Thằng Cười

8. RÊN SIẾT



Đoàn người bắt đầu cất bước.
Họ tiến tới, trong hành lang.
Không có phòng lục sự sơ bộ nào cả. Chẳng có bàn giấy, chẳng có sổ sách gì hết. Nhà tù thời bấy giờ không nặng về giấy tờ. Chúng chỉ cần khép kín lại trước mặt anh, thường thường chẳng cần biết tại sao. Là nhà tù, và tù nhân, thế là đủ.
Đoàn người phải giãn dài và khuôn theo hình dáng hành lang. Hầu như họ đi theo hàng một; dẫn đầu là lão thiết trượng quan, tiếp đến Guynplên, rồi viên pháp quan định túc số, rồi đến cánh nhân viên cảnh sát đi thành khối và bịt kín hành lang sau lưng Guynplên như một cái nút đệm. Hành lang chật dần; lúc này hai khuỷu tay Guynplên chạm vào tường; cái vòm bằng bê- tông sỏi chốc chốc lại có chỗ nhô ra bằng đá hoa như muốn thắt ngang, phải cúi đầu mới qua được, trong hành lang không thể nào chạy nhanh; có trốn cũng buộc phải đi thong thả; con đường ống này lại ngoằn ngoèo; đã là lòng là ruột thì phải ngoắt ngoéo, lòng nhà tù cũng như ruột con người; đây đó lúc bên phải lúc bên trái có những chỗ cắt khoét trong tường, vuông vuông, và bịt kín bằng lưới sắt to, cho thấy những cầu thang, cái này đi lên, cái kia dẫn xuống. Đến một cái cửa đóng kín, tự động mở ra, đoàn người đi qua, cửa lại tự động khép lại. Sau đó gặp một cửa thứ hai, đoàn người đi qua, rồi một cửa thứ ba cũng xoay trên bản lề như thế. Nhưng cửa ấy đều như tự động mở tự động đóng. Chẳng thấy một bóng người nào cả, hành lang thắt lại, thì đồng thời vòm trần cũng thấp xuống; nền đá lát hành lang nhầy nhụa như lòng lợn. Cái mầu nhạt nhạt tù mù thay cho ánh sáng mỗi lúc lại thêm mờ đục; không khí ngột ngạt. Nhưng rùng rợn nhất là cứ phải đi xuống.
Phải chú ý mới nhận thấy là đang đi xuống, ở những chỗ tối, chỉ hơi dốc cũng đã ghê rợn rồi. Không gì đáng sợ bằng những chỗ tối tăm mà cứ phải lần theo những đường dốc khó thấy. Đi xuống tức là bước vào nơi lạ lẫm hãi hùng.
Đi như thế bao lâu? Guynplên cũng không biết nữa.
Qua cái máy cán đó. qua cảnh lo âu ấy, giây phút cứ dài ra vô tận.
Thình lình đoàn người đứng lại.
Bóng tối dày đặc.
Hành lang rộng ra đôi tí.
Guynplên bỗng nghe cạnh người một tiếng động mà chỉ tiếng phèng la của Tàu mới có thể cho ta được một ý niệm; y như một tiếng gõ vào vách ngăn của vực thẳm.
Chính viên thiết trượng quan vừa gõ cái gậy của y vào một tấm sắt.
Tấm sắt ấy là một cánh cửa.
Không phải một cánh cửa xoay, mà một cánh cửa sập. Gần như một cái bừa.
Bỗng có tiếng loạc soạc chói tai trong một đường rãnh, và trước mắt Guynplên vụt hiện ra một ô vuông sáng. Tấm sắt vừa được rút lên vào cái kẽ ở vòm trần như kiểu bẫy chuột. Một lỗ hổng hiện ra.
Không thể gọi đây là ánh sáng, nó là một thứ lờ mờ.
Nhưng đối với con ngươi giãn to của Guynplên, thứ ánh sáng nhạt nhạt và đột ngột đó thoạt tiên loé lên như một tia chớp.
Mất một lúc nó không trông thấy gì hết. Phân biệt trong ánh sáng chói loà cũng khó như trong đêm tối.
Rồi, từng tí một, con ngươi của nó thích ứng dần với ánh sáng cũng như đã thích ứng với bóng tối, cuối cùng nó phân biệt được rõ ràng, chút ánh sáng, lúc đầu tưởng như chói quá, dịu dần trong con ngươi của nó và trở lại nhợt nhạt ; nó đánh liều nhìn qua cái lỗ hổng toang hoác trước mặt, và điều nó nhận thấy thật là khủng khiếp.
Dưới chân nó, độ hai mươi bậc thang, cao, hẹp, nhẵn thín, gần như thẳng đứng, gần như không có tay vịn bên phải bên trái, một thứ mào đá y hệt mảng tường cắt xén thành cầu thang, đi vào và chui tuột xuống một cái hầm rất sâu, Chúng dẫn xuống tận dưới xa.
