THEO DẤU CHÂN VOI

Buổi chiêu đãi văn học



Bà Oliver soi mình vào chiếc gương lớn, liếc nhìn chiếc đồng hồ treo trên tường, bà tưởng như chậm khoảng hai mươi phút. Rồi bà trở lại ngắm nhìn kiểu tóc của bà. Mối buồn phiền ở bà – và bà vui lòng chấp nhận nó – là bà thay đổi luôn kiểu tóc. Trước đây, bà đã thử, hầu như tất cả các kiểu. Vào một giai đoạn nào đó là kiểu pompađua (vẻ trang điểm cuối đời của vua Louis XV) nghiêm trang, rồi một kiểu đầu bù tóc rối, cho phép hất tóc ra đằng sau để làm nổi bật cái trán trí thức – ít ra bà cũng mong như thế. Trước đây, bà cũng đã thử “món” tóc xoăn gọn gàng và cả một kiểu phóng túng nghệ thuật. Nhưng hôm nay, kiểu tóc là vấn đề không quan trọng, vì bà dự định đội một cái mũ, điều bà hiếm khi làm.
Trên cái kệ cuối cùng chiếc tủ của bà, có đặt bốn chiếc mũ. Hai cái trong số đó được dành riêng cho các đám cưới. Trong trường hợp như vậy, chiếc mũ là một điều bắt buộc. Chiếc mũ đầu tiên, được trang trí bằng lông vũ rất hợp với cái đầu và có thể chịu đựng được những cơn mưa rào bất ngờ xảy đến, lúc bước xuống xe trước nhà thờ. Chiếc thứ hai, kiểu cách hơn, chỉ có thể đội để dự một dám cưới vào một buổi chiểu thứ bảy đẹp trời mùa hạ, vì nó có cắm những bông hoa và một dải vải tuyn màu vàng.
Hai chiếc khác đặt trên kệ là những chiếc mũ “ba va”. Chiếc thứ nhất – như bà Oliver gọi – là chiếc mũ “dã ngoại”, làm bằng dạ phớt màu hạt dẻ, thích hợp với bộ quần áo nữ hàng tuýt cũng như với hai chiếc áo pulove của bà: một cái bằng vải dệt caxơmia và một cái nhẹ hơn dùng cho những ngày nóng bức. Tuy nhiên, bà thường dùng áo pulove, và thực tế là bà không bao giờ đội mũ. Thật thế, tại sao lại đội một cái mũ chỉ để đi ăn trưa tại nhà bạn bè ở thôn quê? Chiếc thứ hai và cũng là chiếc mũ đắt tiền nhất – có những thuận lợi khác thường, có thể vì nó đắt tiền, đôi khi bà Oliver tự nhủ thầm. Đó là một chiếc khăn đóng, gồm nhiều lớp nhung màu phấn, hợp với tất cả mọi thứ.
Bà Oliver ngập ngừng một lát trước khi gọi người đến cho ý kiến.
– Maria!
Và rồi, to hơn:
– Maria!… Lên đây một phút, tôi xin cô.
Maria đến. Cô đã quen điều bà chủ của cô gọi đến để hỏi ý kiến khi bà mặc trang phục để ra ngoài.
– Bà sẽ đội chiếc mũ tráng lệ đó phải không ạ?
– Phải, tôi muốn biết ý kiến cô là cái mũ này hợp với tôi hay là ngược lại.
Maria lùi lại một bước đế nhận xét tốt hơn:
– Quả thật, em nghĩ là bà đã đội phía trước ra phía sau có phải không ạ?
– Phải, tôi biết thế! – Bà Oliver nói – Tôi hoàn toàn biết, và tôi có cảm giác là nó trông hợp hơn trong chiều kia.
– Ồ! Tại sao lại hợp hơn ạ?
– Vì người ta làm ra là để đội như thế này. Chắc chắn rằng do màu xanh lam đẹp đó đối lập với màu nâu ấy, điều làm cho tôi thú vị hơn là màu xanh lục và màu đỏ ở phía kia.
