The Hobbit

Chương VIII – ĐÀN RUỒI VÀ BẦY NHỆN



Họ đi bộ thành hàng một. Lối vào con đường đó giống như cổng vòm dẫn vào một đường hầm tối tăm do hai cây to chụm vào nhau; hai cây này quá già cỗi, lại chi chít những dây thường xuân và tua tủa địa y nên chỉ mọc dăm chiếc lá màu tối sẫm. Bản thân con đường cũng hẹp, ngoằn ngoèo chạy qua các thân cây. Chẳng mấy chốc ánh sáng ở cửa rừng chỉ còn như một cái lỗ nhỏ sáng chói mãi tít ở phía sau, và sự tĩnh mịch thì trầm lắng đến mức tiếng bước chân của họ dường như vang dồn khắp khu rừng khiến cây cối cũng ngả mình lắng nghe.

Đến khi mắt họ dần quen với quang cảnh mờ tối, họ có thể nhìn được một quãng ngắn ở hai bên trong thứ ánh sáng le lói màu lục thẫm. Thi thoảng một tia nắng yếu ớt may mắn luồn qua kẽ hở nào đó trong đám lá tít trên cao, và còn may mắn hơn vì không bị kẹt vào đám cành cây lớn nhỏ rối tinh rối mù ở bên dưới, xuyên thẳng xuống thành một vệt rực rỡ và mong manh trước mặt họ. Nhưng điều này hiếm khi xảy ra, và vệt nắng ấy chẳng mấy chốc cũng tắt ngấm.

Trong rừng có những chú sóc đen. Khi đôi mắt soi mói đầy tinh tường của Bilbo đã quen nhìn mọi vật, anh chàng có thể thoáng thấy chúng chạy vun vút khỏi con đường và vội vã lẩn sau những thân cây. Cũng có những âm thanh kỳ lạ nữa, tiếng gầm gừ, tiếng xô đẩy, tiếng vội vã chạy dưới tầng cây thấp và trong đám lá chất đầy mãi thành đống ở nhiều nơi trên nền đất rừng; nhưng cái gì gây ra những âm thanh ấy thì anh chàng không thể nhìn thấy. Thứ kinh tởm nhất mà họ nhìn thấy là mạng nhện: những mạng nhện đen sì dày đặc với những sợi tơ to lạ lùng, thường được giăng từ cây nọ sang cây kia, hoặc rậm rịt giữa các cành cây thấp hơn ở hai bên đường. Không có cái mạng nhện nào giăng ngang đường, nhưng liệu có phải do một ma thuật nào đó khiến con đường được thông suốt hay vì một lý do nào khác thì họ không thể đoán ra.

Chẳng mấy chốc họ bắt đầu rất căm ghét khu rừng cũng như đã từng căm ghét những đường hầm của bọn yêu tinh, mà khu rừng hầu như còn đem lại cho họ ít hy vọng hơn về bất kỳ một điểm dừng nào. Mặc dù vậy, họ vẫn phải tiếp tục đi, đi mãi, suốt một thời gian dài sau khi họ thèm đến nôn nao hình ảnh mặt trời và bầu trời, và ước mong được có cái cảm giác gió mơn man trên mặt. Bên dưới vòm lá rừng, bầu không khí tù đọng, mãi mãi tối tăm và ngột ngạt. Ngay cả các chú lùn cũng cảm thấy điều đó, dù họ quen với việc đào hầm và đôi khi từng sống một thời gian dài không có ánh sáng mặt trời; còn anh chàng hobbit, tuy thích làm nhà trong các hang hốc nhưng không chui rúc trong đó suốt những ngày hè, thì cảm thấy mình dần dần bị nghẹt thở.

Ban đêm là khoảng thời gian tệ hại nhất. Khi đó trời trở nên tối như mực – không phải là cái trạng thái mà các bạn gọi là như mực, mà thật sự là mực: tối đen đến mức các bạn không thể nhìn thấy gì hết. Bilbo thử huơ huơ bàn tay trước mũi mình, nhưng anh chàng chẳng nhìn thấy nó đâu cả. Chà, có lẽ bảo rằng họ không thể nhìn thấy gì hết thì cũng không đúng: họ nhìn thấy những con mắt. Tất cả bọn họ túm tụm lại với nhau mà ngủ và cắt lượt canh gác; và khi đến lượt Bilbo, anh chàng thường nhìn thấy những ánh lập lòe trong bóng tối xung quanh họ, và đôi khi những cặp mắt màu vàng, đỏ hoặc xanh lá nhìn chằm chằm vào anh chàng từ một khoảng cách ngắn, rồi chúng mờ dần và biến mất, để rồi lại từ từ tỏa sáng ở một chỗ khác. Đôi khi chúng lại lập lòe chiếu xuống từ những cành cây ngay trên đầu anh chàng; và điều đó vô cùng khủng khiếp. Song cặp mắt mà anh chàng ghét nhất là những cặp mắt lồi nhợt nhạt đáng kinh tởm. “Mắt côn trùng,” anh chàng nghĩ bụng, “không phải mắt thú vật, chỉ có điều là chúng to quá đi mất.”

Mặc dù trời chưa lạnh lắm, họ vẫn cố nhóm lửa để canh gác vào ban đêm, nhưng chẳng bao lâu sau họ thôi không đốt lửa nữa. Dường như lửa đã mang đến hàng trăm hàng trăm cặp mắt xung quanh họ, dù những con vật này, bất kể chúng là loài gì đi nữa, cũng thận trọng để không bao giờ phô mình ra trong ánh sáng lập lòe yếu ớt của lửa. Tệ hại hơn nữa, lửa còn mang đến hàng ngàn con bướm đêm màu xám sẫm và màu đen, một số to bằng bàn tay, cứ đập cánh bay vù vù quanh tai họ. Họ không chịu đựng nổi lũ này, mà cũng chẳng chịu đựng nổi bầy dơi khổng lồ đen sì kia; thế là họ bỏ không đốt lửa nữa mà ngồi ngủ gà ngủ gật trong đêm dưới bóng tối mênh mông huyền bí.

Toàn bộ chuyện đó cứ tiếp diễn mãi, anh chàng hobbit tưởng như đã hàng thế kỷ trôi qua; và anh chàng lại luôn đói bụng, bởi họ vô cùng thận trọng với phần thực phẩm dự trữ. Dù vậy, khi hết ngày này đến ngày khác qua đi mà rừng cây dường như vẫn cứ y như thế, họ bắt đầu lo lắng. Số thực phẩm sẽ không thể đủ dùng mãi được: trên thực tế nó đã bắt đầu cạn dần. Họ tìm cách bắn sóc, và phải tốn nhiều mũi tên họ mới hạ được một con trên đường mòn. Nhưng khi nướng nó lên, họ thấy thịt nó có cái vị thật kinh tởm, và họ thôi không bắn sóc nữa.

Họ cũng khát nữa, bởi số nước họ mang theo có nhiều nhặn gì đâu, và suốt cả thời gian ấy họ chẳng nhìn thấy dòng suối hay con sông nào. Tình cảnh họ đang như vậy thì một hôm họ bỗng thấy con đường bị chặn ngang bởi một dòng nước chảy. Dòng nước dữ dội chảy xiết qua con đường, nhìn lại không rộng lắm, và nước thì đen, hoặc nom có vẻ đen trong bóng tối. Thật may là Beorn đã dặn họ cảnh giác đề phòng nó, nếu không họ đã lấy nước uống, dù nước có bất kỳ màu gì, và đã đổ đầy vài cái bầu bằng da khô kiệt bên bờ sông rồi. Có thể vì vậy mà họ chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để sang bờ bên kia mà không bị ướt. Trước kia có một cây cầu gỗ bắc ngang, nhưng cầu đã mục nát và đổ sụp, chỉ còn lại mấy cái trụ gãy ở gần bờ.

Bilbo quỳ bên mép nước và chăm chú nhìn về phía trước rồi kêu lên: “Có một cái thuyền ở sát bờ bên kia! Mà sao nó lại không ở bên này cơ chứ!”

“Theo cậu thì nó cách đây bao xa?” Thorin hỏi, bởi lúc này họ biết là Bilbo tinh mắt nhất trong cả bọn.

“Có xa gì cho cam. Tôi cho là không quá mười hai thước.”

“Mười hai thước! Ta đã nghĩ là ít nhất phải ba mươi thước, nhưng mắt ta bây giờ nhìn không được tinh bằng một trăm năm trước. Tuy vậy thì mười hai thước cũng đâu khác gì một dặm. Chúng ta không thể nhảy qua, và chúng ta cũng không dám thử lội hoặc bơi qua nữa.”

“Có ai trong các vị có thể ném thừng không nhỉ?”

“Làm thế thì tích sự gì? Ngay cả nếu chúng ta có móc được nó, mà điều này thì tôi không tin lắm, thì cái thuyền ấy chắc chắn đã được buộc chặt rồi.”

“Tôi không cho là nó được buộc chặt,” Bilbo nói, “dù dĩ nhiên là với ánh sáng thế này thì tôi không dám chắc; nhưng tôi thấy có vẻ như nó vừa mới được kéo lên bờ, ngay sát cái chỗ con đường đâm xuống dòng nước ấy.”

“Dori là cậu khỏe nhất, nhưng Fili lại là cậu trẻ nhất và mắt tinh nhất,” Thorin nói. “Lại đây Fili, cậu thử xem có nhìn thấy cái thuyền mà cậu Baggins vừa nói không?”

Fili nghĩ là mình có thể; thế là sau khi chú ta nhìn chằm chằm một lúc lâu để xác định phương hướng, mấy chú khác đem đến cho chú một sợi thừng. Họ đã đem theo dăm sợi thừng, và họ buộc vào đầu sợi thừng dài nhất một trong những cái móc lớn mà khi trước họ dùng để móc những gói đồ vào dây đai quanh vai. Fili cầm sợi thừng trong tay, giữ cho nó thăng bằng một chút, rồi quăng nó qua dòng suối.

Bõm! Cái móc rơi xuống nước. “Chưa ném đủ xa!” Bilbo nói. Anh chàng đang chăm chú nhìn về phía trước. “Xa được thêm vài bộ thì anh đã thả được nó lên con thuyền rồi. Cố lần nữa đi. Tôi không nghĩ là ma thuật đủ mạnh để làm hại anh đâu, nếu anh chỉ chạm một tí vào cái thừng ướt ấy.”

