Thạch thảo trong cơn bão

Chương 02 phần 2



“Tôi không muốn,” gã dứt khoát.

“Lại đây, lại đây.” Ngài Milner để cửa mở khiến tiếng ồn ào khẽ vọng lại từ phòng hội thảo. “Vậy chúng ta cùng đi luôn thôi, phải không ông Timms?”

Jervaulx nắm lấy cánh tay cha nàng, đích thân dẫn ông vào đại sảnh, xuống các bậc thang tới hàng ghế đầu tiên. Vị chủ tịch vẫy Maddy lên dãy ghế trên diễn đài, Công tước đi sau nàng, bước chân họ ầm vang trên mặt sàn gỗ. Gã dịu dàng chỉnh ghế cho nàng rồi vẩy nhẹ đuôi áo với phong thái sang trọng, thư thái khi ngồi xuống cạnh.

Hội trường lặng như tờ khi ngài Chủ tịch Milner bước lên bục, chỉnh lại chụp của cây đèn dầu nhỏ và hắng giọng. Maddy nhìn chằm chằm vào biển mặt bên dưới, mỗi gương mặt được viền một cổ cồn trắng dường như trôi nổi bồng bềnh trên lễ phục đen. Nàng đã tham dự nhiều buổi gặp mặt của cả Hiệp hội Giải tích lần Ái hữu Hội, chiếm một chỗ ở hàng ghế bên dưới cùng cha, nhưng chưa bao giờ nàng ngồi trước cử tọa, còn nói gì đến cử tọa đông chừng này. Nàng cố tự nhủ rằng mọi người đang tập trung vào ngài Chủ tịch, người vừa ổn định trật tự và giờ bắt đầu giới thiệu bài tham luận mà cha nàng là đồng tác giả, nhưng rất dễ nhận ra tâm trí và ánh mắt khác thường di chuyển ra sao. Một số quý ông ở hàng đầu tiên rõ ràng đang nhìn qua Chủ tịch Milner: nhắm thẳng vào nàng hay Công tước thì nàng không chắc, nhưng nàng cảm thấy đang bị bóc mẽ một cách khổ sở trong chiếc váy lụa tầm thường và chuỗi ngọc trai.

Nàng cũng nhận thức sâu sắc rằng, bên cạnh nàng, Jervaulx mới thực kì vĩ, vững chãi và áp đảo làm sao trong bộ dạ phục sẫm như trời đêm, đôi tay đeo găng trắng đặt trên đùi, không chút run rẩy hay bất an trong khi Maddy phải ép mình ngừng vặn vẹo mười ngón tay. Gã dường như rất chắc chắn về bản thân, thật thoải mái và thờ ơ trước sức nặng của những con mắt đang dán chặt lấy gã khi Chủ tịch Milner bày tỏ niềm vinh dự mà quan khách ai ai cũng đều cảm thấy khi nhân vật chói sáng như Christian Richard Nicholas Francis Langland, Công tước Jervaulx, kiêm Bá tước Langland và Tử tước Glade đã hạ cố tới góp mặt cùng Hiệp hội Giải tích London tối nay.

Công tước đứng lên vỗ tay. Giấy tờ đã đưa cả cho Maddy, gã chỉ có tay không. Đáng lẽ nàng phải biết rằng gã là một tài năng diễn thuyết với chất giọng êm tai, thư thái như thế, giọng nói ấy đầy truyền cảm khi gã nghiêm trang tuyên bố rằng bài thuyết trình này xin dành tặng cho vị gia sư quá cố của mình, ông Peeples, một con người đáng kính và uyên thâm, một tấm gương sáng trong nghề nghiệp, xứng đáng với sự yêu mến và kính trọng vĩnh cửu của học trò, và Công tước thành thật lấy làm tiếc về con cá chết trương trong sách giáo khoa của thầy.

Hội trường cười rộ lên, thậm chí cả cha nàng cũng cười.