Nói xong, bà Oliver bỏ mũ ra và thử đội với chiều hướng khác. Rồi bà xoay một phần tư chiếc mũ trên đầu bà. Nhưng bà cũng như Maria, không một ai thấy kết quả hợp với “gu” của mình.
– Cái đó không hợp với khuôn mặt của bà. Và nó cũng không hợp với một người nào cả.
– Không. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ đội đúng theo chiều của nó.
– Lạy Chúa tôi, em sẽ nói ngay là như thế tốt hơn.
Bà Oliver bỏ mũ ra. Maria giúp bà mặc một chiếc áo dài bằng len màu nâu đỏ, rồi đội lại chiếc mũ cho bà.
– Bà trông lịch sự lắm, thưa bà.
Đó chính là điều mà bà Oliver yêu quý ở Maria. Nếu người ta hỏi ý kiến cô bất cứ trong dịp nào, cô luôn luôn sẵn sàng cho một sự tán thưởng, một lời khen.
– Em nghĩ là bà sẽ đọc một bài diễn văn ở bữa tiệc.
– Một bài diễn văn? – Bà Oliver nhắc lại với một vẻ khiếp sợ – Chắc chắn là không, cô biết rằng đó không phải là thói quen của tôi.
– Em tưởng rằng người ta luôn luôn làm như thế tại những buổi chiêu đãi các nhà văn.
– Tôi thấy không cần thiết để ra sức làm cho chính mình. Không thiếu gì những người mê thích điều đó và họ thoát khỏi khó khăn đó hơn tôi.
– Em tin chắc rằng bà sẽ đọc một bài diễn văn đáng chú ý nếu bà muốn – Maria cố gắng đóng vai trò quỷ sứ cám dỗ.
– Không. Tôi hoàn toàn biết cái gì tôi có thể làm được và cái gì không hợp với tôi. Tôi hoàn toàn không có khả năng đọc bất cứ một bài diễn văn nào. Tôi sẽ bối rối, sẽ bực dọc, và chắc chắn tôi sẽ lúng túng hoặc là nhắc lại hai lần cùng một việc, không chỉ ngớ ngẩn mà chắc là còn có vẻ ngây ngô nữa.
– Vâng. Em hy vọng rằng tất cả mọi việc sẽ qua đi một cách tốt lành. Thưa bà, đó là một buổi chiêu đãi lớn phải không?
– Phải – Bà Oliver trả lời với một vẻ ủ rũ – Một buổi chiêu đãi rất lớn.
Rồi bà tự hỏi tại sao bà lại đi?
Nhưng bà không biểu lộ suy nghĩ của bà ra tiếng nói vì Maria vừa vội vàng quay xuống nhà bếp, mùi khét đặc biệt của mứt lan ra trên lò than.
“Ta nghĩ rằng bởi vì ta muốn biết không khí ở đấy. Người ta không ngừng mời ta đến những bữa chiêu đãi văn học, còn ta chưa đến đó bao giờ”.
*
Bà Oliver đang ăn món bánh lòng trắng trứng. Đây là một món ăn mà bà đặc biệt ưa thích, và là món cuối cùng rất dễ chịu cho bữa ăn tuyệt hảo này. Tuy nhiên, khi ta đến một tuổi nào đó, cần phải tỏ ra thận trọng với bánh lòng trắng trứng. Tất cả là do hàm răng giả. Hàm răng đó bề ngoài trông rất đẹp, và chúng có cái thuận lợi không thể chối cãi được là không làm cho ta đau đớn. Răng giả được làm đều đặn, trắng bóng, đẹp hơn răng tự nhiên. Song, chúng không phải là răng thật và bà Oliver biết chắc chắn rằng chất liệu làm ra chúng không thuộc loại chất lượng cao. Giống chó, bà nghĩ như vậy, có những chiếc răng bằng ngà thật, còn răng của con người chỉ bằng xương, hoặc bằng chất dẻo, nếu là răng giả. Dù thế nào đi nữa, điều căn bản là đừng để mình rơi vào một tình thế khó xử. Rau diếp gây cho ta một sự khó khăn nào đấy, các quả hạnh muối mặn và kể cả một số loại sô-cô-la, kẹo caramen, bánh lòng trắng trứng cũng vậy. Với một hơi thở khoan khoái, bà Oliver nuốt miếng cuối cùng.