Hầm này tròn, vòm hình cung nhọn, thấp lè tè, vì không xây cuốn, tình trạng nứt nẻ thường thấy ở mọi hầm ngầm mà bên trên chồng chất những công trình rất nặng.
Chỗ cắt làm cửa mà tấm sắt vừa mở ra cho thấy, và nối vào cầu thang, được xén vào vòm trần, thành thử đứng từ chỗ cao đó mắt nhìn vào hầm như chúi xuống giếng.
Hầm rộng, và nếu là đáy giếng thì là đáy một cái giếng khổng lồ. Ý niệm và cái từ ngữ “trôn ngục” ngày xưa gợi nên chỉ có thể áp dụng cho cái hầm này với điều kiện phải hình dung một cái ngục nhốt sư tử hoặc hổ báo.
Hầm chẳng lát đá gạch gì hết. Nền là mặt đất ẩm ướt lạnh lẽo của những nơi sâu thẳm.
Giữa hầm, bốn cái cột thấp, dị hình, chống đỡ một cửa lớn hình cung nhọn nặng nề, bốn đường gân giao nhau ở trong cửa gần giống mặt trong mũ giám mục. Cái cửa to này, tương tự như những thánh đường dưới đó ngày xưa người ta để những quan tài đá, cao đến tận mái vòm, tạo thành một kiểu phòng trung tâm, nếu có thể gọi là phòng một khoảng trống bốn phía, và thay cho bốn bức tường là bốn cột trụ.
Giữa vòm lủng lẳng một chiếc đèn đồng, tròn và bịt lưới như cửa sổ nhà tù. Chiếc đèn này toả ra xung quanh, lên trên hàng cột, một ánh sáng trắng nhợt, với những vạch bóng cắt ngang- Chính thứ ánh sáng này đã làm loá mắt Guynplên lúc đầu. Bây giờ nó chỉ còn mầu đỏ hầu như tù mù.
Trong hầm chẳng còn thứ ánh sáng nào khác.
Không cửa sổ, không cửa ra vào, không cửa hầm.
Giữa bốn cột trụ, ngay dưới chiếc đèn, chỗ nhiều ánh sáng nhất, có một bóng trắng, khủng khiếp, dán sát trên mặt đất.
Hình bóng nằm ngửa. Người ta thấy một cái đầu với cặp mắt nhắm nghiền, một thân hình mà nửa trên biến mất dưới một đống gì đó nho nhỏ dị dạng, bốn chi dính vào thân theo hình chữ thập thánh Angđrê và kéo căng về hướng bốn cột trụ bằng bốn sợi xích buộc vào chân vào tay. Mỗi sợi xích bắt vào một vòng sắt ở chân cột. Hình hài đó nằm im trong tư thế tàn nhẫn của hình phạt xé xác, xám xịt giá lạnh như tử thi. Nó trần truồng; đó là một người đàn ông.
Guynplên sững sờ, đứng trên cầu thang, nhìn xuống.
Thình lình nó nghe có tiếng rên.
Thì ra cái xác vẫn còn sống.
Ngay cạnh bóng ma đó, trong một hình cung nhọn của cái cửa, hai bên chiếc ghế bành to đặt trên một tảng đá rộng, có hai người đứng, mặc áo thụng đen; ngồi trên chiếc ghế bành là một ông già mặc áo thụng đỏ, xanh mét, cứng đờ, hung ác, tay cầm một bó hoa hồng.
Một kẻ ngu dốt hơn Guynplên ắt cũng hiểu bó hoa hồng là thế nào.
Quyền xét xử với bó hoa trên tay tiêu biểu cho pháp quan vừa của nhà vua vừa của thành phố. Lãnh chúa – thị trưởng Luân Đôn vẫn xét xử như thế. Giúp đỡ các quan toà xét xử, đó là tác dụng của những cánh hồng đầu xuân.
Ông già ngồi trên ghế bành là viên quận trưởng lãnh địa Xorê.
Ông ta có cái cứng nhắc oai vệ của người La Mã trong cương vị đế vương.
Chiếc ghế bành là chiếc ghế ngồi duy nhất trong hầm.
Bên cạnh chiếc ghế bành, có một cái bàn trên để đầy giấy tờ sổ sách, và chiếc đũa trắng dài của quận trưởng.
Đứng bên phải và bên trái viên quận trưởng là hai vị tiến sĩ, một y khoa, một luật khoa; ông này dễ nhận ra nhờ cái mũ đình lại luật sư trên bộ tóc giả. Cả hai đều không mặc áo thụng đen, một người mặc áo quan toà, một người mặc áo thầy thuốc. Hai loại người này để tang cho những người chết do họ tạo ra.
