muốn giết bà ấy… Tôi đã giấu bà ấy rất kỹ, nhưng bà ấy đã ngất… cần phải mang bà ấy đi… Nhưng thôi, để tôi đi một mình; tôi sẽ xoay xở được… Nhưng, tôi muốn biết… Liệu căn phòng của tôi có còn trống không?” cần phải nói với các ông rằng ở đây có một căn phòng cho thuê, từ ngày ông ấy, đến lượt mình, phải trốn. Thỉnh thoảng ông ấy có trở lại đây, và ông ấy giữ căn phòng này để dự phòng, bởi vì đây là một căn phòng tách biệt với các căn hộ khác.
– Sau đó? Patrice hỏi, vẻ lo âu.
– Sau đó ư? nhưng ông ấy đi rồi.
– Nhưng vì sao ông ta chưa trở lại?
– Quả là điều đó thật đáng lo. Có thể cái người đàn ông theo dõi Siméon đã tấn công ông ấy chăng? Hoặc có thể là có một điều bất hạnh nào đến với bà… bà ấy chăng?
– Ông nói gì? Một điều bất hạnh với bà ấy sao?
– Đó là một nguy cơ có thể xảy ra. Khi ông ấy chỉ cho tôi cần phải đi theo hướng nào, ông ấy nói: “Nhanh lên, cần phải khẩn trương. Để cứu bà ấy, tôi đã vùi bà ta trong một cái hố… Hai đến ba giờ thì còn được. Nhưng nếu lâu hơn thì bà ấy sẽ chết ngạt mất… thiếu không khí… ”
– Patrice đã chộp lấy ông lão, anh không còn giữ được bình tĩnh. Coralie, đang ốm, kiệt sức, hấp hối ở đâu đó, là nạn nhân của nỗi sự hãi và thí mạng, cái ý nghĩ ấy khiên anh phát điên.
– Nói đi! Anh thét – Nói ngay lập tức. Nói ngay cô ấy đang ở đâu. Hừ! Ra các người tưởng rằng không cần đếm xỉa gì đến bọn ta sao? Cô ấy ở đâu? Hắn đã nói cho ông biết.. Ông biết điều đó…
Anh lay mạnh hai vai ông Vacherot và ném toạc vào ông ta cơn giận dữ của mình với một sự hung bạo cuồng dại.
Don Luis cười giễu cợt:
– Hay lắm, đại úy thân mến! Xin có lời khen ngợi! Hợp tác với tôi có khác, anh tiến bộ quá nhỉ. Bây giờ thì ông Vacherot đây sẽ khai tuốt!
– Thế hả, Patrice kêu lên, ông sẽ thấy tôi bắt lão ta khai ra như thế nào, lão khốn kiếp này!
– Vô ích thôi thưa ông, người gác cổng nói với một giọng trầm tĩnh và quyết đoán. Các ông đã lừa tôi. Các ông chính là kẻ thù của ông Siméon. Tôi sẽ không nói một lời nào để chỉ dẫn cho các ông.
– Lão không nói hử? Không nói sao?
Càng thêm tức giận, Patrice dí súng lục vào ông già.
– Ta đếm đến ba. Nếu lúc đó, lão vẫn chưa quyết định nói, lão sẽ thấy đại úy Patrice Halval này là người như thế nào.
Người gác cổng run rẩy. Nhìn mặt ông lão, có thể thấy một điều gì mới xảy ra đã làm thay đổi toàn bộ tình hình hiện tại.
– Đại uý Belval! ông nói gì thế? ông là đại uý Belval sao?
– Ái chà! Cái tên đó khiến cho lão phải suy nghĩ hả, đồ khốn!
– Ông là đại uý Belval? Patrice Belval?
– Xin phục vụ lão đây, nếu trong hai giây nữa lão không giải thích…
– Patrice Belval! Ông là Patrice Belval và ông tự coi mình là kẻ thù của ông Siméon? Không, không thể thế được. Sao! Ông muốn…
– Ta muốn hạ hắn như hạ một con chó… đúng, thằng vô lại Siméon của lão, và cả lão nữa, tên đồng bọn khốn kiếp… Hừ! một lũ đểu giả! Nhưng mà lão có nói không thì bảo?