Fili nhặt cái móc lên sau khi đã kéo nó lại, lòng vẫn hơi do dự. Lần này chú ném thật mạnh.

“Đứng cho vững nào!” Bilbo nói, “anh đã ném đúng vào phần gỗ phía bên kia mạn thuyền rồi. Hãy nhè nhẹ kéo sợi dây lại đi.” Fili từ từ kéo sợi thừng, và một lát sau Bilbo nói, “Cẩn thận! Nó đang nằm trên thuyền rồi; hy vọng là cái móc sẽ mắc vào thuyền.”

Nó mắc vào thật. Sợi thừng căng ra, nhưng Fili kéo hoài mà chẳng ăn thua gì. Kili đến giúp sức, rồi thêm cả Oin và Gloin. Họ ráng sức kéo thật mạnh, và bỗng nhiên cả bọn ngã bổ chửng. Tuy vậy, Bilbo đã đề phòng nên tóm được sợi thừng và dùng gậy đẩy cái thuyền nhỏ đen sì ấy lại khi nó băng qua dòng suối. “Giúp tôi với!” anh chàng kêu to, và Balin đến vừa kịp để giữ cái thuyền trước khi nó trôi xuôi dòng nước.

“Rốt cuộc thì nó đã bị buộc chặt,” Balin vừa nói vừa nhìn mẩu dây néo thuyền bị đứt còn đang lủng lẳng ở mũi thuyền. “Kéo tuyệt đấy, các cậu; và thật may cái thừng của chúng ta lại khỏe hơn.”

“Ai sẽ sang sông đầu tiên nhỉ?”

“Ta sẽ sang,” Thorin nói, “và cậu sẽ đi với ta, cả Fili và Balin nữa. Mỗi lần con thuyền chỉ chở được ngần ấy người thôi. Chuyến sau sẽ gồm Kili, Oin, Gloin và Dori; sau đó là Ori, Nori, Bifur và Bofur; và cuối cùng là Dwalin và Bombur.”

“Bao giờ tôi cũng là người cuối cùng, tôi không thích thế đâu,” Bombur nói. “Hôm nay đến lượt một người nào khác đi.”

“Lẽ ra cậu không nên to béo như thế. Vì to béo, cậu phải theo chuyến cuối cùng có trọng tải nhẹ nhất. Đừng có làu bàu cãi lệnh, nếu không sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra với cậu đấy.”

“Chẳng có cái mái chèo nào cả. Các vị làm thế nào đẩy được cái thuyền trở về bờ bên kia được?”

“Cho tôi một sợi thừng dài cột móc treo khác,” Fili nói, và khi họ chuẩn bị xong, chú ta ném sợi dây thật cao vào bóng tối trước mặt. Vì cái móc không rơi xuống nữa, họ biết nó hẳn đã mắc vào những cành cây. “Giờ thì lên thuyền đi,” Fili nói, “và một người trong số các bạn kéo cái thừng đã mắc vào một cái cây ở bờ bên kia. Một người khác phải giữ cái móc mà chúng ta dùng lần đầu, và khi chúng ta sang bờ bên kia an toàn rồi thì người đó có thể móc nó vào thuyền, và các bạn có thể kéo thuyền về lại bên này.”

Bằng cách đó chẳng mấy chốc tất cả bọn họ đều vượt qua dòng suối bị yểm bùa một cách an toàn. Dwalin vừa mới bò ra khỏi thuyền với cái thừng cuộn trên cánh tay, và Bombur (vẫn còn đang làu bàu) vừa sẵn sàng trèo ra tiếp thì một chuyện chẳng lành quả đã xảy ra. Có tiếng móng guốc gõ nhanh trên con đường mòn trước mặt. Từ bóng tối lờ mờ bỗng hiện lên hình dáng một con hươu phi vun vút. Nó nhảy xổ vào mấy chú lùn khiến họ ngã lăn quay, rồi thu mình lại để nhảy vọt đi. Nó bật lên cao và vọt qua dòng nước bằng một cú nhảy mạnh mẽ. Nhưng nó không an toàn tới được bờ bên kia. Thorin là người duy nhất giữ được bình tĩnh và sáng suốt. Ngay khi họ bước chân lên bờ là ông đã giương cung, lắp tên đề phòng trường hợp bất kỳ kẻ nào ẩn nấp ở đó để canh giữ cái thuyền bất ngờ xuất hiện. Lúc này ông bắn một phát thật nhanh và chính xác vào con thú đang nhảy vọt đi. Khi sang tới bờ bên kia, nó bị trượt chân. Bóng tối nuốt chửng lấy nó, nhưng họ nghe tiếng móng guốc nhanh chóng trở nên ngập ngừng và rồi tắt hẳn.

Tuy vậy, còn chưa kịp la lên để tán dương phát tên đó, họ đã nghe một tiếng khóc thét hãi hùng vọng đến từ chỗ Bilbo, và đầu óc họ không còn tơ tưởng gì đến thịt hươu nữa. “Bombur ngã xuống nước rồi! Bombur sắp chết đuối rồi!” Anh chàng kêu to. Quả đúng là như thế. Bombur vừa mới bước được một chân lên bờ thì con hươu nọ chồm tới và nhảy vọt qua đầu chú. Chú trượt chân ngã xuống, đẩy chiếc thuyền ra khỏi bờ, rồi lăn tòm xuống dòng nước đen, hai bàn tay chú tuột khỏi đám rễ cây nhầy nhụa ở ven bờ, trong khi đó chiếc thuyền chầm chậm trôi đi rồi mất dạng.

Khi chạy ra bờ suối, họ vẫn còn có thể nhìn thấy cái mũ trùm của chú bên trên mặt nước. Họ vội quăng một sợi thừng có đầu móc về phía chú. Chú tóm được cái thừng, và họ kéo chú vào bờ. Chú ướt lướt thướt từ đầu đến chân, dĩ nhiên rồi, nhưng đó không phải là điều tệ hại nhất. Khi họ đặt chú lên bờ thì chú đã ngủ rất say, bàn tay chú nắm cái thừng chặt đến nỗi họ không tài nào gỡ ra được; và mặc họ muốn làm gì thì làm, chú vẫn cứ say sưa ngủ.

Họ đứng túm tụm quanh chú, vừa nguyền rủa vận rủi của mình và sự vụng về của Bombur vừa than vãn về việc mất cái thuyền khiến họ không thể quay trở lại tìm con hươu, thì bỗng để ý thấy có tiếng tù và nhè nhẹ trong rừng và những âm thanh như tiếng chó sủa ở tít xa. Rồi tất cả các âm thanh đó đều im bặt; và ngay lúc vừa ngồi xuống, họ như nghe thấy tiếng huyên náo của một cuộc đi săn lớn đang di chuyển về phía Bắc con đường mòn, dù rằng họ chẳng nhìn thấy dấu vết nào của nó cả.

Họ ngồi đó thật lâu và không dám nhúc nhích. Bombur vẫn đang say ngủ với một nụ cười trên khuôn mặt béo phị, cứ như thể chú không còn quan tâm gì đến những rắc rối khiến họ phải bực mình nữa. Bỗng trên con đường phía trước xuất hiện mấy con hươu trắng, một con hươu cái và vài chú hươu con trắng như tuyết khác hẳn con hươu đực đen như than trước đó. Chúng chập chờn trong bóng tối. Thorin còn chưa kịp thét lên thì ba chú lùn đã đứng phắt dậy nhả tên. Xem ra chẳng mũi tên nào trúng đích. Lũ hươu quay mình biến vào đám cây cối cũng lặng lẽ như lúc chúng đến vậy, và các chú lùn bắn theo mấy mũi tên nữa nhưng chẳng ăn thua gì.

“Đừng bắn nữa! Đừng bắn nữa!” Thorin quát to; nhưng đã quá muộn, mấy chú lùn quá phấn khích kia đã phung phí những mũi tên cuối cùng, nên lúc này mấy cây cung mà Beorn cho họ đã trở thành vô dụng.

Đêm ấy họ là một đám người rầu rĩ, và nỗi rầu rĩ còn chồng chất lên họ nặng nề hơn trong những ngày tiếp theo. Họ đã vượt qua dòng suối bị yểm bùa; nhưng qua nơi ấy rồi, con đường dường như vẫn cứ tiếp tục kéo dài mãi như trước, và trong khu rừng họ cũng chẳng thấy có gì thay đổi. Tuy vậy, nếu hiểu biết nhiều hơn về khu rừng và suy ngẫm ý nghĩa của cuộc săn cùng sự xuất hiện của mấy con hươu trắng trên đường, chắc hẳn họ đã biết cuối cùng họ cũng đang đến gần bìa rừng phía Đông, và chẳng bao lâu nữa sẽ tới những vùng thưa thớt cây cối hơn và những nơi lại có ánh mặt trời, nếu như họ còn giữ được lòng can đảm và niềm hy vọng.

Song họ lại không biết điều này, và họ còn nặng gánh với cái cơ thể nặng nề của Bombur mà họ phải hết sức cẩn thận vác theo, cắt lượt nhau cứ mỗi lần bốn người làm cái nhiệm vụ cực nhọc này trong lúc những người khác chia nhau mang đồ. Nếu trong vài ngày trước đó số đồ này không trở nên quá nhẹ thì họ đã không thể nào mang nổi; mà một anh chàng Bombur vừa ngủ vừa mỉm cười đem đổi lấy những bọc đầy đồ ăn dù chúng nặng đến mấy thì cũng là quá rẻ mạt. Vài ngày sau đã đến lúc thật sự chẳng còn gì để ăn uống nữa. Họ chẳng thấy loại cây cỏ ăn được nào mọc trong khu rừng, chỉ có nấm và những cây thân thảo có lá nhợt nhạt và mùi vị khó chịu mà thôi.

Khoảng bốn ngày kể từ khi vượt qua dòng suối bị yểm bùa, họ tới một nơi mà hầu hết cây cối ở đó đều là sồi. Thoạt đầu họ có vẻ phấn khởi vì sự thay đổi này, bởi ở đây không có tầng cây thấp và bóng tối không sẫm lắm. Xung quanh họ là thứ ánh sáng màu lục nhạt, và đôi lúc họ có thể nhìn được một quãng về phía hai bên đường. Tuy vậy ánh sáng ấy chỉ cho họ thấy những hàng cây xám xịt thẳng băng kéo dài vô tận giống như những cây cột của một hành lang đồ sộ nhuốm ánh hoàng hôn. Có hơi thở của khí trời và âm thanh của gió, nhưng là âm thanh buồn. Vài chiếc lá xào xạc rụng xuống nhắc cho họ biết ngoài kia mùa thu đang đến. Bàn chân họ làm xáo động đám lá khô nơi thảm lá đỏ sẫm mà biết bao mùa thu đã rải ở hai bên đường.