Sau lưng viên quận trưởng, ở mép cái bục của tảng đá ngồi thu lu một viên lục sự đội bộ tóc giả tròn; y có cạnh người, một cái nghiên để trên mặt nền, một tập hồ sơ bìa cứng để trên đầu gối và một tờ giấy da trên tập hồ sơ, tay y luôn luôn cầm bút trong tư thế một người luôn luôn sẵn sàng ghi chép.
Viên lục sự ấy gọi là lục sự giữ túi; điểm đó thấy rõ qua cái túi con để ở chân, trước mặt y. Những cái túi con ấy, ngày xưa vẫn dùng trong các phiên toà, được mệnh danh là “túi công lý”.
Một người mặc toàn đồ da, khoanh tay đứng tựa lưng vào một cột trụ. Đó là một tên quân hầu của đao phủ.
Những người trên đây hình như đang mê say trong tư thế buồn thảm của họ, quanh con người bị xích. Không ai nhúc nhích, cũng không ai nói năng.
Trên toàn bộ cảnh tượng đó, một không khí bình tĩnh kỳ quái.
Trước mặt Guynplên là một cái hầm hình sự. Những loại hầm như thế ngày xưa đầy rẫy ở nước Anh. Hầm mộ nhà thờ Bôsăng Taoơ vẫn dùng vào việc ấy một thời gian rất lâu, cũng như hầm ngầm của Lôlar- Prizân. Có cái hầm gọi là “hầm mộ của Lêđi-Plêxơ” và ngày nay người ta có thấy ở Luân Đôn loại hầm như vậy. Trong cái phòng sau cùng này, có một cái lò sưởi khi cần.
Tất cả những nhà thờ thời vua Gion, ngục Xaothuak thuộc số đó, đều có hầm hình sự.
Những việc sau đây đều được thi hành rất thông thường ở nước Anh hồi ấy, và nói cho cùng, về mặt tố tụng hình sự, hiện nay vẫn có thể thi hành,vì tất cả luật lệ ấy vẫn tồn tại. Nước Anh hiến cho ta cái cảnh kỳ lạ của một bộ luật dã man sống rất hoà hợp với nền tự do. Phải công nhận đó là đôi vợ chồng tuyệt diệu.
Tuy nhiên đôi chút ngờ vực cũng không phải không đúng lúc. Nếu xảy ra một sự khủng hoảng, thì việc quay lại lối tra tấn cổ xưa không phải không thể có. Pháp chế nước Anh là một con hổ đã thuần. Nó có vẻ hiền lành nhưng vẫn còn đủ móng vuốt.
Cắt móng cho luật pháp là điều khôn ngoan.
Luật pháp hầu như không nghĩ đến quyền lợi. Một bên là hình phạt, một bên là nhân loại. Các triết gia phản đối; nhưng còn lâu trước khi công lý con người gắn liền được với công lý thực sự.
Tôn trọng luật pháp là châm ngôn của nước Anh. Ở Anh người ta tôn thờ các điều luật một cách quá đáng nên không bao giờ huỷ bỏ chúng. Một đạo luật già cứ việc tàn tạ như một bà già; nhưng không ai giết một bà già cũng như đạo luật già. Không thi hành chúng nữa, có thế thôi. Cho chúng tự do nghĩ rằng mình vẫn đẹp vẫn trẻ. Cứ mặc cho chúng mơ tưởng là mình vẫn tồn tại. Thứ lễ độ đó gọi là tinh thần tôn trọng.
Tập quán Normăngđi đã có nhiều nếp nhăn; thế mà khối quan toà nước Anh vẫn còn liếc mắt đưa tình với nó đấy. Người ta vẫn âu yếm bảo tồn một vật cổ xấu xí, nếu nó của xứ Normăngđi. Còn gì tàn bạo độc ác hơn cái giá treo cổ? Năm l867 người ta xử phạt một người đàn ông[61] chặt làm bốn mảnh để dâng cho người đàn bà, là nữ hoàng.
Vả lại ở Anh không hề có tra tấn. Sử sách vẫn nói như thế. Quý hoá thay tính chất chính trực vô tư của lịch sử.
Machiơ Oetminxtơ chứng nhận “luật pháp Xăcxơ rất nhân hậu và hiền lành” không xử tội nhân, và còn nói thêm : “Người ta chỉ cắt mũi, móc mắt, và xẻo bộ phận sinh dục” thế thôi.
Guynplên ngơ ngác ở đầu cầu thang, bắt đầu run bắn cả chân tay. Nó rợn cả người. Nó cố nhớ xem mình đã phạm tội gì. Tiếp theo cái im lặng của viên thiết trượng quan là hình ảnh một cực hình. Một bước tiến thực sự, nhưng một bước bi đát. Nó thấy điều bí ẩn tối tăm của luật pháp đang đè nặng lên người nó mỗi lúc lại thêm mù mịt.