Buổi chiêu đãi được tổ chức để chào mừng các nữ văn sĩ. Nhưng, hạnh phúc thay, các khách ăn không phải tất cả là phái nữ. Bà Oliver được đặt ngồi giữa hai đại biểu phái mạnh rất có thiện cảm. Edwin Aubyn, mà bà luôn đánh giá cao các bài thơ của ông, là một người cực kỳ dễ chịu, ông đã viết các cuộc phiêu lưu hấp dẫn trong các chuyến du lịch nước ngoài của ông. Ngài Wesley Ken cũng vậy, rất lịch thiệp. Ngài đã nói với bà Oliver những điều thú vị về các cuốn sách của bà, nêu lên những lý lẽ tại sao Ngài thích chúng, và bà nhìn Wesley Ken với con mắt thiện cảm. Những lời khen của đàn ông, bà nghĩ, luôn luôn được hoan nghênh, và phụ nữ thường tỏ ra quá ủy mị. Họ viết cho bà những điều đó, nhưng cũng có một vài người gửi cho bà từ phía bên kia bờ biển những bức thư hoàn toàn khó tin. Tuần lễ trước đây bà nhận được một lá thư tán tụng bắt đầu bằng câu này:
“Trong khi đọc ‘Con cá hồng thứ hai’, cuốn tiểu thuyết gần đây nhất của bà, tôi hiểu tình cảm cao thượng biết bao của bà”. Bà Oliver chắc chắn không phải là người quá khiêm tốn, và bà cho rằng đó là các cuốn sách mà bà viết rất đạt trong loại tiểu thuyết trinh thám. Nhưng bà không thấy một tí nào cái có thể gọi là “tình cảm cao thượng” của bà. Đơn giản, bà chỉ có tài sáng tác những tác phẩm mà nhiều người ưa đọc.
Bây giờ, khách ăn đi sang phòng khách để dùng cà-phê. Theo kinh nghiệm, bà Oliver biết đó là lúc nguy hiểm, lúc mà các phụ nữ khác đến “tặng” bà những lời ca ngợi quá mức làm bà phát ngượng. Họ đặt ra những câu hỏi mà nhìn chung bà không trả lời được. Một lần, một bà bạn người nước ngoài nói với bà bằng một vẻ nghiêm trang, và với một giọng dễ thương:
– Tôi đã nghe thấy những gì mà bà vừa nói với nhà báo trẻ đó. Và tôi thấy rằng bà đã thiếu – tôi sẽ phải nói thế nào – lòng tự kiêu về tác phẩm của bà. Bà nên trả lời: “Vâng, tôi viết tốt. Tốt hơn bất cứ tác giả tiểu thuyết trinh thám nào”.
– Nhưng mà không đúng! – Bà Oliver phản đối – Chắc chắn là tôi viết không tồi, tuy nhiên…
– Ôi! Đừng bao giờ bà trả lời như thế. Bà phải tuyên bố bà là người giỏi nhất, ngay cả nếu bà không nghĩ như thế, để tất cả mọi người biết và nhắc lại điều đó.
Hôm nay, nhà tiểu thuyết tự nhủ thầm, điều đó rất dễ xảy ra. Có hai hay ba phụ nữ nhìn chòng chọc vào mặt bà và có vẻ đợi gặp bà lúc bà rời phòng ăn. Bà sẽ mỉm cười với họ và làm thỏa lòng họ bằng một câu trả lời sáo: “Bà rất tử tế. Tôi rất sung sướng được biết những bạn đọc yêu mến các cuốn sách của tôi!”, và sau đó, bà có thể lẩn chuồn.