Bombur vẫn cứ ngủ và họ bắt đầu cảm thấy rất mệt mỏi. Thảng hoặc họ nghe thấy

những tiếng cười vang lên phá vỡ bầu không khí im lặng. Đôi lúc cũng có tiếng hát ở đằng xa nữa. Tiếng cười ấy là của những giọng êm tai chứ không phải của bọn yêu tinh, còn tiếng hát thì hay nhưng nghe có vẻ thần bí và kỳ lạ, và họ không cảm thấy thư thái mà chỉ muốn tiếp tục đi gấp khỏi khu vực này bằng chút sức lực còn sót lại.

Hai ngày sau họ thấy con đường bắt đầu dốc xuống, và chẳng bao lâu sau họ đã ở trong một thung lũng hầu như mọc toàn những cây sồi rất to.

“Chẳng lẽ cái khu rừng đáng nguyền rủa này chạy dài vô tận hay sao?” Thorin nói. “Một cậu nào phải trèo lên cây thử xem có thể thò đầu lên trên vòm lá mà quan sát xung quanh không. Cách duy nhất là chọn cái cây cao nhất nhô ra ở bên đường ấy.”

Dĩ nhiên “một cậu nào” có nghĩa là Bilbo. Họ chọn anh chàng, bởi muốn công việc có hiệu quả thì người trèo cây phải nhô đầu vượt lên trên những cành lá trên ngọn, và vì vậy người đó phải đủ nhẹ để không làm gãy cả những cành cao nhất và mảnh mai nhất. Anh chàng Baggins tội nghiệp từ trước đến giờ nào có tập trèo cây gì mấy đâu, nhưng họ cứ nhấc bổng anh chàng lên tới cành thấp nhất của một cây sồi khổng lồ mọc lấn vào đường, và từ đó anh chàng phải cố hết sức trèo lên. Anh chàng len lỏi qua đám cành nhỏ rậm rịt, nhiều lần bị cành cây đập vào mắt; lớp vỏ già ở những cành lớn hơn khiến anh chàng lem luốc hết cả; vài lần anh chàng trượt chân nhưng đã kịp túm lấy cành cây; và cuối cùng, sau một hồi vật lộn ghê người tại một đoạn thân dường như chẳng có cành cây nào thuận tiện cả, anh chàng đã leo tới gần ngọn cây. Suốt khoảng thời gian đó anh chàng cứ băn khoăn không biết liệu trên cây có nhện không, và liệu mình sẽ xuống đất bằng cách nào (nếu không phải là ngã xuống).

Cuối cùng anh chàng nhoi đầu lên khỏi mái lá rừng, và sau đó có thấy lũ nhện thật. Nhưng những con nhện này trông cũng chỉ nhỏ bé như biết bao con nhện khác, và chúng đang đuổi theo lũ bướm. Bilbo lóa cả mắt vì ánh sáng. Anh chàng có thể nghe tiếng những chú lùn quát lên với mình từ mãi tít bên dưới, nhưng lại không thể trả lời mà chỉ bíu thật chặt và hấp háy mắt. Mặt trời chiếu sáng rực rỡ, và mãi một lúc lâu sau anh chàng mới có thể quen nổi. Khi đã quen với ánh sáng rồi, anh chàng thấy khắp xung quanh mình là một biển màu lục thẫm, đây đó xao động bởi làn gió nhẹ; và có hàng trăm con bướm ở khắp mọi nơi. Tôi cho rằng đó là một loại “hoàng đế đỏ tía”, một loại bướm yêu thích những ngọn cây sồi, nhưng những con bướm này lại chẳng đỏ tía chút nào, chúng toàn một màu đen sẫm mượt như nhung mà không có đốm nào cả.

Anh chàng ngắm nhìn những “hoàng đế đen” một lúc lâu, thụ hưởng cái cảm giác gió nhẹ mơn man trên tóc và ve vuốt mặt mình, nhưng cuối cùng tiếng kêu của các chú lùn lúc này đang chỉ biết giậm chân vì sốt ruột ở bên dưới đã nhắc nhở anh chàng quay về với công việc thực sự của mình. Công việc ấy chẳng có kết quả gì. Cố căng mắt ra mà nhìn khắp bốn bề xung quanh, anh chàng cũng chẳng thấy điểm tận cùng của cây lá rừng đâu cả. Trước đó lòng đã bớt ưu phiền vì được thấy mặt trời và cảm giác mơn man của gió, giờ đây anh chàng lại thấy buồn vô hạn: có trèo xuống dưới kia thì cũng chẳng có gì để mà ăn.

Thực ra, như tôi đã kể với các bạn, lúc đó họ không ở xa bìa rừng lắm; và nếu Bilbo đủ thông minh để nhận biết điều đó, thì cái cây mà anh chàng đã trèo, cho dù là rất cao, lại đứng ở gần đáy của một thung lũng rộng, cho nên từ ngọn cây ấy vẫn thấy cây rừng vươn lên khắp xung quanh giống như thành của một cái bát khổng lồ, và vì thế anh chàng không thể mong nhìn được khu rừng trải ra đến đâu. Tuy nhiên anh chàng không biết được điều này nên đã trèo xuống mà lòng đầy thất vọng. Cuối cùng thì anh chàng cũng lại xuống đến mặt đất, mình mẩy sây sát, nóng bức, tiều tụy, và chẳng nhìn thấy gì trong bóng tối lờ mờ. Bản tường thuật của anh chàng chẳng mấy chốc khiến những người khác cũng buồn khổ không kém.

“Cả cánh rừng cứ tiếp tục trải dài vô tận về mọi hướng! Chúng ta sẽ làm gì đây? Mà việc gửi theo một anh chàng hobbit thì được tích sự gì chứ!” họ kêu lên, cứ làm như đó là lỗi của anh chàng không bằng. Họ chẳng quan tâm gì đến bầy bươm bướm, và chỉ càng giận dữ hơn khi nghe kể về làn gió mát, vì họ quá nặng không thể trèo lên cao để mà cảm nhận được.

Đêm hôm ấy họ ăn những mẩu đồ ăn cuối cùng; và sáng hôm sau, khi ngủ dậy, điều đầu tiên họ nhận ra là mình vẫn đói cồn cào, và điều tiếp theo là trời đang mưa đây đó trên mặt đất những hạt mưa nặng nề nhỏ xuống. Thực tế đó chỉ gợi cho họ nhớ rằng mình đang khát khô cổ, chứ chẳng khiến cơn khát của họ dịu đi chút nào: người ta không thể làm dịu một cơn khát khủng khiếp bằng cách đứng dưới những cây sồi khổng lồ và chờ đợi một giọt nước tình cờ rơi xuống lưỡi mình. Chút an ủi nhỏ nhoi duy nhất lại bất ngờ đến từ Bombur.

Chú ta đột nhiên tỉnh giấc và vừa ngồi dậy vừa gãi đầu gãi tai. Chú không hiểu mình đang ở đâu, và cũng chẳng biết vì sao mình cảm thấy đói bụng đến thế; bởi chú đã quên tất cả mọi chuyện xảy ra kể từ khi họ bắt đầu chuyến đi vào cái buổi sáng tháng Năm cách đó đã lâu ấy. Điều cuối cùng mà chú còn nhớ là bữa tiệc tại nhà anh chàng hobbit, và họ phải rất khó khăn mới làm chú tin câu chuyện về tất cả những cuộc mạo hiểm mà họ đã trải qua từ ngày ấy.

Khi nghe nói là chẳng có gì để ăn, chú ngồi xuống mà khóc, bởi chú cảm thấy rất yếu và chân vẫn còn run. “Tại sao mình lại tỉnh giấc cơ chứ!” chú kêu lên. “Tôi đang mơ những giấc mơ đẹp. Tôi đã mơ thấy mình đang dạo bước trong một khu rừng khá là giống khu rừng này, chỉ được thắp sáng bằng đuốc cắm trên cây, đèn đu đưa giữa các cành cây cùng những đống lửa cháy rừng rực trên mặt đất; người ta đang tổ chức một bữa tiệc lớn, một bữa tiệc không bao giờ tàn. Ở đó có một ông vua rừng đội vương miện bằng lá cây, có tiếng ca hát vui vẻ, và tôi không thể đếm xuể cũng như không mô tả nổi những thức ăn đồ uống ở đó.”

“Cậu không cần phải cố đâu,” Thorin nói. “Thực ra, nếu cậu không thể nói về chuyện gì khác thì cậu nên yên lặng đi. Bọn ta đã đủ phiền toái vì cậu trong hoàn cảnh hiện tại rồi. Nếu cậu không tỉnh dậy thì bọn ta đã để mặc cậu cứ nằm đấy mà mơ những giấc mơ ngớ ngẩn của cậu trong khu rừng này rồi; khiêng được cậu đi đâu phải chuyện đùa, thậm chí là sau mấy tuần cậu không ăn uống gì đấy.”

Lúc này họ chỉ còn cách thắt chặt dây lưng quanh cái bụng trống rỗng của mình, nhấc những bao tải không và gói hộp rỗng lên mà lê bước dọc đường mòn, chẳng hy vọng sẽ có lúc tới được cuối khu rừng trước khi gục ngã vì chết đói. Họ cứ lê bước như thế suốt cả ngày hôm đó, đi rất chậm và mệt rã rời; trong khi đó Bombur không ngừng than van rằng chân của chú không mang nổi mình chú nữa và rằng chú muốn nằm xuống mà ngủ.

“Cậu không được như thế!” họ nói. “Hãy để đôi chân cậu làm công việc của mình, bọn ta đã khiêng cậu đủ xa rồi.”

Mặc dù vậy, chú bỗng không chịu đi thêm một bước nào nữa và lăn đùng ra đất. “Cứ đi tiếp đi, nếu các vị phải đi,” chú nói. “Tôi sẽ chỉ nằm lại đây mà ngủ, mà mơ về đồ ăn thôi, nếu tôi không thể kiếm được cái gì vào bụng bằng cách nào khác. Tôi hy vọng mình sẽ không bao giờ tỉnh lại nữa.”

