The Hobbit

Chương XV – NHỮNG ĐÁM MÂY HỘI TỤ



Bây giờ chúng ta sẽ quay trở lại với Bilbo và các chú lùn. Một người trong bọn đã canh gác cả đêm, nhưng suốt cho đến sáng họ vẫn chẳng nghe hoặc nhìn thấy bất kỳ dấu hiệu nào của hiểm nguy. Song chim chóc ngày càng tụ tập đông hơn. Hàng đàn chim đang bay đến từ phía Nam; còn lũ quạ vẫn sinh sống quanh Quả Núi thì đang lượn vòng tròn và không ngớt kêu váng trên đầu họ.

“Có chuyện lạ lùng gì đó đang xảy ra,” Thorin nói. “Đã hết thời kỳ di trú mùa thu rồi; hơn nữa lũ chim này luôn sống trong đất liền; nào là sáo đá, nào là chim sẻ, và ở tít xa kia là rất nhiều quạ nữa, coi bộ sắp sửa xảy ra một cuộc chiến rồi!”

Bỗng Bilbo chỉ tay, “Lại con chim hét già ấy kìa!” anh chàng kêu to. “Chắc nó đã trốn thoát khi lão rồng Smaug đập nát sườn núi, nhưng tôi cho rằng lũ sên thì không!”

Quả đúng là con chim hét già, và trong lúc Bilbo chỉ tay, nó bay về phía họ và đậu lên một hòn đá gần đó. Rồi nó vỗ cánh và hót; sau đó nó nghếch đầu sang một bên như thể để lắng nghe; rồi nó lại hót, và lại lắng nghe.

“Tôi tin là nó đang cố kể cho chúng ta điều gì đó,” Balin nói, “nhưng tôi không thể hiểu được tiếng nói của những con chim như vậy, nó nói rất nhanh và khó nghe. Cậu có hiểu được không, hả Baggins?”

“Hiểu không rõ lắm,” Bilbo nói (kỳ thực, anh chàng chẳng hiểu chút nào cả), “song anh bạn thân mến này có vẻ rất kích động.”

“Tôi chỉ ước gì nó là một con quạ!” Balin nói.

“Tôi đã tưởng ông không thích chúng kia đấy! Ông có vẻ rất e ngại bọn chúng khi chúng ta đi lối này lần trước.”

“Đó là giống quạ ăn xác thối! Đã vậy nom chúng lại đầy vẻ ám muội và độc ác, và lại còn hỗn láo nữa chứ. Hẳn cậu đã nghe những cái tên xấu xa mà chúng gọi với theo chúng ta rồi. Song giống quạ thì lại khác. Trước đây giữa chúng và người dân của Thror vẫn thường có một tình bạn tuyệt vời; chúng đã đem đến cho chúng tôi nhiều tin mật rồi được thưởng công bằng những món đồ lấp lánh đến mức chúng chỉ muốn cất giấu trong tổ của mình.

“Chúng sống rất lâu và nhớ rất dai, và chúng truyền lại trí khôn cho con cái mình. Tôi từng biết rất nhiều con quạ ở vùng núi đá khi còn là một cậu lùn thiếu niên. Chính cái đồi này trước đây được gọi là Đồi Quạ, bởi có một cặp vợ chồng quạ khôn ngoan và nổi tiếng, lão quạ Carc và vợ lão, sống ở đây, phía trên trạm gác. Song tôi cho rằng bây giờ thì bói cũng không ra con quạ nào thuộc cái dòng giống cổ xưa ấy còn lảng vảng sống ở đây nữa.”

Chú vừa nói xong thì con chim hét già kêu to một tiếng, rồi lập tức bay đi.

“Chúng ta không thể hiểu được con chim già ấy, song nó hiểu chúng ta, tôi dám chắc là thế,” Balin nói. “Bây giờ hãy để ý xem có chuyện gì xảy ra!”

