Thép Đã Tôi Thế Đấy

PHẦN 2 – CHƯƠNG 4



Biên giới là hai cột biểu. Hai cột biểu đối diện nhau, im lặng và thù địch, là hiện thân của hai thế giới. Một chiếc làm bằng thân cây bào nhẵn, trơn tru, sơn vằn đen trắng như chòi canh của cảnh sát. Con diều hâu một đầu bằng gỗ đóng chắc bằng đinh to tướng vào đỉnh cột. Con diều hâu xù lông cánh, móng như bíu lấy cột sơn vằn, mỏ cong vênh vểnh ra đằng trước, mắt càu cạu nhìn cái biển sắt trước mặt. Cách sáu bước chân là chiếc cột khác, tròn trĩnh, bằng gỗ sên để mộc, chôn thật sâu xuống đất. Trên cột có một tấm biển bằng sắt mang hình búa liềm. Hai cột biển đều trồng trên một dải đất bằng, thế mà giữa hai thế giới đó là một vực sâu thăm thẳm. Người nào liều mạng mới dám vượt qua sáu bước chân đó.

Biên giới là đây.

Trên một khoảng dài hàng ngàn cây số, từ Hắc Hải chạy đến cực Bắc, cho đến tận đại dương băng giá dựng lên cả một dãy cột biển sừng sững, không động. Những người lính gác không biết nói ấy, mang trên những tấm mộc bằng sắt huy hiệu vĩ đại của lao động, đứng canh phòng cho các nước Cộng hòa Xô-viết xã hội chủ nghĩa. Chiếc cột biển đầu gắn con diều xòe cánh ấy đánh dấu biên giới giữa hai Nhà nước U-cơ-ren Xô-viết và nước Ba Lan của bọn địa chủ quý tộc. Thôn Bê-rê-dơ-đốp nhỏ xíu khuất vào rừng sâu. Cách thôn đó mười cây số là biên giới. Chỗ ấy giáp mặt với thôn Cô-rê-xơ bé nhỏ của Ba Lan. Giữa khoảng thôn Xư-la-vút và thôn A-na-pô- li là khu đóng quân của tiểu đoàn biên phòng X.

Hàng cột biển nối tiếp nhau chạy ngang cánh đồng phủ tuyết, xuyên qua các ngả rừng, đổ xuống các vực nước, rồi lại bò lên các gò cao, nhấp nhô trên các đồi núi và khi tới một con sông thì từ trên bờ cao, hàng cột đưa mắt dò xét nhìn xuống dải đồng bằng tuyết phủ trắng xóa bên kia của nước ngoài.

Trời lạnh cóng, nước đóng băng. Tuyết vỡ tan kêu răng rắc dưới gót ủng lông cừu. Trước cột biển mang hình búa liềm nổi bật lên bóng người đội mũ chiến đấu kiểu dũng sĩ, với bước đi chắc nịch, đang đi tuần trong khu vực mình. Người Vệ quân đỏ tầm vóc cao lớn ấy mặc áo ca-pốt xám, ren cổ xanh, chân đi ủng dạ. Ngoài chiếc áo ca-pốt lại khoác thêm một chiếc áo tơi cao cổ rộng bằng da cừu, đầu đội một chiếc mũ dạ ấm áp. Anh mang bao tay bằng da cừu. Cái áo tơi dài chấm gót dù bão tuyết dữ dội đến đâu cũng giữ được cho người ấm. Khẩu súng trường khoác vai đè lên áo tơi. Anh Vệ quân đỏ khoái trá hút khói thuốc mộc, đi theo lối mòn, áo dài quét tuyết. Trên biên cương Xô-viết, giữa đồng quang, các chiến sĩ biên phòng đứng người nọ cách người kia một cây số để mắt vừa nhìn thấy nhau. Bên phía Ba Lan, mỗi cây số có hai lính đứng.

Đi ngược lại phía anh Vệ quân đỏ là một người lính Ba Lan cũng đang đi tuần bên địa phận mình. Người lính Ba Lan mang đôi giày cao cổ thô kệch, mặc quần áo xanh ngả

xám, ngoài khoác áo ca-pốt có hai hàng khuy lấp lánh. Trên đầu đội mũ “liên bang” mang huy hiệu diều hâu trắng;( Một thứ mũ của dân tộc Ba Lan gọi là “Konfédératka” mà những người cách mạng thời cách mạng liên minh ở Ba Lan năm 1768 đã dùng. Về sau bọn phản động Ba Lan cũng dùng mũ này cho quân lính để che giấu những đã tâm phản cách mạng của chúng. ) trên ngù dạ ở cầu vai cũng diều hâu, trên nẹp cổ áo cũng diều hâu. Nhưng ngần ấy con diều hâu cũng không làm cho người lính thấy ấm hơn. Rét cóng làm anh ta buốt thấu xương. Anh ta lấy tay xát hai tai đã tê cóng, vừa đi vừa đập đế giày vào nhau, hai bàn tay mang găng mỏng cũng bị tê cóng. Không một phút nào anh ta có thể dừng chân được, dừng lại thì giá rét như khóa lấy chân tay. Vì thế, lúc nào anh ta cũng cứ bước, đôi lúc lại chạy như ngựa phi nước kiệu. Khi hai người lính biên phòng đã đi gần nhau, người lính Ba Lan quay lại và đi song song với đồng chí Vệ quân đỏ.

Hai bên biên giới không được nói chuyện với nhau. Nhưng khi mà chung quanh vắng tanh vắng ngắt, cách một cây số mới có bóng người, thì ai biết được hai người lính này im lặng mà đi hay đang vi phạm luật lệ quốc tế?

Người lính Ba Lan thèm hút thuốc, nhưng lại bỏ quên bao diêm ở trại. Đang lúc ấy, gió cứ cố tình tạt cái mùi thuốc lá mộc quyến rũ từ phía Xô-viết sang mới hại chứ! Người lính Ba Lan ngừng tay xát tai tê buốt của mình và quay nhìn ra đằng sau: vì đôi khi có đội ba tui, thường do tên đội dẫn đi, có lúc do chính tên quan hai dẫn đi nữa, từ trên một đỉnh núi cao nào đó nhô ra bất ngờ, để kiểm soát các trạm gác. Nhưng lần này chung quanh không một bóng người. Tuyết óng ánh sáng dưới ánh nắng. Trên trời không một bông tuyết rơi.

Đồng chí ơi, cho tôi xin que diêm. – Anh ta là người đầu tiên vi phạm điều luật quốc tế ác hại. Anh ta hất ra sau lưng khẩu súng trường kiểu bắn được mấy phát liền của Pháp, đầu có lắp lưỡi lê con kiếm, tay anh ta lóng cóng vất vả lắm mới móc trong túi áo ca-pốt ra được gói thuốc lá rẻ tiền.

Đồng chí Vệ quân đỏ nghe rõ lời khẩn cầu của anh lính Ba Lan. Song điều lệnh quân sự trong công tác biên phòng ngăn cấm chiến sĩ không được bắt chuyện với người bên kia biên giới. Hơn nữa, đồng chí không hoàn toàn hiểu hết những tiếng Ba Lan của anh lính kia. Cho nên đồng chí lại tiếp tục đi, đặt mạnh chân xỏ ủng lông cừu êm ấm lên lớp tuyết vỡ kêu lạo xạo.

Đồng chí bôn-sê-vích ơi, cho tôi xin tí lửa hút thuốc, ném cho tôi mượn bao diêm. – Lần này người lính Ba Lan nói tiếng Nga.