Mắt bà nhìn một lượt phòng khách. Có thể rằng bà may mắn nhận ra những người bạn, cũng như những người hâm mộ bà. Khách ăn tiến đến những chiếc ghế bành và tràng kỷ. Sự nguy hiểm sắp xảy ra, nó thể hiện dưới hình dáng của một phụ nữ vóc người cân đối, vẻ oai vệ và độc đoán.
– Ôi bà Oliver! – Bà ta kêu lên với một giọng thanh cao – Thật là vui sướng được gặp bà hôm nay. Đã lâu tôi mong ước như thế. Tôi ngưỡng mộ các cuốn sách của bà. Tôi tôn sùng chúng, không còn câu nào khác để nói. Con trai tôi cũng thế. Còn chồng tôi, trước đây ông ấy không đi du lịch đâu mà không mang theo ít ra là hai cuốn tiểu thuyết của bà. Nhưng mà chúng ta hãy ngồi xuống đây. Có không biết bao nhiêu điều tôi muốn hỏi bà.
Không phải kiểu phụ nữ mà mình có thể có thiện cảm được, bà Oliver nghĩ thầm. Nhưng, dẫu sao, không người phụ nữ này thì cũng sẽ có một người khác… Bà để người khách dẫn đến chiếc ghế tràng kỷ hai chỗ ngồi ở một góc phòng khách.
– Nào, chúng ta đã yên vị – Bà hâm mộ nói sau khi đã mời cà-phê – Tôi nghĩ rằng bà không biết tên tôi. Tôi là bà Burton-Cox.
– Ồ vâng – Nhà tiểu thuyết trả lời – cũng ngượng ngùng như thường lệ.
Bà Burton-Cox? Hình như bà Oliver đã nghe tên đó. Người phụ nữ này có viết không? Chắc chắn là không phải các tiểu thuyết. Những cuốn sách về chính trị, có lẽ thế?
– Bà sẽ ngạc nhiên về những điều tôi sắp nói với bà. Đọc những cuốn sách của bà, tôi thấy bà rất giàu lòng thương người, bà hiểu sâu sắc con người. Tôi nghĩ rằng bà có thể cho tôi một lời giải đáp về vấn đề day dứt mà tôi tự dệt cho tôi.
– Tôi không thấy, thực thế…
Bà Burton-Cox bỏ một viên đường vào tách cà-phê của mình và nghiền nó ra như đó là một cục xương. “Những chiếc răng ngà, có thể chăng?” – Bà Oliver nghĩ.
– Điều thứ nhất mà tôi muốn hỏi bà là điều này: bà có một người con gái đỡ đầu tên là Célia Ravenscroft, đúng không ạ?
– Ồ! – Nhà tiểu thuyết chỉ nói thế với một giọng ngạc nhiên.
Bà có đông con trai đỡ đầu cũng như con gái đỡ đầu. Và, cứ tuổi càng ngày càng cao thì, có những lúc, bà không thể nhớ hết được tên họ. Bà đã làm nhiệm vụ của bà là, trong thời gian cần thiết, gửi quà Noel cho họ, thỉnh thoảng đến thăm họ, đến ký túc xá đón họ những ngày cuối tuần. Rồi thì ngày tuổi trưởng thành của họ hoặc là ngày họ kết hôn, những trường hợp này, bà mẹ đỡ đầu tất nhiên phải làm một cái gì. Sau đấy, dần dần, họ mờ nhạt đi, biến mất trong đời ta.
– Célia Ravenscroft? – Bà Oliver nhắc lại. Phải, chắc chắn rồi.
