The Hobbit

Chương XIII – CHỦ NHÀ ĐI VẮNG



Trong lúc đó, các chú lùn ngồi trong bóng tối, vây bủa quanh họ là sự câm lặng hoàn toàn. Họ ăn rất ít và nói rất ít. Họ chẳng biết gì về giờ giấc và ngày tháng; và họ hầu như chẳng dám động đậy, bởi giọng thì thầm của họ lao xao vang vọng trong đường hầm. Nếu chợp mắt ngủ thì khi tỉnh dậy họ vẫn chỉ thấy bóng tối và sự tĩnh lặng triền miên. Cuối cùng, sau bao ngày chờ đợi, dường như là thế, họ bắt đầu thấy nghẹt thở và choáng váng vì thiếu không khí, và họ không thể chịu đựng lâu hơn nữa.

Giả chăng mà lão rồng có quay lại thì hẳn là họ đã vui mừng đón nhận những âm thanh vẳng đến từ bên dưới. Trong cảnh tĩnh lặng này họ e sợ rằng lão đang giở trò tinh quái xảo quyệt nào đó, song họ không thể cứ ngồi mãi ở đó được.

“Chúng ta thử đẩy cửa xem!” Thorin nói. “Ta phải sớm có được cảm giác gió thổi vào mặt, nếu không thì chết mất. Ta nghĩ thà bị lão rồng Smaug đập tan xác còn hơn là chết ngạt ở trong này!” Thế là dăm chú lùn đứng dậy, mò mẫm trở lại nơi trước kia từng là cửa. Song họ phát hiện ra là đầu phía trên của đường hầm đã bị phá tan và bị những hòn đá vỡ bịt kín lại. Cả chìa khóa lẫn cái phép thuật mà trước đây cánh cửa từng phục tùng cũng chẳng bao giờ mở được nó nữa.

“Chúng ta sập bẫy rồi!” họ rên rỉ. “Thế là hết. Chúng ta sẽ chết ở đây thôi.”

Nhưng không hiểu vì sao, đúng vào lúc các chú lùn đang tuyệt vọng nhất thì Bilbo lại cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm đến kỳ lạ, cứ như thể một sức nặng lớn đã biến mất trong lần áo chẽn của mình vậy.

“Nào, nào!” anh chàng nói. “‘Còn sống thì còn hy vọng!’ như cha tôi vẫn thường nói, và ‘Quá tam ba bận.’ Tôi sẽ xuống đường hầm thêm lần nữa. Tôi đã đi lối đó hai lần khi biết có một con rồng ở đầu kia, vì vậy tôi sẽ đánh liều làm một cuộc viếng thăm thứ ba khi mà tôi không còn chắc chắn lão rồng có ở đó không nữa. Dù sao thì chỉ còn cách đi xuống mới thoát ra ngoài được. Và tôi nghĩ lần này tất cả các vị nên cùng đi với tôi.”

Trong thế cùng họ đã đồng ý, và Thorin là người đầu tiên bước tới bên cạnh Bilbo.

“Bây giờ hãy thật cẩn thận!” anh chàng hobbit thì thầm, “Cố hết sức thật lặng lẽ! Có thể lão rồng Smaug không ở dưới đó, nhưng cũng có thể lão có ở dưới đó. Đừng để chúng ta gặp phải những rủi ro không cần thiết!”

Họ đi xuống, đi xuống mãi. Dĩ nhiên là các chú lùn không thể sánh với anh chàng hobbit về khả năng rón rén, không những thế họ còn thở phì phò và lê bước nặng nhọc gây ra những tiếng vọng khuếch đại đáng lo ngại; và dù chốc chốc Bilbo lại lo sợ mà dừng bước nghe ngóng thì dưới kia vẫn im phăng phắc. Gần tới cuối đường hầm, theo phán đoán của mình, Bilbo xỏ nhẫn vào rồi đi tiếp. Song anh chàng chẳng cần đến chiếc nhẫn: khắp nơi đều tối om, và tất cả bọn họ đều vô hình, dù đeo nhẫn hay không đeo nhẫn. Trên thực tế, đường hầm tối tới mức anh chàng hobbit bất ngờ đi tới lối vào phòng lớn mà không biết; hai tay chới với trong không khí, anh chàng ngã nhào về phía trước và lăn thẳng xuống phòng lớn!