Nó khiến Jervaulx thấy đau buốt, cái kí ức về mùi cá chết ấy, và bằng cách nào đó thứ mùi ấy dẫn đường tới trang sách mà nó “tô điểm”, và trang đó dẫn tới Tiên đề Euclid về đường thẳng song song cùng hình học vi phân, và rồi giữa tiếng rúc rích nhạo báng còn chưa dứt rằng gã đam mê nghiên cứu sức quyến rũ của những đường cong khôn cưỡng, gã quay người gật đầu ra hiệu với nàng.

Maddy bật dậy, tóm lấy phấn bắt đầu viết đầy tấm bảng lớn. Nàng đã quen với chữ viết tay của Công tước nhưng chữ gã vẫn luôn khó đọc. Lúc này nàng không dám phạm bất kì một lỗi nào, tập trung toàn bộ tâm trí vào việc chép lại chính xác các phương trình, vẽ những đường tròn và đường thẳng cắt qua chúng. Những giờ làm việc bất tận cùng cha đã tập cho nàng thói quen bắt nhịp được với người nói, nàng lắng tai đợi những dãy số nhất định trong khi Jervaulx thuyết giảng, quyết định xem lúc nào thì viết ra phương trình kế tiếp và xóa phần đã xong để lấy thêm diện tích. Nàng chỉ bị chệch choạc có một lần khi mải mê quá lâu với một trang cho tới khi Jervaulx ngừng lại và quay sang ra hiệu, nàng vội vã xóa đi năm phương trình và chép nhanh nửa đầu trang tiếp theo của Công tước.

Đến trang viết cuối thì nàng đã vượt gã, gã vần còn đang ở vài bước chứng minh trước đó. Nhưng khi Maddy chép xong phương trình cuối cùng, thêm một điểm trang trí nhỏ vào dấu tích phân có cận từ 0 đến cho vui mắt hơn một chút rồi lập tức ngồi xuống thì tiếng rì rầm bắt đầu lan đi giữa cử tọa. Jervaulx vẫn tiếp tục trình bày. Từ từ, các quý ông bên dưới bắt đầu đứng lên, một người, rồi người nữa, rồi nhóm hai, ba, bốn, năm người, thảy đều trân trối dán mắt vào bảng.

Ai đó vỗ tay. Vài người khác bắt nhịp theo. Âm thanh bốp bốp mỗi lúc một dày hơn khi càng lúc càng nhiều người đứng dậy. Tiếng vỗ tay trở thành tràng pháo tay và tràng pháo tay biến thành hợp âm vang dội khắp phòng, nhấn chìm mọi từ ngữ.

Công tước ngừng nói. Giữa tiếng hoan hô ầm ĩ, gã ngoảnh nhìn Maddy, môi nở nụ cười, rồi chực rời bục diễn thuyết để đi về phía cha nàng nhưng ông Milner đã đưa cha lên đó.

Sức mãnh liệt và âm vang của tiếng tung hô nhân lên gấp đôi, các quý ông bắt đầu giậm chân, khiến cả căn phòng rung chuyển. Maddy đứng lên, nắm lấy bàn tay cha, hạnh phúc siết chặt nó. Ông vỗ lên mu bàn tay nàng và một nụ cười run rẩy hiện lên khóe môi ông, niềm phấn khởi đang bung nở trên khuôn mặt ông là điều mà Maddy chưa từng thấy lại kể từ ngày mẹ nàng qua đời sáu năm về trước.

Một nguồn năng lượng thuần khiết đang vỡ òa quanh họ, một sự kính trọng náo nức nhiệt thành có thể sờ mó được. Jervaulx đưa tay ra bắt tay cha nàng, cứ nắm mãi như thế khi cha nàng không chịu buông tay. Công tước hơi cúi đầu, nở một nụ cười thoáng xấu hổ: một cái nhìn, nếu Maddy có thể khiến mình tin nổi, gần như là ngượng ngùng. Trong một khoảnh khắc, người ta cơ hồ có thể tưởng tượng ra gã là một cậu trai hăng hái và kì dị, tràn đầy đam mê trong trẻo, và rồi gã quay lại phía nàng, nâng bàn tay nàng lên, cúi xuống trao cho nàng ánh mắt của một người đàn ông hoàn toàn từng trải sành đời: vẻ thân mật khêu gợi khiến người ta nhận ra gã là tên đểu cáng từ cách xa năm mươi bước.