Người Vệ quân đỏ nhìn anh ta chăm chú. “Hình như giá rét làm cho “pan” buốt thấu gan rồi. Gọi là anh lính tư sản mà đời anh ta thật cực như con chó. Rét cóng thế này mà bọn chúng bắt anh ta ra đây, chỉ cho được manh áo ca-pốt nhỏ xíu thổ tả. Đấy, anh ta nhảy cẫng lên như thỏ, và không có thuốc thì nhảy thế cũng chẳng ấm được”. Đồng chí Vệ quân đỏ không quay đầu lại, ném sang bên kia bao diêm. Anh lính Ba Lan bắt

ngay lấy và đánh luôn mấy que, mãi mới châm được thuốc. Bao diêm lại theo đường cũ ném trả lại qua biên giới. Lúc đó đến lượt anh Vệ quân đỏ vô tình phạm luật.

Giữ lấy mà dùng, tôi còn bao khác. Nhưng từ bên kia biên giới có tiếng đáp lại.
Thôi, xin cảm ơn. Tôi mà cầm cái bao diêm này thì ăn hai năm tù mất.

Đồng chí Hồng quân nhìn bao diêm. Trên nhãn bao vẽ một chiếc máy bay. Ở chỗ đáng lẽ vẽ cánh quạt lại vẽ một quả đấm khỏe có đề chữ “Tối hậu thư”. Anh nghĩ thầm: “Ừ, mà phải, của này không hợp với họ” .

Người lính Ba Lan vẫn tiếp tục đi song song một chiều với đồng chí Hồng quân. Vì đi

một mình giữa đồng không mông quạnh, chẳng có một bóng người, anh lính Ba Lan

đó cũng thấy buồn.

*

Đôi yên nghiến kĩu kịp nhịp nhàng, hai con ngựa chạy nước kiệu đều và vững. Lông quanh mũi con ngựa giống đen nhánh dính nước đông lại: mũi nó thở ra thành lớp hơi trắng tan vào không khí. Con ngựa cái lang trắng mà người tiểu đoàn trưởng cưỡi có một dáng đi đẹp, nó nhằn nhằn dây cương, cúi cái cổ thon thon xuống thành một đường vòng cung. Hai người đi ngựa đều mặc áo ca-pốt xám, thắt dây lưng to bản, ở mỗi ống tay có ba gạch vuông đỏ, nhưng người tiểu đoàn trưởng Ga-vơ-ri-lốp thì mang lon xanh và người đồng hành của anh ta thì mang lon đỏ. Ga- vơ-ri-lốp là chiến sĩ biên phòng. Các trạm của tiểu đoàn do anh chỉ huy đóng rải ra trên một khoảng dài bảy mươi cây số. Ở đây, anh là “chủ nhân”. Người bạn cùng đi với anh là khách từ Bê-rê-dơ-đốp đến, đấy là chính ủy tiểu đoàn tổng huấn luyện quân sự tên là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin.

Đêm ấy có tuyết rơi. Tuyết mềm mại, mịn màng phủ lấy mặt đất; chưa có một móng ngựa, một vết chân người chạm tới lớp tuyết trắng xóa. Hai người từ trong rừng cây đi ngựa ra bất thình lình phi nước kiệu trên cánh đồng. Độ bốn mươi thước lại có hai cột biển.

– Pơ-ru… u…!

Ga-vơ-ri-lốp ghì riết cương ngựa. Pa-ven quay ngoắt con hắc mã lại để biết tại sao bạn mình dừng ngựa. Ga-vơ-ri-lốp từ yên ngựa rướn người ra cúi xuống, nhìn chăm chú một vết lạ lùng kéo dài trên tuyết, trông hình như có ai lăn bánh xe nhỏ qua. Có một

con thú ranh mãnh nào đã qua đây, chân nó bước chồng lên nhau, vẽ lên thành một đường mắt xích rất tinh khôn để đánh lạc dấu vết. Khó mà biết được dấu chân con vật

đi từ đâu, nhưng đồng chí tiểu đoàn trưởng dừng ngựa lại không phải vì vết chân con thú ấy. Cách hai bước nữa, lớp dấu chân hình mắt xích lấm chấm tuyết phủ ấy lại có những dấu chân khác nữa. Có một người đã qua đây. Hắn không làm rối dấu chân mà

đi thẳng về phía rừng. Xem dấu chân thì thấy rõ là người đó từ phía Ba Lan sang..

Đồng chí tiểu đoàn trưởng thúc ngựa theo dấu chân trên tuyết đi lại phía con đường vẫn đi tuần. Bên phía Ba Lan, dấu chân người đi xa có đến mươi thước nữa.

Tiểu đoàn trưởng càu nhàu:

Đêm qua có kẻ vượt biên giới. Lại một lần nữa, trung đội ba đã để lọt, vậy mà trong báo cáo sáng nay không nói gì hết ! Lơ mơ thật.

Ga-vơ-ri-lốp có bộ ria đã hoa râm, hơi thở đông lại làm bạc bộ ria ấy và bộ ria bám vào làn môi trên, trông rất nghiêm.

Có hai bóng người đi lại phía tiểu đoàn trưởng và chính ủy. Một bóng người bé nhỏ đen ngòm, có đeo lưỡi lê Pháp ánh nắng sáng loáng; còn bóng kia thì to lớn bận áo tơi da cừu vàng. Con ngựa cái màu lang trắng bị thúc rảo bước chạy và hai người đi ngựa chẳng mấy chốc đã đến gần hai bóng người kia. Người lính Hồng quân sửa lại dây đeo súng trên vai và nhổ mẩu thuốc lá đã hút tàn xuống bãi tuyết.

Chào đồng chí! Thế nào, khu vực đồng chí ở đây ra sao? – Anh lính Hồng quân to cao đến nỗi tiểu đoàn trưởng hầu như không phải cúi xuống khi giơ tay bắt. Anh chiến sĩ to lớn vội rút găng tay ra. Tiểu đoàn trưởng bắt tay anh.

Người lính Ba Lan từ xa theo dõi cảnh tượng đó. Hai sĩ quan Hồng quân bắt tay người lính như những người bạn rất hẩu với nhau. Trong nháy mắt, anh lính Ba Lan bỗng nảy ra mong ước: giá mình cũng được bắt tay lão quan tư Giắc-rếp-ski của mình như thế nhỉ ! Và mơ tưởng hão huyền ấy đột nhiên làm cho anh quay mặt đi.

Anh lính Hồng quân báo cáo:

Báo cáo đồng chí tiểu đoàn trưởng, tôi vừa mới ra nhận gác.

Đồng chí đã thấy dấu chân người đằng kia chưa?

Báo cáo chưa thấy.

-Thế đêm qua ai gác từ hai giờ đến sáu giờ?

Báo cáo đồng chí tiểu đoàn trưởng, lúc ấy Xu- rô-ten-cô gác.

Thôi được! Đồng chí nhìn cho kỹ nhớ.

Và lúc sắp đi tiểu đoàn trưởng giọng nghiêm nghị dặn trước:

– Đồng chí đừng có đi đi lại lại nhiều với bọn đó nhớ.