Anh chàng nằm đó, úp mặt xuống sàn mà không dám nhỏm dậy, và cũng hầu như không dám thở. Song chẳng có động tĩnh gì. Không có lấy một ánh sáng mờ – ngoại trừ, khi cuối cùng cũng ngẩng đầu lên, anh chàng có cảm giác như nhìn thấy một tia sáng trắng nhợt ở phía trên và xa tít trong bóng tối mịt mờ. Song rõ ràng đó không phải là tia sáng của lửa rồng, dù rằng mùi hôi thối của lão vẫn còn nồng nặc ở nơi đó và trên lưỡi anh chàng vẫn còn cái vị của hơi nước.

Cuối cùng anh chàng Baggins không thể chịu đựng nổi lâu hơn nữa. “Lão Smaug chết tiệt! Lão là đồ giun dế!” anh chàng lớn tiếng rít lên. “Dừng cái trò ú tim lại đi! Hãy cho ta một chút ánh sáng, rồi ăn thịt ta nếu ngươi bắt được ta!”

Những tiếng vọng yếu ớt truyền đi khắp hành lang vô hình, song không có tiếng trả lời.

Bilbo đứng dậy, và phát hiện ra mình không biết phải rẽ về hướng nào.

“Tôi chẳng biết lão rồng Smaug đang giở trò quái quỷ gì nữa,” anh chàng nói. “Lão không có nhà hôm nay (hoặc đêm nay, hay là bất kỳ lúc nào), tôi tin là vậy. Nếu Oin và Gloin không đánh mất hộp mồi lửa, có lẽ chúng ta có thể tạo ra một chút ánh sáng và quan sát xung quanh trước khi vận may qua đi.”

“Ánh sáng!” anh chàng kêu lên. “Liệu có ai tạo ra được chút ánh sáng không?”

Dĩ nhiên là các chú lùn rất hoảng hốt khi Bilbo ngã sấp mặt xuống bậc cửa đánh rầm một cái rồi lăn vào phòng lớn, và họ ngồi túm tụm lại đúng ở cái chỗ anh chàng đã rời bỏ họ ở đầu đường hầm.

“Suỵt! Suỵt!” họ huýt gió khi nghe tiếng anh chàng; tuy điều đó đã giúp Bilbo phát hiện được vị trí của họ thì anh chàng cũng chưa nhận được thêm tín hiệu nào khác của họ ngay. Nhưng cuối cùng, khi Bilbo thật sự bắt đầu giậm chân lên mặt sàn và gào thật to “Ánh sáng!” bằng cái giọng the thé của mình, thì Thorin mới nhượng bộ và sai Oin cùng Gloin quay lại chỗ để đồ ở trên cùng đường hầm.

Một lát sau ánh sáng lập lòe cho thấy hai chú đang trở lại, Oin cầm một bó đuốc nhỏ bằng gỗ thông đang cháy, còn Gloin thì cắp dưới nách một mớ đuốc khác. Bilbo vội chạy lóc cóc tới cửa và cầm lấy bó đuốc; nhưng anh chàng vẫn chưa thể thuyết phục các chú lùn châm các bó đuốc kia hoặc cùng đi với mình được. Như Thorin đã giải thích kỹ càng, anh chàng Baggins vẫn chính thức là tay trộm chuyên nghiệp và là nhà điều tra tài ba của họ. Nếu anh chàng thích mạo hiểm châm đuốc thì đó là việc của anh chàng. Họ sẽ ở trong đường hầm chờ anh chàng báo cáo. Thế là họ ngồi gần cửa và quan sát.

Họ thấy cái hình dáng lờ mờ nhỏ bé của anh chàng hobbit vừa giơ cao ngọn đuốc nhỏ tí vừa bắt đầu bước sang bên kia phòng lớn. Thỉnh thoảng, trong lúc anh chàng vẫn còn ở khá gần, họ thấy một ánh phản chiếu và nghe tiếng leng keng khi anh chàng vấp phải một đồ vật bằng vàng nào đó. Ngọn đuốc nhỏ dần khi anh chàng thả bộ xa mãi trong căn phòng rộng lớn; sau đó nó lại xuất hiện và nhảy múa trong không khí. Bilbo đang trèo lên đống báu vật đồ sộ. Một lát sau anh chàng đứng trên đỉnh, và vẫn đi tiếp. Rồi họ thấy anh chàng dừng lại và cúi xuống một lát; song họ không biết vì sao.