Không lâu sau đó, có tiếng vỗ cánh, và con chim hét quay trở lại; cùng với nó là một con chim già lụ khụ. Nó sắp bị mù, hầu như không còn bay được nữa, và đỉnh đầu nó đã bị hói. Đó là một con quạ già rất to. Nó đậu xuống ngay đơ trên mặt đất trước mặt họ, chầm chậm vỗ cánh, rồi cúi đầu chào về phía Thorin.

“Ôi, xin chào Thorin – con trai của Thrain, và Balin – con trai của Fundin,” nó khàn khàn nói (Bilbo có thể hiểu những gì nó nói, bởi nó dùng ngôn ngữ bình thường chứ không phải ngôn ngữ của loài chim). “Tôi là Roac, con trai của Carc. Carc đã mất rồi, nhưng trước kia các ngài đã từng biết rõ ông ấy. Đã một trăm năm mươi ba năm kể từ khi tôi chui ra khỏi vỏ trứng, nhưng tôi không quên những gì cha tôi từng kể. Hiện tôi là thủ lĩnh của loài quạ vĩ đại của Quả Núi. Chỉ còn một số ít chúng tôi, song chúng tôi vẫn còn nhớ vị vua thời xa xưa. Hầu hết dân của tôi đã bay đi khắp nơi, bởi ở phương Nam đang có những tin tức động trời – một vài tin đối với các ngài là tin vui, còn một vài tin thì các ngài sẽ không cho là tốt lắm đâu.

“Nhìn kìa! chim chóc lại đang tập hợp trở lại về phía Quả Núi và về phía Thung Lũng, từ phía Nam, phía Đông và phía Tây, bởi có tin lão rồng Smaug đã chết!”

“Đã chết rồi! Đã chết rồi ư?” các chú lùn reo lên. “Đã chết rồi! Vậy là bấy nay chúng ta đã sợ hãi một cách không cần thiết – và kho báu là của chúng ta rồi!” Tất cả bọn họ đều đứng phắt dậy và bắt đầu nhảy cỡn lên vì vui sướng.

“Vâng, đã chết rồi,” Roac nói. “Anh chim hét đây, cầu cho lông anh ấy không bao giờ rụng, đã nhìn thấy lão ta chết, và chúng ta có thể tin lời anh ấy. Anh ấy đã nhìn thấy lão ta rơi xuống trong cuộc chiến với con người tại Esgaroth vào cái đêm cách đây ba ngày, lúc trăng lên.”

Phải mất một lúc Thorin mới có thể khiến các chú lùn yên lặng trở lại và lắng nghe tin tức của lão quạ. Cuối cùng, sau khi đã kể toàn bộ câu chuyện về cuộc chiến kia, lão quạ nói tiếp:

“Thật rất đáng vui mừng, thưa ngài Thorin Oakenshield. Ngài có thể trở về lâu đài trong an toàn; toàn bộ kho báu là của ngài – trong lúc này. Song ngoài chim chóc ra còn nhiều kẻ đang đổ về đây. Tin tức về cái chết của lão canh gác đã lan truyền khắp xa gần, và bao nhiêu năm nay người ta vẫn không quên kể cái huyền thoại về của cải của Thror; rất nhiều kẻ đang khao khát được có một phần chiến lợi phẩm đấy. Hiện một đoàn tiên đã đang lên đường, và lũ chim ăn xác thối cùng đến với họ, hy vọng sẽ có đánh nhau và giết chóc. Bên bờ hồ, con người than phiền đau buồn của họ là do  giống người lùn gây nên; họ không cửa không nhà và nhiều người đã chết, còn lão rồng Smaug thì đã tàn phá thị trấn của họ. Họ cũng nghĩ đến việc tìm kiếm những khoản bồi thường từ kho báu của ngài, dù các ngài còn sống hay đã chết.

“Hãy để sự thông thái của ngài tự quyết định cách giải quyết; song mười ba người là phần còn lại ít ỏi của cái dân tộc vĩ đại của Durin xưa kia từng sinh sống ở đây mà giờ đã tản mác tới các nơi xa. Nếu sẵn lòng nghe lời khuyên của tôi, xin ngài đừng có tin viên Thị trưởng vùng Hồ, mà hãy tin cái anh chàng đã bắn rụng lão rồng bằng cây cung của mình. Anh ấy là Bard, thuộc chủng tộc Thung Lũng, người của dòng họ Girion; anh ấy là một người nghiêm nghị và trung thực. Rồi chúng ta sẽ lại một lần nữa thấy cảnh thái bình giữa giống người lùn, con người và các tiên sau cái thời đau buồn dài dặc kia; song để có được điều đó có thể ngài sẽ phải trả giá bằng vàng. Tôi đã nói hết.”

