THEO DẤU CHÂN VOI
Quyển II- Hình bóng quá khứ- Hội đồng điều tra
Hercule Poirot ở trên con đường nhỏ của vách núi, vươn cao trên biển mà các ngọn sóng trắng xóa bọt vỡ tan khi đập vào các tảng đá. Chính ở nơi đó mà xác chết của hai vợ chồng đã được phát hiện. Cũng chính tại đây mà ba tuần lễ trước đó một người mộng du đã chết.
Hôm nay nhiều người đã đến họp ở đó: một chàng trai trẻ và một thiếu nữ muốn tìm hiểu sự thật và hai người biết thiếu nữ đó.
Poirot chuyển hướng cái nhìn từ biển về hướng con đường nhỏ dẫn đến một biệt thự trước kia gọi là Overcliffe. Biệt thự không xa lắm. Và ông nhìn thấy những chiếc ô-tô đỗ dọc bức tường. Ngôi nhà không người ở nổi bật trên nền trời xanh thẳm, ở trên cánh cổng là một tấm biển của Sở nhà đất thông báo bán nhà. Trên chấn song người ta đã thay tên Overcliffe thành Down House. Nhà thám tử tiến về phía Desmond Burton-Cox và Célia Ravenscroft đang cùng nhau leo lên con đường nhỏ.
– Sở nhà đất giao cho tôi chiếc chìa khóa – Chàng trai trẻ nói – đề phòng trường hợp chúng ta muốn vào. Nhưng mà ngôi nhà đã hai lần đổi chủ trong vòng năm năm nay, và tôi nghĩ rằng không có gì nhiều để xem.
– Em không tin – Célia trả lời – Đầu tiên ngôi nhà được bán cho người có tên là Archer, ông này lại bán lại cho gia đình Fallowfìeld vì ông thấy ngôi nhà cách biệt quá. Và bây giờ, đến lượt gia đình Fallowfield lại muốn thoát khỏi. Có lẽ ngôi nhà có ma?
– Cô tin là nhà có ma thật ư?
– Quả thật tôi không biết gì hết. Nhưng có thể là ngôi nhà có ma, phải không? Với tất cả những điều đã xảy ra…
– Tôi không tin điều đó – Poirot nói – Ở đây có tai họa và cái chết, nhưng cũng có tình yêu.
Một chiếc taxi vừa đỗ lại ở phía dưới con đường nhỏ.
– Có thể là bà Oliver – Célia nói – Bà nói với tôi là bà sẽ đi tàu hỏa đến và sau đó đi taxi từ ga.
Hai phụ nữ ở trên xe bước xuống. Một, đích thực là bà Oliver. Người kia, ăn mặc sang trọng, to lớn và trẻ hơn. Poirot quan sát Célia bằng góc con mắt để ghi nhận phản ứng của cô. Người con gái đứng sửng sốt hai hay ba giây, rồi nhào lên, mắt sáng rực vui sướng, để rơi mình vào cánh tay của cô Maurat.
– Ồ! – Cô Célia kêu lên – Đây là Zélie! Em không nhầm. Zélie! Em sung sướng quá! Em không ngờ rằng cô đến đây!
– Chính ông Poirot yêu cầu cô đến.
– Em hiểu. Cuối cùng… em hiểu. Desmond, có phải anh…
– Đúng tôi có viết thư cho cô Maurat cho… Zélie, nếu tôi cũng được phép gọi bằng tên ấy, cả tôi nữa.
– Tât nhiên – Người thiếu phụ trẻ trả lời – Tôi đã tự hỏi rằng đến đây có phải là khôn ngoan không, và bây giờ tôi còn tự hỏi là tôi có làm đúng không? Và tôi hy vọng thế.
– Ồ vâng! Em muốn biết – Célia tuyên bố – Tất cả hai chúng em mong biết sự thật. Desmond tin rằng cô có thể nói cho chúng em một cái gì đấy. Có phải là một vụ tự tử hay là một vụ giết người? Họ có giết bố em và mẹ em vì một lý do mà chúng ta không biết không?