Đó là viên ngọc Arkenstone, Trái tim của Quả Núi. Bilbo đoán vậy nhờ sự miêu tả của Thorin; nhưng quả thực không thể có hai viên ngọc như vậy, thậm chí là trong một kho báu phi thường, thậm chí là trên cả thế gian này. Suốt trong lúc anh chàng trèo lên, vẫn cái tia sáng trắng lờ mờ ấy tỏa ra phía trước anh chàng và kéo đôi bàn chân anh chàng về phía nó. Tia sáng chầm chậm lớn dần thành một quả cầu nhỏ sáng lờ mờ. Lúc này khi anh chàng đến gần, bề mặt viên ngọc nhuốm một ánh long lanh nhiều màu, phản chiếu và tan ra từng mảnh trong ánh đuốc chập chờn. Cuối cùng anh chàng cúi xuống nhìn nó, và nín thở. Viên ngọc lớn tỏa sáng trước hai bàn chân anh chàng bằng thứ ánh sáng từ bên trong chính nó, và hơn nữa, do được tạo tác bởi giống người lùn, những người đã đào nó từ trái tim quả núi vàothời xa xưa, viên ngọc tiếp nhận toàn bộ ánh sáng chiếu vào nó và chuyển hóa thành hàng vạn tia sáng trắng rực rỡ xen những ánh phản quang lấp lánh sắc cầu vồng.

Bỗng nhiên cánh tay Bilbo đưa về phía viên ngọc vì bị lôi kéo bởi sức quyến rũ mê hoặc của nó. Bàn tay nhỏ bé của anh chàng không nắm xuể nó, bởi đó là một viên ngọc lớn và nặng; song anh chàng nâng nó lên, nhắm mắt lại, rồi bỏ nó vào trong cái túi sâu nhất của mình.

“Bây giờ mình quả là một gã trộm!” anh chàng nghĩ bụng. “Song có lẽ lúc nào đó mình phải kể cho các chú lùn về viên ngọc này. Họ đã bảo rằng mình có thể chọn lựa phần riêng của mình; vậy thì mình nghĩ mình sẽ chọn cái này, nếu họ lấy toàn bộ phần còn lại!”

Tuy vậy anh chàng vẫn cảm thấy không an tâm vì việc lựa chọn kia không thật sự ngụ ý bao gồm cả viên ngọc tuyệt diệu này, và lo rằng nó có thể sẽ gây phiền toái.

Lúc này anh chàng lại bước tiếp. Anh chàng trèo xuống sườn bên kia của đống báu vật, và ánh đuốc của anh chàng biến khỏi tầm nhìn của các chú lùn. Nhưng ít lâu sau họ lại nhìn thấy nó ở tít phía xa. Bilbo đang bước ngang qua sàn phòng lớn.

Anh chàng cứ bước tiếp mãi cho tới khi đến chỗ những cánh cửa lớn ở phía bên kia, tại đó làn gió lùa vào khiến anh chàng khỏe khoắn trở lại, nhưng nó cũng suýt thổi tắt ngọn đuốc. Anh chàng rụt rè ghé nhìn qua, và thoáng thấy những lối đi rộng cùng vài bậc cầu thang đầu tiên lờ mờ dẫn vào khoảng tối phía trên. Và vẫn chẳng thấy tăm hơi lão rồng Smaug đâu cả. Anh chàng vừa toan quay gót trở lại thì một bóng đen nhào xuống, quệt nhẹ vào mặt. Anh chàng giật mình kêu ré lên và trượt chân ngã ngửa. Bó đuốc của anh chàng chúc đầu rơi xuống và tắt ngấm.

“Chỉ là một con dơi thôi mà, mình hy vọng là thế!” anh chàng nói, giọng thảm hại. “Song bây giờ ta biết làm gì đây? Hướng nào là hướng Đông, hướng Nam, hướng Bắc hoặc hướng Tây đây?”

“Thorin! Balin! Oin! Gloin! Fili! Kili!” anh chàng gào thật to – đó dường như cũng chỉ

là một âm thanh yếu ớt trong khoảng tối mênh mông. “Tắt mất đuốc rồi! Ai đó đến giúp tôi đi!” Lúc này lòng can đảm của anh chàng đã hoàn toàn tan biến.