Hình người nằm ở đất lại rên khừ khừ lần thứ hai. Guynplên có cảm giác bị đẩy nhẹ vào vai.
Chính viên thiết trượng quan đẩy nó. Guynplên hiểu là phải đi xuống.
Nó tuân lệnh.
Nó bước xuống cầu thang, từng bực từng bực một. Bực thang rất thấp, độ hai mươi nhăm phân. Lại thêm không có tay vịn, chỉ có thể bước xuống một cách thận trọng. Xuống theo Guynplên, cách sau hai bực, là viên thiết trượng quan giơ thẳng cây gậy sắt, và theo sau viên thiết trượng quan, cũng cách quãng như thế, là viên pháp quan định túc số.
Chân bước xuống những bực thang đó, mà trong lòng Guynplên cảm thấy tiêu tan hết hy vọng. Đúng là kiểu chết dần từng bước từng bước. Mỗi bực đi xuống lại làm tắt thêm chút ánh sáng le lói trong lòng nó. Mỗi lúc một tái nhợt, nó xuống hết cầu thang.
Con sâu quằn quại trên đất và bị xích vào bốn cột trụ lại tiếp tục rên hừ hừ.
Có tiếng trong bóng tối tù mù nói ra:
– Tiến gần lại.
Chính viên quận trưởng nói với Guynplên.
Guynplên bước lên một bước.
Gần nữa – tiếng đó bảo.
Guynplên bước thêm bước nữa.
Sát vào – viên quan quận trưởng lại nói.
Viên pháp quan định túc số khẽ rỉ vào tai Guynplên, nghiêm nghị đến nỗi tiếng thì thầm trở thành trịnh trọng
– Anh đang đứng trước ngài quận trưởng lãnh địa Xorê.
Guynplên tiến sát đến bên người bị hành hình nằm giữa hầm. Viên thiết trượng quan và viên pháp quan định túc số đứng lại, để cho Guynplên bước tới một mình.
Lúc Guynplên đến đứng dưới cửa, được nhìn tận mắt cái của khốn khổ mà từ nãy nó mới trông thấy từ xa, và lại là một người còn sống, nỗi ghê sợ của nó bỗng trở thành hãi hùng.
Con người bị xích trên mặt đất hoàn toàn trần truồng, chỉ có mỗi mảnh giẻ dơ dáng gớm guốc mà người ta có thể gọi là cái lá nho hình phạt; đây là cái succingulum của người La Mã, cái christipanmus của người gô-tic, mà tiếng lóng xứ Gôlơ cổ xưa của chúng ta chuyển thành cripanhơ[62]. Chúa Giê-su, trần truồng trên cây thánh giá, chỉ có mảnh giẻ như thế.
Tội nhân rùng rợn mà Guynplên đang nhìn dường như quãng năm sáu mươi tuổi. Đầu hắn ta hói, râu bạc tua tủa ở cằm, hắn nhắm mắt, há mồm. Răng nhe cả ra. Bộ mặt hốc hác giơ xương bên cạnh cái sọ người chết. Hai tay, hai chân nối liền bằng xích vào bốn trụ đá. Hợp thành một chữ X. Trên ngực và bụng, một tấm sắt mỏng, trên tấm sắt chất đống năm sáu tảng đá to. Tiếng rên hừ hừ của hắn. lúc như tiếng thở. lúc lại là tiếng rống.
Viên quận trưởng. vẫn không rời bó hoa hồng, đưa bàn tay còn lại cầm chiếc đũa trắng ở bàn, vừa đưa thẳng nó ra vừa nói:
– Theo lệnh nhà vua.
Đoạn ông ta đặt chiếc đũa xuống bàn.
Tiếp đó, thong thả như tiếng chuông nguyện, không một cử chỉ, cũng cứng nhắc như tội nhân, viên quan quận trưởng cất giọng nói:
– Hỡi con người bị xiềng xích kia, lần cuối cùng hãy nghe tiếng nói của công lý. Anh được lôi từ hầm tối ra và dẫn đến nhà ngục này. Anh được chất vấn đúng theo thủ tục formalus verbis pressus, không kể những văn kiện và thông báo đã đọc và sẽ đọc lại lần nữa cho anh nghe. Do có tư tưởng xấu xa và tà tâm, anh vẫn cố tình im lặng, không chịu trả lời quan toà. Đó là một thứ tự do đáng ghét, và trong số những hành vi đáng phạt hình cashlis, thì đó là tội ác và khinh tội về eversenesse.
Viên đình lại đội mũ đứng bên phải quận trưởng cắt lời và nói với giọng dửng dưng đượm một vẻ gì thật ảm đạm.
Overhernessa. Luật Anfrêt và Gôtrân. Chương sáu.
Viên quận trưởng nói tiếp:
– Điều luật được tất cả mọi người tôn kính, trừ những tên trộm cướp làm nhơ bẩn rừng rú là nơi hươu nai sinh đẻ.