Khi đôi ngựa đã phi nước kiệu dọc con đường rộng chạy dài từ biên giới về thôn Bê-rê-dơ-đốp, tiểu đoàn trưởng kể chuyện:

Ở biên giới phải tỉnh mắt mới được. Sơ ý một phút là có khi ân hận cay người. Chúng tôi ở đây làm việc là phải chịu mất ngủ. Ban ngày ban mặt, chúng vượt biên giới còn khó chứ ban đêm thì mình phải thính tai mới được. Đồng chí Pa-ven ạ, đồng chí nghĩ mà xem. Ở khu vực của tôi, có bốn thôn bị cắt làm hai (Hồi này có nhiều thôn ở biên giới Liên Xô- Ba Lan bị cắt làm đôi. Liên Xô một nửa, Ba Lan một nửa) cho nên rất nhiều khó khăn. Đặt bao nhiêu trạm gác cũng chẳng ăn thua gì. Cứ hễ có đám cưới hay có việc vui mừng gì là bà con phía bên kia lại kéo sang. Không có cách nào khác nữa: nhà bên này bên kia chỉ cách nhau có hai chục bước, con sông con thì con gà cũng lội qua được. Thêm vào đấy cái nạn buôn lậu. Hàng buôn lậu lặt vặt thôi,

quả như thế. Một mụ đàn bà mang sang được chừng vài chai rượu Ba Lan 40 độ chẳng hạn. Nhưng cũng không ít những tên buôn lậu lớn có vốn rất to. Đồng chí có biết bọn Ba Lan làm gì không? Trong tất cả các thôn biên thùy, chúng đều mở cửa hàng bách hóa lớn: ai muốn mua gì cũng có. Tất nhiên, chúng làm thế chẳng phải vì nông dân nghèo khổ bên nước chúng nó đâu.

Pa-ven chăm chú nghe người tiểu đoàn trưởng. Cuộc sống của những chiến sĩ biên phòng thật là một công tác quân báo thường xuyên.

Đồng chí Ga-vơ-ri-lốp này, việc đó chỉ là buôn lậu hay còn là thế nào nữa? Tiểu đoàn trưởng, không cười nữa, đáp lại:

Cái hóc là ở chỗ ấy đấy.

Bê-rê-dơ-đốp là một thôn bé nhỏ trong tỉnh, xưa kia là khu cư trú của người Do-thái. Hai ba trăm nóc nhà dựng lên lộn xộn chẳng ra sao. Một bãi đất to họp chợ, giữa bãi là vài chục cửa hàng tạp hóa. Bãi đất bẩn thỉu, phủ đầy phân rác. Những nóc nhà nhỏ của nông dân như một cái dây lưng đánh đai lấy thôn này. Ở giữa khu người Do-thái ở, dọc đường đi đến lò lợn, có một cái nhà thờ Do-thái. Tòa nhà cũ kỹ trông thật ảm đạm. Thật ra, vào các ngày thứ bảy thì nhà thờ này không phải than phiền là vắng vẻ đâu: người đi lễ đến đông chật. Nhưng cũng chẳng được như ngày trước và cuộc đời của ông thầy tu “ráp-banh”( tên gọi thầy tu của đạo Do-thái) không được như ý ông mong muốn nữa. Nhất định là đã có chuyện gì rất tệ xảy ra vào năm 1917, vì ngay cả

đây, là nơi hẻo lánh mà bọn thanh niên nhìn thầy “ráp-banh” không còn cung kính cho phải đạo nữa. Thật ra thì những người già vẫn kiêng những món ăn Chúa cấm, nhưng đã có biết bao gã trai hư hỏng ăn thứ xúc-xích lợn mà Chúa đã từng nguyền rủa. Chỉ nghĩ đến không thôi cũng đã đủ thấy tởm! Thầy tu Bô-rúc hầm hầm giận dữ, lấy chân đá con lợn sề đang rúc mõm vào đống rác kiếm ăn. Phải, thầy chẳng ưa gì việc thôn Bê-rê-dơ-đốp trở thành một trung tâm của quận này một tí nào. Một lũ cộng sản không hiểu từ đâu kéo đến, bày đặt ra lắm trò đời và mỗi ngày một đẻ ra thêm nhiều chuyện khó chịu. Hôm qua, một thầy ráp-banh đã từng thấy ở cổng biệt thự cũ của lão cố đạo một cái biển mới: “Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ-ren, Ban chấp hành quận đoàn Bê-rê-dơ-đốp”.

Cái biển ấy chẳng phải điềm lành. Lão thầy tu đang mải suy nghĩ thì mắt chạm ngay vào tờ yết thị nhỏ dán ở cửa nhà thờ của lão.

“Hôm nay, tại câu lạc bộ, có cuộc họp của thanh niên lao động. Li-xi-xưn, chủ tịch Ban chấp hành và Ca-rơ-sa-ghin, quyền bí thư quận đoàn thanh niên, sẽ đọc báo cáo. Sau cuộc họp sẽ có hòa nhạc của học sinh trường chín năm”.

Lão thầy tu Do-thái giận dữ xé tờ giấy: – Đã bắt đầu giở trò!

Cái khu vườn rộng của lão cố đạo ôm lấy hai bên nhà thờ nhỏ thôn này. Trong vườn có một tòa nhà cổ rất lớn. Hơi mốc xông lên trong những gian phòng vắng vẻ, chán

ngắt, nơi này trước kia là chỗ ở của lão cố đạo từ lâu đã chán ghét nhau, cả hai cùng già khọm và tẻ lạnh như cái nhà vậy. Nhưng từ khi có những người chủ mới đến ở thì vẻ tẻ lạnh biến đi ngay. Trong phòng khách, chỗ trước kia chủ cũ chỉ tiếp khách vào những dịp lễ lớn, bây giờ lúc nào cũng đông người. Nhà lão cố đạo đã trở thành trụ sở của Đảng ủy Bê-rê-dơ-đốp. Trên cánh cửa một phòng nhỏ phía bên phải lối vào, có mấy chữ viết bằng phấn: “Quận đoàn thanh niên cộng sản”. Tại đây, ngày nào Pa-ven cũng đến làm việc một buổi. Anh vừa làm chính ủy của tiểu đoàn tổng huấn luyện quân sự thứ hai, vừa kiêm bí thư của quận đoàn thanh niên cộng sản vừa mới thành lập.

Kể từ buổi tối các anh chị em liên hoan ở nhà An- na đến nay đã tám tháng trôi qua. Thế mà Pa-ven có cảm tưởng như chỉ mới hôm qua. Anh gạt chồng tài liệu sang bên, ngả lưng ra ghế bành, nghĩ ngợi…

Đêm đã khuya. Trụ sở Đảng ủy không còn ai. Im ắng, tịch mịch. Đồng chí Tô-rô-phi-mốp, bí thư quận Đảng ủy, là người ở lại sau cùng cũng vừa đi khỏi. Và bây giờ Pa-ven một mình ở lại nhà. Nước đóng băng vẽ lên cửa kính những nét chạm trổ muôn hình muôn vẻ. Trên bàn một ngọn đèn dầu, lò sưởi tỏa hơi nóng ấm. Pa-ven nhớ lại những chuyện xảy ra cách đây không lâu. . . Tháng Tám, tổ chức ở nhà máy đã phái anh đi phụ trách thanh niên trong “chuyến tàu sửa chữa” đến E-ca-chê-ri-nô-sláp. Suốt cả mùa thu, một trăm rưởi thợ đã đi từ ga này đến ga kia, dọn dẹp vết tích chiến tranh và tàn phá, thu vén những toa tàu bị cháy, bị đổ nát. Chuyến tàu đi từ Xi-nhen-nhi-cốp đến Pô-lốc. Vùng này chính là đất xưng hùng xưng bá trước kia của tên phỉ Ma-khơ-nô, cho nên mỗi bước đều gặp dấu vết phá hoại và giết chóc. Ở Gu-lay Pô-lê, mất một tuần lễ để sửa chữa kho nước, đặt những mảnh tôn vào lòng thùng nước đã bị mìn làm thủng đáy. Pa-ven vốn là thợ điện nên không thuộc nghề và không am hiểu kỹ thuật và những khó khăn của nghề thợ nguội, vậy mà bàn tay anh với cái lắc-lê đã vặn đến mấy nghìn đinh ốc gỉ sét.