Các chú lùn loáng thoáng nghe được những tiếng kêu yếu ớt của anh chàng, tuy vậy họ chỉ nghe rõ được duy nhất một từ “giúp”.

“Chẳng biết chuyện quái gì xảy ra vậy nhỉ?” Thorin nói. “Chắc chắn không phải là lão rồng rồi, nếu không thì cậu ấy đã không thể kêu oai oái lên được.”

Họ chờ đợi một lát, vẫn không thấy động tĩnh gì của lão rồng, trên thực tế chẳng có âm thanh nào hết ngoài giọng nói của Bilbo ở phía xa. “Nào, một người trong các bạn hãy chuẩn bị một hai ngọn đuốc!” Thorin ra lệnh. “Coi bộ chúng ta phải đi mà giúp tay trộm rồi.”

“Bây giờ đến lượt chúng ta phải giúp đấy,” Balin nói, “và tôi hoàn toàn sẵn lòng đi. Dù sao tôi cũng mong rằng lúc này mọi sự vẫn an toàn.”

Gloin đốt vài bó đuốc, và sau đó tất cả bọn họ rón rén bước ra, từng người một, rồi đi thật hối hả dọc theo bờ vách. Không lâu sau họ đã gặp ngay Bilbo đang quay lại, ngược chiều với họ. Anh chàng đã bình tĩnh trở lại ngay khi nhìn thấy những ngọn đuốc bập bùng.

“Chỉ là một con dơi, và một ngọn đuốc bị rớt xuống thôi, chẳng có gì tệ hại hơn đâu!” anh chàng nói để trả lời những câu hỏi của họ. Tuy thấy nhẹ hẳn cả người, họ vẫn muốn nổi khùng lên vì bỗng dưng bị một phen hoảng sợ; nhưng tôi chẳng biết liệu họ sẽ nói gì khi ấy nếu lúc đó anh chàng kể cho họ nghe về viên ngọc Arkenstone. Mới chỉ thoáng nhìn cái kho báu ấy trong lúc đi qua, họ đã thấy cái nhiệt tình của giống người lùn được nhen lại trong tim; và khi trái tim của một người lùn, thậm chí là người đáng trọng nhất, được vàng bạc châu báu khuấy động, thì người đó bỗng trở nên gan dạ và có thể là dữ tợn nữa.

Các chú lùn quả thật đã không cần đến bất kỳ sự thúc giục nào nữa. Lúc này tất cả bọn họ đều hăm hở khám phá phòng lớn trong lúc còn có cơ hội và sẵn sàng tin rằng hiện giờ lão rồng Smaug đang vắng nhà. Mỗi người lúc này đều nắm chặt một bó đuốc đã thắp sáng; và trong lúc ngó nghiêng hết bên này đến bên kia, họ quên cả nỗi sợ hãi và thậm chí là cả sự cẩn trọng. Họ nói to và í ới gọi nhau trong lúc bốc những món báu vật cổ từ cái đống kia hoặc từ bức vách lên mà soi trong ánh đuốc, vừa mân mê vừa ve vuốt chúng.

Fili và Kili có vẻ rất vui khi thấy ở đó vẫn còn treo lủng lẳng nhiều cây đàn hạc bằng

vàng có căng dây bạc. Họ cầm lấy đàn mà gảy; và vì có phép màu (lại chưa bị lão rồng động đến vì lão rất ít quan tâm tới âm nhạc), chúng vẫn còn vang lên đúng điệu. Căn phòng lớn mờ tối tràn ngập một giai điệu đã từng im bặt từ lâu. Song hầu hết các chú lùn đều thực tế hơn: họ lượm ngọc ngà nhét đầy các túi, và để những gì mình không mang nổi rơi trở lại qua những ngón tay cùng một tiếng thở dài. Thorin cũng chẳng chịu kém cạnh, song chú luôn nhìn ngó hết bên này đến bên kia để tìm một thứ mà chú không thể tìm thấy. Đó là viên ngọc Arkenstone; nhưng chú vẫn im chưa nói với ai.

Lúc này các chú lùn tháo áo giáp và vũ khí trên vách xuống, tự võ trang cho mình. Nom Thorin quả là vương giả trong bộ giáp làm bằng những chiếc khuyên mạ vàng, với một cái rìu cán bạc giắt vào dây đai gắn đá đỏ.

