Thành Công Tột Đỉnh

CHƯƠNG 3: Chương trình tổng hợp



Cách bạn suy nghĩ, sử dụng trí tuệ sẽ quyết định mọi thứ. Khi bắt đầu thay đổi suy nghĩ tức là bạn bắt đầu thay đổi cuộc sống. Nhưng bạn đã làm thế nào để đạt được vị trí hiện tại? Những ảnh hưởng nào đã được kết hợp lại khiến bạn trở thành con người như hiện nay? Tại sao bạn lại suy nghĩ và cảm nhận theo cách đó? Đâu là các yếu tố đưa bạn đến vị trí hiện giờ?

Trong chương này, bạn sẽ học về chương trình tổng hợp, học cách bắt đầu kiểm soát hệ thống chỉ dẫn bên trong bạn, và loại bỏ những ảnh hưởng và chướng ngại cản trở hạnh phúc mà thậm chí bạn không biết đến. Bạn sẽ học làm thế nào để thay đổi chương trình tổng hợp của mình, khiến nó phù hợp hơn với các kết quả bạn mong muốn.

Khi tôi 20 tuổi, tôi không có việc làm và sống trong một căn hộ nhỏ. Đó là vào giữa mùa đông và nhiệt độ là -35 0C. Tôi sống một mình ở một thành phố mới, cách nơi tôi lớn lên hàng ngàn dặm.

Mười một năm sau, khi 31 tuổi, tôi vẫn sống một mình trong một căn hộ nhỏ. Thời tiết bên ngoài vẫn rất lạnh, -35 0C. Tôi sống trong cảnh nợ nần chống chất, không có việc làm và xa gia đình và bạn bè hàng ngàn dặm.

Sau 11 năm làm việc và đi du lịch, tôi vẫn không thay đổi nhiều. Tôi già dặn hơn và khôn ngoan hơn nhưng mọi việc vẫn không có gì tiến triển.

Tôi thất vọng. Tôi thấy mình tiến bộ rất chậm. Tôi luôn luôn cất giấu một niềm tin rằng tôi có khả năng làm được nhiều hơn cho cuộc sống của mình, nhưng tôi không biết phải làm thế nào để khai thác được các tiềm năng đó.

Những người bình thường chỉ sử dụng 10% hoặc ít hơn tiềm năng họ có trong suốt cuộc đời. Người ta cho rằng Albert Einstein, một trong những nhà bác học vĩ đại thế kỷ XX, cũng chỉ sử dụng khoảng 15% tiềm năng của mình.

Theo nghiên cứu của trường Đại học Stanford, những người bình thường chỉ sử dụng khoảng 2% tiềm năng của họ.

Với tôi, chủ đề này rất hấp dẫn. Tiềm năng của người bình thường là gì?

Tiềm năng thật sự của tôi là gì? Làm thế nào tôi có thể làm được nhiều hơn cho bản thân? Tôi đã cố gắng để mở “chiếc khóa số” nhưng các con số của tôi không đúng. Bởi vậy, tôi đọc và suy ngẫm. Cuối cùng tôi đã từng bước khám phá ra câu trả lời. Tôi học cách kết hợp với ổ khóa trên cánh cửa tiềm năng con người. Sự kết hợp này giúp tôi thay đổi cuộc sống, và nó cũng có thể làm thay đổi cuộc đời của bạn.

MỘT PHƯƠNG TRÌNH ĐƠN GIẢN

Định nghĩa về tiềm năng cá nhân thể hiện trong phương trình: IA + AA x A = IHP. Hai chữ cái đầu tiên, IA là viết tắt của từ inborn attributes (các thuộc tính bẩm sinh). Đó là những gì bạn có ngay khi mới sinh ra, là tính khí và khả năng trí tuệ tổng thể của bạn.

Hai chữ cái tiếp theo, AA là viết tắt của acquired attributes (các thuộc tính thu được). Đây là những kiến thức, kỹ năng, năng lực, kinh nghiệm và khả năng mà bạn thu được và phát triển khi bạn lớn lên và trưởng thành.

Chữ cái tiếp theo, A, viết tắt của attitude (thái độ), là năng lượng tinh thần mà bạn mang lại để sinh ra sự kết hợp giữa các thuộc tính bẩm sinh và thuộc tính thu được. IHP là viết tắt của individual human performance (sự biểu hiện cá nhân con người.) Bởi vậy, phương trình đó là (Thuộc tính bẩm sinh) cộng với (Thuộc tính thu được) nhân với (Thái độ) bằng (Sự biểu hiện cá nhân con người).

Thuộc tính bẩm sinh, tài năng và năng lực tự nhiên của bạn, “những mặt bên trong” của nhân cách của bạn đều cố định ngay từ khi mới sinh ra. Chúng là những thuộc tính di truyền. Bạn không thể làm gì nhiều để thay đổi chúng.

Thuộc tính thu được của bạn là các kỹ năng và năng lực bạn phát huy bằng cách hướng vào tài năng tự nhiên của bạn qua quá trình giáo dục và trải nghiệm. Đó là lĩnh vực năng lực và ưu thế tiềm năng.

Bạn có thể phát triển, cải thiện và thay đổi những thuộc tính thu được qua thời gian thông qua học tập và thực hành, nhưng quá trình này rất chậm, đòi hỏi phải kiên trì, có tính kỷ luật và nỗ lực cao.

Quân bài tự do* duy nhất trong phương trình là A, hay là thái độ. Và đây là một trong những nhận thức làm thay đổi cuộc sống của tôi.

Đặc tính của thái độ có thể được cải thiện vô hạn, thậm chí, một người với những thuộc tính bẩm sinh trung bình và thuộc tính thu được trung bình vẫn có thể biểu hiện ở một mức độ cao nếu người đó có thái độ tinh thần tích cực. Điều này giải thích tại sao thái độ và năng khiếu quyết định mức độ thành công của bạn. Và thái độ chịu sự kiểm soát trực tiếp từ ý chí của bạn. Bất kể lúc nào, bạn cũng có thể quyết định những gì sẽ xảy ra.

Thuyết trình gia nổi tiếng người Mỹ Earl Nightingale coi thái độ là từ quan trọng nhất trong ngôn ngữ. Chúng ta biết chúng ta nên có thái độ tinh thần tích cực. Chúng ta đã nghe điều đó từ lâu. Nhưng chính xác thì điều đó là gì?

Thái độ là cách bạn tiếp cận với cuộc sống. Nó là “quan điểm tấn công”. Nó là nhịp tinh thần chung và là sự thể hiện các suy nghĩ và cảm xúc của bạn ra bên ngoài. Nói chung, thái độ tinh thần tích cực là cách chào đón lạc quan và vui vẻ con người, vấn đề và sự việc bạn phải đối mặt trong cuộc sống.

Thái độ của bạn là một trong những chỉ thị tốt nhất cho con người bên trong bạn. Và người ta tác động trở lại bạn bằng thái độ của bạn với họ. Đây là lý do tại sao những người vui vẻ sống tốt ở bất cứ đâu.

Phát triển thái độ tích cực này đối với bản thân và cuộc sống của bạn là bước đầu tiên để mở ra tiềm năng đầy đủ của bạn. Và cách duy nhất để biết được bạn sở hữu thái độ nào đó là quan sát cách bạn phản ứng khi gặp rắc rối. Nhưng thái độ của bạn xuất phát từ đâu? Điều gì khiến người này trở nên chủ động còn người kia lại bị động? Thái độ được quyết định bằng sự kỳ vọng của bạn. Sự kỳ vọng của bạn về bản thân và cuộc sống rất quan trọng. Chúng ảnh hưởng lớn đến nhân cách của bạn.

Nếu bạn kỳ vọng những điều tốt đẹp đến với bạn, bạn sẽ thấy chủ động và lạc quan khi tiếp xúc với mọi người và mọi hoàn cảnh. Nếu bạn tìm kiếm những điều tốt đẹp ở người khác, bạn có thể sẽ tìm thấy.

Sự kỳ vọng tích cực là điểm mốc của một nhân cách hoàn thiện hơn. Chúng mang lại cho bạn tinh thần kiên cường, sự lạc quan giúp bạn phản ứng tích cực với những thử thách bạn phải đối mặt hàng ngày. Và như tôi đã nói ở Chương 2, bạn có thể tạo ra sự kỳ vọng của chính bạn bằng cách quyết định làm như vậy.

Vậy thì, sự kỳ vọng của bạn xuất phát từ đâu? Sự kỳ vọng của bạn được quyết định bởi đức tin của bạn về bản thân và thế giới bạn đang sống. Sự kỳ vọng của bạn về con người, công việc và cuộc sống đều được hình thành từ những gì bạn tin là đúng. Ngay cả khi niềm tin của bạn là sai lầm, thì chúng cũng sẽ tự biểu hiện trong kỳ vọng, thái độ và các kết quả mà bạn đạt được.

Theo luật niềm tin, nếu bạn có một thế giới quan tích cực, nếu bạn tin tưởng thế giới luôn tươi đẹp và bạn là người tốt thì bạn sẽ hy vọng ở những điều tốt đẹp nhất từ bản thân, từ người khác và từ những hoàn cảnh mà bạn phải đương đầu. Sự kỳ vọng tích cực của bạn sẽ được thể hiện trong thái độ tinh thần tích cực và, với luật tương ứng, mọi người sẽ phản hồi lại theo thái độ của bạn với họ. Bạn sẽ nhận lại những gì bạn đã cho.

Do đó, niềm tin của bạn quyết định đặc điểm nhân cách của bạn. Và niềm tin của bạn xuất phát từ đâu? Điều nay có lẽ đưa chúng ta đến sự đột phá vĩ đại nhất của ngành tâm lý học trong thế kỷ XX − việc khám phá ra “quá trình tự nhận thức”.

CHƯƠNG TRÌNH TỔNG THỂ

Quá trình tự nhận thức là tập hợp những niềm tin của bạn về bản thân, về mỗi phần của cuộc sống và thế giới của bạn. Nó là “chương trình tổng hợp” trong chiếc máy tính tiềm thức của bạn. Luật niềm tin chỉ ra rằng niềm tin quyết định hiện thực bởi vì bạn luôn nhìn thế giới qua một “màn hình thành kiến” do cấu trúc niềm tin tạo nên. Sự tự nhận thức, cấu trúc niềm tin, xuất hiện trước và dự đoán biểu hiện, thái độ cư xử của bạn trong mỗi lĩnh vực cuộc sống. Bạn luôn hành động nhất quán với sự tự nhận thức và tổng thể niềm tin mà bạn thu được trong suốt quá trình trưởng thành.

Nếu bạn thay đổi niềm tin trong bất cứ lĩnh vực nào của cuộc sống thì ngay lập tức, bạn bắt đầu thay đổi trong lĩnh vực đó. Sự kỳ vọng, thái độ, hành vi và kết quả của bạn, tất cả đều thay đổi.

Thế giới bên ngoài của bạn là sự thể hiện của thế giới nội tâm, và không thể khác được. Bạn không phải là những gì bạn nghĩ bạn sẽ trở thành, nhưng bạn nghĩ thế nào thì bạn sẽ là thế đó.

Mỗi người trong chúng ta đã được lập trình để đi lại, chuyện trò, suy nghĩ và hành động theo cách chúng ta làm hiện nay. Bạn không thể suy nghĩ, cảm nhận hay cư xử khác đi trừ khi bạn thay đổi chương trình tổng hợp, sự tự nhận thức từ bên trong. Một ý tưởng tiêu cực và sai lầm trong quá trình tự nhận thức của bạn sẽ biểu hiện ở thái độ, hành vi tiêu cực trong cuộc sống và các mối quan hệ.

Nhưng bạn có thể thay đổi chương trình, sự tự nhận thức của bạn bằng cách thay thế ý tưởng và niềm tin tự giới hạn bằng các suy nghĩ tự do. Bạn có thể quyết định để khiến cuộc sống của bạn trở nên chủ động, thú vị và không ngừng phát triển. Bạn có thể biến cuộc sống thành một kiệt tác. Và khi bạn làm được như vậy, những suy nghĩ có tính xây dựng này bắt đầu tự “tỏa bóng” trong tâm hồn bạn.

CÁC MẶT CỦA QUÁ TRÌNH TỰ NHẬN THỨC

Có một mối liên hệ trực tiếp giữa việc bạn làm tốt việc gì với sự tự nhận thức của bạn trong lĩnh vực đó. Mỗi khi bạn cảm thấy tốt về bản thân và đang làm tốt công việc của mình, trong các mối quan hệ hay trong một môn thể thao là bạn đang thể hiện sự tự nhận thức tích cực trong lĩnh vực đó. Mỗi khi bạn làm không tốt hay cảm thấy thấp kém, vụng về hay cư xử không tốt trong một vài trường hợp thì niềm tin tiêu cực đang được biểu hiện bằng các cách cư xử của bạn. Bên trong như thế nào thì bên ngoài như thế.

Điều tạo ra sự thay đổi tích cực cho bạn là sự tự nhận thức của bạn phải mang tính chủ quan, chứ không phải là khách quan. Niềm tin của bạn về bản thân, đặc biệt niềm tin và sự nghi ngại tự hạn chế, không dựa trên cơ sở thực tế nào cả. Ý tưởng tiêu cực về bản thân và năng lực thường dựa trên những thông tin và ấn tượng sai lệch mà bạn tiếp nhận và cho là đúng.

Ngay khi bạn bắt đầu loại bỏ những suy nghĩ tự giới hạn đó, chúng sẽ không còn tác động tới bạn. Bằng cách chủ động thay đổi sự tự nhận thức, những tiềm năng thật sự của bạn sẽ trở nên vô hạn.

Một thanh niên trẻ, khoảng 25 tuổi, người đã từng tham gia buổi sêmina của tôi, là một công nhân xây dựng. Trong quá trình thảo luận về ảnh hưởng của khả năng tự nhận thức, anh đã bị sốc.

Anh nói với tôi rằng bố anh, một công nhân không được học hành, thường xuyên nói với anh: “Chúng ta mãi mãi là những người lao động chân tay và sẽ luôn như vậy. Đó là số mệnh của chúng ta. Vì lớn lên với những điều người cha nói, anh đã chấp nhận nó như một thực tế, một niềm tin và khi rời trường học, anh trở thành công nhân.

Giờ đây, sau bảy năm, anh vẫn làm việc cật lực. Anh đã vô tình để cho bố mình định hình sự tự nhận thức của anh về công việc và khả năng của anh.