Khi đó Thorin bừng bừng nổi giận, “Bọn ta xin cảm ơn, Roac, con trai của Carc. Ngươi và dân chúng của ngươi sẽ không bị lãng quên. Song chừng nào bọn ta còn sống thì bọn trộm đừng hòng lấy được mà lũ người hung bạo cũng đừng hòng mang đi được tí vàng nào của bọn ta. Nếu ngươi muốn được bọn ta biết ơn nhiều hơn nữa thì hãy đem cho bọn ta tin tức về bất kỳ kẻ nào đang đến gần. Ta cũng khẩn cầu ngươi, nếu trong các ngươi còn ai trai trẻ khỏe cánh, thì ngươi hãy phái tới chỗ bà con họ hàng ta trên dãy núi phía Bắc ở cả triền Tây và triền Đông và kể cho họ nghe về tình cảnh của bọn ta. Nhưng đặc biệt phải tới gặp người anh họ của ta là Dain ở Dãy Đồi Sắt, bởi ông ấy có nhiều người được vũ trangtốt, và lại ở gần nơi này nhất. Hãy bảo ông ấy khẩn trương lên!”

“Tôi không dám nói dự kiến này là hay hoặc dở,” Roac khàn khàn nói, “song tôi sẽ làm việc gì có thể.” Nói xong, nó chầm chậm bay đi.

“Bây giờ hãy trở về Quả Núi!” Thorin kêu to. “Chúng ta không còn nhiều thời gian để mà phung phí nữa.”

“Và còn rất ít đồ để mà ăn!” Bilbo kêu lên, lúc nào cũng tỏ ra sốt sắng về những vấn đề như vậy. Dù sao thì anh chàng cũng cảm thấy cuộc mạo hiểm, nói một cách chính xác, đã kết thúc cùng với cái chết của lão rồng – trong đó mình đã mắc sai lầm lớn – và anh chàng sẽ sẵn sàng từ bỏ hầu hết phần lợi nhuận của mình để đổi lấy việc giải quyết những chuyện này bằng phương pháp hòa bình.

“Hãy trở về Quả Núi!” các chú lùn kêu lên như thể họ không nghe tiếng anh chàng; thế là anh chàng phải cùng đi với họ.

Vì đã nghe nói về một vài sự kiện rồi nên các bạn sẽ hiểu rằng các chú lùn vẫn còn vài ngày cho mình. Họ thăm thú những cái hang thêm lần nữa và phát hiện, đúng như họ dự đoán, rằng chỉ có Cổng Trước là vẫn mở; toàn bộ các cổng khác (dĩ nhiên là trừ cái cửa nhỏ bí mật) đã bị lão rồng Smaug đập nát và bít lại từ lâu, chẳng còn dấu tích gì của chúng nữa. Vì vậy lúc này họ bắt đầu ráng sức củng cố lối vào chính và làm một con đường mới dẫn ra ngoài. Họ kiếm được rất nhiều dụng cụ trong số những món đồ mà những thợ mỏ, thợ đá và thợ xây xưa kia đã sử dụng; và các chú lùn vẫn còn rất thành thạo mấy việc thế này.

Trong lúc họ làm việc, lũ quạ liên tục đem tin tức đến. Bằng cách này họ biết Vua Tiên Rừng đã rẽ xuống vùng Hồ nên họ vẫn còn thời gian nghỉ xả hơi. Đáng mừng hơn, họ nghe nói là ba con trong bầy ngựa của họ đã trốn thoát và đang lang thang xuống tận bờ Sông Chảy, cách không xa nơi họ đã để lại một phần kho đồ của mình. Vì vậy, trong lúc các chú khác tiếp tục làm việc, Fili và Kili được cử đi, có một chú quạ dẫn đường, để tìm lại ba con ngựa đó và đem về tất cả những gì hai chú có thể mang.