Poirot chậm rãi đến cái ghế bằng sắt đặt ở gần ngôi nhà, dưới một cây mộc lan.
– Chúng ta ngồi ở đây – Ông nói – Những người khác đã sống trong ngôi nhà này, và bây giờ nó có một không khí khác. Chúng ta có thể, nêu chúng ta muốn, vào đó khi chúng ta đã họp hội đồng điều tra của chúng ta.
– Một hội đồng điều tra. – Desmond nhắc lại.
– Phải. Về các sự kiện đã xảy ra cách đây mười bốn năm.
Rồi, quay sang phía người thiếu nữ:
– Theo cô – Ông nói và ngồi xuống – đó là một vụ tự tử hay là một vụ giết người?
– Cũng có thể là một vụ tự tử, và cũng có thể là một vụ giết người.
– Theo ý tôi, chúng ta đứng trước một vụ giết người và một vụ tự tử, nhưng tôi sẽ gọi là một vụ hành quyết, và cũng là một thảm kịch, thảm kịch của hai người yêu nhau và chết vì tình yêu. Không chỉ có thảm kịch của Roméo và Juliette. Không nhất thiết chỉ có tuổi trẻ đau khổ về tình yêu và sẵn sàng chết vì tình yêu.
– Tôi không hiểu. – Célia nói khẽ.
– Chưa. Nhưng tôi sẽ nói với cô cái gì đã xảy ra và tôi đã làm thế nào để phát hiện được. Những việc đầu tiên làm cho tôi chú ý là những việc mà điều tra của cảnh sát không thể giải thích được. Để bắt đầu, người ta thấy bốn bộ tóc giả trong đời tư của phu nhân Ravenscroft.
Ông ngừng vài giây và nhắc lại với một giọng khoa trương:
– Bốn bộ tóc giả.
Rồi ông quay sang phía Zélie với ý hỏi.
– Bà ấy luôn luôn đội một bộ tóc giả – Cô Maurat giải thích – Chỉ là thời gian này đến thời gian khác. Ví dụ trong du hành hoặc là nếu lúc bà ấy về nhà mà tóc rối và muốn nhanh chóng làm gọn gàng trong trang phục. Thỉnh thoảng bà ấy đội một bộ tóc giả khi đi vào buổi tối.
– Phải – Poirot nói – Phần nhiều phụ nữ chỉ dùng hai bộ tóc giả. Nhưng mà bốn, điều đó – đối với tôi – nhiều quá. Hơn nữa, theo báo cáo của thầy thuốc khám nghiệm tử thi, bà ấy không có biểu hiện gì của chứng hói đầu. Tóc bà rất tốt. Một trong số bốn bộ tóc giả có một cái chỏm, màu sáng hơn. Một bộ tóc khác có những vòng xoăn nhỏ, chính là bộ tóc mà bà đội ngày bà chết.
– Bà ấy cũng có thể đội một bộ tóc giả khác – Célia cho nhận xét – chi tiết đó có quan trọng không?
– Có thể. Lúc cảnh sát tiến hành cuộc điều tra, bà giúp việc gia đình cho biết là vài tuần lễ nay, phu nhân Ravenscroft gần như chỉ đội bộ tóc giả có những vòng xoắn nhỏ đó.
– Tôi không thấy…
– Và tuần lễ gần đây, trong một buổi nói chuyện, ông thanh tra Garroway có đọc cho tôi một câu ngạn ngữ xưa thời tuổi trẻ của ông; “Cùng người, mũ khác”. Cái đó cho tôi một ý tưởng.
– Tôi vẫn không hiểu…
– Và rồi, sau các bộ tóc giả, có con chó. – Poirot thản nhiên nói tiếp.
– Con chó? Con chó đến làm gì…
– Theo ý kiến của tất cả mọi người, nó xoắn xuýt với bà chủ của nó. Tuy nhiên, khoảng hai hay ba tuần trước khi xảy ra thảm kịch, nó đã cắn bà ta nhiều lần.
– Ông muốn cho biết rằng nó cảm thấy phu nhân Ravenscroft sắp tự tử à? – Desmond hỏi.