Nhưng anh luôn cảm thấy mình có thể làm được nhiều hơn, và thấy bị mắc kẹt. Giờ đây, lần đầu tiên anh nhận ra mọi giới hạn của anh đều bắt nguồn từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài.

Sau buổi sêmina, anh đã từ bỏ công việc lao động chân tay và chuyển sang bán hàng, bắt đầu lại từ đầu. Ban đầu, anh làm rất kém, nhưng anh vẫn quyết tâm. Anh đọc tất cả các sách về bán hàng, nghe các chương trình trên đài, tham dự rất nhiều buổi sêmina về bán hàng.

Chúng tôi vẫn giữ liên lạc với nhau. Trong một năm, thu nhập của anh tăng lên gấp đôi. Trong hai năm, thu nhập tăng gấp bốn lần. Anh trở thành người đứng đầu trong đội ngũ nhân viên bán hàng và nhanh chóng được tuyển dụng với tiền lương cao hơn và các cơ hội lớn hơn.

Trong năm năm, anh kiếm được hơn 100 nghìn đô-la mỗi năm, có một ngôi nhà đẹp, một người vợ đáng yêu, hai đứa con và một tương lai tươi sáng. Anh ta đã làm chủ được vận mệnh của mình.

Bước ngoặt đối với anh, cũng như đối với bản thân tôi và hàng nghìn người khác, là học được quá trình tự nhận thức kiểm soát cuộc sống như thế nào và sau đó quyết định thay đổi điều đó. Mọi thứ đều đến từ đó.

Bạn không chỉ có sự tự nhận thức toàn diện, một sự tổng kết chung những niềm tin về bản thân, mà bạn còn có một loạt “sự tự nhận thức nhỏ”. Những điều này sẽ kiểm soát biểu hiện và cách cư xử của bạn trong từng lĩnh vực cụ thể của cuộc sống mà bạn coi là quan trọng.

Nếu bạn làm nghề bán hàng, bạn có sự tự nhận thức chung xem bạn là một người bán hàng giỏi đến mức nào, và điều này lại quyết định việc bán hàng của bạn tốt đến mức nào. Bạn cũng tự nhận thức về việc bạn sẽ giỏi đến mức nào trong việc thăm dò, nhận định nhu cầu, trình bày giải pháp, trả lời các phản đối và kết thúc. Trong mỗi lĩnh vực đó, bạn trở nên thoải mái và thành thạo, hay căng thẳng và không chắc chắn phụ thuộc vào cách bạn suy nghĩ để thực hiện được các nhiệm vụ này.

Bạn có sự tự nhận thức tổng thể về khả năng của bạn trong lĩnh vực nào đó và số tiền bạn có thể kiếm được. Bạn không bao giờ phát triển hơn mức độ tự nhận thức về khả năng của mình hay kiếm được nhiều hoặc ít hơn so với mức độ tự nhận thức về thu nhập.

Nếu bạn kiếm được ít hơn 10% so với mức thu nhập tự nhận thức bạn bắt đầu vướng vào hành vi “tranh giành”. Bạn bắt đầu suy nghĩ sáng tạo hơn, làm việc lâu hơn và chăm chỉ hơn, tìm kiếm những cơ hội thu nhập ngoài hay suy nghĩ về sự thay đổi công việc để đưa mức thu nhập của bạn trở lại tầm tự nhận thức.

Ở những nơi có liên quan đến tiền bạc, hay bất cứ cái gì khác, bạn sẽ dần dần bước vào các “vùng thoải mái” khác nhau, và khi đã ở đó, bạn làm mọi việc có thể để được ở lại đó. Bạn chống lại mọi thay đổi, thậm chí cả những thay đổi tích cực.

Khu vực thoải mái này là kẻ thù lớn của khả năng con người. Khi vùng thoải mái trở thành thói quen sống rất khó phá bỏ. Và bất cứ thói quen nào tồn tại lâu quá thì cuối cùng cũng sẽ trở thành lối mòn. Sau đó, thay vì sử dụng trí thông minh của mình để thoát khỏi lối mòn đó, bạn lại sử dụng phần lớn năng lực của mình để làm cho nó trở nên thoải mái hơn. Bạn điều chỉnh và hợp lý hóa hoàn cảnh của bạn giống như là không thể thay đổi được. Bạn cho rằng: “Mình chẳng thể làm được gì”.

Nhưng bạn có thể làm nhiều thứ để thay đổi tương lai. Trong những trang sách tiếp theo, bạn sẽ học được cách phá bỏ vùng thoải mái. Bạn sẽ học cách bước lên bàn phím chiếc máy tính tinh thần của chính bạn và đặt vào đó một hệ thống niềm tin mới. Bạn sẽ học cách tái thiết sự tự nhận thức để có thể đạt được nhiều hơn những gì bạn thật sự mong muốn trong cuộc sống.

BA PHẦN CỦA QUÁ TRÌNH TỰ NHẬN THỨC

Sự tự nhận thức được tạo bởi ba phần, giống như ba lớp của một chiếc bánh. Phần đầu tiên là sự lý tưởng hóa bản thân. Đây là sự hình dung hay mô tả lý tưởng về một người mà bạn muốn trở thành nhất trong mọi lĩnh vực. Hình ảnh lý tưởng này có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hành vi và cách suy nghĩ của bạn về bản thân.

Lý tưởng hóa bản thân là sự kết hợp của các phẩm chất và thuộc tính mà bạn ngưỡng mộ nhất ở những người khác. Nó là sự tổng hợp những khát vọng của bạn. Nó là sự hình dung của bạn về một con người hoàn hảo.

Những người đặc biệt lý tưởng hóa bản thân đề ra rất rõ ràng những điều mà họ kiên trì theo đuổi. Họ thiết lập các tiêu chuẩn rất cao cho bản thân và cố gắng đạt được chúng. Bạn cũng có thể làm được như vậy. Bạn càng xác định rõ về con người mà bạn muốn trở thành, thì bạn càng nhanh chóng trở thành một người như vậy.

Những người không thành đạt và không hạnh phúc luôn có lý tưởng mờ nhạt, hoặc trong đa số các trường hợp, không có lý tưởng nào. Họ đưa ra rất ít hoặc không hề nghĩ về kiểu người mà họ muốn trở thành hay về các phẩm chất mà họ muốn có. Cuối cùng, sự phát triển của họ chậm lại rồi ngừng lại. Họ mắc kẹt trong lối mòn tinh thần và ở lại đó. Họ mất hết động lực hoàn thiện bản thân.

Phần thứ hai của quá trình tự nhận thức là việc tự tạo hình ảnh của bản thân. Tự tạo hình ảnh của bản thân là cách bạn nhìn nhận và suy nghĩ về bản thân khi bạn thực hiện các công việc hàng ngày. Quá trình tự tạo hình ảnh của bản thân thường được gọi là “tấm gương nội tại”, bạn có thể nhìn vào đó để xem cách bạn sẽ cư xử và thể hiện trong mỗi tình huống cụ thể. Bạn luôn luôn cư xử hòa hợp với bức tranh bản thân mà bạn dựng lên ở bên trong. Bạn có thể cải thiện sự thể hiện của mình bằng cách thận trọng thay đổi bức tranh đó.

Quá trình thay đổi hình ảnh bản thân này là một trong những cách nhanh nhất và đáng tin cậy nhất để cải thiện sự biểu hiện của bạn. Khi bạn bắt đầu nhìn nhận và suy nghĩ về bản thân là giỏi và tự tin hơn, thì hành động của bạn cũng trở nên tập trung và có hiệu quả hơn.

Khi bạn thay đổi thận trọng hình ảnh về bản thân, bạn sẽ đi lại, trò chuyện, hành động và cảm thấy thoải mái hơn trước. Bạn sẽ thay đổi nhân cách và kết quả bằng cách thay đổi hình ảnh tinh thần.

Phần thứ ba là lòng tự trọng. Lòng tự trọng là cách bạn cảm nhận về bản thân. Nó là thành phần cảm xúc trong nhân cách của bạn và là đặc tính cơ bản của sự biểu hiện cao độ. Nó là chìa khóa mở ra hạnh phúc và hiệu quả cá nhân. Nó giống như trung tâm của lò phản ứng hạt nhân. Nó là nguồn năng lượng, nhiệt thành, sức sống và sự lạc quan giúp bạn hoàn thiện nhân cách và thành đạt hơn.

Mức độ tự trọng của bạn được quyết định bởi hai yếu tố, giống như hai mặt của một đồng xu. Yếu tố thứ nhất, bạn thấy mình có giá trị và quan trọng đến mức nào? Bạn yêu quý và chấp nhận bản thân như một người tốt đến mức độ nào? Đây là mặt “đánh giá cá nhân” của lòng tự trọng, là sự phân loại bản thân, ngoài những gì đang diễn ra trong cuộc sống hiện tại của bạn.

Yếu tố này không phụ thuộc vào những biến số bên ngoài. Một người có lòng tự trọng cao có thể gặp vô vàn khó khăn và thất bại trong cuộc sống mà vẫn duy trì sự tự trọng cao và tích cực về bản thân với tư cách là một con người. Nhưng rất ít người đạt được tới trạng thái này.

Yếu tố thứ hai quyết định mức độ tự trọng của bạn là cảm giác “hiệu lực tự tại”, bạn cảm thấy bạn giỏi và có khả năng đến đâu trong những việc bạn làm. Đây là mặt “dựa trên biểu hiện” của lòng tự trọng. Nó là nền tảng để xây dựng sự tự tin và lòng tự trọng.

Hai phần này của lòng tự trọng củng cố cho nhau. Khi bạn cảm thấy lạc quan về bản thân, bạn sẽ thể hiện tốt hơn. Và khi bạn biểu hiện tốt, bạn sẽ cảm thấy lạc quan về bản thân. Cả hai đều cần thiết. Không cái nào có thể tồn tại mà không có cái kia.

Phương thức đo lòng tự trọng tốt nhất là mức độ yêu thích bản thân của bạn. Càng yêu bản thân, bạn càng làm tốt hơn những việc bạn quan tâm. Càng yêu thích bản thân, bạn càng thấy tự tin hơn, thái độ càng tích cực hơn, bạn càng thấy khỏe mạnh và tràn đầy sinh lực hơn, và cảm thấy hạnh phúc hơn.

Bạn có thể tăng lòng tự trọng bằng cách nói, lặp đi lặp lại, với sự hăng hái và niềm tin, câu: “Mình thích bản thân mình” Điều đó rất có sức mạnh. Bạn sẽ nhận ra rằng mình không thể nói câu này năm hay sáu lần mà không cảm thấy thật sự tốt hơn về bản thân.

Việc yêu thích bản thân là rất lành mạnh. Trên thực tế, đây là chìa khóa mang đến các hiệu quả cá nhân và mối quan hệ vui vẻ với người khác.

Một vài người được dạy rằng, việc yêu thích bản thân cũng giống như sự kiêu ngạo hay rất đáng ghét. Nhưng điều ngược lại mới là đúng. “Mặc cảm tự tôn”, cư xử một cách kiêu căng hay tự cao và “phức cảm tự ti” là biểu hiện của lòng tự trọng thấp, của việc không yêu thích bản thân. Những người có lòng tự trọng đích thực thường dễ hòa thuận với mọi người hơn.

HAI NGUYÊN TẮC CỦA LÒNG TỰ TRỌNG

Có hai nguyên tắc của lòng tự trọng và việc yêu thích bản thân: Nguyên tắc thứ nhất là bạn không bao giờ thích hay yêu bất cứ ai khác hơn chính bản thân mình. Bạn không thể cho đi những gì mà bạn không có.

Nguyên tắc thứ hai là bạn không bao giờ có thể trông chờ ai đó thích hay yêu quý bạn hơn là bạn yêu quý hay tôn trọng chính mình.

Mức độ yêu thích và chấp nhận bản thân là van kiểm soát chất lượng các mối quan hệ của bạn. Mỗi việc bạn làm để xây dựng và củng cố lòng tự trọng đều làm tăng sự hài lòng và hạnh phúc mà bạn được hưởng với người khác trong cuộc sống.

Nếu lòng tự trọng của bạn là một chương trình tổng hợp của chiếc máy tính tiềm thức, vậy nó xuất phát từ đâu? Nó được hình thành như thế nào? Nó bao gồm những gì? Và quan trọng nhất là làm thế nào bạn có thể lập trình lại nó để cải thiện bản thân và nâng cao hiệu quả trong mọi việc bạn làm?

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH SỰ TỰ NHẬN THỨC

Tự nhận thức không mang tính bẩm sinh. Mọi thứ bạn biết và tin tưởng về bản thân hôm nay là do bạn học được từ những việc đã xảy đến với bạn khi còn nhỏ. Mỗi đứa trẻ ra đời có một khí chất đặc biệt và các thuộc tính bẩm sinh nhất định, nhưng không có sự tự nhận thức nào cả. Mỗi thái độ, hành vi, giá trị, ý kiến, niềm tin và sự sợ hãi bạn có hôm nay đều là do học được. Do đó, nếu có những yếu tố của sự tự nhận thức không phục vụ cho mục đích của bạn, bạn có thể không học chúng.

Chẳng hạn, tôi đã đọc về một người phụ nữ 32 tuổi bị tai nạn ô tô. Vì bị đập vào đầu nên cô đã mất trí nhớ hoàn toàn. Vào thời điểm bị tai nạn, cô đã lập gia đình và có hai con, một đứa tám tuổi và một đứa mười tuổi. Cô từng bị nói lắp và rất sợ đến chỗ đông người. Cô có sự tự nhận thức nghèo nàn và mức độ tự trọng thấp. Vì vậy, cô không đi làm và có ít quan hệ xã hội.

Vì bị mất trí nhớ hoàn toàn nên khi tỉnh dậy ở bệnh viện, cô không nhớ chút gì về cuộc sống trong quá khứ. Cô ấy không nhớ bố mẹ, không nhớ chồng và con của mình.

Điều này là rất khác thường nên rất nhiều chuyên gia và nhà giải phẫu thần kinh, nhà tâm lý học đã được mời đến để nói chuyện và khám bệnh cho cô.

Cô là trường hợp quá đặc biệt đến nỗi cô trở nên rất nổi tiếng. Sau khi sức khỏe bình phục, cô được phỏng vấn trên đài và ti vi. Cô ấy bắt đầu nghiên cứu về tình trạng của mình, viết nhiều bài báo và một cuốn sách miêu tả kinh nghiệm của cô.