– Kẻ bất hạnh! Người gác cổng lắp bắp… kẻ bất hạnh! Anh không biết mình đang làm gì đâu… Giết ông Siméon! Anh! Anh! nhưng anh là người cuối cùng trên trái đất này có thể gây nên một tội ác như thế!
– Thì sao? Nói mau, lão già khốn nạn!
– Anh, giết ông Siméon, anh, Patrice! Anh, đại uý Belval? Anh?
– Tại sao không hả?
– Có những điều…
– Điều gì?
– Vì rằng…
– Cái gì hả? Có nói không lão khốn này! Cái đó là gì?
– Anh, Patrice? Giết ông Siméon?
– Thế thì sao? Nói ngay, trời ạ. Tại sao không?
Người gác cổng câm bặt vài giây, rồi thì thầm:
– Anh là con trai ông ấy.
Cơn điên của Patrice, nỗi kinh hoàng vì cảnh Coralie nằm trong tay Siméon hoặc đang chết dần chết mòn trong một cái hố nào đó, sự mất kiên nhẫn đau xé lòng, nỗi hoảng sợ, tất cả bỗng nhường chỗ cho một giây phút bùng nổ, bộc lộ bằng tiếng cười phá lên.
– Con trai của Siméon! Lão nói gì thế! Ha ha! trò đùa thật buồn cười! Thật đấy, lão tìm ra được một lý do để cứu hắn mới hay ho chứ, đồ cướp già này! Chết tiệt, thuận tiện quá đấy. “Đừng giết người này, cha anh đấy.” Cha ta, con quỉ Siméon! Siméon Diodokis, cha của đại uý Belval! Không, cười vỡ bụng mất thôi!
Don Luis im lặng lắng nghe toàn bộ câu chuyện. Ông ra hiệu cho Patrice và nói:
– Đại uý, anh có thể cho phép tôi tìm hiểu câu chuyện này chứ? Vài phút là đủ, và điều này không hề làm ta chậm bước đâu, ngược lại là khác.
Và, không chờ câu trả lời của chàng quân nhân, ông quay về phía ông lão, và hỏi chậm rãi:
– Thưa ông Vacherot, chúng ta hãy giải thích mọi sự cho rõ ràng. Bởi lẽ đây là một việc có lợi cho tất cả mọi người. Chỉ cần nói rõ ràng và không thêm thắt những câu rỗng tuếch. Ông cũng đã nói quá nhiều lời vô bổ mà không kết thúc được điều cần nói. Siméon Diodokis không phải là tên thật ân nhân của ông, đúng không?
– Đúng vậy.
– Ông ta tên là Armand Belval và người yêu của ông ta gọi ông ấy là Patrice Belval.
– Đúng, như là tên gọi của con trai ông ấy.
– Tuy nhiên, ông Armand Belval đã từng là nạn nhân của cùng một vụ ám sát với người tình của ông, mẹ của Coralie Essarès?
– Đúng, nhưng mẹ của Coralie Essarès đã chết còn ông ấy thì không.
– Đó là ngày 14 tháng 4 năm 1895.
– Ngày 14 tháng 4 năm 1895.
Patrice kéo tay don Luis.
– Đi thôi, anh lắp bắp. Coralie đang hấp hối. Con quái vật đã chôn nàng. Chỉ điều đó là quan trọng.
Don Luis trả lời:
– Con quái vật, vậy anh không tin rằng đó là cha mình sao?
– Ông điên rồi!
– Tuy nhiên, đại uý thân mến, anh đang run kìa…
– Có thể… có thể… nhưng đó là vì Coralie. Tôi thậm chí không nghe thấy người này nói những gì! Trời! Thật là một cơn ác mộng khi phải nghe những lời ấy! Câm miệng ngay! Câm ngay! Đáng lẽ tôi phải bóp nghẹt lão ta!
Anh ngồi phịch xuống một chiếc ghế, khuỷu tay chống lên bàn và hai tay ôm đầu. Thật là những giây phút đáng sợ, và không một tai họa nào có thể gây ra một sự choáng váng sâu sắc đến vậy ở con người này.