– Không. Đơn giản hơn thế nhiều.
– Tôi không…
– Nó biết điều mà mọi người không biết: nó biết rằng không phải là bà chủ nó.
Célia thốt lên một tiếng ngạc nhiên.
– Bà giúp việc gia đình không chỉ bị điếc mà còn nửa mù lòa – Nhà thám tử nói tiếp – bà ấy thoáng thấy trong nhà một phụ nữ mặc quần áo của phu nhân Ravenscroft và đội bộ tóc giả đặc biệt nhất của phu nhân. “Cùng người, mũ khác”, Garroway nói với tôi trước đây. Và một ý tưởng đã vụt qua óc tôi như một tia chớp: “Cùng bộ tóc giả, người phụ nữ khác”. Con chó, nó đã không lầm. Người phụ nữ đó không phải là người chủ mà nó rất tận tụy. Đó là một người khác, người mà nó không ưa thích và nó sợ hãi. Vậy, nếu người ta nghĩ rằng người phụ nữ đó không phải là phu nhân Ravenscroft, thì người đó là ai? Chị Dolly của bà à?
– Nhưng không thể thế được. – Célia nói.
Poirot nhẹ nhàng lắc đầu.
– Báy giờ tôi nói đến – Nhà thám tử nói tiếp, không hề tỏ ra bối rối – những tin tức mà bà Oliver đã thu thập được. Một số người được hỏi đã nói rằng phu nhân Ravenscroft gần đây đã nằm bệnh viện và có thể bị ung thư hoặc nghi là bị ung thư. Tôi phải nói ngay là, không có gì hết nếu người ta tin ở kết luận của thầy thuốc. Rồi, dần dần tôi biết hai chị em – cũng như trường hợp những cặp sinh đôi cùng trang phục và cử chỉ, đau bệnh như nhau cùng một thời gian lúc thiếu thời, cả hai cùng kết hôn với hai sĩ quan. Nhưng sau đó, thay vì là tiếp tục giữ cho giống nhau, họ muốn, ngược lại, hết sức khác nhau. Một số người chắc thấy lý do về cách xử sự đó. Thật thế, Alistair Ravenscroft, trước kia say mê Dorothea Preston-Grev lúc cô ấy còn rất trẻ. Nhưng sau đó, tình yêu của ông chuyển sang Margaret và ông cưới bà làm vợ. Dorothea tỏ ra ghen tỵ ghê gớm và bắt đầu ghét em gái. Trong khi đó, người em gái vẫn dành cho chị tất cả sự âu yếm của mình. Điều đó có thể giải thích qua nhiều việc. Thực ra, Dorothea đã bị gán cho một số phận buồn thảm, không phải là do lỗi của bà hoặc lỗi của tình huống, mà là do yếu tố di truyền. Bẩm sinh, bà không ổn định. Ngay từ lúc còn trẻ, và vì một lý do chưa được xác định, bà ghét các trẻ em. Và người ta có thể dựa vào đó để tin rằng bà chịu trách nhiệm về cái chết của một trong hai đứa con của bà, một bé trai bốn tuổi. Không có một chứng cớ xác thực để buộc tội bà, nhưng sự việc đã khá rõ ràng dưới con mắt của người thầy thuốc và ông khuyên người ta đưa bà vào một bệnh viện. Khi được coi là khỏi bệnh, bà trở lại cuộc sống bình thường, luôn đến chơi thăm em bà. Và lúc đó, trong một dịp bà ở chơi nhà phu nhân Ravenscroft tại Malaysia, một tai nạn đã xảy ra mà nạn nhân là một đứa bé hàng xóm. Ở đây cũng vậy, hình như cũng không có bằng chứng cụ thể nào là Dolly chịu trách nhiệm. Ngài Alistair đưa bà trở về nước Anh, và bà lại vào điều trị lần nữa trong một bệnh viện. Khi người ta cho bà xuất viện, một lần nữa bà cố gắng trở lại đời thường. Bấy giờ, Margaret trở về Anh quốc với chồng. Bà nghĩ rằng tốt hơn là để Dolly ở nhà mình, người hầu có thể tiện coi sóc hơn và đề phòng bệnh tái phát bất thần. Tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng tướng Ravenscroft hoan nghênh lắm giải pháp đó. Theo tôi hiểu, ông tướng phải biết chắc chắn rằng người chị vợ của ông không thể chữa khỏi bệnh, và chắc chắn bệnh sẽ tái phát vào một ngày nào đó.