Nhưng không một hình ảnh mới nào của người con gái đó hiện ra trong trí óc bà. Bà nhớ là đã tặng cô ấy một cái chao bằng bạc thời Nữ hoàng Anne rất đẹp trong dịp lễ rửa tội của cô, nó là dụng cụ tuyệt vời để sữa, nhưng cũng là loại đồ vật để cô ấy có thể bán đi lấy một số tiền lớn nếu một ngày nào đó cô cần tiền mặt. Chúng ta rất dễ nhớ các bình cà-phê, các chao sữa hay các cốc bạc rửa tội hơn là chính bản thân đứa trẻ.
– Nhưng mà đã lâu tôi không gặp cháu. – Bà nói thêm.
– Tôi nghĩ đấy là một người trẻ tuổi có cá tính, độc lập và dễ bị khích động, thường thay đổi ý kiến, rất trí thức, và đã tốt nghiệp đại học. Nhưng quan điểm chính trị của cô ấy… Sau cùng, tôi nghĩ rằng ngày nay những người trẻ tuổi ít nhiều quan tâm đến chính trị.
– Tôi thú nhận không biết nhiều về vấn đề đó. – Bà Oliver nói.
– Tôi muốn thổ lộ với bà và nói một cách chính xác điều mà tôi muốn biết. Tôi tin chắc rằng bà sẽ nhận lời thông tin cho tôi. Tôi rất hay được nghe nói về tấm lòng và sự cảm thông của bà.
“Có phải bà ấy đang cố gắng mượn mình tiền bạc hay không”, bà Oliver nhủ thầm, bà nhớ lại đã có vài cuộc nói chuyện bắt đầu kiểu đó.
– Thưa bà, tôi coi lúc này là rất quan trọng đối với tôi – Bà Burton-Cox nói tiếp – Célia đang đặt vấn đề kết hôn với Desmond, con trai tôi.
– Ồ, thật thế ư?
– Ít ra là ý tưởng của cả hai cô cậu lúc này. Nhưng chắc bà biết sự cần thiết phải hiểu con người, và có một điểm mà tôi muốn làm sáng tỏ. Thật là một điều khá đặc biệt và tôi không thể hỏi – tôi nói thế nào đây – một người nước ngoài. Nhưng, thưa bà Oliver thân mến, bà thực sự không phải là người nước ngoài.
Nhà tiểu thuyết ước gì mình là người nước ngoài, và bà bắt đầu cảm thấy hơi lo sợ. “Không biết có phải Célia đã hoặc sắp có một đứa con và người ta tưởng rằng mình biết những việc đó hay không? – bà nghĩ. Như thế sẽ vô cùng rắc rối. Mà Célia bây giờ đã hai mươi lăm hay hai mươi sáu tuổi, thật dễ dàng để nói rằng mình không biết gì hết”.
Bà Burton-Cox nghiêng người về phía bà Oliver:
– Tôi nghĩ rằng bà phải biết cái gì đã xảy ra và bà biết chi tiết về tấn thảm kịch. Mẹ cô ấy đã giết chết cha cô ấy hay là ngược lại?
Bà Oliver trông đợi tất cả, trừ điều đó. Bà mở to cặp mắt và nhìn kỹ bà Burton-Cox với một vẻ hoài nghi.
– Nhưng… tôi không hiểu gì. Tôi muốn nói là, tôi không thấy lý do gì…
– Bà Oliver thân mến, bà chắc phải biết tất cả câu chuyện. Đó là một vụ việc nổi tiếng. Ồ! Tôi biết rõ rằng việc đó tuy đã xảy ra cách đây mười lăm năm, nhưng nó đã gây ra một tiếng vang lớn và chắc chắn bà có thể nhớ lại.
