Thám tử rời sân khấu

Chương 14



Tôi lập tức chuyển lời mời của Poirot tới Norton. Anh nói:

– Được. Tôi sẽ gặp. Nhưng, ông Hastings ạ, có lẽ tôi rất tiếc là đã nói ra chuyện này, ngay cả với ông.

– Nhưng mà, anh chưa nói với ai khác chứ?

– Không. Trừ khi… không, chắc chắn không?

– Có thật vậy không?

– Thật. Tôi không nói với ai.

– Vậy thì chớ nói với bất kỳ ai trước khi gặp Poirot.

Tôi đã để ý ngay đến sự lưỡng lự của Norton trong câu trả lời thứ nhất, nhưng đến câu thứ hai thì tôi yên tâm. Tuy nhiên về sau, tôi buộc phải nhớ tới sự lưỡng lự ấy.

Một lần nữa tôi lại trèo lên mô đất um tùm cỏ dại hôm trước, và thật bất ngờ tôi lại gặp Elizabeth Cole ở đó. Tôi vừa bước lên đỉnh thì cô quay mặt lại:

– Ông Hastings, sao trông ông hồi hộp vậy? Có chuyện gì làm ông bận tâm?

Tôi cố lấy bình tĩnh:

– Không, có gì đâu. Chỉ hơi thở mạnh.

Và nói thêm, vẻ thản nhiên:

– Hình như trời sắp mưa.

Cô ngước mắt nhìn trời:

– Phải, tôi cũng thấy thế.

Chúng tôi yên lặng đến một, hai phút. Người phụ nữ trẻ này có một cái gì khiến tôi rất dễ mến. Từ khi cô thú thật lai lịch của mình và tâm sự về quãng đời đau thương trước đây, tôi càng chú ý đến cô hơn. Hai con người thường gặp bất hạnh tất dễ cảm thông nhau và tôi thành thực mong cô sẽ có một tương lai sáng sủa. Tôi nói một cách bột phát:

– Hôm nay tôi hơi buồn. Có nhiều tin không vui về ông bạn già.

– Ông Poirot?

Sự quan tâm đầy thông cảm của cô khiến tôi không ngần ngại tâm sự. Tôi nói xong, cô im lặng lúc lâu rồi mới nói:

– Tôi hiểu. Vậy là sớm muộn rồi sẽ chấm dứt.

Tôi nói:

– Nếu ông ấy mà ra đi, tôi sẽ cảm thấy hoàn toàn đơn độc.

– Ồ! Nhưng ông còn Judith. Và những đứa con khác.

– Chúng ở tản mát bốn phương trời. Con Judith có công việc của nó. Nó không cần đến tôi.

– Tôi cảm thấy con cái chỉ cần đến bố mẹ khi nào chúng gặp khó khăn. Đó là quy luật bất di bất dịch. Song tôi còn cô đơn hơn ông. Hai chị tôi ở rất xa: một ở Mỹ, một ở Ý.

– Cô ơi đời cô còn dài.

– Băm nhăm tuổi còn gì.

– Băm nhăm là nghĩa gì? Tôi mong được trở lại tuổi ấy.

Và tôi nói nghịch:

– Cô biết không, mắt tôi không mù đâu.

Cô nhìn tôi dò hỏi, rồi đỏ mặt:

– Ông nghĩ gì vậy… ồ, Norton và tôi chỉ là bạn, không còn gì khác. Hai người có một vài điểm chung, nhưng…

– Thì hãy thế.

– Anh ấy… thật tốt. Nhưng ông cũng oái oăm. Ông tưởng tôi còn có thể nghĩ đến chuyện chồng con được sao? Chị tôi là kẻ giết người. Nếu không, thì là kẻ điên loạn. Đằng nào cũng chẳng hay hớm gì.

– Cô không nên băn khoăn việc đo. Chớ quên rằng… có thể đó không phải là sự thật.

– Ông nói gì? Đó là sự thật.