Don Luis nhìn anh với ánh mắt thương cảm, rồi quay về phía ông Vacherot, ông nói:
– Ông Vacherot, xin ông hãy giải thích cho rõ. Chỉ vài từ thôi, đồng ý chứ? Không cần đi vào chi tiết, sau này sẽ hay. Vậy, ngày 14 tháng 4 năm 1895…
– Ngày 14 tháng 4 năm 1895, một công chứng viên đi cùng với một cảnh sát trưởng đã đến chỗ ông chủ tôi, ở ngay gần đây, đặt mua gấp hai chiếc quan tài. Tất cả xưởng mộc chúng tôi làm việc không ngừng. Đến mười giờ tối, ông chủ, một bạn đồng nghiệp và tôi, chúng tôi đến đi đến một ngôi nhà ở phố Raynouyard.
– Tôi biết. Tiếp tục đi.
– Ở đó có hai xác chết. Người ta bọc họ trong vải liệm và đặt họ vào trong quan tài. Rồi, đến mười một giờ, ông chủ và anh bạn tôi để lại tôi một mình cùng với một bà xơ. Lúc đó chỉ còn có việc đóng đinh lại mà thôi. Vào giây phút đó, bà xơ, cho đến lúc ấy vẫn thức cầu kinh, bắt đầu thiu thiu ngủ, và rồi điều đó xảy ra… Ôi! Điều đó làm tôi dựng tóc gáy, và không bao giờ quên được, thưa ông… tôi không đứng vững nữa… tái nhợt đi vì sợ… Thưa ông, xác người đàn ông bắt đầu cử động… ông ta vẫn còn sống.
Don Luis hỏi:
– Như vậy, lúc đó ông chưa biết gì về tội ác đã được thực hiện? Ông không biết gì về vụ ám sát?
– Vâng, người ta nói với chúng tôi rằng họ đã tự tử bằng khí ga. Hơn nữa, phải mất nhiều giờ, người đàn ông này mới tỉnh táo hoàn toàn. Ông ấy như bị đầu độc vậy.
– Nhưng tại sao ông không báo cho bà xơ biết?
– Tôi không biết nói gì cả. Lúc đó, tôi đang bàng hoàng. Tôi chỉ biết nhìn người chết sống lại, tỉnh dần lại, và cuối cùng mở mắt ra. Câu đầu tiên ông ta thốt ra là: “Cô ấy chết rồi, phải không?” Và ngay lập tức ông ấy nói: “Không được nói với ai hết. Bí mật hoàn toàn. Người ta sẽ nghĩ rằng tôi chết rồi, như thế tốt hơn.” Và không hiểu sao tôi đã đồng ý. Phép mầu này khiến cho tôi mất hết chủ động… Tôi vâng lời như một đứa trẻ vậy… Cuối cùng người đàn ông đứng dậy. Ông cúi mình bên chiếc quan tài kia, nhấc tấm liệm lên và hôn lên gương mặt của người đàn bà đã chết, và thì thầm; “Anh sẽ trả thù cho em. Tất cả đời anh sẽ nhằm mục đích trả thù cho em, và để thực hiện điều ước nguyện của em, đưa các con của anh và của em lại bên nhau. Nếu anh không đi theo em vào lúc này, thì đó là vì chúng, vì Patrice và Coralie. Vĩnh biệt em.” Rồi ông ấy nói: “Hãy giúp tôi.” Thế là chúng tôi đưa người đã khuất ra khỏi chiếc quan tài và chuyển bà ấy sang căn phòng nhỏ bên cạnh. Sau đó, chúng tôi xuống vườn, tìm những tảng đá lớn để cho vào quan tài thay cho hai cái xác. Sau khi xong việc, tôi đóng đinh vào hai chiếc quan tài và gọi bà xơ dậy rồi bỏ đi. Còn người đàn ông kia trốn trong căn phòng bên cùng với người đã khuất. Buổi sáng, nhà đòn đến đưa hai cỗ quan tài đi.