Bà Oliver băn khoăn lo nghĩ để tìm ra một câu trả lời thích đáng, Celia là con gái đỡ đầu của bà, và mẹ của cô – Molly Preston – trước đây, là một trong những người bạn của bà, dù rằng không đặc biệt thân thiết lắm. Molly xây dựng gia đình với một sĩ quan tên là Ravenscroft. Nếu không đó là một đại sứ, Sau đó, hai vợ chồng Ravenseroft đã rời nước Anh để đến Trung Đông hay là Ấn Độ, bà không biết gì hơn nữa. Đôi khi bà gặp lại họ trong những ngày họ về nghỉ ở nước Anh. Bà không nhớ gì cả, bà cũng không thể nhớ có phải bà là phù dâu cho Molly hay không. Bà chỉ nhớ lại một cách mơ hồ, gần giống như những tấm hình đã mờ mà ta tìm thấy trong một cuốn album cũ.
Bà Burton-Cox tròn mắt nhìn bà Oliver, hình như là bà thất vọng về sự vụng về hay sự bất lực của mình đã không thể khơi lại trong trí nhớ của người đối thoại một sự việc trước đây đã từng nổi tiếng.
– Bà muốn nói về tai nạn…
– Ồ không! Không phải là một tai nạn. Việc đó xảy ra tại Kent, nơi vợ chồng Ravenscroft có một biệt thự bên bờ biển. Một hôm, người ta tìm thấy cả hai vợ chồng trên vách núi bờ biển, mỗi người bị giết bởi một viên đạn súng lục. Nhưng cảnh sát không thể xác định là người vợ giết người chồng trước rồi sau đó tự vẫn, hay là người đàn ông bắn vào người vợ trước khi tự bắn vào mình. Sự xem xét của các chuyên gia về các viên đạn không cho một kết quả xác thực nào, và người ta đã cho đó là một vụ cả đôi tự tử. Nhưng, tất nhiên, cũng có thể là một vụ giết người vô tình, theo sau là vụ tự tử. Và tất cả mọi người, hình như, tin rằng vụ giết người này là cố ý, báo chí và công luận đồn đại hàng chục câu chuyện…
– Những chuyện như thế chắc hẳn là đầy tưởng tượng ngông cuồng.
– Có thể thế, nhưng rất khó xác định. Người ta nói là đôi vợ chồng đã cãi nhau vào hôm trước khi xảy ra sự việc. Người ta gợi ý sự có mặt của một người đàn ông khác, và tất nhiên, sự có mặt của một người đàn bà thứ hai. Nhưng vụ việc không bao giờ được đưa ra ánh sáng, tôi nghĩ rằng người ta đã dập tắt sự việc trong chừng mực có thể, vì tướng Ravenscroft có một địa vị cao trong xã hội. Người ta còn cho rằng ông ấy đã phải vào nhà dưỡng bệnh mất mấy ngày và ông ấy không chịu trách nhiệm về hành động của mình.
– Tôi thật lấy làm ngao ngán – Bà Oliver nói với giọng quả quyết – nhưng tôi phải thú nhận rằng tôi không biết một tí gì về vụ việc đó. Bây giờ bà nói với tôi nên tôi mới nhớ lại thảm kịch đó, nhưng tôi không biết cái gì đã xảy ra.
Và thực thế, nhà tiểu thuyết tiếc rằng không có gan mà nói thẳng ra là làm thế nào mà bà có sự lạc lõng đến đặt cho tôi câu hỏi đó!
– Tôi cần biết việc đó vì nó rất quan trọng đối với tôi – Bà Burton-Cox nằn nì – Con trai tôi, đứa con yêu quý của tôi muốn kết hôn với Célia.
– Tôi tiếc rằng không thể giúp bà được, vì tôi không hề biết chi tiết về vụ việc đó.
– Nhưng – Bà Burton-Cox cố nài lần nữa – với những câu chuyện kỳ diệu mà bà viết,- tất nhiên là bà biết về tội phạm học. Bà biết những người nào có thể phạm tội ác, và tại sao…
– Tôi không biết gì cả. – Bà Oliver chấm dứt hẳn câu chuyện với một giọng lúc này gần như là mất lịch sự.