Đúng lúc đó Balin, khi ấy đang ở cách một quãng ngắn về phía trước, kêu to lên, “Cái gì kia nhỉ? Tôi nghĩ là đã nhìn thấy ánh sáng lập lòe trong rừng.”

Cả bọn nhìn theo, và thấy dường như cách đó một quãng khá xa là ánh đỏ bập bùng trong bóng tối, rồi một ánh đỏ khác, và lại một ánh đỏ khác nữa vụt xuất hiện bên cạnh nó. Thậm chí Bombur cũng nhỏm dậy, và họ hối hả bước tiếp, chẳng cần biết liệu đó có phải là bọn khổng lồ hay lũ yêu tinh không. Ánh sáng đó ở trước mặt họ, chếch về mé trái con đường, và khi đến ngang tầm nguồn sáng, họ thấy có vẻ như rõ ràng những bó đuốc và đống lửa đang cháy dưới gốc cây, nhưng cách con đường khá xa.

“Có vẻ như những giấc mơ của tôi đang trở thành hiện thực,” Bombur vừa há hốc miệng nói vừa thở phì phò ở phía sau. Chú muốn xông thẳng vào rừng về phía nguồn sáng. Nhưng những người khác lại nhớ quá rõ lời răn của lão phù thủy và của Beorn.

“Một bữa tiệc sẽ chả hay ho gì nếu chúng ta chẳng bao giờ còn sống mà trở về từ đó nữa,” Thorin nói.

“Nhưng dù sao thì không có một bữa tiệc chúng ta cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa,” Bombur nói, và Bilbo nồng nhiệt tán thành ý kiến ấy. Họ tranh luận ngược xuôi về chuyện này một lúc lâu, và cuối cùng nhất trí cử ra vài trinh sát lén đến gần nguồn sáng để tìm hiểu thêm. Nhưng sau đó họ lại không nhất trí được là sẽ cử ai: xem chừng chẳng người nào sốt sắng mạo hiểm thân mình để rồi chuốc lấy mối nguy bị lạc trong rừng và chẳng bao giờ tìm lại được bạn bè nữa. Cuối cùng, bất chấp lời cảnh báo, cái đói đã quyết định thay họ, bởi Bombur cứ không ngừng mô tả tất cả những món ngon được đem ra ăn, theo giấc mơ của chú ta, tại bữa tiệc trong rừng; thế là cả bọn rời khỏi con đường và cùng nhau lao vào rừng.

Sau một hồi hết trườn rồi lại bò, họ chăm chú nhòm qua các thân cây và nhìn vào một khoảng rừng thưa nơi vài cây cối bị đốn ngã còn mặt đất được san phẳng. Ở đó có rất nhiều người, nom họ giống các tiên, tất cả đều vận đồ màu lục và nâu, đang ngồi thành một vòng tròn lớn trên những khoanh gỗ cưa từ thân cây. Có một đống lửa ở giữa và những bó đuốc được buộc vào mấy cái cây quanh đó; nhưng cảnh tượng tuyệt vời hơn cả là: họ đang vừa ăn uống vừa nói cười vui vẻ.

Mùi thịt nướng thơm lừng quyến rũ đến mức chẳng ai hỏi ai, mỗi người bọn họ đều đứng dậy rồi lê lết tiến vào trong vòng tròn với một ý nghĩ duy nhất là hỏi xin một chút để ăn. Ngay khi người đầu tiên vừa bước vào khu đất trống thì tất cả các ngọn lửa đều tắt phụt như thể do ma thuật. Ai đó đã đá vào đống lửa khiến nó vụt lên như những bông pháo hoa lấp lánh rồi tan biến. Họ chìm vào bóng tối đen đặc và thậm chí không thể tìm thấy nhau suốt một lúc lâu. Sau khi cuống cuồng mò mẫm trong bóng tối, vấp ngã vào những khúc gỗ, đâm sầm vào cây cối, la hét gọi nhau í ới đến mức náo động cả mấy dặm trong rừng, cuối cùng họ cũng tìm được cách túm tụm lại với nhau và dùng tay sờ soạng để đếm quân số. Đến lúc này dĩ nhiên là họ đã quên bẵng con đường nằm ở hướng nào, và cả bọn hoàn toàn lạc lối, ít nhất cũng là cho tới sáng.

Họ chỉ còn biết ngả lưng để nghỉ đêm ngay tại chỗ, thậm chí không dám liều sờ sẫm trên mặt đất tìm những mẩu thức ăn thừa vì sợ lại bị tách rời nhau lần nữa. Nhưng họ nằm chưa lâu, và Bilbo mới chỉ bắt đầu buồn ngủ, thì Dori, người được cử canh gác đầu tiên, đã thì thào bằng một giọng khá to:

“Những ánh lửa lại xuất hiện ở đằng kia, mà lại nhiều hơn trước nữa.”

Tất cả bọn họ đều đứng bật dậy. Tại đó, không xa lắm, quả là có ánh lửa bập bùng, và họ nghe thấy khá rõ tiếng cười nói. Họ rón rén tiến về phía đó, theo hàng một, mỗi người đều sờ vào lưng người đi trước. Khi họ đến gần, Thorin nói, “Lần này không được xông thẳng vào đấy! Ta chưa có ý kiến thì không ai được nhúc nhích khỏi nơi ẩn nấp. Ta sẽ cử cậu Baggins đi trước một mình để nói chuyện với họ. Họ sẽ không hoảng sợ vì cậu ta đâu – (‘Thế nếu tôi hoảng sợ vì họ thì sao?’ Bilbo nghĩ bụng) – và dù sao thì ta cũng hy vọng là họ sẽ không làm điều gì nguy hại với cậu ấy.”

Lúc đến rìa vòng tròn của những ánh lửa, họ bất thình lình đẩy mạnh Bilbo từ phía sau. Còn chưa kịp đeo nhẫn thì anh chàng đã ngã sõng sượt vào vùng ánh sáng rực rỡ của lửa và đuốc. Thật là đoảng vị. Tất cả những ánh lửa lại tắt ngấm và màn đêm tối thui lại buông xuống.

Nếu khi trước khó khăn lắm họ mới tập hợp lại được với nhau thì lần này còn tệ hại hơn nhiều. Và họ tuyệt nhiên không tìm thấy anh chàng hobbit đâu cả. Mỗi lần đếm quân số họ chỉ thấy có mười ba thôi. Họ la hét và gọi to, “Bilbo Baggins! Thằng hobbit! Đồ hobbit chết tiệt! Này! Thằng hobbit! Đồ thối tha, mày ở đâu?” và nhiều câu chửi thề như thế nữa, nhưng không thấy trả lời.

Họ đã sắp hết hy vọng thì Dori vấp vào người anh chàng hoàn toàn do tình cờ. Trong bóng tối chú ta ngã đè lên cái gì đó mà chú tưởng là một khúc gỗ, và rồi phát hiện ra đó là anh chàng hobbit đang nằm co quắp mà ngủ say tít. Phải lay mỏi cả tay mới đánh thức được anh chàng, vậy mà khi tỉnh giấc rồi anh chàng lại chẳng vui mừng chút nào.

“Tôi đang mơ một giấc mơ đến là thú vị,” anh chàng làu bàu, “được đến dự một bữa tiệc rất tuyệt vời.”

“Trời ơi! Cậu ta lại giở chứng như Bombur rồi,” họ nói. “Đừng kể cho chúng ta về mơ với mộng nữa. Những bữa tiệc trong mơ thì được tích sự gì, bọn ta có tham gia được đâu.”

“Đó là những gì tốt đẹp nhất tôi có thể có được ở cái nơi khốn kiếp này đấy,” anh chàng vừa lẩm bẩm vừa nằm xuống bên cạnh các chú lùn và cố ngủ tiếp để tìm lại giấc mơ.

Nhưng những ánh lửa ấy đâu phải đã xuất hiện lần cuối trong khu rừng này. Sau đó, khi mà đêm hẳn đã về khuya, Kili lúc ấy đang canh gác lại đến đánh thức tất cả bọn họ và nói:

“Một ánh lửa lại bắt đầu rực sáng ở đằng kia, không xa lắm – hẳn là hàng trăm bó đuốc và rất nhiều đống lửa bỗng được đốt lên bằng ma thuật. Mà này, hãy lắng nghe tiếng ca hát cùng tiếng đàn hạc ấy!”

Sau khi nằm lắng nghe một lát, họ thấy không thể cưỡng nổi khát vọng được đến gần hơn và thử tìm kiếm sự giúp đỡ một lần nữa. Họ lại đứng dậy; và lần này kết quả thật tai hại. Bữa tiệc họ nhìn thấy lúc này lớn hơn và thịnh soạn hơn lần trước; ngồi đầu một dãy dài các thực khách là một ông vua rừng đội vương miện bằng lá cây trên mái tóc vàng, rất giống với nhân vật trong mơ mà Bombur đã mô tả. Các tiên chuyền tay nhau những cái bát ngang qua những đống lửa, vài vị đang chơi đàn hạc và nhiều vị đang ca hát. Mái tóc óng ánh của họ được kết hoa; cổ áo và thắt lưng họ lấp lánh những viên ngọc màu lục và màu trắng; còn gương mặt và những bài ca của họ thì tràn ngập niềm vui. Những bài ca ấy thật rộn ràng, trong trẻo và êm tai, Thorin bèn bước ra tiến vào giữa bọn họ.

Chú chưa nói được nửa lời thì tất cả đã hoàn toàn yên lặng. Mọi ánh lửa đều tắt ngóm. Các đống lửa vọt lên thành những đám khói đen. Tro và than rơi đầy vào mắt các chú lùn, và khu rừng lại ầm ĩ tiếng kêu gào la hét của họ.

Bilbo thấy mình cứ chạy quanh hoài (anh chàng tưởng là thế) và vừa chạy vừa liên hồi gọi to, “Dori, Nori, Ori, Oin, Gloin, Fili, Kili, Bombur, Bifur, Bofur, Dwalin, Balin, Thorin Oakenshield,” trong lúc những người mà anh chàng không nhìn thấy, không sờ thấy cũng đang làm như vậy ở xung quanh (thỉnh thoảng lại có thêm một tiếng gọi “Bilbo!”). Nhưng tiếng hô hét của những người kia cứ mỗi lúc một xa và nhỏ dần, và dù rằng một lát sau anh chàng thấy dường như tiếng hô hét đã chuyển thành những tiếng kêu la cầu cứu ở xa tít, thì mọi âm thanh cuối cùng đều im bặt, và anh chàng bị bỏ lại một mình trong bóng tối hoàn toàn tĩnh lặng.