Cuối mùa thu, chuyến tàu lại trở về nhà máy. Nhà máy lại nhận một trăm rưởi đôi tay thợ…

Người ta thấy người thợ điện Pa-ven năng đến nhà An-na hơn. Trên trán anh, nếp nhăn đã biến đi và lại hay nghe thấy những tiếng cười lôi cuốn của anh vang lên. Bạn bè dự các nhóm học tập lại được nghe Pa-ven kể chuyện những năm đấu tranh qua đã lâu rồi. Anh kể về nước Nga xưa kia xơ xác, tả tơi, thân nô lệ mà lòng bất khuất, nước Nga đã từng vươn lên lật đổ con ác quỷ Nga hoàng. Anh kể về những cuộc khởi nghĩa của Stê-pan Ra-din và Pu-ga-sốp.

Stê-pan Ra-din, người anh hùng Cô-dắc sông Đông đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lớn chống phong kiến của nông dân và dân tộc Cô-dắc chống lại Nga hoàng, từ năm 1667 đến năm 1671.

E-mê-liên Pu-ga-sốp, nhà lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa rất lớn có phạm vi toàn quốc

chống phong kiến của nông dân Cô-dắc nước Nga vào thế kỷ 18.)

Một buổi tối, anh em thanh niên đến họp ở nhà An-na, người thợ điện Pa-ven hôm đó đột nhiên bỏ một thói quen có hại, mắc từ lâu. Anh quen hút thuốc, gần như từ bé đã hút, thế mà tuyên bố bằng một giọng quả quyết, dứt khoát rằng: – Tôi không hút thuốc nữa.

Chuyện ấy xảy ra đột ngột. Đang nói chuyện có một người nêu lên thói quen là bản năng thứ hai của con người, do đó, gây ra tranh luận; người đó lấy tật nghiện thuốc lá ra làm ví dụ. Ý kiến bất đồng. Anh thợ điện Pa-ven không tham gia vào cuộc tranh luận. Nhưng Ta-li-a kéo Pa-ven vào, bắt nói. Anh nói điều mình nghĩ:

Chính con người chỉ huy thói quen của mình, chứ không phải thói quen chỉ huy con người. Nếu không thế thì con người ta sẽ đi đến đâu?

Svê-tai-ép từ góc anh ta ngồi, nói to ra:

Nói thế nghe thì kêu lắm. Pa-ven vẫn thích cái lối nói như thế. Nhưng nếu đem bắc cân lời nói và việc làm thì thấy gì? Bản thân Pa-ven có hút không? Có hút. Pa-ven có biết hút thuốc lá có hại không? Có biết. Nhưng bỏ thuốc thì muộn rồi. Cậu ta không có gan bỏ. Gần đây, Pa-ven lại mới khởi xướng ra một “phong trào văn hóa” trong các nhóm học tập đấy. – Và Svê-tai-ép đổi giọng, hỏi có vẻ chế nhạo: – Hãy để cho Pa-ven trả lời chúng ta: Pa-ven có còn văng tục nữa không? Ai biết Pa-ven cũng đều phải nói: cậu ấy đã ít chửi tục, nhưng đã chửi thì lại chửi rất tệ. Nghề đời, thuyết pháp người ta vẫn dễ hơn là tự mình làm thánh.

Gian phòng trở nên im lặng. Giọng đả kích của Svê tai-ép làm cho mọi người cảm thấy khó chịu. Người thợ điện Pa-ven không trả lời ngay. Anh từ từ rút điếu thuốc đang ngậm ở miệng ra, vò nát điếu thuốc và nói, giọng vẫn như thường:

Tôi không hút thuốc nữa.

Tôi làm thế trước hết là ích cho tôi và đồng thời cũng ích phần nào cho Svê-tai-ép. Kẻ nào không bỏ được tật xấu của mình thì kẻ đó chẳng đáng một đồng kẽm. Tôi còn tật chửi tục nữa. Tôi vẫn chưa hoàn toàn thắng hẳn được cái thói nhục nhã ấy. Nhưng ngay Svê-tai-ép cũng nhận rằng ít nghe thấy tôi chửi tục nữa. Văng ra một lời nói tục còn dễ hơn châm một điếu thuốc hút. Vì vậy cho nên ngay bây giờ, tôi chưa dám nói là đã bỏ hẳn được chửi tục. Nhưng rồi tôi sẽ bỏ được, chắc chắn là như vậy.
*

Bước vào mùa đông, gỗ trôi về ngáng lấy cả dòng sông. Cơn nước lũ mùa thu đã xô vỡ hết các bè củi và củi gỗ cứ thế bị nước cuốn trôi về xuôi. Khu Xô- lô-men-ca lại tung thanh niên đi cứu lấy của rừng.

Pa-ven không muốn rớt lại sau anh em, nên giấu không cho anh em biết là mình đã bị cảm mạo nặng. Và một tuần sau, khi trên các bến sông, củi gỗ vớt lên đã chất đống cao như núi thì nước lạnh buốt và khí ẩm mùa thu đã làm thức tỉnh kẻ thù lâu nay còn

ngủ im trong máu Pa-ven: anh bị sốt, nóng như than, nằm liệt giường. Trong hai tuần lễ, cơ thể anh bị bệnh tê thấp ác tính giày vò và khi ra bệnh viện, anh đứng chưa vững, làm việc cứ phải ngồi buông hai chân trên bàn thợ như “cưỡi ngựa”. Đốc công nhìn anh chán ngán lắc đầu. Mấy ngày sau, ủy ban công bằng(ở các nhà máy có lập ra ủy ban này, làm việc không thiên vị ai nên gọi là ủy ban vô tư hay công bằng ) đã công nhận anh là người không thể lao động được nữa. Người ta thanh toán tiền công còn lại cho anh và cho lĩnh thêm một số tiền trợ cấp nữa, làm anh nổi giận; từ chối không nhận số tiền ấy.

Anh giã từ công xưởng, lòng nặng trĩu, chống gậy lững thững ra về, mỗi bước chân nhấc đi lại đau điếng người. Mẹ đã nhiều lần viết thư cho anh, mong con về thăm. Và bây giờ đây, anh nghĩ đến bà cụ, nhớ lại lời mẹ nói lúc ra đi: “Chỉ khi nào chúng mày bị ốm đau thương tật, mẹ mới được trông thấy mặt chúng mày thôi!”

Đến tỉnh ủy, anh nhận hai tập hồ sơ cá nhân cuộn tròn lại: hồ sơ Đoàn và hồ sơ Đảng. Để khỏi làm tăng nỗi đau buồn cho mình, anh chẳng đến chào biệt ai cả, về thẳng nhà với mẹ. Suất hai tuần, bà cụ chườm nước nóng và xoa bóp hai chân sưng cho con; được một tháng thì Pa-ven đã đi được không cần chống gậy nữa: nỗi vui mừng tràn ngập trong lòng anh và buổi chiều tàn thế là lại đổi ra cảnh bình minh. Con tàu đưa anh đến tỉnh lỵ. Ba ngày sau, ban tổ chức cấp cho anh giấy giới thiệu điều anh đến nhận công tác của ủy ban quân sự tỉnh, làm chính trị viên ở cơ quan tổng huấn luyện quân sự đang thành lập lúc bấy giờ.

Sau đấy một tuần nữa, anh đến đây, đến thôn nhỏ ngập trong tuyết này, làm chính ủy

tiểu đoàn số hai. Ở Liên quận Đoàn thanh niên cộng sản, anh nhận nhiệm vụ tập hợp

các đoàn viên lâu nay bị phân tán lại và lập ra tổ chức đoàn ở khu mới này. Đấy, đời

anh đã xoay chiều ra như vậy đấy.