Như tiếng chuông nọ nối tiếp tiếng chuông kia, viên đình lại nói:
– Qui faciunt vastum in foresta ubi damoe solent founinare[63]
– Kẻ nào không chịu trả lời pháp quan – viên quận trưởng nói – đáng nghi là phạm tất cả mọi tật xấu. Nó bị xem như có thể phạm toàn bộ điều ác.
Viên đình lại xen vào.
– Prodigus, devorator, prousus, salax, ruffianus, ebriosus, luxuriosus, simulator, consumptor patrimonu, elluo, ambro,et gluto[64]
Mọi tật xấu – viên quận trưởng nói – tức là mọi tội lỗi. Kẻ nào không khai tí gì, kẻ ấy thú nhận tất cả. Kẻ nào im lặng trước các câu hỏi của quan toà, kẻ ấy rõ ràng nói dối và giết cha.
– Mendax et parricida – viên đình lại nói.
Viên quận trưởng tiếp:
Người kia, không ai được phép lẩn tránh và im lặng. Lối khuyết tịch giả dối gây một ung nhọt cho luật pháp. Nó giống như Điômeđơ làm thương tổn một nữ thần. Lầm lì trước công lý là một hình thức chống đối. Xúc phạm công lý tức là xúc phạm nhà vua. Không còn gì đáng ghét và liều lĩnh hơn. Kẻ nào lẩn tránh khẩu cung, kẻ đó đánh cắp chân lý. Luật pháp đã dự kiến đến chuyện đó. Đối với những trường hợp như vậy, người Anh thời nào cũng đều hưởng quyền hố huyệt, đinh ba và xiềng xích.
– Anglicana, charta[65] năm 1088 – viên đình lại nói.
Rồi vẫn cái vẻ trịnh trọng máy móc, hắn thêm:
– Ferrum, et fossam, et jurcas, com alus libertatibus[66]
Viên quận trưởng tiếp:
-Bởi vậy, người kia, vì anh không muốn từ bỏ thái độ im lặng, mặc dù trí óc hoàn toàn sáng suốt và hoàn toàn hiểu rõ công lý đòi hỏi anh điều gì, vì anh ngoan cố một cách quá quắt, lẽ ra anh phải bị tra khảo và theo qui định của luật hình sự, anh đã nếm mùi đau đớn của cái gọi là “hình phạt mạnh và cứng”[67]. Đây là những gì đã được áp dụng đối với anh. Luật pháp buộc tôi phải cho anh biết một cách xác thực. Anh đã được dẫn đến cái hầm ngầm này, anh đã bị lột bỏ hết quần áo, anh phải nằm trần truồng trên đất, hai tay hai chân xích căng ra bốn trụ của luật pháp, một tấm sắt đã được đè lên bụng anh, và người ta đã đặt lên người anh một lượng đá mà anh có thể chịu đựng được. “Và hơn nữa”. Luật pháp nói.
– Plusque – viên đình lại xác định.
Viên quận trưởng tiếp tục:
Trong hoàn cảnh đó và trước khi kéo dài cuộc thử thách, anh đã được tôi, quận trưởng lãnh địa Xơre, nhiều lần khuyên bảo thúc giục trả lời và nên nói; anh vẫn ngoan cố im lặng như ác quỉ, mặc dù anh đã bị tra tấn, xiềng xích còng gông.
– Attachiamenta legalia[68] – viên đình lại nói.
– Do anh từ chối và lì lợm – lão quận trưởng nói – theo lẽ công bằng với ngoan cố của tội phạm, thử thách đã được tiếp tục đúng theo qui định của pháp lệnh và văn bản. Ngày thứ nhất người ta không cho anh uống, không cho anh ăn.
– Hoc est super jejunare[69] viên đình lại nói.
Im lặng một lúc, có tiếng thở rít lên nghe rất dễ sợ của con người nằm dưới đống đá.
Viên đình lại luật sư nốt nốt chỗ hắn ngắt quãng:
– Ađe augmentum abstimentioe ciborum dimiun- tione. Consuetudo britannica[70] điều năm trăm linh bốn.
Hai con người ấy, lão quận trưởng và viên đình lại cứ luân phiên nhau; không còn gì ảm đạm hơn cái không khí đơn điệu bất di bất dịch đó; giọng nói rùng rợn trả lời giọng nói nham hiểm: cứ như linh mục và trợ tế hình phạt, đang tiến hành buổi lễ tàn ác của luật pháp.