Đó là một trong những khoảnh khắc khốn khổ nhất của anh chàng. Song anh chàng đã sớm quyết định rằng có cố gắng làm bất kỳ điều gì trước khi có chút ánh ngày thì cũng chẳng ăn thua gì, và có mò mẫm loanh quanh đến mệt nhoài mà không hy vọng kiếm được bữa điểm tâm cho tỉnh người thì cũng hoàn toàn vô ích. Thế là anh chàng ngồi tựa lưng vào một gốc cây và lại bắt đầu nhớ, lần này đâu phải lần cuối, đến cái hang hobbit xa xôi của mình cùng những phòng lương thực đẹp đẽ. Còn đang mải mê nghĩ đến nào thịt mông lợn xông khói, nào trứng và bánh mì nướng phết bơ thì anh chàng cảm thấy một cái gì đó đụng vào mình. Một cái gì đó giống như sợi dây chắc và nhớp nháp đang ghì lên bàn tay trái của anh chàng, và khi cố nhúc nhích anh chàng thấy chân mình đã bị quấn chặt cũng bằng thứ dây đó, đến nỗi lúc đứng dậy thì anh chàng ngã lăn quay.

Con nhện khổng lồ trước đó còn bận trói chặt anh chàng trong lúc anh chàng đang ngủ gà ngủ gật lúc này đã bò đến từ phía sau và xông vào tấn công anh chàng. Anh chàng chỉ có thể nhìn thấy cặp mắt con vật, nhưng vẫn cảm thấy những cái chân đầy lông của nó lúc nó cố sức quấn những sợi tơ kinh tởm xung quanh mình. Thật may là anh chàng kịp thời tỉnh táo. Chỉ một chút xíu nữa thôi là anh chàng chắc hẳn sẽ chẳng thể nào nhúc nhích được nữa rồi. Có thể nói anh chàng đã có một cuộc chiến đấu dữ dội trước khi xổng ra được. Anh chàng đã dùng hai tay đánh lui con vật – nó đang tìm cách hạ độc làm anh chàng tê cứng, như những con nhện nhỏ vẫn làm đối với lũ ruồi

– rồi anh chàng nhớ đến thanh kiếm của mình nên rút ra. Khi ấy con nhện nhảy lùi lại và anh chàng có thì giờ cắt đám dây trói quanh đôi chân. Sau đó đến lượt anh chàng tấn công. Con nhện hiển nhiên là không quen đối mặt với những sinh vật mang cái ngòi như vậy ở cạnh sườn, nếu không thì nó đã vội vã bỏ chạy sớm hơn rồi. Bilbo xông vào tấn công trước khi nó kịp trốn mất và đâm một nhát vào đúng mắt nó. Khi ấy nó phát điên lên, rồi vừa nhảy vừa múa vung những cái chân ra mà giật thật là khủng khiếp, mãi cho tới lúc bị một nhát đâm nữa thì nó mới chết; rồi sau đó anh chàng ngã quỵ và chẳng còn nhớ gì suốt một lúc lâu.

Khi anh chàng tỉnh dậy, vây bủa quanh anh vẫn là thứ ánh ngày màu xám lờ mờ thường thấy trong khu rừng này. Con nhện nằm chết bên cạnh, còn thanh kiếm thì vấy máu đen. Dù sao đi nữa thì việc giết con nhện khổng lồ, hoàn toàn một mình trong bóng tối, không có sự trợ giúp nào của lão phù thủy, của những chú lùn hay của bất kỳ ai khác, đã tạo ra một sự khác biệt lớn ở anh chàng Baggins. Lúc chùi thanh kiếm lên thảm cỏ rồi tra vào vỏ, anh chàng cảm thấy mình là một con người khác, dữ tợn hơn và táo bạo hơn, dù rằng cái bụng vẫn rỗng không.

“Ta sẽ đặt tên cho ngươi,” anh chàng nói với thanh kiếm, “ta sẽ gọi ngươi là Ngòi Châm[9].”Sau đó anh chàng bắt tay vào việc thăm dò. Khu rừng ảm đạm và yên tĩnh, nhưng hiển nhiên trước hết anh chàng phải tìm kiếm các bạn mình, có khả năng họ không ở xa lắm, trừ phi họ đã bị các tiên (hoặc những sinh vật tồi tệ hơn) bắt làm tù binh. Bilbo cảm thấy nếu la to lên thì sẽ không an toàn, nên anh chàng cứ đứng phân vân một lúc lâu không biết con đường nằm ở hướng nào, và liệu mình phải đi về hướng nào trước để tìm các chú lùn.

“Ôi! Sao chúng ta lại không nhớ lời khuyên của Beorn và Gandalf nhỉ!” anh chàng than vãn. “Giờ thì chúng ta lâm vào tình cảnh rối tinh như mớ bòng bong rồi! Mình chỉ ước gì đó là chúng ta: đơn độc một mình thật là khủng khiếp.”

Cuối cùng anh chàng cố hết sức phán đoán thật chính xác phương hướng của những tiếng kêu cứu vẳng đến vào đêm hôm trước – và nhờ may mắn (anh chàng vốn đã khá may mắn từ lúc ra đời) anh chàng phán đoán hầu như chính xác, như các bạn sẽ thấy.

Ý đã quyết, anh chàng rón rén bước đi thật nhẹ nhàng. Giống người hobbit có tài di chuyển lặng lẽ, đặc biệt là trong rừng, như tôi đã kể các bạn nghe; mà Bilbo lại còn đeo cả nhẫn trước khi khởi hành nữa. Bởi vậy lũ nhện không hề nhìn thấy hoặc nghe thấy anh chàng đang bước tới.

Rón rén bước được một quãng thì anh chàng để ý thấy phía trước là một nơi dày đặc bóng tối, tối mò ngay cả là đối với khu rừng này, giống như một mảng của nửa đêm chưa bao giờ bị xua tan. Khi đến gần hơn, anh chàng thấy rằng khoảng tối đen đó là do các mạng nhện tạo ra, cái nọ ở đằng sau hoặc bên trên cái kia, chằng chịt đan vào nhau thật hỗn độn. Bỗng nhiên anh chàng cũng nhìn thấy những con nhện khổng lồ và khủng khiếp đang đậu trên các cành cây trên đầu mình, và dù có đeo nhẫn hay không thì anh chàng vẫn run rẩy chỉ sợ bị chúng phát hiện ra. Đứng sau gốc cây, anh chàng quan sát một nhóm bọn chúng suốt một hồi lâu, và rồi trong cái yên lặng và tĩnh mịch của khu rừng, anh chàng nhận ra những con vật ghê tởm này đang nói chuyện với nhau. Giọng chúng nghe như tiếng xì xì nho nhỏ, nhưng anh chàng có thể hiểu được nhiều lời chúng nói. Chúng đang bàn tán về các chú lùn!

“Cuộc chiến đấu ấy thật dữ dội, nhưng mà cũng bõ công đấy,” một con nói. “Da chúng nó dày ơi là dày, đúng là như thế, nhưng tao đánh cuộc là bên dưới lớp da ấy sẽ có thứ nước thịt thơm ngon.”

“Còn phải nói, chũng sẽ là món ăn ngon sau khi bị treo lên một lát đấy,” một con khác nói.

“Đừng treo chúng quá lâu,” con thứ ba nói. “Lẽ ra chúng có thể béo hơn. Gần đây chúng ăn uống chẳng ra gì, ta đoán hẳn là vậy.”

“Mà này, cứ giết quách chúng đi,” con thứ tư nói, “giết chúng bây giờ rồi treo xác chúng lên một lát.”

“Chúng chết rồi, tao đảm bảo đấy,” con thứ nhất nói.

“Chúng đâu có chết. Tao vừa thấy một đứa còn giãy giụa đấy. Chúng vừa mới tỉnh dậy, hẳn là thế, sau một giấc ngủ ngon. Tao sẽ cho bọn mày thấy.”

Nói đoạn, một trong những con nhện béo chạy dọc một sợi tơ to tướng cho tới khi đến chỗ mười hai cái bọc lủng lẳng treo thành hàng trên một cành cây cao. Bilbo khiếp hãi, bởi lần đầu tiên anh chàng để ý thấy những cái bọc ấy đu đưa trong bóng tối, khi nhìn thấy một bàn chân của người lùn thò ra từ đáy một cái bọc, hoặc đây đó là một chỏm mũi, một ít râu hay một cái mũ trùm.

Con nhện tiến đến cái bọc tròn to nhất – “Đó là anh bạn Bombur thân mến tội nghiệp, chắc chắn rồi,” Bilbo nghĩ bụng – và cắn mạnh vào cái mũi thò ra ngoài. Có một tiếng kêu ré lên bị nghẹt lại ở bên trong, rồi một mũi giày vung lên đá mạnh thẳng vào con nhện. Cơ thể Bombur vẫn còn sức sống. Tiếng đá ấy nghe như tiếng người ta đá vào một quả bóng xẹp, và con nhện điên cuồng rơi khỏi cành cây, chỉ kịp níu vào sợi tơ của chính mình.

Những con nhện khác cười to. “Mày nói đúng thật đấy,” chúng nói, “món thịt ấy tràn trề sức sống và còn biết đá nữa!”

“Tao sẽ nhanh chóng kết thúc chuyện này,” con nhện đang giận dữ vừa rít lên vừa trèo trở lại cành cây.