*

Ngoài trời nóng dữ. Cành anh đào ngó đầu vào cửa sổ bỏ ngỏ nơi phòng làm việc của chủ tịch Ban chấp hành. Mặt trời rọi sáng cây thập tự mạ vàng trên gác chuông kiểu gô-tích của nhà thờ ở phía bên kia đường, đối diện với trụ sở Ban chấp hành. Trong khu vườn nhỏ, trước cửa sổ, đàn ngỗng con bé tí xíu của bà gác cổng trụ sở ủy ban nhanh nhảu chạy tìm ăn. Những con ngỗng mới nhú lông tơ màu xanh dịu như cỏ non quanh mình chúng.

Chủ tịch ủy ban đã đọc xong bức điện vừa nhận được Một bóng tối chạy qua mặt đồng chí. Bàn tay to gân guốc của đồng chí thọc vào mái tóc quăn rậm và nằm yên ở đấy.

Nhi-ca-lai Nhi-ca-lai-ê-vích Li-xi-xưn là chủ tịch Ban chấp hành Bê-rê-dơ-đốp: đồng chí chỉ mới hai mươi bốn tuổi, nhưng anh chị em cán bộ Đảng và những người giúp việc chẳng ai ngờ là đồng chí ít tuổi đến thế cả. Li-xi-xưn người to lớn, khỏe mạnh, nét mặt nghiêm nghị và đôi khi dữ tướng, trông bề ngoài tưởng chừng như tuổi đã ba

mươi lăm. Người đồng chí rắn chắc lại, đầu to cắm trên cái cổ vạm vỡ, cặp mắt nâu minh mẫn nhìn hơi lạnh nhạt, cằm bạnh đầy nghị lực. Li-xi-xưn mặc quần cộc xanh thẫm, áo lót xám, túi trên bên trái mang huân chương Cờ đỏ.

Trước tháng Mười, Li-xi-xưn “chỉ huy” chiếc máy tiện ở nhà máy chế tạo vũ khí Tu-la. ông đồng chí, cha đồng chí và bản thân đồng chí hầu như từ lúc còn bé đã cắt và gọt sắt ở đấy.

Từ cái tối mùa thu ấy, lần đầu tiên trong đời, Li- xi-xưn cầm vũ khí mà trước kia anh chỉ làm ra thôi; bão táp đã cuốn anh đi. Cuộc cách mạng và Đảng đã kéo anh từ trận lửa này đến trận lửa khác. Người thợ quân khí vùng Tu-la đó đã trải qua cả một con đường quang vinh: mới đầu là binh nhì, anh đã trở thành sĩ quan chỉ huy và chính ủy trung đoàn của Hồng quân.

Lửa cháy, đạn réo đã thuộc về dĩ vãng rồi. Hiện nay, Li-xi-xưn công tác ở biên khu này. Cuộc đời lặng lẽ trôi đi. Ngày ngày, anh ngồi đến tối khuya nghiên cứu những báo cáo về tình hình mùa màng; nhưng bức điện hôm nay bỗng làm anh vụt sống lại trong chốc lát dĩ vãng lửa đạn. Bức điện viết gọn, ngắn:

“Tối mật. Gửi chủ tịch Ban chấp hành Bê-rê-dơ-đốp: đồng chí Li-xi-xưn.

biên giới, quan sát thấy bọn Ba Lan tích cực chuyển đến một đám thổ phỉ quan trọng có thể gây khủng bố các vùng biên thùy. Đồng chí thi hành ngay những biện pháp đề phòng. Đề nghị tiền bạc và vàng của ngân khố cho chuyển đến liên quận ngay, đừng giữ tiền thuế ở nhà đồng chí”.

Nhìn qua cửa sổ phòng làm việc của mình, Li-xi- xưn trông thấy được hết những ai đi vào trụ sở Ban chấp hành. Pa-ven đang leo lên thềm. Một phút sau, anh đập cửa. Li-xi-xưn bắt tay Pa-ven.

– Cậu ngồi xuống, mình bàn chuyện này.

Suốt một tiếng đồng hồ, chủ tịch Ban chấp hành không tiếp một ai.

Pa-ven ở phòng làm việc của Li-xi-xưn bước ra thì trời đã đứng bóng. Cô bé Nhu-ra, em gái Li-xi-xưn, từ trong vườn chạy ra. Pa-ven thường gọi em bé là A-nhu-ca. Cô bé hay thẹn và tuy còn nhỏ tuổi mà vẻ người rất đoan trang, hễ cứ gặp Pa-ven là chào, miệng bao giờ cũng chúm chím cười đến ngoan. Hôm nay, cô bé cũng chào với một vẻ ngượng nghịu trẻ con, hất ngược chùm tóc cắt ngắn xòa trên trán.

Nhu-ra hỏi:

– Có ai trong buồng anh em không anh. Nãy giờ, chị Ma-ri-a đợi mãi anh em về ăn cơm.

– Có mình anh ấy trong phòng thôi. Em vào gọi được đấy A-nhu-ca ạ.

Sớm hôm sau, trời còn lâu mới sáng, có ba chiếc xe đóng ngựa béo tốt, dừng trước trụ sở Ban chấp hành. Những người đi áp tải xe nói chuyện nhỏ với nhau. Họ mang từ trong phòng tài vụ ra nhiều túi niêm phong, xếp lên xe và mấy phút sau, bánh xe đã lăn ầm ầm trên đường nhựa. Pa-ven chỉ huy một tiểu đội đi áp tải. Vượt bốn chục cây

số (trong đó có hai mươi nhăm cây số đường rừng) đến liên quận không một trở ngại gì. Tiền và vàng được cất vào các két sắt của của ty tài chính liên quận. Mấy ngày sau, một người đi ngựa từ phía biên giới phi về phía Bê- rê-dơ-đốp. Những người vô công rồi nghề trong thôn ngơ ngác nhìn theo người đi ngựa và con ngựa ướt đẫm mồ hôi, sùi bọt mép.

Đến trước cửa trụ sở Ban chấp hành, người đi ngựa tụt xuống đất, và tay cầm kiếm, anh ta lọc cọc nện gót ủng trên bậc thềm. Li-xi-xưn cau mày, nhận thư trong tay người kia, bóc ra và ký lên phong bì. Người lính biên phòng đó không để ngựa nghỉ, nhảy phốc lên yên, phi nước đại trở về.

Không ai biết được nội dung bức thư kia, ngoài đồng chí chủ tịch Ban chấp hành. Nhưng những người dân ở thôn này đã đánh hơi thính như chó săn. Cứ ba người bán hàng tạp hóa ở đây, ít nhất cũng có hai đứa là dân buôn lậu vặt và cái nghề ấy vốn rèn linh tính đoán trước nguy biến.

Có hai người bước nhanh trên hè phố đi về phía bộ tham mưu của tiểu đoàn tổng huấn luyện quân sự. Một trong hai người đó là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin. Nhân dân ở đấy đều biết anh, lúc nào anh cũng mang vũ khí bên mình. Nhưng hôm nay, người cùng đi với Pa-ven là Tơ-rô-phi-mốp, bí thư Đảng ủy, cũng mang một khẩu súng ngắn ở dây lưng, thì đấy là một dấu hiệu không hay rồi.