Cô bắt đầu đi du lịch và giảng bài cho các bác sỹ và chuyên gia y tế. Cuối cùng, cô trở thành nhân vật nổi tiếng về chứng quên.

Không có ký ức về những gì đã trải qua trước đó, và vì trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý và được đối xử như thể cô là một người quan trọng, nên cô đã phát triển một nhân cách hoàn toàn mới. Cô trở nên tích cực, tự tin và thoải mái. Cô trở thành người thích giao du và rất thân thiện, và cô đã phát triển khiếu hài hước tuyệt vời. Cô trở nên nổi tiếng và chuyển sang một vòng quay xã hội hoàn toàn mới. Thực tế là, cô đã phát triển một sự tự nhận thức hoàn toàn mới. Và bạn có thể làm được điều tương tự.

Khi bạn hiểu sự tự nhận thức được hình thành như thế nào, bạn có thể thay đổi để biến mình trở thành người mà bạn ngưỡng mộ và muốn trở thành. Bạn sẽ học làm thế nào để trở thành người có thể hoàn thành được mục tiêu và thực hiện được những mơ ước quan trọng nhất.

Con trẻ bước vào thế giới mà chưa có khả năng tự nhận thức. Bọn trẻ học để biết chúng là ai, chúng có (hay không có) giá trị và tầm quan trọng như thế nào thông qua cách chúng được đối xử khi còn bé. Trẻ có nhu cầu rất lớn về sự yêu thương và chăm sóc.

Nền tảng nhân cách chủ yếu được hình thành trong khoảng thời gian từ ba đến năm năm đầu đời. Sự khỏe mạnh của một người trưởng thành chủ yếu được quyết định bởi chất lượng và số lượng tình yêu thương và trìu mến bọn trẻ nhận được từ cha mẹ và người khác trong suốt thời gian này.

Một đứa trẻ được nuôi lớn trong tình yêu thương, trìu mến và sự động viên khuyến khích có xu hướng sớm phát triển một nhân cách ổn định và tích cực trong cuộc sống. Một đứa trẻ được nuôi dưỡng sự chỉ trích và trừng phạt sẽ lớn lên trong sợ hãi, nghi ngờ và mất lòng tin, thậm chí còn gặp rất nhiều vấn đề về nhân cách trong cuộc sống sau này. Những người lớn với lòng tự trọng thấp và thái độ tinh thần tiêu cực đều từng là những đứa trẻ thiếu tình yêu thương và sự an toàn cần có trong nhiều năm tháng định hình thời ấu thơ.

NHỮNG PHẨM CHẤT CỦA TRẺ

Trẻ được sinh ra với hai phẩm chất đáng chú ý. Thứ nhất, chúng hầu như không sợ hãi gì cả. Chúng bước vào thế giới chỉ với hai nỗi sợ về thể chất, đó là sợ tiếng ồn và sợ bị ngã. Những nỗi sợ khác chỉ hình thành khi trẻ lớn lên.

Bất cứ ai từng nuôi một đứa trẻ đến năm hay sáu tuổi đều biết rằng chúng chẳng sợ gì hết. Chúng trèo lên thang, chạy ra đường, cầm những vật sắc nhọn và nói chung, chúng làm nhiều việc mà người lớn cho là nguy hiểm.
Chúng chẳng sợ gì cả cho đến khi những nỗi sợ hãi đó ngấm dần vào chúng.

Phẩm chất đáng chú ý thứ hai của trẻ là chúng hoàn toàn tự do. Chúng cười, khóc và tè ướt quần. Chúng nói và làm những gì thấy thích mà không quan tâm đến ý kiến của người khác. Chúng làm hoàn toàn tự phát, thể hiện bản thân một cách dễ dàng, tự nhiên và không chịu một sự ức chế nào. Bạn đã bao giờ thấy một đứa trẻ có khả năng tự nhận thức chưa?

Đó là một trạng thái tự nhiên của bạn, cách bạn bước vào thế giới, tự do không sợ sệt. Bạn biết điều này là đúng bởi vì, những năm sau đó, mỗi khi bạn ở trong trạng thái an toàn với những người bạn tin tưởng, bạn thường quay lại trạng thái tự nhiên, không lo sợ và tự phát này. Bạn cảm thấy thoải mái và thanh thản, hoàn toàn không lo sợ và là chính mình. Đó là thời điểm đẹp nhất trong cuộc đời bạn, những trải nghiệm đỉnh cao của bạn khi bạn thật sự hạnh phúc. Chúng là điều kiện bình thường và tự nhiên.

TRẺ HỌC NHƯ THẾ NÀO?

Trẻ học theo hai cách cơ bản. Một là, chúng học bằng cách bắt chước bố mẹ. Nhiều thói quen của bạn, bao gồm các giá trị, thái độ, niềm tin và cách cư xử của bạn, được hình thành bằng cách nhìn và nghe bố mẹ bạn. Câu nói: “Cha nào con, nấy” hay “Mẹ nào con nấy” hoàn toàn đúng. Thường thì trẻ giống và chịu nhiều ảnh hưởng của một trong hai người nhiều hơn.

Thứ hai, trẻ học bằng cách chuyển từ lo lắng sang thoải mái, hoặc từ nỗi đau sang vui vẻ. Sigmund Freud đã gọi hiện tượng này là “Nguyên tắc vui vẻ”. Kết luận của ông, cũng như của đa số nhà tâm lý học, sự đấu tranh hướng tới niềm vui và hạnh phúc này là động cơ cơ bản cho hành vi của tất cả mọi người. Sự phát triển của trẻ, từ đi vệ sinh đến thói quen ăn uống, tới mọi khía cạnh trong sự hòa nhập xã hội của chúng, đều để hướng tới sự thoải mái và vui vẻ, hướng tới cái tốt đẹp và tránh xa cái xấu.

Trong tất cả nỗi lo lắng mà trẻ có thể phải trải qua thì việc thiếu hụt tình yêu thương và sự tán đồng của cha mẹ là nỗi đau lớn nhất và đáng sợ nhất. Bởi trẻ có nhu cầu rất lớn về tình yêu thương, sự ủng hộ và bảo vệ của cha mẹ. Khi cha mẹ dành ít tình cảm, cố rèn luyện, kiểm soát và trừng phạt trẻ, thì trẻ sẽ thấy không thoải mái, không an toàn và trở nên sợ sệt.

Đa số vấn đề về nhân cách trong cuộc sống đều là kết quả của “tình yêu bị kìm nén”. Có lẽ nhiều việc chúng ta làm trong cuộc sống, từ nhỏ đến lớn, đều là để có được tình yêu thương hoặc để bù đắp cho sự thiếu hụt tình yêu thương. Đa số những ký ức không vui trong thời ấu thơ của chúng ta đều liên quan đến sự thiếu hụt tình yêu thương. Đa số vấn đề mà chúng ta gặp phải trong các mối quan hệ khi trưởng thành đều xuất phát từ những trải nghiệm trước đó về việc bị tước đoạt tình yêu thương.

KẺ PHÁ HOẠI THÀNH CÔNG

Sự chỉ trích tiêu cực là một trong những hành vi có hại nhất của con người. Nó hạ thấp lòng tự trọng, tạo ra hình ảnh xấu về bản thân và làm hạn chế sự phát triển cá nhân trong mọi việc mà người đó nỗ lực làm. Sự chỉ trích tiêu cực làm lung lay lòng tự tin, khiến con người cảm thấy kém cỏi, căng thẳng và phạm sai lầm mỗi khi cố gắng làm những việc từng bị chỉ trích trong quá khứ.

Cha mẹ thường phê bình con cái nhiều gấp tám lần so với khen ngợi chúng. Bố mẹ phê bình con cái với mong muốn chúng sẽ cải thiện thái độ cư xử. Nhưng ngược lại, sự chỉ trích tiêu cực làm hạ thấp lòng tự trọng và sự tự nhận thức của trẻ. Sự thể hiện của trẻ ngày càng tệ đi chứ không tốt đẹp hơn. Đặc biệt, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái ngày càng xấu đi.

Những đứa trẻ bị phê bình về việc học tập sẽ ghét và tránh né đi học mỗi khi có thể. Chúng coi việc học giống như nguồn gốc của đau khổ và thất vọng. Chúng bắt đầu quan hệ với những đứa trẻ khác có thái độ giống chúng.

Mục đích chung của sự phê bình, nếu bạn phải đưa ra những lời chỉ trích, là “cải thiện biểu hiện”, để giúp người khác trở nên tốt hơn. Lời phê bình mang tính xây dựng không được sử dụng với mục đích trả thù. Nó không phải là phương tiện để thể hiện sự khó chịu hay giận dữ. Mục đích của nó là để giúp đỡ chứ không phải gây tổn thương, vì vậy tốt nhất là bạn nên hạn chế sử dụng nó.

Đây là bảy bước bạn có thể thực hiện để đảm bảo rằng những điều bạn nói là “sự phản hồi mang tính xây dựng” chứ không phải sự chỉ trích tiêu cực.

Một là, bảo vệ lòng tự trọng của người khác bằng mọi giá. Hãy coi nó như môt quả bóng, còn từ ngữ của bạn là mũi kim. Hãy thật nhẹ nhàng. Khi phê bình con mình, tôi thường bắt đầu bằng những lời nói như: “Bố rất yêu các con”, sau đó mới góp ý và hướng dẫn để chúng làm tốt hơn.

Hai là, tập trung vào tương lai chứ không phải quá khứ, tập trung vào cách giải quyết chứ không phải lỗi lầm. Hãy nói: “Chúng ta sẽ làm gì bây giờ?” Hãy sử dụng những từ ngữ như “lần sau”, “sao con không”, v.v…

Ba là, tập trung vào thái độ cư xử hay sự biểu hiện, chứ không phải vào con người. Hãy thay từ “bạn/con” bằng việc mô tả vấn đề. Thay vì nói: “Bạn bán hàng không tốt lắm”, hãy nói: “Doanh số bán hàng của bạn dưới mức trông đợi của chúng ta. Chúng ta có thể làm gì để nâng doanh số lên?”

Bốn là, sử dụng thông điệp “Tôi” để duy trì những cảm xúc của bạn. Thay vì nói: “Bạn khiến tôi rất tức giận”, thì hãy nói: “Tôi cảm thấy rất tức giận khi bạn làm như vậy”, hay “Tôi không thích tình huống này và tôi muốn thảo luận xem làm cách nào để thay đổi nó”.

Năm là, hãy đặt ra thỏa thuận rõ ràng về những gì sẽ thay đổi, khi nào và bao nhiêu. Hãy cụ thể hóa, có định hướng tương lai và định hướng giải pháp. Hãy nói những điều như: “Trong tương lai, điều quan trọng là bạn phải giữ lại những ghi chú chính xác và kiểm tra lần cuối trước khi bạn gửi hàng”.

Sáu là, hãy đề nghị giúp đỡ. Hãy hỏi: “Tôi có thể làm gì giúp bạn không?” Hãy chuẩn bị để cho người đó thấy những gì phải làm và làm như thế nào. Giống như một bậc phụ huynh, hay nếu bạn là người có thẩm quyền, một trong những nhiệm vụ chính của bạn là trở thành người hướng dẫn. Bạn không thể hy vọng người khác làm điều gì đó khác đi mà không chỉ dẫn cho họ phải làm như thế nào.

Bảy là, khi ai đó mắc lỗi, hãy nghĩ họ mắc lỗi không phải do chủ định, ý định ban đầu của họ là tốt. Vấn đề là kỹ năng bị hạn chế, thông tin không đầy đủ hay một sự hiểu lầm nào đó.

Hãy bình tĩnh, kiên nhẫn, ủng hộ, rõ ràng và mang tính xây dựng thay vì giận dữ và có thái độ tiêu cực. Hãy xây dựng con người hơn là đánh đổ họ. Cách nhanh nhất để bạn xây dựng lòng tự trọng và sự phát triển cá nhân ở người khác là chấm dứt ngay tất cả những chỉ trích tiêu cực.

NHỮNG MÔ HÌNH THÓI QUEN TIÊU CỰC

Có hai mô hình thói quen tiêu cực chủ yếu mà chúng ta được học khi còn nhỏ, đó là sự ức chế và sự thúc ép. Việc hiểu được ảnh hưởng của chúng trong cuộc sống và học cách chống lại những ảnh hưởng của chúng là rất cần thiết, nếu bạn muốn thành công.

Sự ức chế hình thành trong trẻ khi chúng ta cứ lặp đi lặp lại với chúng những câu như: “Đừng! Tránh xa thứ đó ra! Ngừng ngay việc đó lại! Đứng chạm vào đó! Cẩn thận đấy!” Sự thôi thúc tự nhiên của trẻ là được sờ mó, ngửi, nếm, cảm nhận và khám phá mọi thứ trong thế giới của chúng. Khi cha mẹ phản ứng lại hành động này của trẻ bằng cách la hét, đánh hoặc bằng một số hình thức phản đối khác, thì đứa trẻ chưa thể hiểu được điều gì đang diễn ra. Thay vào đó, đứa trẻ lại tiếp nhận thông điệp là cứ mỗi lần mình thử làm điều gì đó mới hay khác lạ thì cha mẹ sẽ giận và không yêu mình nữa. Chắc hẳn là vì mình còn quá nhỏ, mình bất tài, mình không có khả năng, mình không thể làm được.

Cảm giác “mình không thể” này sẽ sớm kết tinh thành “nỗi sợ thất bại”. Và nỗi sợ thất bại này là trở ngại lớn nhất của thành công khi trẻ trưởng thành. Nó xuất hiện trong bạn mỗi khi bạn nghĩ đến việc thử bất cứ điều gì đó mới hay mạo hiểm có thể tiêu tốn thời gian, tiền bạc hay tình cảm.

Trong trường hợp của tôi, vì tôi học rất kém nên tôi luôn sợ mình không đủ thông minh để đạt được thành tích cao hơn. Khi chứng kiến những người xung quanh thương lượng, chấp nhận rủi ro để tham gia vào các vụ làm ăn, tôi chỉ biết quay đi. Tôi cho rằng họ thông minh và liều lĩnh, những thứ mà tôi không có.

Khi còn nhỏ, vì luôn sợ những trận đòn của bố nên tôi sợ những kẻ côn đồ trên sân chơi. Khi đi bán hàng, tôi sợ những cuộc gọi không mấy nhiệt tình. Khi trở thành người quản lý, tôi sợ phải khẳng định mình. Khi kiếm được một chút tiền, tôi sợ phải đầu tư, và khi có cơ hội, tôi sợ khởi đầu công việc kinh doanh của chính mình, vì tôi sợ sẽ thất bại và mất trắng.