“Cậu Baggins!” chú kêu to. “Đây là phần thanh toán đầu tiên về phần thưởng của cậu đấy! Hãy cởi áo khoác của cậu ra mà mặc bộ này vào!”

Nói đoạn, chú khoác lên mình Bilbo một bộ giáp nhỏ được chế tạo cho một hoàng tử tiên trẻ tuổi thời xưa. Nó làm bằng bạc và thép, mà các tiên gọi là tấm khôi giáp, kèm với nó là một chiếc dây đai gắn ngọc trai và pha lê. Một chiếc mũ trụ nhẹ bằng da có vẽ hình trang trí, bên dưới gia cố bằng vành thép, quanh vành mũ đính những viên bạch ngọc, được đội vào đầu anh chàng hobbit.

“Mình có cảm giác thật oai phong,” anh chàng nghĩ bụng, “song mình cho rằng nom bộ tịch mình lố lăng đây. Rồi người ta sẽ cười thối mũi trên Quả Đồi khi mình trở về nhà! Tuy vậy mình vẫn muốn có một cái gương ở ngay đây!”

Mặc dù vậy, so với các chú lùn, anh chàng Baggins vẫn giữ được tâm trí mình thoát khỏi sự mê hoặc của cái kho báu ấy nhiều hơn. Rất lâu trước khi các chú lùn phát ngán cái việc ngắm nghía báu vật, anh chàng đã chán ngấy việc đó và ngồi bệt xuống sàn, bắt đầu lo lắng tự hỏi chẳng biết chuyện này rồi sẽ ra sao. “Mình sẵn lòng đánh đổi vô số những cái cốc có chân quý giá này,” anh chàng nghĩ bụng, “lấy một món đồ uống đầy khích lệ nào đó từ cái bát gỗ của ngài Beorn!”

“Thorin!” anh chàng hét to. “Còn gì nữa đây? Chúng ta đã được vũ trang rồi, nhưng từ trước tới nay có thứ áo giáp nào ăn thua khi chống lại lão rồng Smaug Khủng Khiếp đâu? Cái kho báu này vẫn chưa giành lại được. Bây giờ chúng ta chưa vội tìm vàng, mà phải tìm lối thoát; mà chúng ta đã đánh liều với vận may quá lâu rồi đấy!”

“Cậu nói đúng!” Thorin trả lời, trấn tĩnh trở lại. “Chúng ta đi thôi! Ta sẽ dẫn đường

cho cậu. Dù đến một ngàn năm nữa ta cũng không thể quên lối đi trong cung điện này.” Sau đó chú gọi những người khác, và họ tụ tập cả lại, rồi vừa giơ đuốc trên đầu vừa bước qua những khuôn cửa mở toang mà không khỏi chốc chốc lại ngoái nhìn đầy vẻ thèm muốn.

Họ lại mặc chiếc áo cũ kỹ bên ngoài những bộ giáp lóng lánh và đội chiếc mũ trùm tả tơi bên ngoài những cái mũ trụ sáng ngời, rồi từng người một bước theo Thorin làm thành một hàng những ngọn lửa nhỏ trong bóng tối; chốc chốc họ lại dừng bước, e ngại lắng nghe thêm một lần xem có bất kỳ động tĩnh nào cho thấy lão rồng đã trở về không.

Dù rằng tất cả đồ trang trí ngày xưa đã đổ nát hoặc bị tàn phá từ lâu, và dù tất cả đã nhem nhuốc và tan hoang bởi những chuyến đi về của lão quái vật ấy, Thorin vẫn biết từng lối đi và từng quãng rẽ. Họ trèo lên những nhịp cầu thang dài, rồi rẽ và đi dọc những lối rộng đầy tiếng vọng, rồi lại rẽ và trèo lên những nhịp cầu thang khác, và nhiều cầu thang nữa. Những cầu thang này nhẵn nhụi, được cắt ra từ các phiến đá núi rộng và đẹp; và các chú lùn cứ trèo lên, lên mãi mà cũng không gặp một dấu hiệu nào của sự sống, chỉ thoáng thấy những bóng đen len lén trốn chạy khỏi ánh đuốc bập bùng trong những ngọn gió lùa.