Mấy phút sau đã có chừng mươi mười lăm người, từ trong bộ tham mưu chạy ra, người nào cũng có súng lắp lưỡi lê tuốt trần; họ chạy về phía cối xay máy ở ngã tư. C c đảng viên và đoàn viên thì nhận vũ khí phát ở trụ sở Đảng ủy. Đồng chí chủ tịch Ban chấp hành phi ngựa, đầu đội mũ Cô-dắc, khẩu súng Mô-de muôn thuở đeo bên hông. Không còn ngờ gì nữa: lại có chuyện gì không ổn xảy ra. Quảng trường và các phố nhỏ vắng tanh như chết: không một bóng người lảng vảng. Chỉ trong nháy mắt, các cửa hàng tạp hóa đã đóng hết cửa chớp, những chiếc khóa to tướng kiểu cổ, khóa kín các cổng. Chỉ còn những con gà mái táo gan và những con lợn mình nhẽo ra vì nóng nực là còn cố rúc vào đống rác bẩn hí húi kiếm ăn. Bộ đội vào bố trí trong vườn cây ăn quả ở rìa thôn. Từ đấy là bắt đầu cánh đồng làng, và bố trí ở đấy nhìn thấy rõ đằng xa con đường cái thẳng tắp. Thông báo mà Li-xi-xưn nhận được chỉ có mấy dòng chữ ngắn:

“Đêm qua trong khu vực thôn Pết-đúp-xi, một toán phỉ đi ngựa có chừng một trăm tay kiếm và hai súng liên thanh, sau một trận xô xát với ta, đã vượt qua được biên giới lọt vào lãnh thổ Xô-viết. Đồng chí hãy thi hành mọi biện pháp đối phó. Dấu vết bọn phỉ đến khu rừng Sla-vút thì mất. Ngày hôm nay sẽ có một đại đội chiến sĩ Cô-dắc đỏ chạy qua Bê-rê-dơ-đốp truy kích bọn phỉ. Báo đồng chí biết để khỏi nhầm… Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn độc lập biên phòng.

Ga-vơ-ri-lốp”.

Một giờ sau, có người đi ngựa hiện ra trên con đường chạy về phía thôn Bê-rê-dơ-đốp.

Cách một cây số, sau người đó, có một đại đội kỵ binh. Pa-ven chăm chú nhìn ra phía trước. Người đi ngựa tiến lại gần, vẻ thận trọng, nhưng không nhìn thấy ta bố trí trong vườn cây. Đấy là một chiến sĩ Hồng quân trẻ tuổi của Trung đoàn Hồng quân Cô-dắc thứ mười bảy. Lần đầu tiên, anh được phái đi trinh sát. Những người từ trong vườn đổ ra vây lấy anh đột ngột; anh thấy trên áo va-rơ của họ đều có huy hiệu Đoàn thanh niên cộng sản thì mỉm cười vẻ hơi lúng túng. Sau mấy lời trao đổi ngắn, anh quay ngựa lại, phi đến đại đội kỵ binh đang chạy nước kiệu. Anh em bộ đội địa phương để cho các chiến sĩ Hồ;ng quân Cô-dắc đi rồi mới trở lại vị trí trong vườn như cũ.

Nhiều ngày lo âu trôi qua. Li-xi-xưn nhận được bản tin báo bọn phỉ không mở rộng được hoạt động biệt kích của chúng: bị kỵ binh Cô-dắc đỏ lùng riết, chúng bắt buộc phải vội vàng vượt biên giới trở về bên kia.

Nhóm đảng viên bôn-sê-vích ở đây số lượng quá ít: trong toàn khu chỉ có mười chín người. Họ làm việc rất khẩn trương trong công cuộc xây dựng Xô- viết. Cơ sở trong quận còn non yếu. Phải xây dựng lại tất cả. Vị trí gần biên giới bắt mọi người phải cảnh giác

Việc tuyển cử lại các Xô-viết, cuộc đấu tranh chống phỉ, công tác văn hóa, cuộc đấu tranh chống bọn buôn lậu, công tác quân sự của Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản – đấy là cả một cái vòng công tác quay cuồng suốt từ sáng tinh sương cho đến tận đêm khuya, công việc ấy thu hút tất cả cuộc đời của Li-xi-xưn, của Tơ- rô-phi-mốp, của Pa-ven và một số cán bộ mà các anh đã tập hợp được.

Từ trên mình ngựa nhảy xuống là đến ngay bàn giấy, từ bàn giấy lại nhảy ra quảng trường, nơi các trung đội thanh niên tập luyện quân sự; rồi lại đến câu lạc bộ, trường học, hai ba cuộc họp. Còn ban đêm thì ngựa, súng Mô-de bên hông và tiếng quát: “Ai, đứng lại”, tiếng bánh xe ngựa mang hàng lậu nước ngoài phóng chạy trốn – đấy tất cả ngần ấy thứ chiếm hết ngày và nhiều khi hết cả đêm nữa của người chính ủy tiểu đoàn hai.

Quận đoàn thanh niên cộng sản Bê-rê-dơ-đốp gồm Pa-ven, Li-đa Pô-lê-vích – một cô gái vùng sông Vôn- ga mắt híp, phụ trách nữ thanh niên – và Ra-dơ-va- li-khin Giên-ca – một tay học trò ly-xê ngày trước, người cao dong dỏng, vẻ bảnh trai, “còn non tuổi mà đã sớm hiểu nhiều điều” như người ta thường nói, một tay thích.những chuyện kỳ hùng mạo hiểm, rất thuộc những chuyện Xéc-lốc Hôm và Luy-y Bút-xê- na. Ra-dơ-va-li-khin trước đã từng làm trưởng phòng hành chính của đảng ủy quận, cách đây bốn tháng mới vào Đoàn thanh niên cộng sản, nhưng trong đám đoàn viên thì vẫn ra vẻ ta đây là “đảng viên bôn-sê- vích lão thành”. Không còn ai để gửi đến Bê-rê-dơ-đốp nên sau khi suy nghĩ khá lâu, liên quận ủy đã phái Ra-dơ-va-li-khin đến đây làm “cán bộ chính trị”.

Mặt trời lên đúng ngọ. Hơi nóng ùa vào cả những chỗ mát nhất, mọi loài vật đều nấp dưới mái nhà; ngay những con chó con cũng bò xoài dưới những kho chứa rơm và

nằm uể oải ngã vật vã, mình nhẽo ra vì nóng. Hình như mọi sinh vật đều bỏ làng này đi cả, chỉ còn có con lợn sề đang nằm rúc trong vũng bùn cạnh giếng, miệng kêu ủn ỉn có vẻ thú vị lắm.

Pa-ven cởi dây buộc ngựa và đôi môi cắn chặt với nhau để nén cơn đau buốt nhoi nhói ở đầu gối chân, anh trèo lên ngựa. Cô giáo đứng trên thềm nhà trường, tay che mặt cho khỏi chói nắng.

– Thôi chào đồng chí chính ủy. – Cô nói và mỉm cười.

Con ngựa giậm chân sốt ruột, cổ gập lại mà giật dây cương.

Chào đồng chí Ra-ki-chi-na nhé ! Thế là đã quyết định rồi đấy: mai đồng chí sẽ đến dạy bài đầu.

Con ngựa cảm thấy dây cương thả lỏng liền phi nước kiệu. Ngay lúc ấy có tiếng gào thét dữ tợn đưa đến tai Pa-ven. Những khi xảy ra cháy nhà thì những người đàn bà nhà quê vẫn thường kêu la inh ỏi như thế. Dây cương giật mạnh kéo con ngựa quay phắt trở lại, và Pa-ven trông thấy một chị nông dân trẻ thở hồng hộc từ ria làng chạy ra. Cô giáo Ra-ki-chi- na bước ra giữa đường, ngăn chị lại. Dân làng lũ lượt kéo ra cổng, số đông là các ông già bà cả. Những người trai tráng đều bận làm ngoài đồng.

Các ông các bà ơi, lại xem ngoài kia kìa! Có trời đất nào như thế được không? Có thể nào như thế được không?