Bốn ngày đã trôi qua, và cho tới lúc ấy họ biết rằng lực lượng liên quân của người vùng Hồ và các tiên đang gấp gáp đi về phía Quả Núi. Song lúc này niềm hy vọng trong họ đã dâng cao hơn, bởi họ đã có thực phẩm đủ dùng dè xẻn vài tuần lễ – dĩ nhiên chủ yếu là món cram mà họ đã chán ngấy; song thế còn tốt hơn là không có gì nhiều – và cái cổng đã được bịt lại bằng một bức tường xếp đá mộc vuông vắn, nhưng rất dày và cao, ngang qua lối vào. Trên tường có vài khe hở, qua đó họ có thể nhìn (hoặc bắn), nhưng không có lối vào. Họ dùng thang để trèo vào trèo ra và kéo các thứ lên bằng dây thừng. Họ làm một cổng vòm thấp ở chân bức tường mới để dòng suối chảy ra ngoài; nhưng ở gần chỗ thoát nước họ cải tạo thềm dòng chảy hẹp thành một hồ rộng trải dài từ vách núi tới đầu ngọn thác qua đổ xuống Thung Lũng. Giờ thì cách duy nhất để có thể tới gần Cổng, nếu không bơi, là men theo gờ đá hẹp ở mé phải theo hướng từ bức tường nhìn ra ngoài. Về phần những con ngựa, họ chỉ đem chúng đến đầu những bậc đá phía trên cây cầu cũ, rồi sau khi dỡ hàng xong họ bảo chúng trở về với chủ cũ và xua chúng tự chạy về phía Nam.

Rồi một đêm ánh đuốc ở tít phía Nam dưới Thung Lũng bỗng bập bùng trước mặt họ.

“Bọn chúng đã đến!” Balin la to. “Và doanh trại của chúng rất lớn. Hẳn chúng đã thừa lúc nhập nhoạng mà tiến vào thung lũng dọc theo cả hai bờ dòng sông.”

Đêm ấy các chú lùn ngủ rất ít. Mới tờ mờ sáng họ đã thấy một đoàn người đang tiến lại gần. Từ sau bức tường, các chú quan sát thấy đoàn người đến gần đầu thung lũng rồi chầm chậm trèo lên. Không lâu sau họ có thể thấy cả những người vùng Hồ được vũ trang như thể chuẩn bị chiến tranh cùng những cung thủ tiên đi lẫn với họ. Cuối cùng, những người đi đầu đoàn quân này trèo qua đống đá ngổn ngang lên đỉnh ngọn thác, vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy cái hồ trước mặt và cái Cổng đã bị bịt lại bằng một bức tường bằng đá mới đẽo.

Trong lúc họ đứng đó vừa chỉ trỏ vừa nói với nhau, Thorin gọi, “Các người là ai,” chú la lên thật to, “mà đến như thể khiêu chiến trước cổng của Thorin, con trai của Thrain, Vua dưới gầm Quả Núi, và các người muốn gì?”

Song họ không trả lời. Một số người vội quay trở lại, những người khác cũng quay lại theo sau khi đã chằm chằm nhìn cái Cổng và các công sự phòng thủ một lát. Hôm ấy doanh trại được dời về phía Đông dòng sông, ngay giữa hai nhánh của Quả Núi. Rồi các tảng đá vang vọng những tiếng nói và bài ca sau biết bao ngày chúng vẫn nằm yên lặng. Còn có tiếng đàn hạc của các tiên và tiếng nhạc du dương; khi âm thanh ấy vọng tới chỗ họ, cái lạnh trong không khí dường như cũng ấm lên, và họ chợt ngửi thấy hương thơm thoang thoảng của những bông hoa rừng đang nở vào mùa xuân.