Patrice đã ngẩng đầu lên, và mái đầu co giật của anh hướng về phía don Luis và người gác cổng, ánh mắt chới với của anh dừng lại ở ông lão, và anh lẩm bẩm:
– Tuy nhiên, còn những ngôi mộ?… Những dòng chữ ghi rõ rằng những người quá cố an nghỉ ở đó, gần ngôi nhà nơi xảy ra vụ ám sát?… Cái nghĩa địa ấy?
– Armand Belval muốn vậy. Khi ấy tôi đang ở một căn phòng của toà nhà nơi ta đang đứng đây. Tôi đã thuê cho ông ấy một căn hộ để cư trú lén lút dưới tên Siméon Diodokis, bởi lẽ Armand Belval được coi là đã chết rồi, và ông ta ẩn náu ở đây trong nhiều tháng trời, không hề ra ngoài. Rồi với cái tên mới, và qua sự trung gian của tôi, ông ấy đã mua lại ngôi nhà của mình. Và dần dần, chúng tôi cùng nhau đào hai ngôi mộ, một cho Coralie và một cho chính ông ấy. Vâng, cho ông ấy, tôi xin nhắc lại, đó là điều ông ấy muốn. Patrice và Coralie đều đã chết. Làm như vậy, ông ấy có cảm giác là không phải xa rời người tình. Và có lẽ cũng nên cho các ông biết rằng sự tuyệt vọng đã khiến ông ấy hơi mất cân bằng… một chút thôi… và chỉ về những gì liên quan đến những kỷ niệm và sự thờ phụng người đàn bà qua đời ngày 14 tháng 4 năm 1895. Ông viết tên mình và tên bà ấy khắp nơi, trên mộ cũng như trên tường, trên cây và cả trên những dải hoa. Đó là tên của anh và của Coralie Essarès… Và ông ấy chỉ nghĩ đến việc trả thù kẻ sát nhân, về con trai mình và con gái người quá cố… Vâng! ông ấy chỉ nghĩ có thể trong tâm tưởng mình mà thôi! Chỉ nghĩ đến điều đó thôi!
Patrice, vẻ mặt điên loạn, giơ những nắm tay co quắp của anh về phía ông lão.
– Bằng chứng, anh dằn từng tiếng bằng một giọng nghèn nghẹn, bằng chứng ngay lập tức. Đang có một người phải chết, vì cái ý muốn tàn ác của tên cướp này… Có một người phụ nữ đang hấp hối. Bằng chứng..
– Đừng lo lắng gì cả, ông Vacherot nói. Người bạn của tôi chỉ có một ý nghĩ, đó là cứu người đàn bà đó, chứ không phải giết cô ấy…
– Y đã dụ chúng ta, ta và cô ấy, tới ngôi nhà đó để giết cả hai ta, như người ta đã giết cha mẹ chúng ta…
– Ông ấy chỉ tìm cách đưa hai người lại bên nhau, cô ấy và anh.
– Vâng, bằng cái chết.
– Bằng cuộc sống. Anh là con trai thân yêu của ông ấy. Ông ấy đã nói với tôi về anh một cách rất tự hào.
– Đó là một tên cướp, một con quái vật! Anh chàng quân nhân gằn giọng.
– Đó là người đàn ông tốt nhất trên đời, thưa ông, và đó là cha của ông.
Patrice chồm dậy, bị kích động bởi lời nói cay đắng này.
– Bằng chứng đâu, bằng chứng đâu! Anh kêu lên, tôi cấm lão nói thêm một từ nào trước khi đưa ra được sự thật không thể chối cãi được.
Ông lão không rời khỏi chỗ ngồi. Ông chỉ đưa tay về phía một bàn giấy màu gụ, mở một trong những ngăn kéo bằng cách ấn một lò xo. Rồi ông đưa cho hai người đàn ông một tập giấy.