Khi Pa-ven phi ngựa lại gần thì dân làng từ khắp các ngả đã chạy đến. Người ta quây lấy chị nông dân, kéo tay chiếc áo trắng của chị, tiếng hỏi dồn, giọng hoảng hốt, nhưng nghe chị nói lung tung chẳng còn ai hiểu đầu cua tai nheo ra sao! Có một ông cụ già râu xồm xoàm, một tay giữ cái quần vải ngắn, nhảy cẫng lại gần trông bộ rất kỳ quặc, cụ sấn sổ hỏi chị ta:

Đừng la gào lên như người điên ấy! Người ta đánh nhau ở đâu? Tại sao lại đánh nhau? Thôi, đừng có la ồn lên nữa, trời ạ!

Làng ta với dân Pốt-đúp-xi đánh nhau… vì chuyện bờ ruộng! Bên Pốt-đúp-xi đang đánh người làng ta chết đến nơi kia kìa!

Mọi người đã hiểu cơn tai họa. Ngoài đường, tiếng phụ nữ rống lên, các cụ già tru tréo điên cuồng. Và tiếng la hét chạy khắp làng, nhao lên khắp sân các nhà, như tiếng báo động cấp cứu: “Bọn Pốt-đúp-xi, vì chuyện bờ ruộng, lấy liềm giết chết người làng ta!” Dân làng ai có thể đi được là từ nhà chạy túa ra, vác đinh ba, vác rìu hay vác độc có chiếc cọc rào nhổ lên. Họ chạy ra đồng đến chỗ ẩu đả đổ máu, nơi dân hai thôn đang giải quyết vấn đề tranh chấp hàng năm về chuyện bờ ruộng.

Pa-ven quất dữ vào mình ngựa, con ngựa lồng lên phi ngay lập tức. Hăng lên vì tiếng thúc của chủ, con ngựa vượt toán người đang chạy, phi nhanh lên phía trước. Hai tai rạp vào đầu, co chân giơ cao, con ngựa cắm cổ chạy như bay. Trên một quả đồi, chiếc cối xay gió giương cánh quạt ra tứ phía như cản đường. Bên phải cối xay, ở bãi đất thấp, cạnh bờ sông là cánh đồng cỏ. Bên trái, một cánh đồng lúa mạch chạy dài xa

tắp, lúc thì đổ xuống những bờ lạch. Gió hây hây lướt trên lúa chín như vuốt ve. Hoa mào gà rực bên đường. Sự yên lặng và nồng nực khó chịu bao trùm lấy chỗ này. Chỉ có xa xa, ở chỗ dòng sông lấp lánh như con rắn bạc uốn mình sưởi nắng là có tiếng kêu vọng lại.

Con ngựa nhào xuống dốc, lao vút về phía đồng cỏ. Một ý nghĩ thoáng qua đầu Pa-ven: “Nếu vấp chân thì cả mình lẫn nó đều chết mất!”. Nhưng không thể nào ghìm ngựa được nữa. Rạp mình sát bờm ngựa, Pa-ven nghe gió rít bên tai. Con ngựa trổ ra đồng cỏ, hăng như điên. Người ta đang đánh nhau dữ tợn như cuồng như dại ở đằng ấy. Mấy người mình đẫm máu nằm sóng sượt trên đất.

Một người nhiều râu, tay cầm cái cán liềm gãy, đang đuổi theo một anh con trai mặt bê bết máu; người nhiều râu chạy xô vào ức con ngựa bị ngã lộn nhào ra đất. Một nông dân chắc khỏe da sạm nắng đang lấy giày ống nặng trịch đá lấy đá để đối thủ đã ngã vật trên đất, cố tình muốn cho anh ta đến phải “hồn lìa khỏi xác”.

Dồn tất cả sức nặng của con hắc mã, Pa-ven phi ngựa thọc sâu vào đám đông, làm cho bọn đang ấu đả nhau chạy tán loạn. Không để cho họ hoàn hồn, anh điên người quay ngoắt ngựa lại lao vào đám đông hầm hầm hung hãn như thú dữ. Cảm thấy chỉ có cách cũng làm ra hung hãn, cũng làm cho khiếp sợ mới giản tán được đám người bê bết máu này, anh điên người thét lên:

– Hãy buông nhau ra, lũ khốn! Tao sẽ bắn chết hết này, bọn thổ phỉ!

Và rút khẩu Mô-de trong bao ra, Pa-ven bắn lướt qua một cái mặt đang nhăn nhó giận dữ. Con ngựa nhảy một cái – một phát súng nữa. Nhiều người vất liềm quay đầu chạy. Người chính ủy phi ngựa khắp đồng cỏ như điên giận, không để cho khẩu súng im miệng, và anh đã đạt được ý muốn: đám người từ cánh đồng cỏ chạy tỏa ra bốn phía để tránh mang vạ vào mình và tránh cái con người không hiểu ở đâu tới lồng lộn, dữ tợn, đáng sợ với “cái máy thổ tả” bắn không ngừng đó.

Ít lâu sau, tòa án quận đến Pốt-đúp-xi. Đồng chí chánh án nhân dân hỏi những người làm chứng rất lâu mà không tìm ra kẻ thủ mưu. Sau cuộc ẩu đả, không có ai chết, những người bị thương cũng đã lành. Đồng chí chánh án bền bỉ, với đức tính kiên nhẫn của người bôn-sê-vích, đã cố gắng giải thích cho những người nông dân đang đứng sầm mặt ở trước đồng chí tất cả tính chất dã man và không thể nào tha thứ được của cuộc ẩu đả mà họ đã gây ra.

Thưa đồng chí chánh án, đấy là lỗi tại cái bờ ruộng, ranh giới bờ ruộng của chúng tôi bị lẫn lộn. Vì thế cho nên năm nào cũng sinh ra đánh nhau.

Tuy thế vài người cũng phải trả lời về những việc làm của họ.

Sau đấy một tuần, có một ủy ban đến cắm cột mốc ở chỗ xảy ra tranh chấp trên đồng cỏ. Ông cụ già làm nghề đo đất, mình đẫm mồ hôi, mệt lử vì say nắng và vì phải đi lại nhiều, vừa cuộn cái thước dây, vừa nói với Pa-ven:

Tôi đã đo đất ba mươi năm trời nay rồi và ở đâu cũng thế, bao giờ cũng thế, cái bờ

ruộng là duyên cớ gây ra bất hòa. Đồng chí cứ nhìn đường phân giới các đồng cỏ mà xem! Thật là kỳ quái! Người say rượu bước đi còn thẳng hơn. Còn những đám ruộng? Rộng có ba thước mà cũng đám này lấn lên đám kia. Phân giới thế nào bây giờ? Phân giới được thì cũng đủ loạn óc mất. Thế mà hàng năm các đám ruộng cứ bị chia nhỏ, chia nhỏ ra mãi. Con ra ở riêng, tách khỏi bố – thế là đám ruộng lại tách ra làm đôi. Tôi dám chắc với đồng chí là chỉ hai mươi năm nữa, cái cánh đồng chỉ còn toàn là bờ ruộng dày chi chít, rồi chẳng có chỗ mà gieo lúa nữa đâu. Ngay bây giờ đã có mười phần trăm đất để làm bờ ruộng, không trồng trọt gì được. Pa-ven mỉm cười:

Đồng chí đo đất ạ, hai mươi năm nữa thì ở ta chẳng còn một cái bờ ruộng nào cho mà xem.

Ông già nhìn người nói chuyện với mình bằng cặp mắt độ lượng.

Ý đồng chí nói đến xã hội cộng sản có phải không? Chà, chắc đồng chí thừa hiểu rằng cái đó còn là chuyện xa xôi lắm.