– Ông muốn nói rằng chính bà ấy đã giết hai vợ chồng Ravenscroft? – Desmond hỏi – Không thể thế được. Bà ấy đã chết từ ba tuần lễ trước đó.
– Không – Poirot trả lời – Bà ấy đã giết em gái bà bằng cách chộp một hòn đá to nặng đập vào đầu em, rồi đẩy nạn nhân vào không gian. Việc đó xảy ra vào một hôm hai chị em dạo chơi trên con đường nhỏ của vách núi. Sự căm giận và mối oán thù đối với Molly nằm ngủ trong bà – lành mạnh và rất khỏe – bỗng chốc ngóc đầu dậy. Nhưng tôi nghĩ rằng có một người biết sự việc: một người cũng ở Overcliffe lúc đó. Cô biết sự việc phải không, cô Maurat?
– Phải – Zélie trả lời – tôi biết. Vợ chồng Ravenscroft rất lo lắng, vì Dolly đã mưu toan làm bị thương Edward, đứa con út của họ. Cậu bé bị bệnh và phải ở nhà sáu tháng, có một gia sư dạy học. Rồi Ngài Alistair quyết định gửi cậu bé vào trường học và Célia sang Thụy Sĩ. Còn về tôi, tôi đã trở lại để đỡ đần phu nhân Ravenscroft. Hai đứa trẻ ở xa. Mọi người cảm thấy yên ổn, cho đến ngày xảy ra thảm kịch.
– Hai chị em cùng đi ra ngoài với nhau, và chúng tôi ngạc nhiên – ngài Alistair và tôi thấy Dolly trở về một mình. Bà có vẻ quái dị và kích động hơn mọi khi. Lúc bà ngồi trước bàn mà người ta vừa uống trà, ngài Alistair nhận thấy bàn tay phải của bà có vết máu. Ông hỏi bà ấy rằng có phải bà bị ngã không, bà ấy trả lời: “Ồ! Không có gì. Không có gì hết. Tôi bị xước tay vì cây hoa hồng”.
Tuy nhiên, không có cây hoa hồng trong các đụn cát. Nếu bà ấy nói là cây kim tước chi thì sự giải thích của bà đối với chúng tôi có thể là thực, cho nên chúng tôi thấy lo sợ ngay. Ngài Alistair bước ra ngoài và chạy, tôi cũng chạy theo ông. Ông không ngừng nhắc lại: “Đã có gì xảy ra cho Molly, tôi tin chắc như thế”. Thật thế, ông không lầm. Chúng tôi phát hiện thấy bà trên đường, ven núi. Bà còn sống nhưng mất nhiều máu. Chúng tôi không biết làm gì. Chúng tôi không dám di chuyển bà. Việc duy nhất là gọi thầy thuốc. Nhưng trước khi tôi chạy đi gọi điện thoại, bà bấu víu một cách tuyệt vọng vào chồng và nói trong hơi thở: “Phải. Chính Dolly! Nhưng chị ấy không biết điều mình làm, anh Alistair ạ. Anh không được để chị ấy gánh chịu hậu quả của hành động này. Chị ấy không phải chịu trách nhiệm. Chị ấy không bao giờ biết tại sao mình lại làm điều ấy. Chị ấy không thể chịu nổi. Anh phải hứa với em, Alistair. Em sắp chết. Không, không, anh không kịp gọi bác sĩ. Và ông ấy cũng không thể giúp gì cho em. Em mất nhiều máu quá và em sắp chết rồi. Em biết. Nhưng anh hãy hứa với em, hứa với em rằng anh sẽ cứu chị ấy, rằng anh không để cảnh sát bắt chị ấy. Anh hãy hứa với em là người ta sẽ không xét xử chị ấy, rằng cuộc đời chị ấy sẽ không chấm hết trong nhà tù như một kẻ phạm tội ác. Anh hãy giấu em ở một nơi nào đấy; để người ta không tìm thấy thi thể em, em xin anh, đấy là điều cuối cùng mà em van anh. Anh là người mà em yêu thương hơn tất cả. Anh hãy thề với em đi. Cô cũng vậy, Zélie. Tôi biết rằng cô yêu quý tôi, tôi cũng biết rằng cô yêu quý hai đứa trẻ. Cô luôn luôn tốt với tất cả chúng tôi. Cô cũng phải cứu Dolly đáng thương. Tôi xin cả hai người. Phải cứu lấy chị ấy…”.