Bilbo hiểu rằng đã đến lúc mình phải làm một điều gì đó. Anh chàng không thể nhảy tới chỗ lũ nghiệt súc được, mà anh chàng cũng chẳng có cái gì để mà bắn; nhưng nhìn quanh, anh chàng thấy gần chỗ này có rất nhiều đá nằm ở một nơi dường như là lòng một con suối nhỏ đã cạn khô. Bilbo là một tay ném đá thiện nghệ, và chẳng lâu la gì anh chàng đã tìm được một hòn đá nhẵn hình quả trứng cầm rất vừa tay. Hồi còn nhỏ, anh chàng vẫn thường tập ném đá vào mọi vật cho tới khi lũ thỏ và lũ sóc, thậm chí cả chim chóc, cũng tránh xa anh chàng thật nhanh nếu chúng thấy anh chàng khom người xuống; và ngay cả khi đã lớn anh chàng vẫn dành khá nhiều thời gian vào các trò chơi ném vòng, phóng phi tiêu, bắn gậy, ném bóng gỗ, ky chín con[10] và các trò chơi đơn giản khác thuộc loại ngắm và ném – quả thật anh chàng có thể làm được rất nhiều trò, ngoài cái trò thổi vòng khói, ra câu đố và nấu ăn, mà cho tới lúc này tôi chưa có thời gian để kể với các bạn. Bây giờ không có thì giờ nữa. Trong lúc anh chàng nhặt đá, con nhện đã đến chỗ Bombur, và chẳng mấy chốc chú ta sẽ chết. Đúng khoảnh khắc ấy thì Bilbo ném. Hòn đá đập vào đầu con nhện đánh bốp một cái khiến nó ngất xỉu văng khỏi cành cây, rơi phịch xuống đất, chân cẳng co rúm cả lại.

Hòn đá tiếp theo bay vèo qua một cái mạng nhện lớn, bứt tung các sợi tơ, khiến con nhện đang ngồi ở giữa mạng bị văng ra, rơi bịch xuống mà chết. Sau đó lũ nhện rối loạn cả lên, và chúng tạm quên các chú lùn trong giây lát, tôi có thể cho các bạn biết là như thế. Chúng không thể nhìn thấy Bilbo, song chúng có thể phán đoán chính xác hướng của những hòn đá vừa ném tới. Nhanh như chớp chúng chạy ào ào và vừa đu mình về phía anh chàng hobbit vừa phóng những sợi tơ dài khắp tứ phía cho tới khi không gian dường như giăng đầy những cái bẫy bay phấp phới.

Tuy nhiên Bilbo đã nhanh chóng lẻn sang một chỗ khác. Anh chàng nảy ra ý nghĩ là sẽ dẫn lũ nhện đang điên tiết này càng lúc càng xa các chú lùn hơn, nếu như có thể được; khiến chúng đột nhiên trở nên hiếu kỳ, kích động và giận dữ. Lúc khoảng năm mươi con đã chạy đến chỗ anh chàng đứng khi nãy, anh chàng ném thêm vài hòn đá vào lũ này và vào những con khác dừng lại ở phía sau; sau đó vừa nhảy múa giữa đám cây cối anh chàng vừa hát một bài hát để chọc cho chúng tức điên lên, để dụ tất cả bọn chúng đuổi theo mình, và cũng để các chú lùn nghe thấy giọng mình nữa.

Anh chàng đã hát như thế này:

Lão nhện béo giăng tơ trên cây!

Lão nhện béo không thể nhìn thấy ta!

Đồ thối tha! Đồ thối tha!

Sao không ngừng lại,

Ngừng giăng tơ mà đi tìm ta?

Lão đại ngốc, đồ to xác kia,

Lão đại ngốc không phát hiện được ta!

Đồ thối tha! Đồ thối tha!

Mau mà rơi xuống!

Trên cây thì lão chẳng bao giờ bắt được ta!

Có lẽ không được hay lắm, nhưng mà các bạn phải nhớ rằng anh chàng đã phải tự mình sáng tác dưới sự thôi thúc của một tình thế rất khó xử. Dù sao thì bài hát ấy cũng có cái tác dụng mà anh chàng cần. Trong lúc hát, anh chàng ném thêm vài hòn đá và giậm giậm chân. Hầu như tất cả lũ nhện ở đó đều đuổi theo anh chàng: vài con ngã lăn xuống đất, những con khác đua nhau chạy dọc theo các cành cây, đu mình từ cây này qua cây kia hoặc giăng thêm tơ mới ngang qua các khoảng trống tối đen. Chúng di chuyển về phía có tiếng nói của anh chàng nhanh hơn anh chàng tưởng rất nhiều. Chúng vô cùng giận dữ. Ngoài việc ghét những hòn đá ra, chẳng con nhện nào thích bị gọi là Đồ Thối Tha, còn Đồ Đại Ngốc thì dĩ nhiên là hỗn xược đối với bất kỳ ai rồi.

Bilbo chạy vụt tới một chỗ khác, nhưng vài con trong lũ nhện lúc này đã chạy tứ phía trong khoảng rừng thưa nơi chúng sinh sống, và đang hối hả giăng mạng ngang qua khoảng trống giữa các thân cây. Chẳng mấy chốc anh chàng hobbit sẽ bị mắc vào một hàng rào mạng nhện dày đặc khắp xung quanh – chí ít thì đó cũng là ý nghĩ của lũ nhện. Lúc nãy, đứng giữa lũ côn trùng đang săn đuổi và giăng tơ, Bilbo thu hết can đảm và bắt đầu một bài ca mới:

Thằng Đần lười nhác và thằng Thộn điên khùng

đang dệt mạng nhện để quấn chặt ta,

thịt ta thơm ngon hơn thịt khác nhiều,

nhưng chúng vẫn không thể nào tìm thấy được ta.

Ta ở đây này, một chú ruồi con nghịch ngợm;

chúng mày thì béo và điên khùng.

Chúng mày không thể bẫy được ta, dù cố sức,

trên những cái mạng nhện ọp ẹp của chúng mày đâu.

Hát đến đó anh chàng quay mình lại và thấy khoảng trống cuối cùng giữa hai cây cao đã bị một cái mạng nhện rào kín lại – nhưng thật may đó lại không phải là một mạng nhện giăng đúng cách, mà chỉ là những sợi tơ nhện dày gấp đôi được chằng đi chằng lại vội vã từ thân cây này sang thân cây khác. Thanh kiếm nhỏ bé của anh chàng lập tức được tuốt ra. Anh chàng cắt phăng những sợi tơ rồi vừa bỏ đi vừa ca hát.

Lũ nhện nhìn thấy thanh kiếm, tuy tôi không cho rằng chúng biết đó là cái gì, và lập tức cả đàn cả lũ vội vã đuổi theo anh chàng hobbit trên mặt đất và trên các cành cây, những cái chân lông lá vung vẩy, răng lợi nghiến kèn kẹt, những cặp mắt thò ra thụt vào đầy bọt và vô cùng phẫn nộ. Chúng lần theo anh chàng vào trong khu rừng cho tới khi anh chàng không dám đi xa hơn nữa. Sau đó anh chàng len lén quay trở lại, lặng lẽ hơn một con chuột.

Anh chàng biết mình chỉ có rất ít thì giờ quý báu trước khi lũ nhện phát chán mà quay trở lại đám cây cối, nơi các chú lùn đang bị treo. Trong khoảng thời gian đó anh chàng

lại còn phải cứu họ nữa. Phần tệ hại nhất trong việc này là trèo lên cành cây dài đang lủng lẳng những cái bọc kia. Tôi cho rằng lẽ ra anh chàng đã không thể xoay xở trèo lên nổi, nếu như không gặp may vì một con nhện đã để một sợi tơ thõng xuống; với sự trợ giúp của sợi tơ, dù rằng nó nhớp nháp và làm đau tay, anh chàng cố leo lên – chỉ gặp một gã nhện già mập ú chậm chạp và độc ác ở lại canh giữ đám tù nhân và cứ rối rít cấu véo họ xem ai là người mọng nước nhất để mà ăn thịt. Gã đã nghĩ đến việc bắt đầu bữa tiệc trong lúc những kẻ khác đi vắng, song anh chàng Baggins đang vội, và trước khi biết có chuyện gì xảy ra thì gã đã cảm thấy ngòi châm của anh chàng và ngã lộn nhào khỏi cành cây mà chết.

Công việc tiếp theo của Bilbo là cởi trói cho một chú lùn. Anh chàng sẽ phải làm gì đây? Nếu cắt sợi tơ đang treo chú ta lên thì chú lùn khốn khổ ấy sẽ rơi bịch xuống mặt đất khá xa bên dưới. Sau khi luồn lách bò dọc cành cây (điều này khiến tất cả các chú lùn tội nghiệp lúc lắc và đu đưa giống như trái chín cây) anh chàng đến được cái bọc đầu tiên.

“Là Fili hoặc Kili đây,” anh chàng đoán dựa vào chỏm mũ trùm màu xanh thò ra ở phía trên. “Rất có thể là Fili,” anh chàng nghĩ bụng khi nhìn vào cái mũi dài thò ra ở đám tơ nhện quấn quanh. Anh chàng cố xoay xở bằng cách ngả người ra cắt hầu hết những sợi tơ chắc và nhớp nháp quấn quanh người chú, và rồi, đúng quá đi mất, sau một chút quẫy đạp, hầu hết hình hài Fili lòi ra. Tôi e rằng Bilbo thực sự đã cười to khi nhìn thấy chú ta vừa giật giật cẳng chân cẳng tay cứng đơ vừa vẫy vùng trên sợi tơ nhện căng qua hai nách, giống như món đồ chơi bập bềnh trên một sợi dây thép.

Không biết bằng cách nào mà Fili leo lên được trên cành cây, và sau đó chú cố hết sức trợ giúp cho anh chàng hobbit, mặc dù chú đang cảm thấy rất ốm yếu và mệt mỏi vì bị nhiễm nọc độc của nhện, bị treo gần hết đêm hôm trước rồi ngày hôm sau lại bị quấn

chằng chịt khắp mình mẩy chỉ hở được cái mũi để thở. Phải rất lâu chú mới gỡ được cái đám tơ tởm lợm khỏi mắt và lông mày, còn về bộ râu thì chú đã phải cắt đi gần hết. Chà, hai người bọn họ cùng nhau bắt đầu kéo lên hết chú lùn này đến chú lùn khác và cắt dây trói giải thoát cho họ. Chẳng ai trong số họ khỏe khoắn hơn Fili, dăm ba người tình trạng còn tồi tệ hơn. Mấy người trước đó đã gần như không thể hít thở được chút nào (những cái mũi dài đôi khi cũng có ích, các bạn thấy đấy) còn vài người thì bị nhiễm độc nhiều hơn.

Bằng cách này họ đã giải cứu Kili, Bifur, Bofur, Dori và Nori. Chú Bombur thân mến tội nghiệp thì quá kiệt sức – chú là người béo nhất nên không ngừng bị lũ nhện cào cấu đâm chọc – đến nỗi chú ngã lăn khỏi cành cây và rơi bịch xuống đất, may là rơi vào đống lá khô, và cứ nằm đó. Nhưng vẫn còn năm chú lùn nữa đang lủng lẳng ở cuối cành cây khi lũ nhện bắt đầu trở về và đang nổi cơn thịnh nộ hơn bao giờ hết.