Khi đó Bilbo thèm được thoát khỏi cái pháo đài mờ tối này để đi xuống tham dự tiệc tùng vui vẻ bên bếp lửa. Vài chú lùn còn trẻ tuổi cũng cảm thấy bồi hồi trong lòng; và họ lẩm bẩm rằng họ mong mọi sự diễn ra theo chiều hướng khác và rằng họ có thể tiếp nhận những người kia như bạn bè; song Thorin quắc mắt nhìn giận dữ.

Sau đó chính các chú lùn đem đàn hạc cùng các nhạc cụ đã thu hồi từ cái kho báu kia ra và tấu nhạc lên để làm dịu tâm trạng của Thorin; song bài ca của họ không giống bài ca của các tiên, mà khá giống bài ca mà họ đã hát trước đó rất lâu tại cái hang hobbit nhỏ bé của Bilbo.

Nhà vua đã trở về lâu đài cũ

Dưới gầm Quả Núi mịt mờ cao vút!

Kẻ thù của người đã chết, con Giun Đất Khủng Khiếp,

Và các kẻ thù khác rồi sẽ thất bại thôi.

Thanh kiếm thì sắc, ngọn giáo thì dài,

Mũi tên bay nhanh, Cổng thì vững chắc;

Tấm lòng gan dạ canh giữ đống vàng;

Người lùn sẽ không còn phải chịu bất công.

Người lùn thuở xưa đã yểm bùa phép mạnh,

Trong lúc những nhát búa bổ nhào như chuông rung

Tại chốn thẳm sâu, nơi loài hắc ám ngủ yên,

Tại những phòng sâu dưới lòng đồi đá.

Họ giăng ánh sao vào dây chuyền bạc

Họ đính lửa-rồng vào mũ miện đế vương

Từ những sợi dây đàn căng chặt

Họ vắt ra giai điệu của những cây đàn hạc.

Ngai vàng của sơn vương thêm một lần giải thoát!

Hỡi dân chúng còn lang bạt, hãy chú ý đến lời hiệu triệu!

Hãy đến nhanh! Hãy đến nhanh! Qua vùng hoang mạc!

Nhà vua của các bạn và bà con thân thích đang cần.

Giờ đây chúng tôi kêu gọi từ dãy núi lạnh giá,

“Hãy trở về những hang động thuở xưa!”

Tại các Cổng nơi đây nhà vua đang chờ đợi,

Bàn tay người đầy châu báu ngọc vàng.

Nhà vua đã trở về lâu đài cũ

Dưới gầm Quả Núi mịt mờ cao vút.

Con Giun Đất Khủng Khiếp đã gục ngã và chết

Và các kẻ thù khác rồi sẽ thất bại thôi!

Bài ca này có vẻ khiến Thorin hài lòng, bởi chú lại mỉm cười và trở nên vui vẻ; rồi chú bắt đầu nhẩm tính khoảng cách tới Dãy Đồi Sắt để xem bao lâu nữa thì Dain có thể tới Quả Núi Cô Đơn, nếu chú ta lên đường ngay sau khi nhận được thông điệp.

Song Bilbo cảm thấy chán ngán, cả bài ca lẫn cuộc thương lượng kia: nghe chúng có vẻ rất hiếu chiến.

Sáng sớm hôm sau đã thấy một toán binh sĩ mang giáo mác vượt sông hành quân lên thung lũng. Họ vác theo một lá cờ màu lục của Vua Tiên và một lá cờ màu lam của người vùng Hồ, và họ cứ tiến bước cho tới khi đứng ngay phía trước bức tường bít Cổng.

Một lần nữa Thorin lại lớn tiếng hỏi họ, “Các người là ai mà vũ trang tới đây khiêu chiến trước cổng của Thorin, con trai Thrain, vị Vua dưới gầm Quả Núi?” Lần này chú nhận được câu trả lời.

Một người đàn ông cao lớn đứng nhích lên phía trước, anh ta có mái tóc đen và vẻ mặt nghiêm nghị. “Chào Thorin! Sao ông lại rào giậu tự giam mình như một tên cướp trong sào huyệt vậy? Chúng tôi chưa phải là kẻ thù, và chúng tôi vui mừng được gặp ông khi đã tưởng ông không còn sống trở về. Chúng tôi đến đây cứ nghĩ sẽ không thấy một ai còn sống; song bây giờ chúng ta đã gặp nhau nên có chuyện cần thương lượng và giải quyết.”