Gã kề sát bên tai nàng, nắm tay nàng mà giữ nàng gần đến nỗi nàng có thể cảm nhận hơi ấm tỏa ra từ cơ thể và hít mùi đàn hương thoang thoảng. “Cô thấy sao, cô Archimedea?” Gã hỏi, chỉ vừa đủ to để nàng nghe được giữa hội trường ầm ĩ.

Maddy lùi lại một bước, giằng người ra. “Chúng ta vừa làm gì thế ạ?”

“Mấy người vừa làm gì ư?” Chủ tịch Milner kêu to. “Chứng minh một bài hình học phi Euclid, cô gái của tôi ơi! Phá tan tiên đề về đường thẳng song song! Một vũ trụ hoàn toàn mới! Lạy Chúa, nếu quả thực công trình này không hề có sai sót nào như ta đang thấy…” Ông vỗ lên cả lưng cha lẫn Công tước, hét lên giữa âm thanh inh tai. “Hai người đúng là một cặp phù thủy, các ông bạn của tôi! Phù thủy!”

“Quyền tác giả là của mình cậu, Ái hữu ạ,” cha nhắc lại. Maddy đã đếm được sáu lần, đây là lần thứ bảy ông nói vậy. “Chính xác là thế.”

Jervaulx lắc đầu nhấp một ngụm rượu. “Vớ vẩn nào, ngài Timms.” Gã nở nụ cười nham hiểm. “Ngài sẽ phải làm phần việc khó khăn đấy. Viết tất cả lên giấy.”

Bốn người đang ngồi quanh một cái bàn tròn bên trong cửa sổ nhô ra của một căn phòng đáng yêu ấm cúng trông ra quảng trường bóng tối phủ đầy. Maddy chưa từng vào sâu trong dinh thự của Công tước đến thế, những chiếc ghế êm ái bọc vải hoa màu lơ khiến nàng ngạc nhiên. Nàng không ngờ rằng một kẻ độc thân có thể tạo ra ngôi nhà ấm áp dường này.

Lúc này nom gã tuyền vẻ độc thân, ghế dịch xa khỏi bàn ăn đã được dọn sạch, chân duỗi thoải mái, những ngón tay lơ đễnh đong đưa li rượu. Maddy ngồi nghiêm trang trên ghế, chỉ len lén liếc nhìn quanh phòng để thấy nó tông xuyệt tông đến mức nào.

Cha nàng xúc động và mãn nguyện, hơi lơ đãng, như thể ông vẫn còn chưa tin nổi giây phút đỉnh cao tối nay là thực: khi Công tước Jervaulx, sau món cá với măng tây tuyệt ngon và đẹp mắt, bỗng dưng hỏi liệu ông có vui lòng nhận một vị trí giảng dạy toán học tại trường đại học mới mà gã và các đồng minh chính trị đang lập ra không, nơi mà phần xét tuyển không có khảo nghiệm về tôn giáo mà chỉ nhằm mục đích giáo dục những học viên trưởng thành trong mọi lĩnh vực của tri thức hiện đại.

Khi vỡ lẽ rằng hóa ra Công tước là nhà bảo trợ cho một công cuộc đáng kính, những người còn lại rõ ràng bị choáng như bị giáng một cú đánh. Nhưng trên thực tế, gã quá thông minh, quá thuyết phục trong chủ đề này, đến nỗi thậm chí cả Ái hữu Milner – một người thuộc phái trọng Giáo hội, người ban đầu rất tức giận khi nhà Timms gọi ông là “Ái hữu” thay vì “Ngài Charles”, dù theo thời gian ông cũng quen với việc này – thậm chí cả Ái hữu Milner cũng bị cải biến những nghi ngờ ban đầu thành lòng nhiệt tình và khuyên cha nên nghiêm túc cân nhắc lời đề nghị này.