Bố mẹ tôi rất hay lo lắng và họ nuôi tôi lớn lên trong nỗi lo lắng. Chỉ sau khi tôi hiểu rằng những nỗi sợ hãi của mình đều là trong tâm tưởng, rằng không có gì phải sợ cả, thì cuộc sống thật sự của tôi mới bắt đầu.

Khi bạn bị thu hút bởi một mô hình thói quen tiêu cực, bạn sẽ cảm nhận và phản ứng như thể bạn đang lâm vào nguy cơ bị tổn hại thể chất. Chẳng hạn, nếu bạn sợ nói trước đám đông, và người ta nói với bạn rằng bạn sẽ phải lên nói trước một đám đông, thì phản ứng đầu tiên của bạn sẽ là cảm giác yếu đuối. Và bạn càng nghĩ về những sự kiện sắp diễn ra thì nỗi sợ hãi càng kéo dài. Tim bạn bắt đầu đập nhanh hơn. Bạn bắt đầu thở gấp hơn và hơi thở ngắn hơn, cổ họng khô lại, và trán giật liên tục, giống như chứng đau nửa đầu. Bạn sẽ phản ứng như thể sắp bị đánh đòn. Tất cả biểu hiện về thể chất này của mô hình thói quen tiêu cực sự ức chế thường được lập trình trong tiềm thức trước sáu tuổi.

Mô hình thói quen tiêu cực cũng gây nên cảm giác lo lắng và sợ hãi, kèm theo đó là toát mồ hôi, tim đập nhanh và phản ứng cảm xúc như tức giận, nôn nóng. Mô hình thói quen tiêu cực càng ăn sâu trong bạn thì phản ứng của bạn trước tình huống đó càng lên đến đỉnh điểm.

Nỗi sợ thất bại, sự ức chế hình thành do ba nguyên nhân:

Thứ nhất, do mối liên hệ lặp đi lặp lại với một sự kiện cụ thể đi liền với những lời phê bình tiêu cực hay sự trừng phạt về thể xác. Nếu một đứa trẻ bị đánh đòn mỗi khi nó chạm vào chiếc đàn piano thì cuối cùng, nó sẽ hình thành một phản ứng có điều kiện là nỗi sợ hãi nảy sinh từ ý nghĩ chơi đàn piano.

Thứ hai, đó là kết quả của những ảnh hưởng tiêu cực tinh tế mà có thể bạn không nhận biết được. Một số người chấp nhận lời chỉ trích một cách mù quáng như thể chúng là sự thật. Những người khác tin rằng các đặc tính tiêu cực gắn với số mệnh của họ. Một số người làm việc không hiệu quả ở lần đầu tiên và họ kết luận mình không có năng khiếu trong lĩnh vực đó.

Một điều quan trọng mà bạn phải làm là liên tục tự hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra nếu mình có khả năng làm tốt trong lĩnh vực đó?” Khi bạn loại bỏ được những cản trở của niềm tin tự giới hạn và nỗi sợ hãi, bạn sẽ nhận ra trước mặt mình có rất ít chướng ngại vật và hầu hết chúng đều nằm trong suy nghĩ của bạn, trong sự phản ứng tự động của bạn.

Thứ ba, đó là kết quả của một sự việc gây tổn thương nào đó. Một trải nghiệm đặc biệt đáng sợ, ví dụ như vì suýt chết đuối hay bị ngã khi còn bé, nên bạn mắc chứng sợ nước và độ cao một cách “vô lý”.

Đôi khi những nỗi sợ hãi đó được gọi là sự ám ảnh và chúng có thể lớn dần. Một trải nghiệm tiêu cực liên tục lặp lại có thể trở thành nỗi khiếp đảm, gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống và hạnh phúc của bạn.

Một trong những yêu cầu để trở thành người tích cực là phải “dọn sạch” đầu óc, phải thổi tắt cây nến tiềm thức sợ hãi. Để làm được điều này, bạn phải xác định và đối phó với bất kỳ nỗi sợ hãi nào có thể cản trở bạn.

Hãy thổ lộ nỗi sợ hãi của mình với bạn thân hay người bạn đời. Người khác có thể thấy được những điều mà bạn không thấy. Hãy tham vấn một nhà tâm lý hay chuyên gia tâm thần học nếu thấy cần. Một nhà trị liệu chuyên nghiệp cũng có thể giúp bạn giải phóng khỏi những chướng ngại tinh thần đã và đang ngăn cản sự phát triển của bạn trong thời gian dài.

Mô hình thói quen tiêu cực thứ hai là sự thúc ép. Cha mẹ thường nói: “Nếu con không làm, hay ngừng làm một việc này hay việc khác, thì con sẽ gặp rắc rối lớn”. Đối với trẻ em, rắc rối thường có nghĩa là sự giảm bớt tình yêu và sự tán đồng.

Khi cha mẹ thể hiện tình yêu thương có điều kiện của họ dựa trên sự biểu hiện hay thái độ cư xử của trẻ, thì đứa trẻ dễ hình thành suy nghĩ là mình không được yêu thương và vì vậy mình sẽ không được che chở cho đến khi mình làm được những việc khiến cha mẹ vui lòng. Do đó, mình phải làm những việc khiến họ hài lòng. Mình phải làm những việc khiến họ vui vẻ. Mình phải làm những gì họ muốn.

Mô hình thói quen tiêu cực thúc ép này phát triển khi cha mẹ thể hiện tình yêu có điều kiện với con chứ không phải tình yêu vô điều kiện. Nó tự biểu hiện trong nỗi sợ hãi bị hắt hủi. Và nỗi sợ hãi bị hắt hủi là nguyên nhân chính thứ hai dẫn đến sự thất bại và thành tích kém cỏi của con cái khi trưởng thành.

Nếu bạn được nuôi dưỡng bằng một tình yêu thương có điều kiện, bạn sẽ trở nên quá quan tâm đến ý kiến của người khác, đặc biệt là ý kiến của cha mẹ, vợ (chồng), ông chủ hay bạn bè.

Ở đây tôi dùng từ “quá”. Việc cân nhắc những suy nghĩ và cảm giác của người khác là hoàn toàn bình thường và tự nhiên. Sự quan tâm và sự tôn trọng ý kiến của người khác có đóng vai trò như chất keo gắn kết xã hội? Nếu không, chúng ta sẽ trở nên hỗn loạn.

Nhưng khi điều này thái quá, nó sẽ khiến chúng ta không dám ra quyết định chừng nào chưa nhận được sự đồng tình của người khác.

Hãy nhớ rằng, tất cả chúng ta đều sợ hãi. Đặc biệt, chúng ta sợ bị phê bình và không được tán thành. Chúng ta sẽ cố gắng hết sức để có được thiện chí và sự tôn trọng của người khác. Chúng ta sẽ dâng hiến mọi thứ để được người khác yêu quý. Những người lính thậm chí còn hy sinh mạng sống của mình để không làm người khác thất vọng.

Nhưng bạn cần ý thức về ảnh hưởng này. Trong mỗi tình huống có liên quan đến ý kiến của người khác, hãy tự hỏi: “Mình thật sự muốn làm gì? Điều gì khiến mình thấy hạnh phúc nhất?” trước khi đưa ra quyết định.

Phụ nữ có xu hướng thể hiện nỗi sợ hãi bị bỏ rơi bằng sự thất vọng, rút lui và triệu chứng về cơ thể, còn đàn ông biểu hiện qua “hành vi tuýp A”. Thái độ cư xử này thường nảy sinh từ mối quan hệ giữa cha và con trai hay cha và con gái. Điều này sinh ra khi đứa trẻ cho rằng nó chưa bao giờ có được tình cảm đầy đủ từ cha.

Đối với đàn ông, khi trưởng thành sự nỗ lực vô thức để có được tình yêu thương từ người cha được chuyển sang ông chủ ở nơi làm việc. Khi đó hành vi tuýp A được biểu hiện thành việc quan tâm đến sự tán đồng của ông chủ. Trong trường hợp cực đoan, điều này còn có thể khiến người đàn ông bị ám ảnh bởi công việc, thậm chí đến mức hủy hoại sức khỏe của anh ta và gia đình anh ta.

Tôi nhớ khi bố tôi qua đời, tôi đã rất đau buồn. Tôi cảm thấy mình chưa bao giờ có thể làm đúng – mình chưa bao giờ làm được những việc cần thiết để có được tình yêu thương và sự chấp nhận trọn vẹn của ông. Hai năm sau cái chết của ông, tôi vẫn có cảm giác mất mát và trống trải mỗi khi nghĩ đến cha.

Sau đó, vào một buổi tối, tôi mời mẹ đi ăn tối và chia sẻ cảm giác ấy với bà. Bà rất ngạc nhiên và nói với tôi rằng, tôi không có lý do gì để buồn chán hay thất vọng. Bà giải thích rằng cha tôi chưa bao giờ có nhiều tình yêu thương để trao cho bất cứ ai.

Do những trải nghiệm từ thời thơ ấu, ông ấy có rất ít tình yêu thương cho bản thân và vì thế cũng dành cho con cái rất ít tình yêu. Bà nói với tôi rằng tôi sẽ chẳng thể làm gì để có được nhiều hơn tình yêu thương mà tôi đã nhận.

Qua thời gian, tôi nhận ra rằng đa số những người đàn ông phải chịu đựng hành vi tuýp A vẫn đang cố gắng tìm kiếm tình yêu thương và sự tôn trọng của cha mình. Nhưng những gì tôi học được sau khi cha tôi qua đời, đó là bất kể bạn nhận được bao nhiêu tình yêu từ cha mình, thì đó là tất cả những gì ông có để trao cho bạn. Trước đây và bây giờ, bạn không thể làm gì để thay đổi điều đó. Một khi bạn hiểu và chấp nhận điều đó, bạn sẽ thấy thoải mái hơn và sống thanh thản suốt phần đời còn lại.

SỰ TỰ NHẬN THỨC TRONG KINH DOANH

Mỗi nhóm người dù ở quy mô nào, đều hình thành một sự tự nhận thức. Đây là nhân cách tổng thể của con người khi họ tập hợp lại với nhau, hay khi họ nghĩ về bản thân như một phần trong tổng thể lớn. Nó được gọi là tinh thần, hay văn hóa, nhưng nó còn hơn thế. Nó là sắc thái tâm lý chung của tổ chức. Trên tất cả, nó là niềm vui của mỗi cá nhân khi được là một phần của nhóm. Nó là cảm giác tự hào và tin tưởng mà họ cảm nhận được hoặc không cảm nhận được trong tư cách thành viên của tổng thể lớn này.

Mỗi cặp vợ chồng có một sự tự nhận thức. Đó là cách họ nhìn nhận và cảm nhận về bản thân khi ở cùng với nhau. Nó được “đo” bằng số nụ cười của họ. Những cặp vợ chồng hay gia đình có sự tự nhận thức tích cực thường rất vui vẻ, nhiệt thành với nhau và với cuộc sống chung. Ngược lại, các cặp vợ chồng hay gia đình có sự tự nhận thức tiêu cực thường phàn nàn, chỉ trích và cãi vã không ngớt.

Các công ty và cả các đơn vị, phòng ban chức năng hay một nhóm người trong công ty đó, cũng có sự tự nhận thức.

Sự tự nhận thức của một doanh nghiệp được tạo nên từ ba yếu tố cơ bản.

Một là, lý tưởng cá nhân. Nó là sự kết hợp giá trị, đạo đức và nhiệm vụ của tổ chức. Ở đâu có sự rõ ràng, tích cực và cam kết của người quản lý, thì ở đó nhân viên trong công ty sẽ thấy vui vẻ, tích cực và tin tưởng hơn vào bản thân và doanh nghiệp.

Một trong những trách nhiệm không thể tránh khỏi và sâu sắc nhất của người quản lý (hay cha mẹ) là phải kết nối chặt chẽ lý tưởng cá nhân này, và sau đó thể hiện những giá trị của họ qua hành vi của họ với người khác.

Yếu tố thứ hai của sự tự nhận thức trong công ty là sự nhận thức của tập thể. Đây là cách người quản lý và nhân viên công ty nhìn nhận và suy nghĩ về bản thân họ. Sự tự nhận thức về bản thân này chủ yếu được quyết định bởi cảm nhận về công việc và nhiệm vụ của họ tốt đến mức nào. Nó chịu tác động lớn từ chất lượng sản phẩm và dịch vụ, và mức độ chấp nhận của các nhà cung cấp và khách hàng.

Ở các công ty có doanh số đang tăng, thị phần và lợi nhuận cũng tăng, mọi người có vẻ hạnh phúc, thoải mái và tự tin. Ở các công ty đang phải vật lộn trên thương trường hay vì nội bộ có vấn đề, các nhân viên thường không vui vẻ, không chắc chắn và suy nghĩ tiêu cực về triển vọng của mình. Họ trút lên đầu nhau những lời chỉ trích, phàn nàn và nói xấu sau lưng.

Một trong những công việc của hội đồng quản trị hay đội ngũ lãnh đạo là củng cố tinh thần mọi người bằng cách liên tục khen ngợi họ, hướng họ tập trung vào triển vọng tương lai chứ không phải là vấn đề quá khứ.

Yếu tố cuối cùng của sự tự nhận thức, tự đánh giá trong một tổ chức là tổng số ý tưởng, sự phát triển của tổ chức và mỗi người cảm thấy bản thân họ được cấp trên và bạn đồng nghiệp đối xử như thế nào. Người quản lý nào luôn tự hào và động viên mọi người trong công ty thì người đó sẽ xây dựng được sự tự đánh giá cao cho chính mình. Sự tự đánh giá cao này thể hiện bằng tinh thần lạc quan, nghị lực, sáng tạo, hợp tác và cam kết. Đây là yếu tố khó xây dựng và duy trì nhất, nhưng những người thích và tôn trọng bản thân sẽ trở thành lực lượng mạnh mẽ trong môi trường kinh doanh cạnh tranh.

Công ty, tổ chức, đơn vị, phòng ban, tập thể người lao động hay một gia đình có sự tự nhận thức tích cực là nơi mà những thành viên trong đó cảm thấy thỏa mãn về bản thân. Tạo ra được một nhóm như vậy là cả một nghệ thuật trong công tác quản lý. Đây là kỹ năng cao nhất của mỗi cá nhân trong xã hội.