“Các người là ai, và các người muốn thương lượng về cái gì?”

“Tôi là Bard, chính tay tôi đã giết lão rồng và giải cứu được kho báu của ông. Liệu đó không phải là điều ông quan tâm ư? Hơn nữa, tôi là người thừa kế hợp pháp của Girion ở Thung Lũng, trong kho báu của ông còn trộn lẫn nhiều của cải từ các lâu đài và thị trấn của ông ấy mà xưa kia lão rồng Smaug đã lấy trộm. Liệu đó không phải là một vấn đề chúng ta có thể nói chuyện sao? Về sau này, trong trận chiến cuối cùng, lão rồng Smaug đã tàn phá nhà cửa của dân chúng ở Esgaroth, mà tôi là công bộc của ông Thị trưởng. Tôi sẽ phát ngôn thay ông ấy và hỏi xem liệu có phải ông chẳng bận tâm gì đến nhữngđau khổ của dân chúng của ông ấy hay không. Họ đã giúp đỡ ông trong lúc khốn cùng, và để đền đáp lại họ, cho tới nay ông mới chỉ đem lại cảnh điêu tàn, dù rõ ràng là ông không chủ tâm làm thế.”

Những lời nói ấy vào lúc này là công bằng và đúng sự thực, cho dù cách nói thật kiêu hãnh và nghiêm nghị; vậy nên Bilbo nghĩ rằng Thorin sẽ lập tức thừa nhận phần xác đáng của chúng. Dĩ nhiên anh chàng không mong bất kỳ ai nhớ ra rằng chính anh là người đã tự mình phát hiện ra điểm yếu của lão rồng; mà mong hay không thì cũng thế cả, bởi chẳng ai thực sự nghĩ tới điều đó. Song anh chàng cũng đã không tính đến sức mạnh của cái đống vàng mà bao lâu nay lão rồng vẫn ôm ấp, và cũng chẳng tính đến lòng dạ các chú lùn. Những ngày qua Thorin dành nhiều giờ trong kho báu, và lòng ham muốn chiếm hữu nó cứ đè nặng lên chú. Dù chủ yếu muốn tìm viên ngọc Arkenstone, chú vẫn để mắt đến rất nhiều món đồ tuyệt vời nằm đó, những món đồ

còn ghi dấu ký ức về sự cực nhọc và buồn tủi của chủng tộc chú.

“Ngươi đã đặt cái mục tiêu tồi tệ nhất của mình ở vị trí cuối cùng và cũng là vị trí chính yếu,” Thorin trả lời. “Đối với kho báu của nhân dân ta, không một ai có quyền đòi hỏi hết, bởi lão rồng Smaug đã lấy trộm nó của chúng ta thì cũng tự khiến mình mất cả mạng sống lẫn hang ổ rồi. Cái kho báu ấy đâu phải là của lão ta mà phải dành một phần để đền bù cho những việc làm độc ác của lão. Cái giá của hàng hóa và sự giúp đỡ của người vùng Hồ, chúng ta sẽ trả thỏa đáng – vào thời gian thích hợp. Song chúng ta sẽ không dâng nộp bất kỳ cái gì, thậm chí là một đồng kẽm, dưới sự đe dọa của vũ lực. Trong lúc một toán người vũ trang đứng trước cửa chúng ta, chúng ta coi các người là kẻ thù và kẻ trộm.

“Ta muốn hỏi liệu các người sẽ trả cho họ hàng bà con của chúng ta một phần như thế nào trong di sản của họ, nếu như các người phát hiện ra kho báu này không có ai canh giữ và chúng ta thì đã bị giết rồi?”

“Một câu hỏi đích đáng đấy,” Bard trả lời. “Nhưng các ông đã không chết, và chúng tôi không phải là kẻ cướp. Hơn nữa, người giàu có thể sẽ dành tình thương dạt dào hơn mức bình thường đối với những kẻ nghèo túng từng giúp đỡ mình trong lúc thiếu thốn. Mà những thỉnh cầu khác của tôi vẫn chưa được trả lời đấy.”