Cha Maddy, như nàng thấy, đã đi xa hơn cả cân nhắc và đang đắm mình trong giấc mơ hoan hỉ. Và thực ra, khi Công tước nhắc đến khoản trợ cấp mà gã sẵn lòng dành cho vị trí giảng dạy toán học, Maddy cảm thấy chính mình cũng được khuyến khích vô kể. Chẳng hay hớm gì khi có một kẻ phóng đãng suốt ngày phơi mặt trên báo chí làm nhà bảo trợ cho mình, nhưng chỉ cần hạn chế giao thiệp là được thôi mà. Nàng mơ màng nghĩ đến hình ảnh một ngôi nhà đủ rộng để có một mảnh vườn, và một chiếc chuông gọi người hầu luôn hoạt động tốt.

Giữa những cơn mộng tưởng êm ái đó, Ái hữu Milner xin phép ra ngoài hút thuốc. Ông để cửa khép hờ và lập tức tiếng chân chó hối hả gõ trên sàn nhà bóng loáng báo trước sự xuất hiện của một chú chó săn lông xù, bộ lông trắng mượt mà lốm đốm đen tung bay như thể một thùng sơn đen vừa hắt lên mình chú. Chỉ đưa mắt nhìn Công tước có một cái, con vật lao thẳng vào Maddy và yên vị trên đùi nàng, hai chân trước duỗi sóng soài trên váy nàng và cái mũi hồng đốm hếch lên trong lúc chú liếm cằm nàng.

“Devil!” Tiếng mắng nghiêm khắc khiến chú chó quay sang nhìn Jervaulx dò hỏi, ngoe nguẩy đuôi nhưng không rút chân khỏi đùi Maddy.

Nàng mỉm cười và vuốt ve tai chú. “Chó hư,” nàng khe khẽ thầm thì, như thể đó là một bí mật giữa họ. “Mày quả là một con chó hư.” Devil ngước đôi mắt nâu trìu mến nhìn nàng, nhe răng trước lời kết tội kia. Một tiếng hừ vang lên từ phía Công tước khiến cái đầu lốm đốm cúi xuống. Trán nhăn lại vẻ hối lỗi, Devil tuồn xuống sàn. Jervaulx trừng mắt với chú chó. Một khắc sau, đuôi Devil rũ xuống và chú rời căn phòng với dáng vẻ buồn bã, lủi thủi nhất đời. Chủ nhân của chú, thật không có trái tim, đứng dậy đóng cửa nhốt chú bên ngoài.

Devil bị đuổi ra rồi, căn phòng trở nên tĩnh lặng. Maddy nhìn đăm đăm tấm khăn trải bàn trắng như tuyết trước mặt trong khi Công tước ngồi vào chỗ với một lời xin lỗi ngắn gọn. Nàng có cảm tưởng rằng Jervaulx sẽ nghĩ người nhà Timms rất thiếu tao nhã, có quá nhiều khoảng lặng mà anh ta và Ái hữu Milner bị buộc phải vá lấp. Maddy không quen với những cuộc trò chuyện nhàn tản thế này, khi còn nhỏ nàng đã tự rèn luyện bản thân quá mức theo lời dạy “Chớ vội mở miệng ra” trong Kinh Thánh để giờ thấy khó mà chuyện phiếm dễ dàng. Nàng yêu chó nhưng chưa từng nuôi chúng hay biết đến loại chó nào ngoài chó lai nên nàng cũng chẳng có gì để đàm luận về chủ đề này cùng một người như Jervaulx, người có lẽ là một tay nuôi chó nổi tiếng hoặc đại loại như vậy và sẽ cho là nàng thiếu hiểu biết đến đáng thương.

Nàng cũng rất muốn hỏi về giá cả của loại vải bọc ghế đẹp đẽ ở đây nhưng cố nén. Ngôi nhà mộc mạc của tín đồ phái Giáo hữu không có những thứ trang trí trần tục như nệm ghế bọc vải hoa hay tranh treo khắp tường. Tranh ảnh duy nhất trong nhà Timms là một bức họa kì cục vẽ một con thuyền nô lệ được các bận trưởng bối chấp nhận, coi đó là lời nhắc nhở về những đồng bào còn đang chịu khổ ải. Và khi nàng đang mải ngắm một bức tĩnh vật có khung cầu kì treo phía trên giá nhạc với chủ đề giản dị đến lạ với những cành tử đinh hương tơi tả rơi bên một ổ trứng chim cổ đỏ, Jervaulx lên tiếng.