Tuy vậy, các bậc đá ấy đâu phải được làm ra để dành cho đôi chân của giống người hobbit, và đúng lúc Bilbo bắt đầu cảm thấy mình không thể tiếp tục đi nữa thì trần phòng lớn bỗng cao vút lên vượt khỏi tầm sáng của ánh đuốc. Có thể nhìn thấy làn ánh sáng trắng yếu ớt rọi xuống qua một lỗ hổng nào đó ở tít trên cao, và không khí có mùi tươi mát hơn. Trước mắt họ ánh sáng lờ mờ rọi qua những cánh cửa lớn lem nhem cháy dở đang oằn mình trên các bản lề.

“Đây là đại sảnh của Thror,” Thorin nói, “là phòng yến tiệc và hội họp. Cách đây không xa là Cổng Trước rồi.”

Họ đi qua cái đại sảnh hoang tàn. Những cái bàn ở đó đã mục nát; ghế ngồi và tràng kỷ nằm ngổn ngang đã cháy đen và nát hỏng. Xương sọ và xương ống la liệt trên mặt sàn lẫn cùng hũ, bát, những chiếc sừng dùng để uống rượu đã vỡ và bụi đất. Lúc đi qua thêm vài cái cửa ở phía bên kia sảnh, họ nghe thấy tiếng nước chảy, và làn ánh sáng nhợt nhạt bỗng trở nên rõ ràng hơn.

“Kia là khởi nguồn của Sông Chảy,” Thorin nói. “Từ đây dòng sông hối hả chảy ra Cổng Trước. Chúng ta hãy lần theo nó!”

Từ một lỗ hổng mờ mịt trên vách đá, một dòng nước sôi sùng sục chảy ra, rồi cuồn cuộn chảy trong một con kênh hẹp được những bàn tay khéo léo thời cổ xưa đào sâu, xây đắp và nắn thẳng. Dọc kênh là một con đường lát đá đủ rộng cho nhiều người cùng sóng bước. Họ chạy thật nhanh dọc con đường này rồi chạy quanh một vòng cua rộng – và kìa! Trước mặt họ là ánh ngày sáng sủa. Phía trước là một cái cổng vòm vươn cao, vẫn còn để lộ những mảnh vỡ của công trình chạm khắc cổ ở bên trong, dù nó đã mòn vẹt, sứt sẹo và nhem nhuốc. Một mảnh mặt trời đầy sương phủ tỏa ánh sáng mờ nhạt giữa hai nhánh của Quả Núi và rót những tia nắng vàng xuống mặt lát tại lối vào cổng.

Một bầy dơi hoảng hốt thức giấc vì những bó đuốc bốc khói đang bay loạn trên đầu họ; bởi trong lúc lao mình về phía trước, họ đã trượt chân trên những hòn đá bị mài nhẵn và phủ đầy bùn dưới bàn chân qua lại của lão rồng. Lúc này trước mặt họ dòng nước ào ào chảy ra khỏi con kênh hẹp và tung bọt đổ xuống thung lũng. Họ ném những bó đuốc đã gần tàn xuống đất, và đứng nhìn đăm đăm ra ngoài bằng cặp mắt sững sờ. Họ đã tới Cổng Trước, và đang nhìn xuống Thung Lũng.

“Chà!” Bilbo nói, “trước kia tôi chẳng bao giờ mong được nhìn ra ngoài từ cái cửa này. Và tôi đã chẳng hề mong lại được vui mừng nhìn thấy mặt trời hay cảm nhận gió mơn man trên mặt mình nữa. Nhưng mà, ái dà! Gió lạnh đấy!”

Quả là gió lạnh thật. Một làn gió đông lạnh buốt thổi qua báo hiệu mùa đông sắp tới. Gió cuồn cuộn quanh hai nhánh Quả Núi rồi thổi vào thung lũng, vi vu giữa các tảng đá. Sau một thời gian dài ở dưới hang sâu ngột ngạt với nỗi ám ảnh về lão rồng, họ run rẩy trong ánh mặt trời.