“Ta sẽ không thương lượng, như ta đã nói, với những người có vũ trang tại cổng của ta. Cũng không thương lượng với đám người của Vua Tiên, người mà ta nhớ đến với không nhiều cảm tình. Trong cuộc tranh luận này không có chỗ cho họ. Hãy xéo đi ngay trước khi chúng ta bắn tên ra. Còn nếu các người muốn nói chuyện với ta lần nữa, trước hết hãy đuổi cổ đám tiên về những cánh rừng của chúng đi đã, rồi sau đó quay lại đây, hạ khí giới trước khi bước tới ngưỡng cửa này.”

“Vua Tiên là bạn tôi, và ông ấy bấy lâu nay đã cứu trợ người dân vùng Hồ trong lúc hoạn nạn, dù rằng họ không đòi hỏi gì ở ông ấy ngoài tình cảm bạn bè,” Bard trả lời. “Chúng tôi sẽ cho ông thời gian suy nghĩ mà ân hận về những lời nói của mình. Hãy tập trung trí sáng suốt của ông trước khi chúng tôi quay trở lại!” Rồi anh cáo biệt và trở về doanh trại.

Mấy giờ sau, đám người vác cờ quay trở lại, và mấy người lính kèn đứng lên phía trước mà thổi một bài kèn:

“Nhân danh thị trấn Esgaroth và Khu Rừng,” một người hét to, “chúng tôi nói chuyện với Thorin, con trai của Thrain thuộc dòng họ Oakenshield, tự xưng là Vua dưới gầm

Quả Núi, và chúng tôi yêu cầu ông xem xét kỹ những đề nghị đã nêu, nếu không ông sẽ bị coi là kẻ thù của chúng tôi. Ít nhất ông sẽ phải giao một phần mười hai của kho báu cho Bard, bởi anh là người giết chết lão rồng và là người thừa kế của Girion. Từ phần của cải ấy của mình, Bard sẽ đích thân đóng góp vào việc cứu trợ thị

trấn Esgaroth; và nếu như Thorin muốn có được tình hữu nghị và sự tôn trọng của các xứ sở xung quanh, như các bậc cha ông xưa của mình, thì ông cũng sẽ ban đôi chút của riêng mình để an ủi dân chúng vùng Hồ.”

Lập tức Thorin chộp lấy cây cung bằng sừng và bắn một phát tên vào người vừa nói.

Mũi tên cắm vào khiên của người kia và rung rinh ở đó.

“Vì câu trả lời của ông như vậy,” người đó hét to đáp trả, “tôi tuyên bố Quả Núi bị bao vây. Ông sẽ không rời khỏi đó được, cho tới khi ông kêu gọi phe mình ngừng bắn và thương lượng. Chúng tôi sẽ không cầm vũ khí chống lại ông, mà chúng tôi để ông ở lại với đống vàng của mình. Ông có thể ăn đống vàng đó, nếu ông thích!”

Nói xong, các sứ giả nhanh chóng bỏ đi, còn các chú lùn bị bỏ mặc ở đó mà suy nghĩ về hoàn cảnh của mình. Thorin đã trở nên quá dữ tợn đến nỗi thậm chí các chú khác dù có muốn cũng không dám chê trách chú ta; song quả thật hầu hết bọn họ dường như đều tán thành ý kiến của chú ta – có lẽ chỉ trừ có anh chàng Bombur to béo, Fili và Kili. Dĩ nhiên Bilbo không tán thành toàn bộ chiều hướng diễn biến của tình hình. Cho tới lúc này anh chàng đã chán ngán Quả Núi quá thể rồi, còn cảnh bị vây hãm trong đó anh chàng thấy chẳng thú vị chút nào.

“Toàn bộ nơi này vẫn còn hôi mùi rồng,” anh chàng cằn nhằn với chính mình, “và cái mùi ấy khiến mình thấy buồn nôn. Còn cái món cram thì đang bắt đầu ứ lại trong cổ họng mình rồi.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.