“Mắt ngài không thấy đường từ bao lâu rồi, ngài Timms?”

Người Maddy hơi cứng lại trên ghế, ngạc nhiên trước câu hỏi riêng tư như vậy. Nhưng cha nàng chỉ ôn tồn đáp, “Nhiều năm rồi. Gần… mười lăm năm, phải không Maddy?”

“Mười tám năm, thưa cha,” nàng khẽ sửa lại.

“À.” Ông gật đầu. “Và con là phước lành giời ban cho ta trong suốt những năm tháng đó, bé Maddy ạ.”

Jervaulx ngồi thoải mái khuỷu tay tựa vào thành ghế, cằm tì vào nắm tay. “Vậy là ngài không nhìn thấy con gái kể từ khi cô ấy còn nhỏ,” gã lẩm bẩm. “Tôi có thể tả cô ấy cho ngài nghe không?”

Maddy không chuẩn bị tinh thần để đón nhận một đề nghị như vậy hay cả ánh sáng hân hoan đang rạng ngời trên mặt cha nàng. Nhưng câu phản đối của nàng chưa kịp thốt ra thì đã bị bóp nghẹt khi cha nàng đáp, “Thật không? Ngài sẽ tả con bé thật chứ?”

Jervaulx chăm chú nhìn Maddy. Trong khi mặt nàng nóng dần lên thì nụ cười của gã chuyển thành điệu cười bất lương kia, và gã nói, “Đó là vinh hạnh của tôi.” Gã nghiêng đầu săm soi nàng. “Chúng ta vừa khiến khuôn mặt cô ấy ửng hồng, tôi e là vậy – một màu hồng rất tinh tế, màu của… những đám mây. Tựa như sương mai nhuốm hồng vào buổi bình minh, ngài còn nhớ điều tôi tả không?”

“Có,” cha nàng nghiêm trang trả lời.

“Khuôn mặt cô ấy… trang nghiêm, nhưng không khắc nghiệt. Mềm mại hơn thế, nhưng cô ấy rất biết cách hếch cằm lên khiến nam giới phải khựng lại. Cô ấy cao hơn ngài, nhưng không cao quá. Là bởi cái cằm đó, tôi nghĩ vậy, và dáng điệu thẳng tắp, lặng lẽ mà cô ấy cố giữ cho mình. Nó khiến cô ấy trông cao hơn. Nhưng cô ấy chỉ đứng đến mũi tôi, nên… chắc chắn cô ấy phải thấp hơn một mét tám ba độ mười ba phân,” gã khôn ngoan nói tiếp. “Tôi trông cô ấy có vẻ khỏe mạnh, không gầy hay béo quá. Với dáng vóc rất chuẩn.”

“Giống một con bò sữa tốt nhỉ!” Maddy kêu lên.

“Và kìa, cái cằm đã hếch lên,” Jervaulx tiếp lời. “Bị tôi chọc tức, sắc da cô ấy có lẽ hơi chuyển sang màu rượu vang. Suốt từ cổ lên má, thậm chí cả dưới cổ một tí, nhưng trễ hơn thế thì hoàn toàn mềm mịn và xanh xao, đến hết chừng mắt tôi có thể quan sát được.”

Maddy hấp tấp đưa tay lên che phần cổ áo chữ V, bỗng dưng cảm thấy nó được cắt quá trễ. “Cha…” Nàng nhìn cha mình nhưng mặt ông đang hơi cúi xuống và trên môi ông rõ ràng nở một nụ cười kì dị.

“Tóc cô ấy,” Jervaulx vẫn tiếp tục, “có màu vàng lạt ở phần ánh nến chiếu vào, còn những phần khác… sậm hơn – giống màu ánh sáng chiếu qua khi ông rót bia đen. Cô ấy bện tóc và cuốn gọn trên đỉnh đầu. Tôi tin rằng cô ấy cho đây là kiểu tóc đơn giản mà không nhận ra hiệu quả của nó. Nó phô bày đường cong của cổ và gáy, đốt lên trong lòng đàn ông cái khát khao được gỡ mớ tóc kia xuống, để nó chảy qua những ngón tay mình.”