Bỗng Bilbo nhận ra rằng mình không chỉ mỏi mệt mà còn thật sự đói nữa. “Hình như trời sáng đã lâu rồi,” anh chàng nói, “và tôi cho rằng tầm này là giờ ăn điểm tâm đấy – nếu có bữa điểm tâm nào để mà ăn. Song tôi cảm thấy ngưỡng cửa trước hang lão rồng Smaug không phải là nơi an toàn nhất để mà dùng bữa đâu. Hãy tới chỗ nào có thể ngồi yên trong chốc lát ấy!”

“Đúng quá rồi!” Balin nói. “Và tôi nghĩ tôi biết chúng ta phải đi lối nào: chúng ta phải tới cái trạm gác cũ ở góc Tây Nam của Quả Núi.”

“Cách đây bao xa?” anh chàng hobbit hỏi.

“Năm giờ đi bộ, tôi nghĩ thế. Đường sẽ khó đi. Con đường từ Cổng Trước dọc theo bờ trái dòng nước có vẻ đã hư hại hết rồi. Nhưng hãy nhìn dưới kia mà xem! Dòng sông

bỗng nhiên lượn vòng về phía Đông ngang qua Thung Lũng trước mặt thị trấn đổ nát. Tại chỗ đó trước kia từng có một cây cầu dẫn đến những bậc thang dốc đứng trèo lên hữu ngạn, rồi tới một con đường chạy về phía Đồi Quạ. Có (hoặc đã có) một đường mòn tách khỏi con đường đó chạy ngược lên trạm gác. Cũng là một đoạn khó trèo, kể cả nếu những bậc đá vẫn còn ở đó.”

“Trời ơi!” anh chàng hobbit làu bàu. “Đã không được ăn điểm tâm mà lại còn phải đi bộ và trèo thêm nữa! Tôi tự hỏi không biết chúng ta đã lỡ bao nhiêu bữa điểm tâm và các bữa ăn khác trong cái hang kinh tởm chẳng biết ngày đêm kia rồi?”

Thực ra mới có hai đêm một ngày trôi qua (và không phải hoàn toàn không có thức ăn) kể từ khi lão rồng đập nát cánh cửa kỳ diệu kia, song Bilbo đã hoàn toàn mất đi ý niệm thời gian, và anh chàng chỉ có thể bảo rằng khoảng thời gian đó là một đêm hay cũng có thể là một tuần lễ toàn đêm.

“Nào, nào!” Thorin vừa cười to vừa nói – tinh thần của chú đã phấn chấn trở lại, và chú khua mấy viên đá quý trong túi kêu lách cách. “Đừng gọi cung điện của ta là một cái hang kinh tởm! Cậu cứ đợi cho đến khi nó được dọn dẹp sạch sẽ và trang hoàng lại mà xem!”

“Chỉ khi lão rồng Smaug chết rồi thôi,” Bilbo rầu rĩ nói. “Bây giờ lão ta ở đâu? Tôi sẵn sàng nhịn một bữa điểm tâm để biết điều đó. Tôi hy vọng lúc này lão ta không ở trên Quả Núi mà nhìn xuống chúng ta!”

Ý kiến đó khiến các chú lùn vô cùng lo lắng, và họ nhanh chóng thừa nhận rằng Bilbo và Balin đã nói đúng.

“Chúng ta phải rời khỏi nơi này,” Dori nói. “Tôi có cảm giác như thể đôi mắt lão đang nhìn vào gáy mình vậy.”

“Vùng này lạnh lẽo và vắng vẻ lắm,” Bombur nói. “Có thể có cái để uống, song tôi thấy chẳng có gì để ăn đâu. Một con rồng thường luôn bị đói ở những vùng như vậy.”

“Đi thôi! Đi thôi!” các chú khác kêu to. “Chúng ta hãy đi con đường mòn Balin vừa nói ấy.”

Phía dưới vách đá ở mé phải không có con đường mòn nào cả, vì vậy họ lê bước giữa đám sỏi đá trên tả ngạn dòng sông, và cảnh hoang vắng tiêu điều chẳng mấy chốc đã khiến ngay cả Thorin cũng phải thực tế hơn. Họ tìm thấy cây cầu mà Balin nói đến, nhưng nó đã sập từ lâu và hầu hết những phiến đá xây cầu giờ chỉ còn là những tảng