Cô Maurat ngừng nói, nước mắt đầm đìa trên mặt.
– Cô đã làm gì? – Poirot nhẹ nhàng hỏi.
– Phu nhân Ravenscroft chết vài phút sau khi nói những lời cuối cùng đó. Tôi giúp ngài Alistair chuyển thi hài của bà vào giữa những tảng đá, nơi mà chúng tôi giấu bà một cách kín nhất. “Tôi đã hứa – Ngài Alistair nói – Tôi phải giữ lời hứa của tôi. Nhưng tôi không biết phải làm thế nào? Làm cách nào để cứu Dolly? Chúng tôi trở về nhà.
Dolly vẫn ở đấy. Hình như bà ấy chết khiếp vì sợ nhưng đồng thời tỏ ra rất hài lòng. Tôi biết bà ấy luôn nói với chúng tôi rằng Molly là hiện thân của điều ác. “Cô ấy đã cướp anh của tôi, Alistair ạ. Chính anh phải thuộc về tôi, nhưng cô ấy đã khiến anh bỏ tôi và đã thành công để lấy anh. Tuy nhiên, tôi luôn biết có một ngày tôi sẻ trả thù. Và bây giờ tôi sợ. Người ta sẽ làm gì tôi? Người ta không thể nhốt tôi lần nữa, không thể được. Tôi sẽ trở nên điên khùng? Anh sẽ không để tôi bị nhốt đúng không, nói đi, Alistair? Hay là cảnh sát sẽ đưa tôi đi và buộc tôi tội giết người? Đó không phải là một vụ giết người. Tôi phải hành động như vậy. Tôi không thể làm khác được. Có những lúc tôi không biết tại sao tôi phải làm một cái gì đó. Tôi muốn nhìn thấy máu, anh hiểu không? Máu của cô ấy. Và rồi, tôi không thể đợi cô ấy chết. Tôi đã bỏ chạy. Nhưng tôi biết rằng cô ấy sắp chết. Tôi hy vọng rằng anh không tìm thấy cô ấy ngay lập tức. Người ta sẽ nói đó là một tai nạn. Cô ấy bị ngã từ trên vách núi cao xuống…”
– Thật là một câu chuyện khủng khiếp. – Desmond nói.
– Vâng – Célia nói nhỏ – Tuy vậy, tôi vẫn muốn biết rõ câu chuyện. Nhưng… nhưng cô đã làm thế nào, cô Zélie?
– Chúng tôi hy vọng rằng người ta không thể tìm được xác chết ngay lập tức, vì không có một đường nhỏ nào chạy đến nơi chúng tôi và chúng tôi nghĩ rằng có thể chuyển thi hài vào ban đêm, đến một nơi mà người ta có thể tin rằng Dolly đã ngã xuống biển. Rồi chúng tôi nghĩ đến câu chuyện về bệnh mộng du. “Thật khủng khiếp – Ngài Alistair nói – nhưng tôi đã hứa. Tôi đã thề với Molly, lúc cô ấy chết. Tôi đã thề sẽ làm tất cả những gì mà cô ấy yêu cầu tôi. Có một cách đế cứu Dolly, với điều kiện là cô ấy chấp nhận đóng vai Molly. Tuy nhiên, tôi tự hỏi không biết cô ấy có khả năng làm được không?”