Bilbo lập tức đễn chỗ đầu cành cây gần sát với thân cây để đẩy lùi những con nhện đang cố bò lên. Lúc giải cứu Fili, anh chàng tháo nhẫn ra và quên không đeo lại, vì vậy lúc này tất cả bọn chúng bắt đầu thổi phì phì và rít lên:

“Bây giờ chúng tao nhìn thấy mày rồi, con vật nhỏ bé xấu xa kia! Chúng tao sẽ ăn thịt mày rồi cứ để mặc cho xương và da mày lủng lẳng trên cây. Úi chà! Nó có một cái ngòi, phải không nhỉ? Chà, chúng ta vẫn sẽ tóm được nó như thường, rồi sau đó chúng ta sẽ treo ngược nó lên trong một hai ngày.”

Trong lúc cuộc chiến diễn ra thì các chú lùn khác đang bận giải cứu số tù nhân còn lại và dùng dao cắt những sợi tơ quấn quanh người họ. Chẳng mấy chốc họ sẽ được giải thoát, dù rằng không rõ sau đó chuyện gì sẽ xảy ra. Đêm trước lũ nhện đã bắt được họ khá dễ dàng, nhưng đó là do họ sơ suất mà lại đang ở trong bóng tối. Lần này xem ra là một trận khốc liệt.

Bỗng Bilbo để ý thấy vài con nhện đang tập hợp quanh Bombur ở dưới đất, chúng đã trói chú ta lại và đang lôi chú ta đi. Anh chàng hét lên một tiếng và chém vào những con nhện ở trước mặt mình. Chúng vội vã rút lui, và anh chàng trèo xuống rồi rơi ngay vào giữa đám nhện trên mặt đất. Thanh đoản kiếm của anh chàng là một cái gì đó mới mẻ so với các loại ngòi. Nó phóng ngang phóng dọc mới ghê làm sao! Nó sáng rực lên vì khoái trá khi anh chàng đâm vào chúng. Nửa tá trong bọn chúng bị giết trước khi số còn lại rút lui và bỏ Bombur lại cho Bilbo.

“Xuống đi! Xuống đi!” anh chàng la lên gọi các chú lùn ở trên cây. “Đừng ở trên ấy mà bị chúng giăng lưới bắt đấy!” Bởi anh chàng nhìn thấy lũ nhện đang trèo lên tất cả

đám cây cối xung quanh và đang bò ra các cành cây phía trên đầu các chú lùn.

Các chú lùn trèo, nhảy hoặc gieo mình xuống, tất cả mười một chú thành một đống,hầu hết bọn họ đều lẩy bà lẩy bẩy và chân đi không vững. Cuối cùng thì cả bọn

ở đó, mười hai người kể cả chú Bombur thân mến tội nghiệp lúc này đang được người anh em họ là Bifur và anh trai là Bofur dìu hai bên; còn Bilbo thì đang vừa nhảy nhót loanh quanh vừa vung thanh Ngòi Châm của mình; và hàng trăm con nhện giận dữ đang trợn tròn mắt nhìn cả bọn từ khắp xung quanh và từ phía trên xuống. Xem ra có vẻ thật vô vọng.

Sau đó trận chiến bắt đầu. Vài chú lùn có dao, vài chú có gậy, và tất cả bọn họ đều có thể kiếm được đá để ném; còn Bilbo thì có con dao găm do các tiên chế tạo. Hết lần này đến lần khác, lũ nhện bị đánh lui, và nhiều con trong bọn chúng bị giết. Song cuộc chiến không thể kéo dài mãi được. Bilbo đã gần kệt sức; chỉ có bốn chú lùn có thể đứng vững, và chẳng mấy chốc tất cả bọn họ sẽ bị áp đảo giống như những chú ruồi mệt lử. Lũ nhện đã lại bắt đầu giăng mạng xung quanh bọn họ từ cây này sang cây khác.

Cuối cùng Bilbo chẳng nghĩ ra được kế sách nào ngoài việc tiết lộ bí mật về chiếc nhẫn của mình với các chú lùn. Anh chàng cảm thấy khá nuối tiếc về việc này, nhưng không thể nào làm khác được.

“Tôi sắp sửa biến mất đây,” anh chàng nói. “Tôi sẽ dụ lũ nhện rời đi, nếu như có thể được; còn các vị phải sát cánh bên nhau và di chuyển về hướng đối diện. Về phía tay trái kia kìa, có vẻ như đó là con đường tới chỗ mà lần trước chúng ta đã nhìn thấy đống lửa của các tiên đấy.”

Thật khó có thể làm cho họ hiểu, phần vì đầu họ choáng váng, phần vì tiếng la hét, tiếng gậy đập và tiếng ném đá, song cuối cùng Bilbo cảm thấy không thể trì hoãn lâu hơn nữa – lũ nhện đang thắt chặt vòng vây hơn bao giờ hết. Đột nhiên anh chàng đeo nhẫn vào, và trước sự kinh ngạc của các chú lùn anh chàng biến mất.

Chẳng bao lâu sau vẳng lên những tiếng gọi “Thằng Đần Lười Nhác” và “Đồ Thối Tha” từ đám cây cối cách đó một quãng về bên phải. Điều này khiến lũ nhện vô cùng bối rối. Bọn chúng thôi không tiến lên nữa, một số con đi về phía tiếng nói kia. “Đồ Thối Tha” khiến chúng giận dữ đến mức mất cả trí khôn. Khi đó Balin, người nắm rõ kế hoạch của Bilbo hơn các chú lùn còn lại, dẫn đầu một cuộc tấn công. Các chú lùn túm tụm lại với nhau thành một cụm, và vừa ném đá như mưa rào họ vừa nhằm đánh những con nhện ở mé tay trái, và đột phá qua vòng vây. Phía sau bọn họ lúc này tiếng

la hét và tiếng hát đột nhiên ngừng lại.

Hy vọng mong manh rằng Bilbo chưa bị bắt, các chú lùn tiếp tục cất bước. Tuy rằng không thật nhanh. Họ ốm yếu và mệt mỏi, chỉ còn có thể loạng choạng bước đi, dù rằng nhiều con nhện đã đến gần ngay sau lưng. Thỉnh thoảng họ phải dừng lại để chiến đấu với những con sắp đuổi kịp mình; vài con nhện đã ở trên đám cây cối trên đầu họ mà vung xuống những sợi tơ dài nhớp nháp.

Trong lúc tình thế xem ra lại có vẻ khá nguy ngập thì Bilbo xuất hiện trở lại và bất ngờ nhảy xổ từ phía sườn vào những con nhện còn đang kinh ngạc.

“Đi tiếp đi! Đi tiếp đi!” anh chàng hét to. “Tôi sẽ làm cái việc đâm chém!”

Và anh chàng làm thật. Anh chàng vùn vụt tiến lên lùi xuống, vừa cắt đám tơ nhện vừa chém vào cẳng chân chúng, và đâm vào những cái mình béo ị của chúng nếu chúng đến quá gần. Lũ nhện giận dữ điên cuồng, vừa thở phì phì đến sùi bọt mép vừa rít lên những câu nguyền rủa khủng khiếp; song chúng đã sợ thanh Ngòi Châm đến bở vía nên không dám đến thật gần, bởi lúc này thanh kiếm đã trở lại. Vậy là chúng cứ tha hồ nguyền rủa, còn con mồi của chúng cứ chầm chậm rời đi mỗi lúc một xa. Cuộc chiến thật vô cùng khốc liệt và dường như kéo dài hàng giờ đồng hồ. Song cuối cùng, đúng vào lúc Bilbo cảm thấy mình không thể nhấc nổi tay lên để đâm thêm chỉ một nhát nữa thôi thì lũ nhện đột nhiên bỏ cuộc, không lần theo họ nữa mà ngao ngán trở về lãnh địa đen tối của mình.

Khi ấy các chú lùn nhận ra mình đã đến rìa một vòng tròn mà trước đó các tiên từng đốt lửa. Liệu đó có phải là một trong những vòng tròn họ đã nhìn thấy vào đêm hôm trước hay không thì họ không thể biết. Song dường như ở những nơi đó còn phảng phất một chút phép màu, cái mà lũ nhện không thích. Dù sao thì ở đây ánh sáng cũng biếc xanh hơn, cành cây cũng nhỏ nhắn và ít vẻ hăm dọa hơn, và họ có dịp để nghỉ ngơi và để thở.

Họ nằm đó một lát, thở phì phò, thở hổn hển. Nhưng ngay sau đó họ bắt đầu đặt câu hỏi. Họ cần phải được giải thích tường tận về toàn bộ cái thuật tàng hình kia; và việc bắt được cái nhẫn khiến họ hứng thú tới mức quên cả những phiền muộn của bản thân mình. Đặc biệt là Balin, chú cứ nằng nặc đòi kể đi kể lại về Gollum, các câu đố và tất cả những sự kiện khác, với chiếc nhẫn ở vị trí xác đáng của nó. Nhưng một lát sau ánh sáng bắt đầu nhạt dần, và khi ấy những câu hỏi khác lại được nêu ra. Họ đang ở đâu, con đường mòn của họ ở đâu, ở đâu có một chút thức ăn, và họ sẽ làm gì sau đó? Họ cứ hỏi đi hỏi lại như thế, và dường như họ mong chờ được Bilbo đích thân trả lời. Từ

thực tế đó các bạn có thể thấy họ đã thay đổi cách nhìn nhận của mình rất nhiều về anh chàng Baggins và đã bắt đầu rất kính trọng anh chàng (như trước kia Gandalf đã nói rồi ra họ sẽ thế). Quả thật họ thực sự mong chờ anh chàng sẽ nghĩ ra một kế hoạch tuyệt vời để giúp họ, chứ đâu chỉ làu bàu nữa. Họ biết quá rõ rằng khi nãy nếu không có anh chàng hobbit thì chỉ chút nữa là cả bọn đã chết rồi; và họ cảm ơn anh chàng rất nhiều lần. Vài người trong bọn họ thậm chí còn đứng dậy và cúi rạp xuống mặt đất trước mặt anh chàng, dù rằng vì cố làm thế mà họ ngã lăn quay và phải mất một lúc mới lại đứng dậy được. Dù biết sự thật về cái thuật tàng hình kia, họ cũng không mảy may bớt coi trọng Bilbo; bởi họ thấy anh chàng có đôi chút trí tuệ, lại cũng có may mắn và còn có cả chiếc nhẫn thân nữa – mà cả ba thứ đó đều là những tài sản hữu ích. Nói tóm lại, họ tán dương anh chàng nhiều đến mức Bilbo bắt đầu cảm thấy rốt cuộc thì ở mình thật sự cũng có một chút gì đó của một người mạo hiểm dũng cảm, dù rằng anh chàng lẽ ra đã cảm thấy dũng cảm hơn nhiều nếu như có cái gì để ăn.