– Cô nhớ không, một lần cô nói với tôi: “Không phải chị Maggie”.

– Đó chỉ là cảm nghĩ…

– Cảm nghĩ nhiều khi phù hợp với sự thật.

Cô mở to mắt nhìn tôi.

– Ông nói rõ xem nào.

– Chị cô không phải là thủ phạm thực sự.

Cô đưa tay lên miệng, nhìn tôi chăm chú, vẻ hốt hoảng.

– Ông mất trí rồi. Làm sao ông có ý nghĩ ấy?

– Không hề gì. Một ngày nào đó, tôi sẽ chứng minh cho cô thấy là tôi nói đúng.

Tôi về tới nhà thì gặp Boyd Carrington. Ông báo tin:

– Hôm nay là ngày cuối cùng tôi ở Styles. Mai tôi đi.

– Đi Knatton?

– Vâng.

Ông khẽ thở dài, nói tiếp:

– Nói thật với ông, tôi lấy làm mừng được rời khỏi nơi đây.

Tôi nhún vai

– Phải rồi, tôi cũng biết là ở đây ăn không ngon, phục vụ kém, song…

– Không phải vì chuyện ấy. Dù sao, tiền tọ rẻ, ta không thể đòi hỏi hơn. Không, không phải tôi nói chuyện vật chất. Chỉ là tôi không ưa cái nhà này, không khí làm sao ấy, rất khó giải thích. Có lẽ vì là nơi trước đây đã có án mạng nên không thể được như cũ nữa. Lắm chuyện xảy ra quá… Bà Luttrell bị tai nạn, nay lại đến Barbara tội nghiệp…

Ông yên lặng một lát, chìm trong suy nghĩ rồi nói thêm:

– Tôi không bao giờ nghĩ cô ấy là người muốn tự tử.

Tôi phân vân trước khi đáp:

– Ai mà biết chắc…

Ông đưa tay ngăn:

– Không, tôi chắc. Ông nhớ không, hôm trước suốt ngày tôi đi với cô ấy. Hoàn toàn vui vẻ, phấn khởi. Cô ấy chỉ băn khoăn một điều: lo chồng quá say mê công việc rồi đi quá xa, đem thân mình ra làm thí nghiệm cho nhựng thứ thuốc độc chết tiệt. Ông Hastings, ông biết tôi nghĩ gì không?

– Không.

– Chính ông chồng phải chịu trách nhiệm, với cái tính lầm lỳ, cáu gắt của ông ta. Đi với tôi, Barbara luôn vui vẻ, hạnh phúc. Nhưng ông chồng thì quá lộ liễu, cho rằng mình bị vợ cản trở sự nghiệp. Sự nghiệp cái con khỉ! Một con người trơ trơ, chẳng có cảm xúc. Vợ chết thê thảm như vậy hắn chẳng mảy may xúc động. Hắn vừa nói với tôi rằng bây giờ hắn có thể yên tâm sang châu Phi. Nói thật nhé, nếu ai nói rằng chính ông ta giết vợ, tôi sẽ không ngạc nhiên…

– Thôi nào! Tôi kêu. Ông nói không nghiêm túc.

– Đành là không. Nhưng là tôi nghĩ nếu hắn định giết, hắn sẽ làm cách khác. Ai cũng biết hắn đang nghiên cứu chất physostigmine nên hắn không dại gì dùng chất đó. Mặc dù vậy, không phải mình tôi thấy Franklin là một nhân vật kỳ lạ. Tôi nắm thông tin này từ một người đáng tin cậy.

– Ai vậy? Tôi hỏi ngay.

– Cô Craven.

Tôi không giấu sự ngạc nhiên:

– Sao?

– Suỵt! Khẽ chứ. Phải, chính cô ta làm tôi nảy ý nghĩ trên. Cô ta rất thông minh và rất tinh, không gì qua được mắt. Cô không ưa Franklin.