Với một tập thể hay gia đình như vậy, bạn có thể làm được nhiều điều tuyệt vời. Bạn có thể hoàn thiện được khả năng của mình khi giúp đỡ người khác hoàn thiện bản thân họ.

TRỞ NGẠI LỚN NHẤT CỦA CUỘC SỐNG

Vấn đề lớn nhất của loài người là nỗi sợ hãi. Chính sự sợ hãi đã lấy mất hạnh phúc của chúng ta, là nguồn gốc của những cảm xúc tiêu cực và những rắc rối trong các mối quan hệ của con người.

Nỗi sợ hãi bị thất bại và nỗi sợ hãi bị phản đối là những phản ứng hình thành trong bạn trước khi bạn sáu tuổi. Những nỗi sợ hãi này luôn lập giới hạn cao hơn hay thấp hơn vùng thoải mái của bạn.

Đối lập với nỗi sợ hãi là tình yêu thương, bắt đầu với việc tự yêu bản thân hay tự đánh giá cao bản thân. Có một mối quan hệ đối lập giữa sự tự đánh giá cao và nỗi sợ hãi. Càng yêu bản thân, bạn càng ít sợ bị thất bại và bị phản đối. Càng yêu thích bản thân, bạn càng sẵn sàng vươn ra và chấp nhận mạo hiểm để đạt tới thành công và hạnh phúc. Càng yêu bản thân, bạn càng sẵn sàng thực hiện những hành động đưa bạn ra khỏi vùng thoải mái và đạt được những mục tiêu và mong muốn thật sự của bạn.

Bạn hãy bắt đầu quá trình nuôi dưỡng sự tự đánh giá cao và vượt qua nỗi sợ hãi của bạn bằng cách nhắc đi nhắc lại những câu mạnh mẽ như: “Mình thích chính mình!”

Hãy bắt đầu mỗi ngày bằng cách nhắc đi nhắc lại câu: “Mình thích chính mình” 50 hay hàng trăm lần cho đến khi những từ ngữ đó thâm nhập vào tiềm thức của bạn. Bạn sẽ sớm nhận ra và cảm nhận được sự chuyển biến trong lòng tự tin, trong khả năng và mối quan hệ của bạn với người khác. Bạn sẽ bắt đầu cảm thấy yêu chính mình.

LẬP TRÌNH TRÍ NÃO ĐỂ THÀNH CÔNG

Nhờ sự tự nhận thức, bạn trở thành người như bạn vẫn nghĩ đến. Những gì bạn nghĩ đến và cách bạn nghĩ về chúng, quyết định mức độ sức khỏe, sự giàu có và hạnh phúc của bạn trong mỗi lĩnh vực cuộc sống. Bạn hãy tập trung ý nghĩ vào thứ bạn muốn và thoát khỏi thứ bạn không muốn.

Bạn tạo nên cuộc sống của bạn hôm nay bằng tất cả ý nghĩ trước đó của bạn. Bạn ở nơi bạn đang ở và là chính bạn chỉ bởi bản thân bạn. Bạn có thể thay đổi tương lai vào bất cứ thời điểm nào bằng cách kiểm soát ý thức của bạn từ lúc này trở đi. Bạn có thể làm cho cuộc sống trở nên tuyệt vời − trải nghiệm tự do, thú vui, sức khỏe, niềm vui và sự giàu có – đơn giản bằng cách quyết định làm như vậy và từ chối giải quyết những suy nghĩ trái ngược nhau tại cùng một thời điểm.

Do bản chất ý thức đa dạng, bạn có thể viết lại chương trình tổng hợp bằng cách kết hợp ý thức với một loạt thông điệp. Nếu bạn muốn có một cơ thể cân đối, bạn phải tập thể dục. Nếu bạn muốn tinh thần ổn định, tích cực và mạnh khỏe, bạn phải đảm bảo rằng thông điệp trong suy nghĩ có ý thức phải phù hợp với cuộc sống lý tưởng mà bạn mong muốn.

Sự thay đổi này không hề dễ dàng. Bạn phải mất cả cuộc đời để đến được nơi bạn ở hôm nay, với trạng thái tinh thần hiện nay. Điều này đòi hỏi bạn phải nỗ lực rất lớn trong quá trình thay đổi. Nhưng điều này rất đáng để thực hiện, và kết quả đạt được sẽ nhanh và nhiều hơn nỗ lực mà bạn đã bỏ ra.

SỰ ĐIỀU BÌNH

Để đạt được những kết quả khác, bạn phải trở thành một người khác. Bạn phải thay đổi mục tiêu, lý tưởng và phát triển sự tự nhận thức mới về bản thân. Theo luật tương ứng, thế giới bên ngoài của bạn sẽ phản ánh thế giới bên trong. Bạn phải trở thành một con người mới từ bên trong để có được những điều tốt đẹp ở bên ngoài.

Điều đầu tiên và cũng là trở ngại lớn nhất mà bạn phải đối mặt là thế giới nội tâm của chính mình. Chính sự nỗ lực một cách vô thức để giữ lại những gì phù hợp với những điều bạn nói và làm trong quá khứ đã kìm hãm bạn.

“Xung lực điều bình” là một thuật ngữ khác để chỉ vùng thoải mái. Đây là xu hướng vô thức khi phải thực hiện những gì bạn thường làm mà không thể cưỡng lại được. Việc không thể phá bỏ mối liên hệ với quá khứ là lý do khiến hầu hết mọi người chỉ thực hiện dưới mức khả năng và luôn trong tình trạng không hoàn thiện, không hài lòng trong cuộc sống.

Sự điều bình không tốt mà cũng không xấu. Nó là cơ chế tự nhiên được xây dựng bên trong bạn giống như một phần của “thiết bị tiêu chuẩn” để giúp bạn hoạt động tự động trong nhiều lĩnh vực. Nó duy trì mức độ cân bằng hóa học trong hàng tỷ tế bào và khống chế hệ thần kinh tự trị của bạn.

Mỗi khi bạn suy nghĩ, nói hay làm điều gì trái ngược với thói quen hiện tại thì xung lực điều bình sẽ cố gắng kéo bạn quay trở lại khu vực thoải mái bằng cách làm cho bạn thấy khó chịu và không thoải mái. Vì bạn luôn hướng từ không thoải mái sang thoải mái, nên bạn có xu hướng quay lại với những việc khiến bạn thấy thoải mái và tránh xa những việc mới mẻ và nhiều thách thức.

Xu hướng tự nhiên của bạn, nếu bạn bị bắt buộc phải ra khỏi vùng thoải mái, ngay cả khi bạn không thấy vui vẻ, là tạo ra một vùng thoải mái mới tương tự như khu vực bạn vừa mới đi khỏi.

Điều quan trọng là bạn phải nhận thức được cơ chế điều bình. Bạn thường muốn yên vị với con đường đã chọn. Nhưng tất cả sự phát triển và tiến bộ đều đòi hỏi bạn phải rời khỏi vùng thoải mái để hướng tới điều gì đó lớn hơn và tốt đẹp hơn. Bạn chỉ có thể đạt được thành công và hạnh phúc lớn hơn khi tạo ra một vùng thoải mái mới ở mức độ hiệu quả cao hơn.

CHỨNG XƠ CỨNG TÂM LÝ

Chướng ngại chính thứ hai cho quá trình thay đổi là “chứng xơ cứng tâm lý”. Hiện tượng này có nguồn gốc từ sự sợ hãi và xung lực điều bình. Chứng xơ cứng tâm lý là xu thế tự nhiên bạn khi yêu quý chính những ý tưởng của mình và hùng hồn bảo vệ chúng, chống lại những gì mới mẻ.

Ngược lại với chứng xơ cứng tâm lý là sự linh hoạt, sự sẵn sàng xem xét các quan điểm khác, ý kiến khác với một khả năng là bạn có thể sai lầm.

Sự linh hoạt về tinh thần này là tiêu chuẩn đánh giá một người giỏi giang. Chính hành động xem xét tất cả các chọn lựa trong một tình huống cụ thể sẽ giúp bạn thấy được khả năng của mình. Phương pháp này thật sự mang lại hiệu quả.

Phương pháp này rất cần thiết trong quá trình lập trình trí tuệ, cho sự thay đổi trí não. Một lý do chủ yếu khiến mọi người không thể tiến lên trong cuộc sống là họ quá cứng nhắc và không linh hoạt trong suy nghĩ, đặc biệt là suy nghĩ về bản thân và khả năng. Khi đó họ viện ra tất cả các lý do để giải thích tại sao có một điều gì đó không hiệu quả đối với mình, chứ không phải tại sao nó sẽ có hiệu quả. Họ hành động như những luật sư bào chữa, dựng lên một vụ án chống lại chính mình và chống lại cả bạn nữa nếu bạn để cho họ làm như vậy.

Một bước ngoặt quan trọng trong suy nghĩ sẽ xuất hiện khi bạn thay đổi ngôn ngữ từ “liệu có thể” sang “làm thế nào”. Khi bạn bắt đầu suy nghĩ về cách thức thực hiện một việc và đồng thời, kiên quyết không không băn khoăn có thực hiện được nó hay không, thì toàn bộ trạng thái tâm lý của bạn sẽ bắt đầu thay đổi. Bạn sẽ đạt được những gì bạn nghĩ đến, và nếu bạn tiếp tục suy nghĩ theo hình thức làm thế nào và thực hiện những hành động gì để đạt được điều đó thì cuối cùng, bạn sẽ thành công.

SỨC MẠNH TÌNH YÊU

Ngay từ khi còn nhỏ, rất nhiều việc bạn làm là để giành được tình cảm hay bù đắp cho sự thiếu hụt tình cảm. Cảm xúc yêu thương có ảnh hưởng rất lớn đến mỗi lựa chọn và quyết định của bạn. Sự tự lý tưởng hóa bản thân, cơ chế hướng dẫn của sự tự nhận thức và sự điều chỉnh thái độ ứng xử là quan điểm của bạn về kiểu người mà bạn cần phải trở thành để có được tình yêu thương và sự tôn trọng từ người khác.

Rất nhiều vấn đề về nhân cách đều có nguồn gốc từ “tình yêu thương bị kìm nén”. Nhân cách người lớn chủ yếu được hình thành bởi lượng và chất của tình yêu thương mà bạn nhận được qua năm tháng. Hầu hết những việc bạn làm hôm nay – các mục tiêu, giấc mơ, cam kết thực hiện − đều bị ảnh hưởng bởi sức mạnh tình yêu trong cuộc sống.

Trên thực tế, bạn sẽ không tránh khỏi việc bị thu hút bởi những người mà bạn cần và muốn có được tình yêu thương của họ, và bạn bị ảnh hưởng quá mức bởi ý kiến của họ. Khi bạn bắt đầu quá trình lập trình lại trí não, mọi thứ bạn làm phải phù hợp với lượng tình yêu thương và sự tôn trọng ngày càng tăng mà bạn dành cho bản thân, và lượng tình yêu thương và tôn trọng mà người khác dành cho bạn. Chỉ bằng cách này, bạn mới có động cơ thúc đẩy liên tục để tạo ra những nỗ lực cần thiết giúp bạn trở thành người mà bạn có khả năng trở thành.

Tình yêu thương và sự tôn trọng của ai quan trọng nhất với bạn? Bạn phải làm gì và phải trở thành người thế nào để họ yêu quý và tôn trọng? Đây là những câu hỏi cốt lõi để có được cuộc sống hạnh phúc.

SỨC MẠNH CỦA SỰ GỢI Ý

Chỉ đứng sau sức mạnh tình yêu trong việc quyết định bạn suy nghĩ và cảm nhận như thế nào, đó là sức mạnh của sự gợi ý. Trí tuệ đa chiều của bạn bị tác động bởi mọi việc diễn ra xung quanh và bên trong con người bạn. Môi trường có tính gợi ý tác động lớn lên mọi thứ. Bất cứ sự thay đổi nào trong môi trường tình cảm, tinh thần hay thể chất cũng có thể làm thay đổi cách suy nghĩ, cảm nhận và hành động của bạn nhanh chóng, và qua đó thay đổi các kết quả.

Bạn bị ảnh hưởng ngay bởi những thay đổi về nhiệt độ hay tiếng ồn. Bạn bị ảnh hưởng tức thì bởi các cuộc trò chuyện hay va chạm với người khác. Một lời nhận xét không tốt có thể khiến bạn buồn chán suốt cả ngày. Một tin tức tốt lành có thể khiến bạn vui vẻ và hạnh phúc hàng giờ liền.

Thật không may, trừ khi bạn kiểm soát chúng thật cẩn thận, đa phần những lời gợi ý trong môi trường của bạn sẽ có xu hướng tiêu cực. Đài, vô tuyến và báo chí chứa đầy những “tin giật gân tiêu cực”. Phần lớn các cuộc đối thoại đều chứa đầy những lời chê bai, phàn nàn và chỉ trích.

Chìa khóa cho quá trình lập trình tinh thần là bạn phải kiểm soát có hệ thống và có mục đích môi trường có tính gợi ý. Nó giúp bạn tạo ra một thế giới tinh thần mà sự tích cực chiếm ưu thế và phù hợp với con người và cuộc sống mà bạn mong muốn. Việc kiểm soát môi trường có tính gợi ý đòi hỏi bạn phải quyết định xem đâu là thành phần của “chế độ kiêng khem tinh thần” cho tương lai không giới hạn.

Có thêm ba luật tinh thần mà bạn cần phải hiểu để lập trình lại trí não và làm thay đổi tương lai. Đó là luật thói quen, luật thực hành và luật cảm xúc. Chúng chứa đựng các câu trả lời sống còn cho các câu hỏi về thành công, hạnh phúc và cung cấp nhiều giải pháp mà bạn đang tìm kiếm.

LUẬT THÓI QUEN

Hầu như mọi việc bạn làm đều là kết quả của thói quen. Cách bạn nói chuyện, làm việc, lái xe, suy nghĩ, tương tác với người khác, tiêu tiền và đối xử với những người quan trọng trong cuộc đời bạn phần lớn đều dựa trên thói quen. Thái độ cư xử trong mỗi lĩnh vực của cuộc sống đều dựa trên cơ sở sự tích lũy tất cả các trải nghiệm của bạn, bắt đầu từ khi còn thơ bé. Khoảng 95% hành động và phản ứng của bạn là tự động, là vô thức với môi trường nhân văn và môi trường thể chất.