Lão quận trưởng lại bắt đầu:
– Ngày thứ nhất, người ta không cho anh uống, không cho anh ăn. Ngày thứ nhì người ta cho anh ăn mà không cho anh uống; người ta đã nhét vào mồm anh ba miếng bánh đại mạch. Ngày thứ ba người ta cho anh uống mà không cho anh ăn. Người ta đã rót vào mồm anh, ba lần, ba cốc, một chai nước múc ở cống nhà tù. Đã đến ngày thứ tư. Tức hôm nay. Bây giờ, nếu anh tiếp tục không trả lời, anh sẽ bị bỏ mặc cho đến khi chết. Công lý muốn như vậy.
Viên đình lại luôn luôn phụ hoạ, tán thành:
– Mors rei homagium est bonoe legi[71]
– Và trong lúc anh tự cảm thấy chết dần một cách thê thảm – lão quận trưởng lại tiếp tục – sẽ không một ai giúp đỡ anh, dù cho máu có trào ra khỏi họng, ra chân râu, ra kẽ nách và mọi lỗ hở trên người từ mồm đến hết thắt lưng.
– A throtebella -viên đình lại nói – et pabu et subhircis, et a grugno usque ad crupponum.
Lão quận trưởng tiếp tục.
– Người kia, hãy coi chừng. Vì hậu quả liên quan đến anh. Nếu anh từ bỏ thái độ im lặng đáng ghét của anh, và nếu anh thú nhận, anh sẽ chỉ bị treo cổ, và được hưởng melde feoh là một số tiền.
– Damnum cònitens – viên đình lại nói – habeat le melde feoh. Leges Inoe, chương hai mươi.
– Món tiền này – lão quận trưởng nhấn mạnh – sẽ trả cho anh bằng doitkins, suskins và galihalpens, trường hợp duy nhất loại tiền này có thể dùng được, theo lời văn đạo luật bãi bỏ, năm thứ ba triều Hăngri đệ Ngũ, và anh sẽ có quyền và được hưởng scortum ante mortem, sau đó sẽ bị thắt cổ trên giảo đài. Đó là những quyền lợi của việc thú nhận. Anh có đồng ý trả lời công lý không?
Lão quận trưởng im lặng và chờ đợi. Tội nhân vẫn không nhúc nhích.
Lão quận trưởng lại nói:
– Im lặng là nơi ẩn náu có nhiều nguy hiểm hơn giải thoát. Ngoan cố là hiểm độc và đáng bị đoạ đầy. Kẻ nào im lặng trước công lý là phản nghịch đối với nhà vua. Chớ có giữ thái độ bất phục tùng không hợp với đạo tôi trung đó. Hãy nghĩ đến chúa thương. Chớ có chống đối với nữ hoàng kiều diễm của chúng ta. Khi tôi nói với anh, anh hãy trả lời với nữ hoàng. Anh nên làm kẻ thần dân trung hậu.
Tội nhân thở khò khè.
Lão quận trưởng lại nói tiếp:
– Như vậy sau bảy mươi hai giờ đầu tiên thử thách, bây giờ chúng ta đang ở ngày thứ tư. Người kia, hôm nay là ngày quyết định. Luật pháp qui định việc đối chất vào ngày thứ tư.
Quarta die, frontem ad frontem ađuce – viên đình lại lầm bầm trong miệng.
– Luật pháp anh minh – lão quận trưởng lại nói – đã chọn giờ phút tối hậu này, để có được điều mà tổ tiên chúng ta gọi là “sự xét xử bằng cái lạnh chết người”, vì đây là lúc con người được tin tưởng qua lời thú nhận có hay không của nó.
Viên đình lại luật sư lại nói:
Judicium pro frodmortell, quod homines cre- dendíint per suum ya et per suumna. Hiến chương vua Ađenxtan. Tập một, trang một trăm bảy mươi ba.
Một lát chờ đợi, rồi lão quận trưởng cúi mặt nghiêm nghị về phía tội nhân.
– Hỡi con người nằm ở đất kia.
Lão dừng lại một tí.
– Người kia – hắn quát to – anh có nghe ta nói không?
Người kia không nhúc nhích.
– Nhân danh pháp luật – lão quận trưởng nói – anh hãy mở mắt ra.
Mí mắt người kia vẫn nhắm nghiền.
Lão quận trưởng ngoảnh về phía người thầy thuốc đứng bên trái.
– Bác sĩ khám nghiệm xem.
– Probe, da diagnóticum – viên đình lại nói.
Lão thầy thuốc bước xuống thềm, cứng nhắc, oai nghiêm, tiến đến gần người kia, cúi xuống, ghé tai cạnh mồm tội nhân, bắt mạch cổ tay, nách và đùi, rồi ngẩng lên.
– Thế nào? – lão quận trưởng hỏi.
– Nó vẫn nghe được – lão thầy thuốc nói.
– Nó có nhìn thấy không – lão quận trưởng hỏi.
Lão thầy thuốc đáp: – Nó có thể nhìn thấy.
Theo lệnh của lão quận trưởng, viên pháp quan định túc số và viên thiết trượng quan tiến lên. Viên thiết trượng quan đứng cạnh đầu tội nhân; viên pháp quan định túc số dừng lại sau lưng Guynplên.