– Ông chắc chắn là biết nét chữ của cha mình, phải không đại uý? Chắc ông còn cất giữ những thư từ mà ông ấy gửi cho ông khi ông còn đang học tại nước Anh. Vậy thì hãy đọc những bức thư mà ông ấy viết cho tôi đi. Ông sẽ thấy tên mình được nhắc đến hàng trăm lần, tên con trai ông ấy, và ông sẽ thấy tên của nàng Coralie mà ông ấy dành cho ông. Tất cả mọi điều về cuộc đời ông, những khoá học của ông, những chuyến du lịch, công việc, tất cả đều ở đó hết. Và ông cũng sẽ thấy những bức ảnh của mình mà ông ấy đã nhờ người ta chụp được, và cả những bức ảnh của Coralie mà ông ấy đã tiếp cận tại Salonique. Và trên hết, ông sẽ thấy sự căm thù của ông ấy với ngài Essarès, kẻ mà ông ấy làm thư ký, và cả những dự định trả thù, sự bền bỉ và lòng kiên nhẫn của ông ấy. Ông cũng sẽ thấy nỗi tuyệt vọng của cha mình khi biết tin Essarès sẽ cưới Coralie, và ngay sau đó là nỗi vui mừng vì sự trả thù sẽ đau đớn hơn nhiều khi ông ấy đưa được con trai mình đến với người vợ của Essarès.
Ông lão chuyển dần cho Patrice những bức thư mà chỉ mới liếc qua, anh đã nhận ra nét chữ của cha mình. Anh đọc ngấu nghiến những mẩu câu có nhắc đến tên anh.
Ông Vacherot, nhìn anh chăm chú:
– Ông có còn nghi ngờ gì không, thưa đại uý?
Chàng trai xiết chặt tay trên hai thái dương. Anh nhấn mạnh:
– Tôi đã nhìn thấy khuôn mặt ông ấy, phía trên lỗ hổng, tại ngôi nhà mà ông ấy giam chúng tôi… Ông ta xem chúng tôi chết dần… một bộ mặt đầy căm thù… ông ta còn căm ghét chúng tôi hơn cả Essarès…
– Nhầm lẫn! Ảo giác! ông lão phản đối.
– Hoặc điên loạn, Patrice lẩm bẩm.
Nhưng rồi anh đấm mạnh xuống bàn, bằng một hành động phản kháng.
– Không đúng! Không đúng! Anh thốt lên. Người này không phải là cha tôi. Không! Một kẻ bỉ ổi đến vậy…
Anh đi lại quay cuồng trong căn phòng gác và dừng lại trước mặt don Luis và nói với ông bằng một giọng đứt quãng.
– Chúng ta di thôi. Tôi cũng sẽ phát điên lên mất. Một cơn ác mộng… không còn từ nào khác… một cơn ác mộng trong đó mọi thứ đảo lộn và đầu óc bị lật ngược. Ta đi thôi… Coralie đang gặp nguy hiểm… Chỉ có điều đó là đáng kể…
Người gác cổng lắc đầu.
– Tôi sợ rằng…
– Ông sợ gì cơ chứ? Patrice gằn tiếng.
– Tôi sợ rằng người bạn tội nghiệp của tôi đã bị kẻ theo dõi ông ta đuổi kịp… bởi lẽ, nếu thế thì làm sao mà ông ấy cứu bà Essarès được. Ông ấy đã nói với tôi rằng ở chỗ đó người phụ nữ bất hạnh khó mà thở được.
– Cô ấy khó mà thở được… Patrice nhắc lại như không nghe thấy gì khác. Như vậy, Coralie đang hấp hối… Coralie…
Anh ra khỏi căn phòng gác như một người say, bám vào don Luis:
– Nàng phải chết rồi, phải không? Anh hỏi.
– Nhầm to rồi, don Luis nói. Siméon, cũng như anh, đang lên cơn sốt. Y đã chạm tới điểm gỡ nút rồi. Y đang run lên vì khiếp sợ và không kiểm soát được lời nói của mình. Tin tôi đi, Coralie không gặp phải nguy hiểm tức thời đâu. Chúng ta có vài giờ để hành động.
– Ông chắc chứ?
– Hoàn toàn chắc chắn.
– Nhưng Ya-Bon…
– Sao cơ?
– Nếu Ya-Bon đã bắt được hắn.
– Tôi đã ra lệnh cho Ya-Bon không được giết hắn. Vì thế, dù chuyện gì xảy ra đi nữa thì Siméon vẫn sống. Đó là điều cơ bản, Siméon còn sống thì không có gì đáng ngại cả. Y sẽ không để cho Coralie phải chết đâu.