Thói quen là trở ngại chính trên con đường trở thành con người như bạn mong muốn. Chúng là vật cản chắn giữa nơi bạn đứng hôm nay với nơi bạn thật sự muốn đến. Chúng giữ bạn “chạy tại chỗ”.

Luật thói quen là một luật tinh thần hết sức quan trọng. Nó giải thích vùng thoải mái, sự thành công hay thất bại cũng như bất cứ nguyên tắc đơn lẻ nào khác. Nó có hình thức giống định luật Newton (luật này phát biểu rằng, một cơ thể khi nghỉ ngơi có xu hướng duy trì sự nghỉ ngơi và một cơ thể chuyển động có xu hướng duy trì sự chuyển động, trừ khi bị tác động bởi một lực từ bên ngoài).

Cách suy nghĩ và hành vi của bạn cũng theo nguyên tắc tương tự. Nếu không có một lực từ bên ngoài, hoặc một quyết định dứt khoát về việc bạn là sẽ làm gì khác đi thì bạn sẽ làm những việc tương tự không biết đến bao giờ.

Bạn sẽ vẫn làm công việc như thế, vẫn kết giao với những người như thế, vẫn ăn thức ăn như thế, vẫn đi làm cùng một con đường, vẫn tham gia vào những hoạt động giải trí như thế, vẫn xem ti vi như thế, vẫn đọc những cuốn sách như thế và vẫn sống cuộc sống như cuộc sống lúc trước.

Những thói quen chỉ tốt khi chúng còn phục vụ cho bạn, khi những ảnh hưởng của chúng vẫn tiếp tục làm phong phú và cải thiện cuộc sống của bạn. Nhưng khi những thói quen trở thành cản lực chính của hạnh phúc thì đã đến lúc bạn phải điều chỉnh hoàn toàn hoặc thay đổi chúng.

Một số người lạm dụng thói quen đến muộn trong các buổi hẹn hay hoàn thành nhiệm vụ không đúng thời hạn. Nhưng những người thành công luôn rất đúng giờ và đáng tin cậy. Mọi người có thể tin tưởng họ. Những người thành công luôn giữ đúng cam kết và tôn trọng thời gian của người khác bằng cách không gây phiền phức cho họ.

Tuy nhiên, những thói quen nguy hiểm nhất dễ hình thành là những thói quen về tinh thần. Thực tế là, cho dù bạn liên tục suy nghĩ về những gì bạn sẽ tạo ra trong cuộc sống, song những suy nghĩ tiêu cực và tự hạn chế sẽ khiến bạn bị tổn thương nhiều hơn bất cứ điều gì khác mà bạn quan tâm.

Các kiểu suy nghĩ theo thói quen là những điều chi phối trong cuộc sống của bạn nhiều nhất. Giống như đại văn hào Shakespeare đã viết: “Chẳng có gì là tốt hay xấu, chỉ có suy nghĩ mới làm cho nó trở thành tốt hay xấu”. Bạn sống trong một thế giới tinh thần. Không gì xung quanh bạn có ý nghĩa trừ khi bạn tạo cho nó. Nếu bạn thay đổi cách nghĩ thì cuộc sống cũng thay đổi.

Thành công hay thất bại, hạnh phúc hay bất hạnh, chủ yếu đều là kết quả của thói quen, của tác động và phản ánh tự động những gì đang diễn ra quanh bạn. Thay đổi thói quen không còn phù hợp với mục đích cao hơn là một trong những điều khó khăn nhất mà bạn đã từng làm, và là một trong những điều thiết yếu nhất đối với chất lượng cuộc sống. Trừ khi bạn đã đạt đến một mức độ xuất sắc hay hoàn hảo, còn hiện tại bạn đang sống với những thói quen mà bạn phải loại bỏ ngay nếu muốn tiến lên. Hãy nhớ rằng, những thói quen xấu rất dễ hình thành nhưng để sống chung với chúng rất khó; còn những thói quen tốt lại khó hình thành nhưng sống chung với chúng lại rất dễ. Nhiệm vụ của bạn là phải hình thành những thói quen tốt và chủ động thực hiện chúng.

LUẬT THỰC HÀNH

Tất cả những thói quen có được là do học hỏi và vì vậy, ta có thể không học chúng. Trên mọi khía cạnh, con người của bạn hiện tại là kết quả của hoàn cảnh, gần giống như một vật thí nghiệm. Bạn đã được đào tạo, hay tự đào tạo, để trở thành người như hôm nay và để đạt được những kết quả trong cuộc sống mà bạn đang có.

Bạn có thể thay đổi nếu muốn. Luật thực hành phát biểu rằng, bất cứ suy nghĩ và hành động nào được lặp lại đủ lâu sẽ trở thành một thói quen mới. Bạn có thể hình thành bất cứ thói quen nào mình thích hoặc cho là cần thiết. Bạn có thể trở thành kiểu người bạn muốn nếu rèn luyện bản thân để suy nghĩ và hành động phù hợp với những lý tưởng mới và cao hơn đủ lâu để chúng trở thành thói quen mới. Đây là cách để bạn trở thành một con người mới và tốt đẹp hơn.

Vì thế giới bên ngoài tương ứng với thế giới nội tâm bên trong, nên khi bạn bắt đầu phát triển các cách suy nghĩ và cư xử mang tính xây dựng, thì những con người và hoàn cảnh xung quanh bạn cũng sẽ bắt đầu thay đổi, đôi khi theo các cách khác thường và bất ngờ nhất.

Một người bạn của tôi có liên quan đến một vụ kiện rất phức tạp. Anh ấy càng giận dữ thì phía bên kia càng kiên quyết và vô lý hơn, và luật sư của anh ấy cũng vậy. Cuối cùng, anh ấy quyết định thay đổi cách suy nghĩ. Anh ấy bắt đầu suy nghĩ khoan dung và cảm thông cho phía bên kia. Anh để sự việc qua đi.

Chỉ vài ngày sau khi anh ấy quyết định thay đổi cách suy nghĩ về vụ kiện, người kia gọi điện xin lỗi anh ấy vì đã hiểu nhầm và có những suy nghĩ tệ hại, và đề xuất một giải pháp hợp lý. Thay vì lôi nhau ra tòa, vấn đề đã được giải quyết êm đẹp.

LUẬT CẢM XÚC

Cảm xúc là lực lượng hỗ trợ đằng sau những suy nghĩ. Bạn càng cảm nhận mãnh liệt về một điều gì đó, thì suy nghĩ hay tình huống đó càng có tác động đến cuộc sống của bạn. Cảm xúc giống như một dòng điện, hay ngọn lửa, vừa mang tính xây dựng lại vừa mang tính phá hoại, tùy thuộc vào cách bạn sử dụng nó.

Luật cảm xúc phát biểu rằng 100% những quyết định và hành động dựa trên cơ sở cảm xúc. Không phải là bạn có rất nhiều tình cảm, hay 90% cảm xúc và 10% lý trí, như người ta vẫn nói. Bạn hoàn toàn là cảm xúc.

Trước khi hiểu được điều này, tôi đã từng nghĩ mình đang làm những việc hợp lý, những điều thực tế, “có ý nghĩa” trong rất nhiều trường hợp. Khi tôi biết luật cảm xúc, tôi nhận ra rằng tôi thật sự là nô lệ của cảm xúc, nếu tôi không dành thời gian để suy nghĩ xem cảm xúc nào là chủ đạo trong một hoàn cảnh hay một quyết định đặc biệt.

Đây là điểm mấu chốt: Chỉ có hai loại cảm xúc chính: lòng khao khát và sự sợ hãi. Đa phần những gì bạn làm hay không làm, đều được quyết định bởi cảm xúc. Và những việc bạn làm, hay kiềm chế không làm, bởi nỗi sợ hãi lấn át số lượng những việc bạn làm bởi lòng khát khao.

Đa số mọi người đều bị kìm hãm bởi sợ hãi. Họ sợ sự nghèo khó hay mất mát. Họ sợ bị phê bình hay không được tán đồng. Họ sợ ốm yếu. Họ sợ bị lợi dụng. Và trên hết, họ sợ thất bại và bị bỏ rơi tới mức sẵn sàng “sống tuyệt vọng âm thầm” chứ không liều lĩnh để gánh chịu những nỗi sợ hãi. Đa số mọi người sống theo cách này, trong phần lớn cuộc đời.

Bạn càng khao khát hay lo sợ một điều gì đó, bạn càng dễ gặp phải nó. Một suy nghĩ không có cảm xúc đằng sau thì không có khả năng ảnh hưởng đến bạn. Một cảm xúc không có suy nghĩ dẫn dắt sẽ gây nên nỗi thất vọng và sự bất hạnh. Nhưng khi bạn có một suy nghĩ rõ ràng, tích cực hay tiêu cực, kèm theo là một cảm xúc mãnh liệt, có thể là sợ hãi hoặc khao khát, là bạn đã kích hoạt các luật tinh thần khác và bắt đầu vẽ ra những gì hướng về bạn.

Đây là lý do tại sao việc bạn giữ suy nghĩ vào những thứ bạn muốn và tránh xa những gì bạn lo sợ lại quan trọng đến vậy. Những người hạnh phúc và thành công nhận ra sức mạnh của suy nghĩ và rất chú trọng giữ cho chúng luôn tích cực và mang tính xây dựng. Trí tuệ mạnh đến nỗi bạn phải kiểm soát hết sức kiên quyết để nó giúp bạn đi theo con đường mong muốn, hay sẽ mang bạn thoát ra khỏi những khát khao.

Thay đổi sự tự nhận thức của bạn không phải là một việc dễ thực hiện. Nó có thể là một việc khó khăn nhất bạn từng làm. Và cũng có giá trị nhất. Nhưng bạn buộc phải làm điều đó. Một khi bạn đã quyết định làm điều gì đó quan trọng và có giá trị với cuộc sống, để đạt được lý tưởng, bạn phải thay đổi hoàn toàn trạng thái tâm lý.

BA ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ THAY ĐỔI

Có ba điều kiện để phát triển sự tự nhận thức mới. Chúng là chìa khóa để đổi hướng cuộc sống của bạn. Một là, bạn phải thật sự muốn thay đổi. Bạn phải thật sự muốn trở nên tích cực với con người và năng lực. Bạn phải có sự khao khát mãnh liệt và cháy bỏng hơn nhiều so với trước kia.

Mọi người thường hỏi tôi là họ có thể làm gì để thay đổi người khác thay đổi. Tôi nhắc họ nhớ điểm khởi đầu của sự thay đổi, của việc làm được gì đó khác đi hay tốt hơn, là sự khao khát, và nó luôn mang tính cá nhân. Bạn không thể muốn một điều gì đó cho một ai khác, cũng như bạn không thể đặt ra mục tiêu cho một người nào khác. Vì để thay đổi, một người cần thật sự khao khát thay đổi.

Điểm khởi đầu cho việc trở thành con người mới, tốt đẹp hơn là bạn phải cảm thấy mình muốn thay đổi hoặc sự thay đổi là cần thiết, hoặc cả hai. Sự thay đổi, mục tiêu, phẩm chất nhân cách mới phải phù hợp với những giá trị, lý tưởng và con người mà bạn thật sự muốn trở thành.

Hai là, bạn phải sẵn sàng để thay đổi. Nhiều người nói rằng họ muốn thay đổi, nhưng trong thâm tâm, họ không thật sự sẵn sàng từ bỏ lối sống cũ, mối liên hệ cũ và mọi thứ khác. Một người có thể muốn mạnh khỏe nhưng lại không muốn bỏ thuốc lá. Người khác có thể muốn thành công về mặt tài chính, nhưng lại không muốn từ bỏ khoảng thời gian quý báu mỗi tối để tụ tập bạn bè.

Bạn phải sẵn sàng từ bỏ con người cũ đó để trở thành con người mới. Bạn phải sẵn sàng để chấm dứt làm những việc nhất định, thậm chí nếu bạn bè có phản đối, để bắt đầu làm những việc phù hợp với con người mới. Bạn phải vượt qua cả hai trở ngại là sự điều bình và chứng xơ cứng tâm lý của vùng thoải mái và của những suy nghĩ cứng nhắc.

Ba là, bạn phải sẵn sàng cố gắng. Bạn phải sẵn sàng kiên trì trong một thời gian dài mà không thấy nhiều dấu hiệu của sự tiến bộ. Những gì bạn đang hướng tới là sự đổi mới lâu dài và cơ bản trong cuộc sống. Bạn phải mất nhiều năm để trở thành con người bạn hiện nay. Bạn phải sẵn sàng làm việc chăm chỉ để trở thành một người khác.

SỨC MẠNH TINH THẦN TRONG 21 NGÀY

Một trong những cách tốt nhất để thay đổi thói quen tinh thần và sự định hướng tương lai là bạn phải thực hiện chế độ “Thái độ tinh thần tích cực” trong 21 ngày. Trong 21, ngày bạn phải luôn giữ những suy nghĩ, ngôn ngữ và hành động phù hợp với mục tiêu và con người mà bạn mong muốn.

Bạn cần phải duy trì chế độ “kiêng khem” này trong 21 ngày vì hai lý do. Thứ nhất, một người trưởng thành phải mất từ 14-21 ngày để phát triển thói quen suy nghĩ mới. Thỉnh thoảng, bạn sẽ thấy những thay đổi rõ ràng và nhanh hơn của mình và trong các kết quả. Nhưng thông thường, những thói quen mà phải mất cả đời mới hình thành được thì phải mất nhiều ngày để thay đổi.

Lý do thứ hai, bạn cần học tính kiên nhẫn và bền bỉ. Một con gà mái phải mất 21 ngày yên tĩnh, kiên trì và ấm áp mới ấp nở được một quả trứng. Nếu một con gà mái, với bộ não nhỏ bằng hạt đậu, có thể rèn luyện bản thân để ngồi lên quả trứng trong 21 ngày mà không tìm kiếm bất kỳ sự thay đổi nào, thì sẽ không là quá nhiều khi đòi hỏi bạn phải kiên nhẫn duy trì trong cùng một khoảng thời gian như vậy trước khi trông đợi thấy được sự thay đổi. Sự kiên nhẫn trong quá trình tự phát triển chính là yếu tố then chốt.

Điều tuyệt vời về sự tự nhận thức là nó luôn ở trong trạng phát triển liên tục. Nếu bạn thay đổi những suy nghĩ chủ đạo về bản thân trong bất kỳ giai đoạn nào, thì sự tự nhận thức và niềm tin cũng bắt đầu thay đổi và phát triển theo hướng đó.