Lão thầy thuốc lùi lại một bước giữa hàng cột trụ.
Đúng lúc ấy, lão quận trưởng nâng bó hoa hồng lên như một linh mục nâng cây ngù rảy nước thánh, cao giọng gọi tội nhân và trở nên hung dữ:
– Hỡi con người khốn khổ kia, hãy nói lên! luật pháp yêu cầu người trước khi tuyệt diệt ngươi. Ngươi muốn làm ra vẻ câm, nhưng hay ngẫm đến nấm mồ câm lặng; ngươi muốn làm ra vẻ điếc, nhưng hãy ngẫm đến kiếp đoạ đầy cũng điếc đặc. Hãy nghĩ đến cái chết, nó còn ghê rợn hơn ngươi. Hãy suy nghĩ kỹ đi, người sắp bị bỏ mặc trong hầm tối này. Hỡi con người đồng loại của ta, hãy lắng tai mà nghe, vì ta cũng là một con người! Hỡi người anh em, hãy lắng tai mà nghe vì ta là kẻ có đạo! Hỡi đứa con của ta, hãy lắng tai mà nghe vì ta là một người già! Hãy coi chừng ta, vì ta nắm trong tay đau khổ của người, và lát nữa ta sẽ rất khủng khiếp. Sự khủng khiếp của luật pháp tạo nên vẻ uy nghiêm của quan toà. Hãy ngẫm đến việc chúng ta cũng run sợ trước mắt ta. Quyền uy của chính ta khiến ta kinh ngạc. Chớ có đẩy ta đến chỗ cùng đường. Ta cảm thấy ta đầy độc ác thiêng liêng của trừng phạt. Hỡi kẻ bất hạnh, đối với công lý cần phải có lòng sợ hãi thực sự và thích đáng, và hãy vâng lời ta. Giờ phút đối chất đã đến, và ngươi phải trả lời. Chớ có ngoan cố chống đối lại. Chớ có đi vào chỗ vô phương cứu gỡ. Hãy nhớ rằng việc kết liễu thuộc quyền của ta. Hỡi các tử thi đã bắt đầu, hãy lắng nghe đây! Nếu người không muốn thở hắt ra tại đây hàng giờ, hàng ngày, hàng tuần, và ngắc ngoải kéo dài một cảnh hấp hối khủng khiếp đói khát, đầy cứt đái, dưới những tảng đá nặng kia, một mình trong hầm ngầm này, không ai dòm ngó, bị lãng quên, bị thủ tiêu, mặc cho chuột nhấm lon[72] ăn, bị những con vật trong tối gặm cắn, trong lúc mọi người đi đi, lại lại, mua mua, bán bán, và xe cộ rầm rập lăn bánh ở đường phố trên đầu ngươi, trừ phi người không thích rên siết luôn mồm trong chốn tận cùng tuyệt vọng này, nghiến răng, khóc lóc, nguyền rủa, không có lấy một thầy thuốc để xoa dịu những vết thương, không có lấy một linh mục để ban cốc rượu thánh cho linh hồn người; ôi trừ phi người không muốn cảm thấy từ từ nẩy nở trên môi người lớp bọt rùng rợn của mộ địa, ôi! ta khẩn nài ngươi, ta van xin ngươi, hãy nghe ta! Ta kêu gọi ngươi hãy tự cứu lấy mình, hãy thương lấy bản thân, hãy làm những điều người ta đòi hỏi ngươi, hãy chịu khuất phục công lý, vâng lời, ngoảnh mặt lại, mở mắt ra, và nói xem ngươi có biết người này không.
Người bị tra tấn không ngoảnh đầu lại, cũng không mở mắt ra.
Lão quận trưởng lần lượt đưa mắt cho viên pháp quan định túc số và cho viên thiết trượng quan.
Viên pháp quan định túc số liền nhấc mũ và bỏ áo khoác của Guynplên ra, nắm lấy vai nó, xoay cho nó nhìn thẳng vào ánh đèn, về phía người bị xích. Khuôn mặt Guynplên nổi bật trong bóng tối, với tất cả đường nét quái đản, hoàn toàn sáng rõ.
Cùng một lúc, viên thiết trượng quan cúi xuống, nắm lấy thái dương người bị tra tấn giữa hai bàn tay, xoay cái đầu bất động về phía Guynplên, rồi bằng hai ngón tay cái và hai ngón tay trỏ mở banh những mí mắt nhắm nghiền. Đôi mắt hung dữ của người kia hiện ra.
Tội nhân trông thấy Guynplên.
Thế là, tự ngóc đầu lên và mở thật to mí mắt, hắn nhìn Guynplên.
Hắn rung bần bật như một con người có thể rung khi có một quả núi trên ngực, và hét to:
– Chính nó! Phải! Chính nó.