– Vì sao, nếu y ghét nàng đến thế? Tại sao? Vậy điều gì là thực trong con người này? Toàn bộ cuộc đời mình, y dành tình yêu cho chúng tôi, và chỉ trong một phút, tình cảm đó lại trở thành sự kinh tởm.
Anh xiết chặt cánh tay của don Luis và hỏi bằng một giọng yếu ớt:
– Ông có tin rằng đó là cha tôi không?
– Nghe này… ta không thể chối bỏ một số sự trùng hợp…
– Tôi van ông, chàng trai ngắt lời… Không cần vòng vo… Một câu trả lời rõ ràng. Ông nghĩ gì, chỉ thế thôi.
Don Luis đáp lại:
– Đại uý, Siméon Diodokis là cha anh.
– Trời! Ông im đi! Ông im đi! Thật kinh khủng! Chúa ơi! Bóng tối ghê sợ!
– Trái lại! Don Luis nói, bóng tối đã bắt đầu tan đi một chút, và tôi xin thú thực rằng cuộc nói chuyện với ông Vacherot đã cho tôi thấy một số điều.
– Thật vậy sao?…
Nhưng trong trí não của Patrice, những ý nghĩ lộn xộn cứ chen lấn nhau.
Đột nhiên anh dừng lại.
– Siméon có thể sẽ quay lại khu nhà cho thuê? Và chúng ta không còn ở đó nữa! Có thể lão đã đem Coralie lại đó?
– Không, don Luis khẳng định, nếu có thể làm được thì lão đã làm rồi. Không, chính chúng ta cần phải tìm ra lão.
– Nhưng đi hướng nào đây?
– Ê này, trời đất! Đến nơi mà cuộc chiến đã diễn ra chứ sao… Phía có vàng. Mọi hành động của kẻ thù đều quay quanh chỗ vàng này, và anh có thể yên tâm rằng, kể cả khi lẩn trốn thì lão cũng không rời xa nó đâu. Mặt khác, ta biết rằng nó nằm không xa công trường Berthou.
Không một lời, Patrice để ông dẫn đi. Bỗng nhiên don Luis kêu lên:
– Anh có nghe thấy không?
– Có, một tiếng súng nổ.
Lúc này, họ đang ở đầu phố Raynouillard. Những ngôi nhà cao không cho phép họ nhận định địa điểm chính xác nơi có tiếng súng, nhưng dường như nó vang lên từ khách sạn Essarès hoặc vùng lân cận của khách sạn này. Patrice lo lắng:
– Có phải là Ya-Bon không?
– Tôi sợ là có, don Luis đáp, và do Ya-Bon không bắn, nên có thể là người ta đã bắn anh ấy… Lạy chúa, nếu anh bạn Ya-Bon khốn khổ làm sao thì…
– Liệu có phải là người ta bắn nàng, bắn Coralie không! Patrice nức nở.
Don Luis nở một nụ cười.
– Chà! Thưa đại uý, tôi gần như lấy làm tiếc là đã nhúng vào vụ này. Trước khi tôi có mặt, anh cũng không đến nỗi tồi cơ mà… và cũng khá sáng suốt. Vì lẽ cóc gì mà Siméon phải bắn Coralie nếu như nàng đang trong tay lão?
Họ bước nhanh. Khi đi qua khách sạn Essarès, tất cả đều tĩnh mịch và họ tiếp tục đi theo con đường dẫn đến phố nhỏ.
Patrice có chìa khoá, nhưng cánh cửa nhỏ ở phía vườn nhà đã bị cài then từ bên trong.
– Thế đấy, thế có nghĩa là ta đã đi đúng đường rồi. Hẹn gặp lại anh trên đê, đại uý ạ. Tôi quay lại công trường Berthou để kiểm tra lại xem.
 
Một ngày mới nhợt nhạt đã bắt đầu trộn dần vào màn đêm.