Đa số mọi người không thay đổi nhiều về sự tự nhận thức là do họ vẫn nghĩ về những điều tương tự theo những cách tương tự. William James đã viết: “Nếu tôi nhìn thấy bản thân hôm nay giống như trong quá khứ, thì quá khứ của tôi sẽ phục hồi lại chính nó và trở thành tương lai”.

Nhưng khi bạn đặt ra những mục tiêu to lớn hấp dẫn cho bản thân và sau đó, hàng ngày nghĩ về chúng, thì bạn sẽ hoàn toàn kiểm soát được sự phát triển tinh thần và định hướng cuộc sống. Bạn sẽ trở thành người như bạn suy nghĩ.

BẢY CÁCH KIỂM SOÁT ĐỜI SỐNG TINH THẦN

Mỗi ngày, bạn có thể thực hiện nhiều hoạt động để khiến trí não thoải mái với những ảnh hưởng tích cực và để chắc chắn mình đang liên tục củng cố bản thân bằng những lời gợi ý phù hợp với con người bạn muốn trở thành.

Hãy nghĩ về con người mà bạn muốn trở thành, với những phẩm chất bạn muốn có một cách tự nhiên và thư thái. Hãy bắt đầu tưởng tượng cuộc sống sẽ như thế nào, gia đình sẽ ra sao, công việc sẽ thế nào, sức khỏe sẽ ra sao và mức sống mà bạn muốn có nhất. Hãy cho phép bản thân mơ mộng viển vông và đắm mình trong mộng tưởng và cảm giác đạt được mục tiêu. Hoạt động này là dấu hiệu đầu tiên để lập trình một hướng mới trong “chiếc máy tính” tiềm thức của bạn.

1. Sự hình dung

Hoạt động đầu tiên là sự hình dung. Đây có lẽ là kỹ năng mạnh nhất mà nhân loại có sẵn để thay đổi sự tự nhận thức về bản thân. Những hình ảnh tưởng tượng của bạn sẽ trở thành hiện thực. Chúng làm tăng thêm khao khát và niềm tin của bạn. Chúng làm tăng ý chí và củng cố lòng kiên trì trong bạn. Chúng vô cùng mạnh mẽ.

Có bốn yếu tố của quá trình hình dung. Sự tăng lên của một trong bốn yếu tố này sẽ làm gia tăng tốc độ tạo ra những tương đồng về thể chất trong bức tranh tinh thần về cuộc sống của bạn.

Yếu tố thứ nhất là tần suất. Bạn có thường xuyên hình dung về một sự việc, mục tiêu hay hành vi cụ thể trong tương lai có tác động mạnh mẽ lên suy nghĩ, cảm nhận và hành động của bạn không? Những người đạt được những điều đặc biệt thường liên tục hình dung ra kết quả mong muốn. Lúc nào họ cũng nghĩ đến những gì muốn đạt được. Họ xem đi xem lại hình ảnh lý tưởng về tương lai, giống như chiếu một hình ảnh trên màn hình trí não. Trên thực tế, tần suất hình dung không chỉ cho bạn biết mức độ muốn hiện thực hóa bức tranh đó mà còn làm tăng thêm khao khát và niềm tin rằng việc đó có thể đạt được.

Yếu tố thứ hai là sự sống động. Yếu tố này muốn nói đến mức độ rõ ràng của những điều bạn thấy trong tưởng tượng của bạn. Có một mối liên hệ trực tiếp giữa mức độ rõ ràng của một kết quả hay một mục tiêu mong muốn mà bạn có thể nhìn thấy với tốc độ xuất hiện của nó.

Những suy nghĩ đầu tiên của bạn khá mờ nhạt và mơ hồ, nhưng khi bạn càng nghĩ nhiều, thì bức tranh tinh thần về những gì bạn muốn sẽ ngày càng rõ nét hơn. Cuối cùng, khi bạn có thể nhắm mắt lại và nhìn thấy nó thật chi tiết, thì nó sẽ được cụ thể hóa trong thế giới của bạn. Đây là cách bạn đạt được phần lớn các mục tiêu.

Những người thành công thường thấy rất rõ ràng về những thứ họ muốn. Những người thất bại thường không biết mình muốn gì và phải làm gì. Những bức tranh tinh thần mờ nhạt của họ quá mơ hồ để có thể thúc đẩy, hay kích hoạt các luật tinh thần khác hoạt động.

Yếu tố thứ ba là cường độ, là lượng cảm xúc mà bạn đưa vào những bức tranh tinh thần. Khi bạn tha thiết mong muốn thứ gì, khi bạn thấy thích thú và nhiệt thành với những mục tiêu, hay khi bạn có niềm tin sâu sắc rằng mình sẽ hoàn thành được mục tiêu, cho dù nó là gì, thì việc đó cũng diễn ra nhanh hơn.

Những người thất bại luôn luôn không có mục đích và không hứng thú với những gì đang làm và với nơi đang tới. Họ có thái độ bi quan, nó khiến họ hoạt động ở mức độ năng lực thấp. Họ có xu hướng tiêu cực và thường chấp nhận mọi thứ vốn có, chứ không hứng thú với những thứ có thể có.

Yếu tố thứ tư là thời gian, là lượng thời gian bạn có thể lưu giữ trong trí não bức tranh về điều mình có được. Bạn càng tưởng tượng lâu về một sự kiện mong muốn trong tương lai, nó càng có nhiều khả năng xuất hiện. Bất cứ khi nào có thể, bạn nên lấy ra bức tranh thực về những thứ hay những điều kiện mong muốn và liên tục nhìn vào nó, cho đến khi trí tuệ tiềm thức chấp nhận nó như những mệnh lệnh. Sự tự nhận thức của bạn sẽ sớm thay đổi để phù hợp với những mệnh lệnh tưởng tượng mới này.

Bạn muốn có một chiếc ô tô mới? Vậy thì hãy đi gặp người bán xe và chạy thử xe. Hãy mang những cuốn sách giới thiệu về nhà, cắt và dán những bức ảnh ô tô ở bất cứ đâu có thể nhìn thấy. Một người bạn của tôi bắt đầu làm điều này khi bị phá sản và phải lái một chiếc ô tô cũ nát. Cứ mỗi dịp nghỉ cuối tuần, anh lại đến lái thử một chiếc BMW mới toanh. Thậm chí anh còn đặt ảnh chiếc ô tô mình muốn trên vô lăng để luôn tưởng tượng là đang lái nó. Và trong một năm, anh đã bắt đầu một công việc mới, học được một loạt kỹ năng mới, tăng thu nhập và có thể mua được chiếc ô tô đó.

Khi kết hợp những yếu tố tần suất, sự sống động, cường độ và thời gian với sự hình dung về bất cứ điều gì bạn muốn có hay muốn làm trong tương lai là bạn đã thật sự nạp năng lượng cho mình và tăng tốc chuyển động hướng tới điều đó. Bạn mở ra những năng lực tiềm ẩn để hướng tới thành công và khai thác những nguồn lực giúp bạn thực hiện được mơ ước.

Đa số những người thành công đều phát triển được khả năng này. Và vì khả năng biểu hiện bên ngoài luôn phù hợp với hình ảnh hay bức tranh bên trong, nên nếu bạn nhìn nhận mình giống như cha/mẹ, vợ/chồng, nhà quản lý hay người bán hàng tuyệt vời, thì bạn sẽ cảm thấy thư thái, tự tin. Nếu bạn nhìn nhận mình giống như một kẻ lúng túng hay vụng về trong bất kỳ vai trò nào, thì bạn sẽ cảm thấy căng thẳng và không thoải mái mỗi khi ở trong tình huống cụ thể đó.

Ứng dụng thực tế

Đa số mọi người đều sợ nói trước đông người, sợ phải đứng dậy trước khán giả. Bạn có thể khắc phục điều đó bằng cách sử dụng những kỹ năng lập trình tinh thần với sự hình dung đầy tính sáng tạo.

Trước hết, bạn nên nghĩ xem cuộc sống sẽ biến đổi như thế nào nếu mình trở thành một người diễn thuyết trước công chúng. Bạn sẽ cảm thấy tự tin và được mọi người tôn trọng, ngưỡng mộ hơn như thế nào khi có một bài diễn thuyết tuyệt vời? Sau đó, bạn hãy vẽ ra một bức tranh tinh thần rõ ràng về bản thân khi đang nói trước đám đông. Hãy nhớ lại một dịp bạn nói trước bạn bè, các thành viên trong gia đình, tại một bữa tiệc. Hãy phát huy trang thái bình tĩnh, tự tin và tự hào của mỗi lần đó.

Để tiến bộ nhanh, bạn nên mua những cuốn sách viết về cách diễn thuyết nơi công cộng. Khi đọc sách, hãy tưởng tượng mình đang làm những việc như tác giả đang miêu tả trong sách. Bạn nên lắng nghe một chương trình trên băng cát-xét hướng dẫn cách chuẩn bị và tổ chức một bài diễn thuyết. Bạn nên tham gia những buổi sêmina, hội thảo và xem những nhà diễn thuyết khác. Khi tham gia, hãy tưởng tượng mình đang đứng trên đó và đang nói chuyện với thính giả. Dần dần, bạn sẽ thấy nỗi sợ hãi đã giảm bớt và mong muốn được nói trước đám đông tăng lên.

Quá trình này có hiệu quả không? Câu trả lời là có! Nó đã mang lại hiệu quả cho hơn ba triệu thành viên của Toastmasters International kể từ khi được thành lập vào năm 1923.

Quy trình của Toastmasters đã được thiết kế dành cho những người thấy sợ phải nói trước đám đông, phải trình bày trước một nhóm người, hay thậm chí phát biểu trong các buổi họp.

Trong buổi gặp mặt của Toastmasters, mọi người đều có cơ hội đứng lên và nói, thậm chí chỉ trong một vài giây. Khán giả là những thành viên khác, những người cũng muốn có thể đứng dậy để nói. Họ đều tích cực và khuyến khích nhau. Khi một thành viên trở về nhà, anh ta có một hình ảnh hay một bức tranh tinh thần về kinh nghiệm diễn thuyết tích cực. Mỗi lần anh ta đến một buổi gặp mặt và đứng lên nói, hình ảnh đó lại được tô đậm thêm.

Đây là một phát hiện đáng chú ý: Trí tuệ tiềm thức không thể phân biệt được sự khác nhau giữa một trải nghiệm thực tế với một trải nghiệm từ sự tưởng tượng sống động. Mỗi khi bạn nhớ và tái hiện lại một sự kiện trong trí tuệ nhận thức, thì trí tuệ tiềm thức sẽ chấp nhận và cất giữ nó đúng như bạn vừa mới lặp lại nó.

Điều này có nghĩa là, nếu bạn vừa có một trải nghiệm tích cực và liên tục nghĩ về nó thì bạn đã thật sự lập trình để bản thân thực hiện lại việc đó. Và nếu như bạn chưa từng có một trải nghiệm tích cực nào như vậy, thì bạn có thể tưởng tượng hoặc tạo ra nó trong trí não và lặp đi lặp lại điều đó. Tiềm thức của bạn không biết được rằng chính bạn đã tạo ra nó.

Sự hình dung cũng hoạt động với những trải nghiệm tiêu cực. Một trải nghiệm tiêu cực, được lặp đi lặp lại, sẽ tước bỏ động cơ thúc đẩy và ngăn cản bạn trong lĩnh vực đó. Bởi vậy, hãy thật cẩn thận khi chọn lựa những suy nghĩ và bức tranh tinh thần.

Nếu bạn thấy mình thiếu tự tin trong bất cứ tình huống nào, hãy loại bỏ ngay suy nghĩ tiêu cực bằng cách liên tục hình dung mình rất bình tĩnh, tự tin và thoải mái khi ở trong tình huống đó. Hãy nhớ lại bạn đã có một thời gian tuyệt vời với những người khác. Mỗi khi bạn cảm thấy lo lắng khi ở cùng những người khác, hãy thay đổi bức tranh tinh thần và hãy nghĩ đến trải nghiệm tích cực trước đó. Cuối cùng, trí tuệ tiềm thức sẽ thay thế cảm giác tích cực và tình huống tích cực đó cho tình huống khiến bạn cảm thấy căng thẳng và không thoải mái. Dần dần nỗi sợ hãi của bạn sẽ giảm bớt rồi biến mất.

Hãy dùng sự hình dung để lấp đầy trí óc của bạn bằng những bức tranh về cuộc sống lý tưởng mỗi khi có cơ hội. Một cách làm điều này là tạo ra một “bản đồ kho báu” để nhìn vào đó. Hãy thiết kế một tấm áp phích để treo lên tường nhà, trong đó, ở giữa là ảnh của bạn hoặc một bức tranh về mục tiêu mà bạn muốn đạt được. Sau đó, cắt những bức tranh, những dòng tít và những lời trích dẫn từ các tờ báo, tạp chí rồi dán lên tấm áp phích. Hãy miêu tả chi tiết những thành phần tiêu biểu cho thành công và thành tích dành cho bạn.

Hãy dành một chút thời gian mỗi ngày để đứng trước tấm áp phích và ngắm nhìn các hình ảnh, để chúng ngấm sâu vào trí tuệ tiềm thức. Ở mỗi lĩnh vực quan trọng trong cuộc sống, hãy lặp đi lặp lại những trải nghiệm thành công, dù đó là thật hay tưởng tượng. Hãy nhớ lại và hồi tưởng chúng thật sống động. Ví dụ, nếu bạn đang hoạt động trong lĩnh vực bán hàng và rất thành công, hãy lặp đi lặp lại công việc bán hàng đó. Hãy nghĩ về nó sống động trong từng chi tiết càng thường xuyên càng tốt. Mỗi lần bạn lặp lại một trải nghiệm thành công, tiềm thức sẽ ghi lại nó như thể bạn vừa có được một trải nghiệm thành công khác.

Sai lầm mà đa số mọi người mắc phải là họ lặp đi lặp lại và tưởng tượng sống động về những trải nghiệm thất bại. Sau đó, họ cảm thấy căng thẳng và lo âu khi lại rơi vào hoàn cảnh tương tự.

Tất cả những tiến bộ trong cuộc đời bạn bắt đầu với sự cải thiện trong những bức tranh tinh thần. Những bức tranh tinh thần tạo ra những suy nghĩ, cảm xúc, ngôn ngữ và hành động phù hợp với chúng. Sự hình dung kích hoạt tất cả luật tinh thần, bao gồm luật hấp dẫn, vẽ ra những con người và nguồn lực trong cuộc sống giúp hiện thực hóa những hình ảnh của bạn.