– Tôi không biết hỏi tin tức ở đâu. Sau từng ấy năm không thể đến cảnh sát mà không thể nói một chút gì, vì vụ việc đó đã hiển nhiên bị dập tắt. Tôi cảm thấy đây là điều quan trọng mà tôi phải biết sự thật.
– Đối với tôi – Bà Oliver nói với giọng lạnh lùng – tôi bằng lòng với việc viết sách, những cuốn sách này hoàn toàn thuộc phạm trù viễn tưởng. Tôi không biết gì về tội phạm, và tôi không có ý tưởng gì về tội phạm học. Bởi vậy tôi không thể giúp bà được.
– Bà có thể hỏi cô con gái đỡ đầu của bà, hỏi Célia.
– Hỏi Célia? Tôi thấy tôi không thể làm thế. Thời điểm xảy ra thảm kịch, cô ấy chỉ là một đứa bé.
– Nhưng tôi nghĩ là cô ấy biết sự việc. Trẻ con luôn biết nhiều việc. Và tôi tin chắc rằng cô ấy sẽ nói với bà tất cả những gì cô ấy biết.
– Tốt hơn là chính bản thân bà đặt câu hỏi với cô ấy.
– Tôi không thể làm được điều đó. Tôi chắc chắn rằng Desmond sẽ không bằng lòng. Thưa bà, có khá nhiều… khả năng liên quan với Célia. Tôi thực không nghĩ rằng… Nhưng tôi tin chắc rằng cô ấy sẽ kể hết cho bà.
– Không bao giờ tôi đặt câu hỏi đó cho cô ấy. – Bà Oliver tuyên bố.
Bà giả vờ liếc mắt nhìn chiếc đồng hồ quả quýt của bà và nói tiếp:
– Ồ! Lạy Chúa tôi! Bữa chiêu đãi này kéo dài quá. Tôi phải vội đi vì tôi có một cuộc hẹn quan trọng. Chào bà Burton-Cox. Rất tiếc tôi không thể giúp bà, nhưng mà việc đó rất là tế nhị… Và rồi đây việc đó thực tế có thay đổi gì cho bà?
– Việc đó sẽ thay đổi tất cả.
Vào lúc đó, một nữ văn sĩ mà bà Oliver quen biết đi qua gần đấy. Bà đứng ngay lên và cầm tay người quen.
– Louise! Tôi thật sung sướng được gặp chị. Cho đến bây giờ tôi mới nhận thấy chị có mặt ở đây.
– Ariane! Thật thế, đã lâu chúng mình không gặp nhau. Chị trông thon người lại rất nhiều, phải không?
– Chị có nghệ thuật là luôn nói với tôi những điều dễ thương – Bà Oliver trả lời và kéo bà bạn đi – Tôi đang vội vì tôi có một cuộc hẹn.
– Tôi nghĩ rằng chị đã không thể thoát khỏi móng vuốt của người đàn bà ghê gớm đó.
– Bà ấy đã tìm cách đặt cho tôi những câu hỏi kỳ cục nhất.
– Và chị không biết trả lời chứ?
– Quả thật, không. Vì những câu hỏi đó không dính dáng đến phạm vi của tôi. Và, dù có dính dáng, tôi cùng không muốn trả lời.
– Những câu hỏi đó, ít ra, thuộc một đề tài thú vị?
– Lạy Chúa – Bà Oliver sau một lúc suy nghĩ đã trả lời – những câu hỏi đó không phải là hoàn toàn không thú vị. Tuy nhiên…
– Đi đi! Bà ấy đứng lên rõ ràng là muốn đuổi theo chị. Nếu chị không có ô-tô, tôi sẽ đưa chị về.
– Tôi không bao giờ dùng ô-tô để đi lại tại Luân Đôn. Rất khó khăn để cho xe vào chỗ đỗ.
– Tôi nghĩ là chị vẫn ở Easton Terrace.
– Phải. Nhưng tôi phải đến Whitefriars Mansions.
– Ô phải! Đó là những tòa nhà to lớn hình dáng hình học… Tôi biết.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.