– Cách nào? Tôi hỏi. “Cô ấy giả là Molly và ta nói rằng chính Dolly ngã từ vách núi trong một cơn mộng du”. Đó là điều chúng tôi đã làm. Chúng tôi đưa Dolly đến ngôi nhà cũ này, đã lâu không có người ở, và tôi ở gần bà ấy một vài ngày… Trước đó Alistair cho mọi người biết là vợ ông bị xúc động mạnh khi chị bà chết, đã phải chở đi bệnh viện. Và rồi vào lúc đó, chúng tôi đưa cho Dolly mặc quần áo của Molly và mang bộ tóc giả của bà ấy. Tôi đã đi Luân Đôn để đặt làm hai cái khác, có những vòng xoắn, vì những bộ tóc giả đó cải trang bà tốt nhất. Hai chị em khá giống nhau để cho Janet, bà đầy tớ già, không thể phân biệt thật giả. Và tất cả mọi người cho đó là Molly, còn bị chấn động tâm thần và cách xử sự có hơi kỳ cục. Tôi phải xác nhận rằng hai chị em cùng có giọng nói làm người ta có thể lẫn lộn. Tất cả cái đó có bình thường hay chính đó là điều ghê sợ nhất.
– Tôi không hiểu cô làm thế nào để không một ai nghi ngờ.
– Dolly không thấy vai trò của mình là khó khăn. Vì một lẽ đơn giản là bây giờ bà ấy có điều mà trước đây bà ấy mong muốn. Bà ấy có Alistair…
– Nhưng làm thế nào mà ông ấy chịu đựng được?
– Ngày mà tôi quyết định trở về Thụy Sĩ, ông ấy thổ lộ cho tôi điều mà ông ấy sẽ làm. “Tôi đã hứa với Molly là không giao bà chị cho cảnh sát, để người ta không bao giờ biết rằng đó là một kẻ giết người, rằng con cái không bao giờ biết điều đó. Không một ai cần biết. Bà ấy bị mộng du và bà ấy ngã từ trên cao của vách núi: đó là một tai nạn, và không có gì khác. Bà ấy có thể chôn cất theo nghi thức tôn giáo dưới tên của chính bà”. “Thế nào mà ông chấp nhận được điều đó?” – Tôi hỏi ông ấy lúc đó. “Tôi chịu đựng được – Ông trả lời tôi – vì đó là điều mà tôi đã dự định làm. Dolly phải chấm dứt cuộc sống của bà ấy. Nếu để bà ấy gần bọn trẻ, sẽ xảy ra những điều bất hạnh khác. Bà ấy không đáng sống. Nhưng sau đấy, tôi sẽ phải trả giá cho hành động mà tôi phạm. Tôi sẽ ở với bà trong vài tuần lễ, bà ấy đóng vai vợ tôi và rồi thì… sẽ xảy ra một thảm kịch thứ hai. Tất cả mọi người sẽ tin rằng Molly và tôi, chúng tôi tự tử. Người ta sẽ nghĩ rằng một trong hai chúng tôi bị ung thư, người ta sẽ nghĩ đến tất cả các bệnh khác không chữa được, người ta đưa ra những giả thiết, nhưng sẽ không một ai biết sự thật của thảm kịch. Tôi hứa với cô là Dolly sẽ không đau đớn. Tôi sẽ giết bà ấy bằng một phát súng lục và sau đây tự giết tôi. Dấu vết tay của bà sẽ được nhận ra trên vũ khí, vì bà ấy đã mân mê nó ở bàn giấy của tôi cách đây không lâu. Công lý phải được trả lại một cách chính đáng, và tôi là người duy nhất có thể thi hành điều đó mà không bôi đen linh hồn Dolly. Điều mà tôi muốn cô biết, Zélie, là trước đây tôi yêu cả hai chị em – rằng nay tôi còn yêu họ – cả hai. Molly, hơn cả cuộc đời của tôi. Dolly, vì tôi thương xót cho bà đã sinh ra như thế. Cô hãy luôn luôn nhớ lấy tất cả điều đó…”.