2. Sự khẳng định

Kỹ năng lập trình tinh thần thứ hai là cách sử dụng sự khẳng định. Những sự khẳng định được dựa trên cơ sở của ba yếu tố là tích cực, thời hiện tại và cá nhân. Sự khẳng định là những tuyên bố hay mệnh lệnh mạnh mẽ từ trí tuệ nhận thức gửi đến trí tuệ tiềm thức. Chúng chèn lấp những thông tin cũ và củng cố những thói quen tích cực, mới mẻ của suy nghĩ và thái độ cư xử.

Sự khẳng định “Mình thích bản thân mình” là tích cực, ở thời hiện tại và mang tính cá nhân. Khi bạn liên tục lặp đi lặp lại điều này thì cuối cùng, nó sẽ được chấp nhận như một sự miêu tả có giá trị về hiện thực mà bạn mong muốn. Bạn bắt đầu thật sự cảm thấy lạc quan hơn về bản thân trong mỗi việc bạn làm. Sự khẳng định này sớm chèn lấp những dữ liệu cũ vốn không phù hợp với sự tự đánh giá cao bản thân.

Khi có sự khẳng định thì tiềm năng của bạn là vô hạn. Những lời tuyên bố quả quyết và mạnh mẽ, được cảm xúc hóa và được nhắc lại với sự tin tưởng, thường khiến nhân cách thay đổi nhanh chóng. Bạn có thể làm tăng sự nhiệt thành, nâng cao dũng khí, khẳng định sự kiểm soát với cảm xúc, và xây dựng lòng tự trọng bằng cách lặp đi lặp lại những lời tuyên bố phù hợp với con người mà bạn mong muốn trở thành.

Một trong những ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến trí tuệ tiềm thức là những gì bạn nói với bản thân và những gì bạn tin tưởng. Những sự khẳng định như: “Mình có thể làm được việc đó”, “Mình kiếm được XXX đô-la mỗi năm” hay “Mình nặng XXX kg” có thể khiến sự tự nhận thức và kết quả mà bạn đạt được thay đổi.

Tất cả những thay đổi đều bắt đầu từ sự tự nhận thức. Bạn phải trở thành người mà bạn muốn trở thành từ bên trong trước khi nhìn thấy sự xuất hiện của con người này ở bên ngoài.

Trí tuệ tiềm thức rất thật và mệnh lệnh càng đơn giản bao nhiêu thì tác động của nó lên suy nghĩ của bạn càng nhiều bấy nhiêu. Chẳng hạn, một sự khẳng định mạnh mẽ tôi thường sử dụng để rèn luyện trí não là: “Mình tin vào kết quả hoàn hảo của mỗi tình huống trong cuộc đời mình”.

Sự khẳng định này giúp bạn cảm thấy bình tĩnh, tích cực và thư thái khi giải quyết bất cứ khó khăn nào. Nó là liều thuốc giải độc tuyệt vời cho sự lo lắng.

Điều này cũng đơn giản, rõ ràng và ở thì hiện tại. Trí tuệ tiềm thức của bạn chỉ phản ứng với kiểu mệnh lệnh này, với sự khẳng định và bức tranh tinh thần được thể hiện ở “hiện tại”, mặc dù đã có sự tồn tại của mục tiêu hay phẩm chất.

Ví dụ, thay vì nói: “Mình sẽ không hút thuốc lá nữa”, bạn nên nói: “Mình là người không hút thuốc lá”.

Chúng ta có rất nhiều trải nghiệm thú vị với những người bỏ thuốc lá. Một người từng tham gia buổi sêmina của tôi đã nhắc lại mỗi ngày vài lần trong hai tháng câu: “Tôi là người không hút thuốc”. Đồng thời, anh hình dung mình như một người không hút thuốc. Sau thời gian đó, anh dần thấy mình ít động đến thuốc lá hơn. Sau hai tháng, anh đã giảm xuống chỉ còn hút một điếu thuốc/ngày và cuối cùng đã bỏ được thuốc lá và không còn muốn hút thuốc nữa.

Một người khác cũng làm một việc tương tự. Anh liên tục nhắc đi nhắc lại câu: “Tôi là người không hút thuốc”, nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Anh vẫn tiếp tục hút hai bao thuốc mỗi ngày. Mỗi ngày anh ta đều khẳng định và hình dung bản thân mình như là người không hút thuốc, kiên nhẫn tin tưởng quá trình tái lập trình tinh thần cuối cùng sẽ mang lại hiệu quả.

Vào cuối tuần thứ tám, một buổi sáng, anh thức dậy, lấy ra một điếu thuốc, châm lửa và gần như bị nghẹt thở. Lúc đầu anh nghĩ mình lấy nhầm điếu thuốc kém chất lượng. Anh thử hút điếu thứ hai rồi điếu thứ ba. Mỗi điếu thuốc đều khiến anh muốn nôn oẹ. Đột nhiên anh nhận ra mình đã lập trình cho bản thân tin rằng việc hút thuốc là một thói quen hoàn toàn khó chịu. Anh không bao giờ động đến thuốc lá nữa.

Bạn không thể thay đổi thói quen nhanh chóng. Bạn phải kiên nhẫn và bền bỉ trong việc khẳng định và hình dung, tự tin, tin tưởng và hy vọng những thay đổi mong muốn sẽ diễn ra khi bạn sẵn sàng.

3. Sự diễn đạt

Kỹ năng thứ ba là sự diễn đạt. Bạn hãy đứng trước một tấm gương và nói rõ ràng, tình cảm câu: “Mình có thể làm được!” Đây là cách để xây dựng sự tự tin trước một thách thức sắp tới. Bất cứ điều gì bạn nói to với sự tin tưởng và nhiệt thành sẽ có ảnh hưởng gấp đôi so với một lời khẳng định nói trong im lặng.

Khi bạn tuyên bố với người khác là có thể hoặc sẽ làm việc gì đó, nó sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến suy nghĩ và thái độ cư xử sau đó. Các đội thể thao sử dụng phương pháp diễn đạt này để chuẩn bị tâm lý trước một trận đấu. Họ hát hò và cổ vũ nhau trước khi bước vào thi đấu.

Hãy giữ cho cuộc trò chuyện của bạn trong cả ngày phù hợp với những gì bạn thật sự muốn xảy ra. Đừng nói về những nỗi sợ hãi và nghi ngại. Hãy tích cực và lạc quan trong mọi điều. Hãy vui vẻ lên. Bạn sẽ cảm thấy lạc quan và tự tin hơn.

4. Sự đóng vai

Kỹ năng lập trình tinh thần thứ tư là đi bộ, nói chuyện và hành động đúng như con người mà bạn mong muốn trở thành. Hãy hành động như thể bạn đã đạt được những mục tiêu đặt ra. Hãy hành động như thể mọi người đều đã tôn trọng và thừa nhận bạn. Hãy hành động như thể bạn đã có tiền trong ngân hàng. Sức mạnh của kỹ năng này được giải thích bằng luật đổi chiều.

Luật này phát biểu rằng, khi bạn cảm thấy tích cực và lạc quan, cảm giác sẽ sinh ra những hành động và thái độ cư xử phù hợp với chúng. Điều ngược lại cũng đúng. Nếu bạn không cảm thấy tích cực nhưng vẫn hành động nhiệt thành và vui vẻ, thái độ cư xử tích cực sẽ sinh ra những cảm giác tích cực, cũng giống như những cảm giác tích cực sẽ sinh ra thái độ cư xử tích cực. Cảm giác và hành vi có thể đổi chiều.

Lý do phương thức này có hiệu quả mạnh mẽ là ngay cả khi không thể kiểm soát được những cảm giác tại một thời điểm nhất định, bạn vẫn có thể kiểm soát được những hành động. Và nếu bạn kiểm soát được những hành động, bằng luật đổi chiều bạn sẽ tạo ra một trạng thái tình cảm mong muốn.

Sử dụng kỹ năng này, bạn có thể chủ động tạo ra cho mình những phẩm chất tinh thần của một người có vị thế cao. Bạn có thể hành động có mục đích, có dũng khí, tự tin, đầy năng lực và thông minh. Bạn có thể giả vờ mình đã có một trong những phẩm chất đó và sẽ sớm cảm nhận được phẩm chất đó trong chính mình. Sau đó mọi người sẽ chấp nhận và phản ứng lại với bạn đúng như con người bạn mong muốn.

Bốn kỹ năng trên đã đủ để thay đổi hoàn toàn sự tự nhận thức và nhân cách của bạn: Hãy bắt đầu bằng cách nghĩ về bản thân như bạn thật sự mong muốn. Sau đó, hãy hình dung bản thân trong từng chi tiết sống động. Hãy khẳng định với bản thân và diễn đạt rõ ràng, mạnh mẽ những lời khẳng định tích cực phù hợp với mục tiêu. Khi làm việc này, hãy nhớ rằng ngôn từ tạo ra cảm xúc và kết tinh suy nghĩ. Và cuối cùng, giữ cho thái độ cư xử phù hợp với thông điệp mới về sự thành công, hạnh phúc, thịnh vượng và một nhân cách tích cực.

5. Nuôi dưỡng trí tuệ của bạn

Kỹ năng lập trình thứ năm là nuôi dưỡng liên tục trí tuệ bằng những từ ngữ và những hình ảnh phù hợp với chiều hướng bạn đang phát triển. Hãy đọc những cuốn sách và tạp chí về quá trình phát triển nghề nghiệp và cá nhân. Hãy tìm nghe những cuốn băng cát-xét về giáo dục mỗi khi có cơ hội. Hãy xem những cuốn băng video về giáo dục. Hãy tham gia các buổi sêmina, bài giảng và các khóa học để những mô hình suy nghĩ theo thói quen mới của bạn phát triển nhanh hơn.

Bạn càng đọc, nghe, xem và học nhiều về bất cứ chủ đề nào, bạn sẽ càng cảm thấy tự tin và có năng lực trong lĩnh vực đó. Nếu bạn ở cương vị quản lý và liên tục học cách trở thành một nhà quản lý tốt và có hiệu quả hơn thì bạn sẽ nhìn nhận và suy nghĩ tốt trong lĩnh vực đó. Nếu bạn hoạt động trong lĩnh vực bán hàng và liên tục nuôi dưỡng trí tuệ với những thông tin và ý tưởng mới, bạn sẽ biểu hiện tốt và cuối cùng, bán được nhiều hàng hơn. Khi cải thiện những hiểu biết bên trong, bạn sẽ cải thiện những kết quả bên ngoài.

6. Kết giao với những người tích cực

Kỹ năng thứ sáu là kết giao với đúng người. Hãy kết giao với những người thắng cuộc. Hãy bay với những con đại bàng chứ đừng quanh quẩn cùng lũ gà. Do người khác cũng có ảnh hưởng đến bạn nên bạn hãy “chọn bạn mà chơi”.

Sau 25 năm nghiên cứu, Tiến sĩ David McClelland của trường Đại học Harvard đã phát hiện ra việc lựa chọn một “nhóm quan hệ” tiêu cực cũng đã đủ để đưa đến thất bại cho người đó. Những nhóm quan hệ là những người bạn cùng chia sẻ – những người bạn cùng làm việc, cùng hòa nhập, sống cùng và có liên hệ trong cộng đồng hay hoạt động ngoài công việc. Giống như một con tắc kè hoa, bạn chấp nhận vô thức các thái độ, hành vi và quan điểm của những người có liên hệ gần gũi nhất.

Khi lựa chọn bạn, bạn lưu ý đừng tạo ra những mối quan hệ vô ích. Để gặp gỡ những người tích cực mới, bạn phải chấm dứt kết giao với nhóm bạn cũ. Đặc biệt, hãy tránh xa những con người tiêu cực. Họ là nguyên nhân chính gây nên phần lớn bất hạnh trong cuộc đời bạn.

7. Truyền đạt cho người khác

Kỹ năng thứ bảy là bạn phải truyền đạt những gì đã được học cho người khác. Bạn dạy những gì là con người của bạn. Khi bạn cố gắng diễn đạt và giải thích khái niệm mới cho một người nào đó, bạn sẽ hiểu và tiếp thu nó tốt hơn. Thực tế, bạn chỉ thật sự biết về một điều gì đó tới mức có thể dạy cho người khác, giúp họ hiểu và áp dụng chúng trong cuộc sống.

Phát triển những thói quen suy nghĩ và hành vi tích cực mới không dễ. Nó luôn đòi hỏi sự thận trọng. Bạn phải mạnh dạn tạo ra những thói quen mới. Khi thời gian trôi đi, điều quan trọng là bạn không nhắc đi nhắc lại về nó.

Nhiệm vụ của bạn là giữ cho trí não tập trung cao độ vào hướng mà bạn đang đi, vào những mục tiêu chi phối và vào con người mới mà bạn đang trở thành.

Nếu lúc này bạn nhìn nhận bản thân như con người mong muốn và đi lại, trò chuyện, cư xử như một người tốt nhất, thì những mục tiêu và suy nghĩ chi phối của bạn sẽ thành sự thật. Bạn sẽ trở nên giống những gì bạn nghĩ.

BÀI TẬP ÁP DỤNG

Chọn một mô hình thói quen tích cực hay một hành vi mà bạn muốn phát triển, và trong 21 ngày tiếp theo, hãy rèn luyện bản thân phải suy nghĩ, hình dung, diễn đạt, khẳng định và cư xử phù hợp với thói quen mới đó.

Cho dù mục tiêu và tham vọng của bạn là gì, hãy cứ suy nghĩ và nói dưới dạng thành quả của chúng. Hãy đọc, học, hình dung, khẳng định và lặp đi lặp lại mục tiêu. Hãy suy nghĩ dưới dạng “làm thế nào” để có thể đạt được nó. Hãy hành động như thể nó đã trở thành hiện thực, nếu có thể. Ít nhất, hãy hành động như thể bạn chắc chắn đạt được mục tiêu.

Chìa khóa để những phương pháp này hiệu quả là bạn phải chứng tỏ là mình có thể phát triển một thói quen hay thái độ tùy theo sự lựa chọn của chính mình. Một khi bạn đã chứng minh được điều này với bản thân, bạn sẽ có sự tự tin và sức thuyết phục để tạo ra bất kỳ sự thay đổi nào hay hoàn thành bất cứ mục tiêu nào bạn đặt ra cho bản thân. Thay vì ước muốn và hy vọng, bạn sẽ biết rằng khả năng của mình là vô hạn.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.