“Anh không đứng đắn rồi,” cha nàng khiển tránh bằng giọng điềm đạm.

“Xin lỗi, thưa ngài Timms. Tôi không ghìm nổi bản thân. Giờ chúng ta tả đến mũi của cô ấy nhỉ? Về nó, chúng ta nên gọi nó là một cái mũi rất… cá tính. Tôi không nghĩ chúng ta có thể coi nó là hoàn hảo, nó hơi khoằm. Một cái mũi cứng cỏi. Cái mũi của một bà cô. Nó hợp với độ nghiêng của cái cằm. Nhưng đôi mắt… Tôi e rằng chính đôi mắt lần nữa lại làm hỏng cái hiệu ứng bà cô, rõ ràng là vậy. Và cái miệng. Cô ấy có một cái miệng thâm trầm, rất đẹp, hiếm khi mỉm cười.” Gã nhấp một ngụm rượu. “Dầu sao, chúng ta nên công bằng. Tôi rõ ràng đã nhìn thấy nụ cười của cô ấy dành cho ngài, nhưng cô ấy chưa từng ban tặng nó cho tôi. Cái miệng nghiêm nghị kia hẳn đã có thể nom hơi tẻ, nhưng rồi nó lại rất hợp với đôi hàng mi dài tuyệt đẹp chưa qua mấy trò uốn tỉa lố bịch. Chúng thẳng nhưng thật dài, hơi xiên xuống, che rợp đôi mắt và biến màu nâu đỏ thành sắc vàng, và vẻ như cô ấy đang nhìn thẳng vào tôi qua bóng mi dày ấy. Không…” Gã rầu rĩ lắc đầu. “Cô Timms, tôi rất tiếc phải báo với cô rằng cái nhìn ấy chẳng đem lại tí hiệu ứng bà cô nào. Tôi chưa từng thấy bà cô nào nhìn tôi qua hàng mi rợp theo cách đó.”

Trong ngôi nhà của gã, bên bàn ăn của gã, nàng cảm thấy không thể nói lên chính xác điều mình nghĩ về gã và đám bà cô của gã. Vả lại, cha nàng có vẻ thích thú. “Maddy,” ông thầm thì. “Con giống mẹ của con.”

“Tất nhiên rồi cha,” nàng bất lực đáp. “Chưa ai bảo cha vậy sao?”

“Chưa. Chưa một ai.”

Ông nói lời đó không kèm theo cảm xúc gì đặc biệt. Nhưng bên ánh nến bập bùng, nàng có thể thấy những giọt lệ long lanh trong mắt ông. “Cha,” nàng nói và tìm tay cha. Ông gạt lệ rồi đưa những ngón tay lên chạm vào mặt nàng. Ông dò dẫm một cách chậm rãi, chăm chú, từ má nàng qua cặp mi của nàng. Nàng đan chặt tay, xấu hổ và bỗng thấy những giọt nước mắt ngu ngốc chực trào ra.

Nàng chưa từng nghĩ tới điều này: nàng có thể ngồi để cha mường tượng ra mình bằng những ngón tay như thế bất kì lúc nào. Trông ông mới hạnh phúc làm sao. Chỉ là cuộc sống cứ tiếp diễn, ngày này qua ngày khác, và chưa ai từng nghĩ đến chuyện cha đã không thấy mặt nàng trong suốt mười tám năm nay hay liệu ông có ước ao được thấy hay không.

“Cảm ơn anh, Ái hữu,” cha nàng nói, quay mặt về phía Công tước. “Tôi cảm ơn anh. Đây là một trong những ngày tốt đẹp nhất của đời tôi.”

Jervaulx không trả lời. Trông gã thậm chí còn không nghe thấy, gã chỉ ngồi đó trừng trừng nhìn nếp gấp của khăn trải bàn, đôi mắt xanh sẫm trầm tư và cái miệng cướp biển của gã bặm lại.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.