Song chẳng có gì cả, chẳng có gì hết; và không một ai trong bọn họ đủ sức đi kiếm ăn hoặc để tìm dấu con đường bị mất. Con đường bị mất! Cái đầu mệt mỏi của Bilbo chẳng chịu nghĩ đến gì khác ngoài con đường ấy. Anh chàng cứ ngồi thần ra, nhìn chằm chằm vào đám cây cối vô tận phía trước; và một lát sau tất cả bọn họ lại đều im lặng. Tất cả, trừ Balin. Rất lâu sau khi những người khác đã ngừng chuyện trò và nhắm mắt ngủ, chú vẫn còn lẩm bẩm và khùng khục cười một mình.

“Gollum! Thật may phúc cho tôi! Vậy ra lão đã lẳng lặng chạy vượt qua tôi là thế đấy, phải không? Bây giờ thì mình hiểu rồi! Cứ lặng lẽ rón rén mà bước, có phải thế không hả cậu Baggins? Khuy áo rơi tung tóe trên bậc cửa! Anh bạn Bilbo thân mến tài giỏi ơi

– Bilbo – Bilbo – bo – bo – bo…” Rồi chú ngủ thiếp đi, và mọi thứ chìm vào yên lặng một lúc lâu.

Bỗng nhiên Dwalin mở một mắt ra và nhìn khắp bọn họ. “Thorin đâu ấy nhỉ?” chú hỏi.

Thật là một cú sốc khủng khiếp. Dĩ nhiên là chỉ có mười ba người bọn họ, mười hai chú lùn và anh hùng hobbit. Thorin thật sự đang ở đâu? Họ băn khoăn không biết số phận nghiệt ngã nào đã xảy đến với chú, ma thuật hay lũ quái vật của bóng tối; và họ cứ nằm trong rừng mà hoang mang. Rồi họ lần lượt thiếp đi trong giấc ngủ khó chịu đầy những mộng mị khủng khiếp khi buổi tối trôi dần vào đêm đen; và lúc này chúng ta đành bỏ mặc họ ở đó, quá ốm yếu và mệt mỏi nên họ không thể cử người canh gác hoặc thay phiên nhau mà canh gác.

Thorin đã bị bắt nhanh hơn họ rất nhiều. Các bạn còn nhớ Bilbo đã ngã vật xuống mà ngủ thiếp đi khi anh chàng bước vào vòng tròn ánh sáng đấy chứ? Tiếp theo đó đến lượt Thorin bước lên phía trước, và khi ánh lửa tắt phụt thì chú ngã lăn ra như một hòn đá bị yểm bùa. Tiếng các chú lùn tan biến trong đêm, tiếng các chú la hét khi bị lũ nhện bắt trói và tất cả những huyên náo của trận chiến ngày hôm sau đã vẳng qua mà chú không nghe thấy được. Sau đó các Tiên Rừng đến chỗ chú, trói chú lại và khiêng đi.

Dĩ nhiên nhóm người lúc ấy đang tiệc tùng là các Tiên Rừng. Họ không phải là những người độc ác. Khiếm khuyết duy nhất của họ là nghi kỵ người lạ. Tuy phép thuật của họ mạnh mẽ, thậm chí là vào thời ấy họ vẫn thận trọng đề phòng. Họ khác với các Thượng Tiên ở phía Tây, họ nguy hiểm hơn nhưng lại kém uyên bác. Bởi hầu hết bọn họ (cùng với những người bà con rải rác trên các đồi núi) xuất thân từ các bộ lạc cổ xưa chưa từng đến Xứ Tiên ở phía Tây. Tại đó các Tiên Thanh Thoát, Tiên Trầm Lặng và Tiên Biển đã đến sinh sống từ rất lâu, trở nên đẹp đẽ hơn, khôn ngoan hơn và thông thái hơn, phát minh ra phép thuật cùng nghề thủ công khéo léo để chế tác các đồ vật đẹp đẽ và kỳ lạ, trước khi một vài người trở về với Thế Giới Bao La. Trong Thế Giới Bao La các Tiên Rừng sống lay lắt trong vùng tranh tối tranh sáng dưới Mặt Trời và Mặt Trăng, nhưng họ lại thích các vì sao nhất; và họ lang thang trong các khu rừng mênh mông đầy cây cao ở những xứ sở hiện nay không còn nữa. Chốn cư ngụ thường xuyên nhất của họ là các bìa rừng, nơi đôi khi họ có thể ra ngoài săn bắn hoặc cưỡi ngựa và rong ruổi khắp các xứ sở mênh mông dưới ánh trăng sao; và sau khi Con Người tới thì họ càng ưa thích lúc tang tảng sáng chạng vạng tối hơn bao giờ hết. Tuy thế trước sau họ vẫn là tiên, và là Người Tốt.

Vị vua vĩ đại nhất của họ thời ấy sống trong một hang lớn nằm sâu khoảng vài dặm trong rìa phía Đông của Rừng U Ám. Phía trước các cửa đá đồ sộ của ông là một dòng sông chảy từ những vùng cao của khu rừng và tiếp tục chảy vào đầm lầy dưới chân các vùng đất cao đầy cây cối. Từ hang lớn này mở ra vô vàn hang nhỏ hơn ở khắp mọi phía, và nó vươn xa ngoằn ngoèo dưới lòng đất với nhiều lối đi và hành lang rộng; nhưng nó sáng sủa và dễ chịu hơn bất kỳ nơi cư ngụ nào của yêu tinh, cũng không sâu và nguy hiểm bằng. Trên thực tế, thần dân của ông hầu hết đều sinh sống và săn bắn ở các khu rừng bên ngoài, làm nhà hoặc dựng lều trên mặt đất và trên cành cây. Họ thích những cây sồi. Hang của nhà vua là cung điện của ông, là nơi kiên cố để ông cất giữ kho tàng, và là pháo đài để con dân ông chống kẻ thù.

Cái hang ấy cũng là ngục tối để giam giữ tù nhân. Vì thế họ lôi Thorin về hang – không nhẹ nhàng lắm, bởi họ không ưa gì người lùn, và nghĩ rằng chú là kẻ thù. Thời xưa họ từng giao tranh với một số người lùn, những người mà họ buộc tội là đã ăn

trộm kho báu của họ. Công bằng mà nói thì người lùn giải thích chuyện này theo một cách khác, bảo rằng họ chỉ lấy đi những gì thuộc về mình bởi Vua Tiên khi trước đã thương lượng với họ về việc tạo khuôn mẫu cho số vàng bạc thô nhưng sau đó lại không chịu trả công cho họ. Nếu ông Vua Tiên có một nhược điểm thì đó chính là lòng tham báu vật, đặc biệt là bạc và bạch ngọc; và mặc dù kho của cải đã dồi dào, lúc nào ông cũng háo hức muốn có nhiều hơn, bởi ông chưa có được kho báu lớn như các vua chúa tiên thời xưa. Người dân của ông không khai mỏ cũng chẳng tạo tác kim loại hay đồ trang sức, họ cũng không để tâm nhiều đến việc buôn bán hay cày cấy. Người lùn nào cũng đều biết thực tế này, dù rằng họ Thorin chẳng liên quan gì đến cuộc tranh chấp ngày xưa mà tôi đã đề cập. Bởi thế khi được giải bùa mê và tỉnh táo trở lại, Thorin phát cáu lên vì cách đối xử của họ đối với mình; và chú cũng nhất quyết không để họ moi được từ mình một lời nào nhắc đến vàng bạc châu báu.

Ông vua nhìn Thorin bằng vẻ mặt nghiêm khắc khi chú được giải đến trước mặt, và hỏi chú nhiều câu hỏi. Song Thorin chỉ một mực nói rằng chú đang rất đói.

“Cớ sao ngươi và đám tay chân của ngươi ba lần tìm cách tấn công người của ta tại buổi liên hoan?” ông vua hỏi.

“Chúng tôi không tấn công họ,” Thorin trả lời, “chúng tôi đến để xin ăn, bởi vì chúng tôi rất đói.”

“Các bạn ngươi bây giờ ở đâu, và chúng đang làm gì?”

“Tôi không biết, nhưng tôi cho rằng họ đang đói lả ở trong rừng.”

“Các ngươi làm gì trong rừng?”

“Đi tìm đồ ăn và thức uống, vì chúng tôi đang đói lả.”

“Nhưng điều gì khiến các ngươi vào khu rừng này mới được chứ?” ông vua giận dữ hỏi.

Nghe tới đó Thorin ngậm miệng và không chịu nói thêm nửa lời.

“Được lắm!” ông vua nói. “Dẫn hắn đi và canh giữ hắn cẩn thận cho tới khi hắn cảm thấy sẵn sàng nói ra sự thật, kể cả là hàng trăm năm nữa.”

Sau đó các tiên trói chú lại bằng dây da và nhốt vào một trong những cái hang sâu nhất có cửa gỗ chắc chắn, rồi bỏ đi. Họ cho chú ăn uống, đồ ăn thức uống đều ê hề,

tuy rằng không được ngon lắm; bởi các Tiên Rừng không phải là yêu tinh nên họ cư xử một cách tử tế ngay cả với kẻ thù độc ác nhất mà họ bắt được. Lũ nhện khổng lồ là những sinh vật duy nhất họ không dung thứ.

Chú Thorin khốn khổ nằm đó, trong ngục tối của ông vua; và sau khi đã bày tỏ lòng biết ơn về khoản bánh mì, thịt và nước uống, chú bắt đầu băn khoăn không biết chuyện gì đã xảy đến với những người bạn bất hạnh của mình. Sau đó không lâu lắm thì chú biết được tình hình; nhưng điều đó thuộc về chương sau và là khởi đầu của một cuộc mạo hiểm nữa mà trong đó anh chàng hobbit lại thể hiện sự hữu dụng của mình.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.