Và khủng khiếp, hắn bật cười ha hả – Chính nó – hắn nhắc lại.
Rồi mặc cho đầu đập xuống đất, hắn nhắm mắt lại.
– Lục sư, viết đi – lão quận trưởng nói.
Guynplên, tuy là rụng rời, cho đến lúc ấy vẫn tỏ thái độ gần như bình tĩnh. Tiếng hét của người bị tra tấn; Chính nó! Làm nó thảng thốt. Tiếng: Lục sự, viết đi làm nó lạnh toát cả. Hình như nó chợt hiểu ra có một kẻ khốn kiếp đang lôi kéo nó vào số kiếp của hắn, mà nó, Guynplên, nó không thể đoán được tại sao, rằng lời thú nhận không hiểu nổi của người kia đang khép lại trên người nó như chiếc bản lề gông. Nó hình dung người kia với nó bị xích chung vào một đài bêu tù hai cột song song. Guynplên hẫng chân trong cảnh hốt hoảng này, và cố vùng vẫy. Nó ấp úng mấy câu rời rạc, hoang mang cực độ một cách ngây thơ và, run rẩy, hãi hùng, cuống cuồng, kêu lên mấy tiếng nó chợt nghĩ ra cùng tất cả những tiếng lo âu, có vẻ như những viên đạn vô nghĩa.
– Không đúng! Không phải tôi! Tôi không biết người này. Nó không thể biết tôi vì tôi không biết nó. Tối nay tôi sắp có buổi biểu diễn. Người ta muốn gì tôi? Tôi yêu cầu trả tự do lại cho tôi. Như thế cũng vẫn chưa hết, tại sao người ta lại dẫn tôi vào cái hầm này. Thế ra không còn luật pháp gì nữa cả. Thưa quí toà, tôi xin nhắc lại, không phải tôi? Ai muốn nói gì thì nói. Tôi vẫn vô tội. Tôi biết rõ như thế. Tôi muốn ra khỏi đây. Thế này là không đúng. Giữa người này với tôi không có chút liên quan gì hết. Người ta có thể điều tra. Cuộc sống của tôi chẳng phải là một cái gì che dấu cả. Người ta đến bắt tôi như bắt một tên ăn trộm. Tại sao lại thế? Tên kia, tôi có biết bắn là ai đâu? Tôi là một thằng bé lang thang, làm trò trong những ngày phiên và ở các chợ. Tôi là Thằng Cười. Có khá nhiều người đến xem tôi. Chúng tôi đóng tại cánh đồng Tarinhzô. Tôi vẫn sinh sống lương thiện mười lăm năm nay. Tôi hai mươi lăm tuổi. Tôi ở tại quán rượu Tacaxtơ. Tôi tên là Guynplên. Thưa quí tòa, quí toà làm phúc cho tôi ra khỏi đây. Xin đừng lạm dụng cảnh thấp hèn của những kẻ khốn khổ, xin quí toà rủ lòng thương xót một người không hề làm gì sai trái, và không được ai che chở, không được ai bảo vệ. Trước mặt quí toà là một thằng múa rối đáng thương.
– Trước mắt tôi – lão quận trưởng nói – là huân tước Fermên Clăngsacli, nam tước Clăngsacli và Hâncơvin kiêm hầu tước Corlêo ở Xixin, nguyên lão Anh quốc.
Rồi vừa đứng dậy, vừa bỏ chiếc ghế bành của mình cho Guynplên, lão quận trưởng nói tiếp:
– Thưa huân tước, xin ngài hãy hạ cố ngồi xuống.
Chú thích:
[61] Ám chỉ Bruke, đảng viên một đảng cách mạng thành lập năm 1861, chủ trương tách xé lêclăng khỏi sự đô hộ của nước Anh. Hiện nay là đảng Sin Fêin đã dành được độc lập cho lêclăng năm 1937.
[62] Cripanhơ (Cripagne): cái khố.
[63] Viên đình lại nhắc lại bằng tiếng La- tinh lời quận trưởng đã nói ở trên.
[64] Hoang phí, phàm ăn, vô độ, dâm đãng, ma cô, nghiện rượu, hoang dâm, nói dối, phá gia chi tử, hư ăn. nếm rượu và tham ăn.
[65] Hiến chương nước Anh.
[66] Xiềng xích. hố huyệt và đinh ba, cùng các quyền khác.
[67] Khắc nghiệt và cứng rắn.
[68] Các loại xiềng xích hợp pháp.
[69] Đây là những hình phạt nhịn ăn cao nhất
[70] Thêm việc tăng nhịn vào việc giảm thức ăn. Phong tục nước Anh.
[71] Cái chết của bị cáo là một sự tôn kính đối với pháp luật công bình. đối với pháp luật tốt.
[72] Một loại cầy, mình dài mồm nhọn.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.