Thoạt đầu, tôi tưởng cô Craven chì không ưa bà Franklin là bệnh nhân khó tính. Chắc hẳn cô biết hiều chuyện về đôi vợ chồng này.

– Tối nay, cô ấy ở đây.

– Ông nói gì?

Tôi ngạc nhiên, vì ngay sau lễ tang bà Franklin, cô đã rời khỏi Styles.

Ngay từ bấy giờ, tôi phải nói rằng chưa bao giờ nghĩ Poirot có thể thất bại. Trong cuộc chiến chống lại X, tôi không bao giờ tin X có thể thắng. Mặc dù ông yếu đau, tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng vào ông, ông là người mạnh nhất trong hai đối thủ. Vì nhiều năm nay, tôi đã quen nhìn thấy ông chiến thắng.

Nhưng cũng lại chính ông đã gieo trong tôi sự nghi ngờ. Trước khi xuống ăn trưa, tôi lên thăm ông, và khong hiểu sao ông buột biệt nói ra câu này:

– Nếu xảy ra chuyện gì với tôi…

Tôi cực lực phải đối, nói không thể có chuyện gì xảy ra.

– Vậy anh không chú ý nghe những lời của bác sĩ Franklin – Poirot nói.

– Franklin không thể biết tất cả. Ông còn sống nhiều năm nữa.

– Có thể, nhưng không chắc. Song tôi muốn nói đến một khả năng khác kia. Mặc dù tôi có thể chết nay mai, song với ngài X, như thế vẫn là muộn quá.

– Cái gì? Tôi sửng sốt kêu lên.

– Chứ sao. X là một tên thông minh, rất thông minh. Và hắn sẽ hiểu rằng thủ tiêu tôi sớm – dù chỉ là ít ngày trước khi tôi chết – cũng là thuận lợi vô giá đối với hắn.

– Thế thì… thế thì cái gì sẽ xảy ra?

– Trong chiến đấu, nếu sĩ quan chỉ huy gục ngã, thì người phó lên thay. Vậy nếu có làm sao, anh có trách nhiệm tiếp tục công việc.

– Tôi làm làm sao được? Tôi không biết gì, như người đi trong đêm.

– Tôi đã lường trước mọi việc. Nếu tôi mệnh hệ nào, anh sẽ có tất ả những tài liệu cần thiết.

Ông vỗ vỗ vào chiếc cặp có khóa đặt bên mình.

– Việc gì phải vòng vèo thế. Ông nói ngay bây giờ những gì tôi phải biết có đơn giản hơn không.

– Không, không. Anh không biết một số điều mà tôi biết, như vậy càng có lợi cho anh.

– Tài liệu ông để đây, hẳn là tường trình chi tiết vụ việc.

– Không phải đâu, vì X có thể âm mưu đánh cắp.

– Vậy là cái gì?

– Những chỉ dẫn, nếu X đọc thì chẳng ích gì, nhưng với anh, sẽ giúp anh tìm ra sự thật.

– Tôi không tin lắm. Tại sao đầu óc ông lại nhiều khê đến thế? Ông cứ thích làm phức tạp thêm mọi chuyện.

– Anh cho chuyện ấy ở tôi đã thành tật mất rồi, có phải không? Có thể anh nói đúng. Nhưng hãy yên tâm, những chỉ dẫn này sẽ đưa anh tới sự thật.

Ông ngừng lời, rồi lát sau nói tiếp:

– Và lúc đó, sợ rằng anh lại không muốn chúng đưa anh đi quá xa thế. Và anh sẽ nói: “Hạ màn đi!”

Giọng Poirot có một điệu gì khiến lại nổi trong tôi nỗi sợ hãi mơ hồ mà tôi đã cảm thấy vài ba lần. Cứ như là có điều gì khuất mắt mà tôi không muốn nhìn, không thể chịu đựng. Một điều mà trong thâm tâm, tôi đã biết rồi.

Tôi gạt ý nghĩ đó đi, chào Poirot rồi xuống phòng ăn.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.