đá mòn trên dòng suối nông rì rào chảy; song họ lội qua dòng nước không mấy khó khăn, rồi tìm thấy những bậc đá cổ xưa và trèo lên bờ cao. Đi được một quãng ngắn họ tới con đường cũ, và chẳng bao lâu sau thì tới một thung lũng nhỏ và sâu nằm khuất giữa những tảng đá; tại đó họ nghỉ một lát và còn thứ gì ăn được thì đem ra làm bữa điểm tâm, chủ yếu là món cram và nước lã. (Nếu các bạn muốn biết món cram là gì thì tôi chỉ có thể nói rằng tôi không biết công thức làm món đó; song nó giống như bánh bích quy, để được rất lâu, được xem là bổ dưỡng, và chắc chắn là không ngon miệng, trên thực tế món này chẳng có gì thú vị ngoài việc dùng để luyện quai hàm. Bánh này do người vùng Hồ làm dành cho những chuyến đi dài ngày.)

Sau đó họ lại đi tiếp; lúc này con đường ngoặt sang hướng Tây và rời khỏi dòng sông, còn bờ vai đồ sộ của cái mũi núi chĩa về phía Nam kia thì cứ mỗi lúc một gần hơn. Cuối cùng họ tới con đường mòn dẫn lên đồi. Con đường bò ngược lên, và họ lê bước nặng nhọc, người nọ nối tiếp người kia, cho tới tận chiều muộn thì họ cũng lên đến được đỉnh núi và nhìn thấy mặt trời ảm đạm đang ngả dần xuống phía Tây.

Tại đây họ tìm được một nơi bằng phẳng, ba phía không có tường, phía Bắc bị chắn bởi một mặt đá cómột cái lỗ trông như ô cửa. Từ ô cửa này mở ra một khung cảnh rộng lớn nhìn về phía Đông, Nam và Tây.

“Ở nơi này,” Balin nói, “hồi xưa chúng tôi thường cắt đặt người canh gác, và cái cửa phía sau kia dẫn vào một gian phòng dựng bằng đá đẽo dùng làm vọng gác. Có dăm nơi như thế quanh Quả Núi. Nhưng vào cái thời thịnh vượng của chúng tôi thì dường như việc canh gác ít được cần đến, vì thế mà đám lính canh sinh ra mất cảnh giác, có lẽ thế – nếu không thì hẳn chúng tôi đã được báo động sớm hơn về việc lão rồng xuất hiện, và tình hình có thể đã khác. Tuy vậy bây giờ chúng ta có thể nằm giấu mình an toàn ở đây một lát, và có thể tha hồ quan sát mà không bị ai nhìn thấy.”

“Chẳng ích lợi gì lắm đâu, nếu trong lúc đang tới đây chúng ta đã bị nhìn thấy rồi,” Dori nói, chú này lúc nào cũng ngước nhìn về phía đỉnh Quả Núi như thể chú tin là sẽ nhìn thấy lão rồng Smaug đang đậu ở đó như một con chim trên tháp chuông.

“Chúng ta phải tận dụng cơ hội này mà nghỉ,” Thorin nói. “Hôm nay chúng ta không thể đi thêm nữa.”

“Hoan hô, hoan hô!” Bilbo kêu to và nằm lăn ra đất.

Gian phòng bằng đá trước kia hẳn phải đủ chỗ cho cả trăm người, và còn một phòng nhỏ sâu hơn ở phíatrong, cách biệt hơn với cái lạnh bên ngoài. Giờ đây phòng đó bị

bỏ hoang; dường như ngay cả đám dã thú cũng chưa hề bén mảng tới đó trong suốt thời kỳ thống trị của lão rồng Smaug. Họ đặt các món đồ mang theo xuống; rồi một vài chú nằm lăn ngay ra mà ngủ, còn các chú khác thì ngồi gần cửa ngoài và bàn bạc kế hoạch. Suốt trong cuộc trò chuyện của mình, họ luôn trở lại một vấn đề: lão rồng Smaug đang ở đâu? Họ nhìn sang hướng Tây và chẳng có gì hết, rồi hướng Đông cũng chẳng có gì, rồi ở hướng Nam cũng chẳng thấy tăm hơi nào của lão mà chỉ có rất nhiều chim chóc đang tụ tập. Họ chằm chằm nhìn quang cảnh đó và lấy làm kinh ngạc; song họ còn chưa hiểu thêm được gì về sự tụ họp của bầy chim thì những ngôi sao sớm lạnh lẽo đã xuất hiện.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.