Don Luis không nhận thấy điều gì đặc biệt ở công trường Berthou, nhưng khi gặp Patrice, chàng trai liền chỉ cho ông thấy, trên lề đường bao quanh ngôi nhà, ở phía dưới, một chiếc thang đặt nằm, và Don Luis nhận ra chiếc thang mà ông đã nhận thấy biến mất khỏi ngôi nhà nhỏ ở công trường. Ngay tức thì, với khả năng nhận định kịp thời vốn là một trong những sức mạnh của mình, ông giải thích:
– Siméon có chìa khoá vườn, do đó chắc chắn là Ya-Bon đã dùng chiếc thang này để trèo vào. Vậy, anh ta đã thấy Siméon tìm chỗ ẩn nấp tại đó khi đi thăm ông bạn Vacherot trở về và sau khi nắm lại được Coralie. Lúc này Siméon đã kịp nắm lại Coralie hay có thể đã chạy trốn trước khi kịp mang nặng theo? Tôi không biết. Nhưng, trong mọi trường hợp…
Gập người lại, ông vừa quan sát vỉa hè vừa nói:
– Trong mọi trường hợp, điều chắc chắn là Ya-Bon đã biết nơi giấu các túi vàng, và rất có thể Coralie cũng bị giam giữ ở đó và cũng có thể – nếu thế thì thật bất hạnh – là nàng vẫn còn ở đó, nếu kẻ thù nghĩ đến sự an toàn của bản thân mà không có thời gian để đưa nàng ra.
– Ông chắc chứ?
– Đại uý, Ya-Bon luôn mang theo người một mẩu phấn. Do anh ấy không biết đọc – trừ những chữ tên tôi ra – nên anh ấy đã vẽ hai đường thẳng và cùng với đường thẳng của bức tường mà anh ấy cũng đã tô đậm thêm, tạo thành một tam giác. “Tam giác vàng.”
Don Luis đứng thẳng người dậy.
– Chỉ dẫn thật ngắn gọn. Nhưng Ya-Bon nghĩ rằng tôi là một phù thuỷ. Anh ta không hề nghi ngờ rằng tôi có thể không đến được đây và rằng ba dòng kẻ này không đủ cho tôi hiểu. Ya-Bon tội nghiệp!
– Nhưng, Patrice phản đối, theo ông, những điều này đã xảy ra trước khi chúng ta đến Paris, tức là khoảng nửa đêm hoặc một giờ sáng.
– Đúng.
– Và như vậy, tiếng súng mà ta nghe thấy ban nãy, xảy ra từ bốn đến năm tiếng sau đó?
– Về điểm này thì tôi không dám chắc. Có thể phỏng đoán rằng Siméon đã ẩn nấp trong bóng tối. Và chỉ đến khi mờ sáng, khi đã yên tâm và chắc chắc là không nghe thấy Ya-Bon, lão mới đánh liều đi ra ngoài. Ya-Bon, lúc này vẫn lặng lẽ rình rập, đã nhảy vào lão.
– Có nghĩa là ông nghĩ rằng…
– Tôi nghĩ rằng đã xảy ra một cuộc chiến, ràng Ya-Bon đã bị thương và rằng Siméon…
– Rằng Siméon đã chạy chốn?
– Hoặc đã chết. Phần còn lại thì chúng ta sẽ được biết chỉ trong vài phút nữa thôi.
Ông dựng thang dựa vào tấm lưới sắt trên tường. Được don Luis giúp, viên đại uý trèo qua. Sau đó, khi đến lượt mình đã vượt qua được tấm lưới sắt, don Luis kéo thang, ném nó vào trong tường và kiểm tra chiếc thang một cách chăm chú. Cuối cùng, họ rẽ đám cỏ dày và những bụi rậm đế tiến về ngôi nhà.
Bình minh bừng lên rất nhanh, và mọi vật trở nên rõ nét. Họ đi vòng quanh ngôi nhà.
Đến sân trước, don Luis, đang đi phía trước, quay lại và nói:
– Tôi đã không nhầm.
Ngay lập tức ông lao lên.
Trước cửa tiền sảnh, cơ thể hai địch thủ nằm đó, quấn chặt lấy nhau. Trên đầu Ya-Bon là một vết thương đáng sợ, từ đó máu tuôn ra đầy mặt. Tay phải anh ta siết chặt cổ Siméon.
Don Luis lập tức nhận ra rằng Ya-Bon đã chết. Siméon Diodokis còn sống.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.