Zélie đứng lên và tiến gần lại Célia.
– Bây giờ cháu đã biết sự thật – Cô nói – Cô đã hứa với bố cháu là không bao giờ tiết lộ sự thật đó. Cô đã thất hứa. Cô không có ý định hành động như thế, nhưng ông Poirot đã biết tất cả và ông ấy thuyết phục cô nói ra điều mà cô biết.
– Cháu hiểu điều mà cô cảm thấy – Cô gái trẻ đáp – nhưng cháu muốn biết. Cháu có cảm giác là trút được một gánh nặng đè trĩu lên cháu. Lúc cháu còn nhỏ, Dolly làm cho cháu hoảng sợ ít nhiều, nhưng cháu không biết tại sao. Bây giờ cháu hiểu. Và cháu thấy rằng bố cháu đã can đảm làm điều đó. Nếu bố cháu sai lầm, người ta có thể tha thứ cho ông. Nhưng cháu không nghĩ rằng ông đã sai lầm. Ông đã giữ lời hứa với mẹ cháu và đã cứu Dolly.
Célia đưa mắt nhìn Hercule Poirot
– Tôi nghĩ, – Cô nói tiếp – rằng ông là người Công giáo, và có thể là ông không đồng ý với tôi. Câu khắc trên nấm mồ của họ – Họ không lìa nhau khi Chết – không có nghĩa là họ cùng nhau chết, mà họ ở cùng với nhau bây giờ. Hai người rất thương yêu nhau và người dì đáng thương của tôi. Dì tôi không chịu trách nhiệm về hành động của mình, và tôi sẽ cố gắng nghĩ đến bà với nhiều thiện ý hơn.
Desmond tiến gần đến người con gái trẻ tuổi.
– Chúng ta sẽ làm lễ kết hôn càng sớm càng tốt – Anh nói – anh có thể hứa với em một điều: bà mẹ nuôi của anh sẽ không bao giờ biết điều gì đả xảy ra.
Poirot đi ra xa cùng với Zélie.
– Cô không trách tôi – Ông hỏi – đã đến tìm cô và thuyết phục cô đến để xác nhận sự thật mà tôi đã phát hiện ra?
– Không. Ông đã hành động đúng. Vì những người trẻ tuổi đó họ yêu nhau. Họ thật xứng với nhau và họ sẽ hạnh phúc.
Người thiếu phụ trẻ giữ một phút im lặng trước khi nói thêm:
– Chính ở đây, nơi mà chúng ta đang đứng, có hai người đã yêu nhau, họ cũng thế, đã sống và đã chết: Tôi không biết là Alistair có sai lầm khi làm như thế, nhưng tôi không thể chê trách ông ấy được.
– Cô cũng yêu ông ấy phải không?
– Phải. Tôi yêu ông ấy ngay từ ngày tôi đến Overcliffe. Tôi yêu ông ấy tha thiết. Tôi tin rằng ông ấy không biết. Ông ấy tin cậy ở tôi và tỏ ra trìu mến tôi. Tôi, tôi yêu cả hai, ông ấy và Molly.
– Có một điều mà tôi muốn hỏi cô. Ông ấy yêu hai chị em như nhau, phải không?
– Nói cho cùng, ông ấy yêu cả hai người, phải. Thế cho nên, ông muốn, như Molly, cứu người chị vợ ông. Ai là người ông yêu hơn? Tôi đã không bao giờ biết và sẽ không bao giờ biết.
Poirot nhìn thẳng vào Zélie một lúc, rồi bước ra nhanh để đuổi kịp bà Oliver.
– Bây giờ chúng ta phải trở về Luân Đôn – Ông nói – trở lại cuộc sống hàng ngày, quên đi những thảm kịch và những chuyện tâm tình…
– Voi, chúng nó nhớ – Nhà tiểu thuyết nói – Nhưng chúng ta là người và, cám ơn Thượng đế, người thì quên.
HẾT
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.