Thế cụ có biết nông trang tập thể Bu-đa-nốp không?

À ra đồng chí nghĩ đến cái nông trang ấy đấy?

Phải.

Tôi có đến Bu-đa-nốp… Nhưng đấy dù sao vẫn là chuyện ngoại lệ, khác thường, đồng chí Pa-ven ạ.

Ủy ban đo xong. Hai thanh niên cắm cọc xuống. Hai bên cánh đồng, bà con nông dân đứng giương mắt chăm chăm theo dõi; cọc cắm ở chỗ cũ, mốc cũ là những chiếc gậy vót nhọn đã mục dở, chỉ còn từng quãng, từng quãng nhú lên trong cỏ rậm.

*

Người đánh xe quất mạnh đầu roi vào con ngựa gầy và quay lại phía những người khách ngồi trên xe. Bác ta là một người chất phác hay nói bô bô. Bác ta kể:
Ai mà biết được những ông côm-xô-môn ( Đoàn viên thanh niên cộng sản) ấy ở đâu hiện ra? Trước ở đây chẳng hề có. Tất cả chuyện đó tôi cho là khởi đầu tự cái cô giáo tên là Ra-ki-chi-na, chắc bà con đều biết chứ? Cô ấy còn trẻ, nhưng có thể nói là người đến tai hại. Cô ấy khuấy tất cả các mụ già trong làng này lên, tập hợp họ lại rồi làm náo cả lên. Vì thế mà làng này không yên nữa. Ngày trước, đáng lẽ công bằng ra thì phải cho mụ nhà tôi cái tát vào miệng, làm thế là mụ sụt sịt mấy cái và câm ngay. Nhưng bây giờ tốt nhất là đừng có đụng đến mụ, đụng vào mụ là phải biết. Mụ lôi ngay tòa án nhân dân ra mà nói vào mặt mình; còn nếu là các bà còn trẻ thì là dọa ngay ly dị và kể vanh vách ra mọi thứ đạo luật. Cái mụ Gan-ca nhà tôi thật hiền như cục đất, không có ai lại hiền và ít lời như mụ, thế mà bây giờ làm đại biểu đại biếc đấy. Chừng như là làm trùm món phụ nữ ở thôn tôi ấy mà. Tất cả các bà trong làng đều kéo đến tìm gặp mụ. Lúc đầu, tôi những muốn dần cho mụ Gan-ca nhà tôi mấy roi ngựa, nhưng sau nghĩ lại tôi lại thôi. Thôi, mặc xác họ ! Cứ để cho họ lắm miệng

cho thích. Mụ nhà tôi việc nhà việc cửa được cái đảm đang, thế là đủ, tôi cũng chẳng phàn nàn gì về mụ nó cả.

Bác đánh xe đưa tay lên gãi cái ngực lông lá, áo sơ mi để hở, rồi lấy roi quất vào bụng

ngựa. Trên xe có Ra-dơ-va-li-khin và Li-đa, cả hai đều có việc ở Pốt- đúp xi: Li-đa

muốn đến tổ chức họp các nữ đại biểu, còn Ra-dơ-va-li-khin thì đến sắp xếp công tác

của chi bộ thanh niên cộng sản.

Li-da hỏi đùa bác đánh xe ngựa:

Thế ra bác không ưa thanh niên côm-xô-môn hay sao? Bác ta kéo râu và chậm rãi trả lời:

Nói thật ra, tôi chẳng có gì phản đối… Tuổi trẻ có thể chơi bời được. Diễn một vở kịch hay làm một cái gì đấy. Chính tôi khi nào có vở kịch vui gì đáng xem là tôi rất thích xem. Lúc đầu, chúng tôi cũng tưởng là bọn trẻ sẽ họp nhau lại làm ba lăng nhăng. Nhưng không, câu chuyện lại ngược hẳn lại. Người ta nói rằng bọn họ rất nghiêm khắc đối với những chuyện rượu chè, du côn vô lại và các chuyện chơi bời bậy bạ khác. Họ lại chăm học hành. Chỉ phải cái họ hay nhạo đức Chúa lời và cứ khăng khăng đòi lấy cái nhà thờ làm câu lạc bộ. Trong việc này họ trái hẳn đi rồi. Vì cái chuyện này mà các cụ già xem những người côm-xô-môn chẳng ra gì và ghét cay ghét đắng bọn họ. Nhưng ngoài chuyện ấy ra thì được thôi! Chỉ có một điều làm tôi thắc mắc là họ chỉ kết nạp con nhà cùng khổ, cố nông hay bần nông thôi. Họ không cho con nhà giàu vào.

Chiếc xe ngựa xuống dốc và đỗ trước cửa trường học.

Bà cụ gác cổng dọn giường cho khách nằm trong phòng mình, còn bà thì ra ngủ ngoài nhà kho chứa cỏ khô. Li-đa và Ra-dơ-va-li-khin vừa mới ở hội nghị về. Cuộc họp đã kéo dài quá. Trong căn nhà tranh, tối om om, Li-đa tháo giày ra, leo lên giường và ngủ thiếp ngay. Hai bàn tay Ra-dơ-va-li-khin chạm rất thô bạo vào người chị làm chị thức giấc dậy: hắn định giở trò, điều đó thế nào, chẳng còn phải ngờ gì nữa.

Anh làm cái gì thế?

Khẽ chứ, Li đa, Li-đa nói to thế? Li-đa hiểu cho, tôi nằm trơ một mình một giường chán quá. Khỉ thật. Thế Li-đa, Li-đa không biết có gì thú hơn là ngủ say như chết à?
Buông tay ra và xéo ngay khỏi giường tôi lập tức, cút đi đâu thì cút!

Li-đa ẩy tay ra. Từ xưa nay, chị đã không thể nào chịu được cái cười khả ố của Ra-dơ-va-li-khin. Lúc này chị muốn nói vào mặt Ra-dơ-va-li-khin một điều gì thật nhục và thật đau cho hắn. Nhưng chị buồn ngủ quá, nhắm nghiền mắt lại ngay.

Cứ màu mè làm gì thế? Làm như là thượng lưu trí thức không bằng? Hay là cô tốt nghiệp trường dạy con nhà trâm anh thế phiệt ra đấy? Cô tưởng tôi tin được như thế hay sao? Thôi, đừng có vớ vẩn nữa. Nếu em giác ngộ thì em hãy cho lòng anh được thỏa rồi tha hồ ngủ.

Cho là không cần nói lắm, hắn một lần nữa rời ghế dài, lại ngồi xuống giường và đặt

tay lên vai Li- đa, làm y như là hắn đã làm chủ hoàn toàn người con gái.

Li-đa thức giấc dậy ngay, mắng vào mặt hắn:

Đồ quỷ xéo đi ngay! Mai tôi sẽ kể hết mọi chuyện cho Pa-ven biết, tôi nói thật đấy. Ra-dơ-va-li-khin nắm lấy tay Li-đa và tức tối rỉ vào tai:

Tôi cóc cần cái thằng Pa-ven nhà cô; cô cưỡng lại cũng vô ích, thế nào tôi cũng ngủ được với cô.

Vật lộn giữa hai người trong giây lát. Túp nhà im ắng vang lên tiếng tát “bốp” rồi “bốp” nữa… Ra-dơ- va-li-khin lăn kềnh ra đất. Trong tối Li-đa chạy vội đến cửa, đẩy cửa ra và chạy ra ngoài sân. Chị đứng lại ngoài ấy, người tắm ánh trăng, trong lòng tức giận vô kể.

Ra-dơ-va-li-khin tức tối quát lên:

Thôi, đi vào nhà, đồ ngu như bò.

Rồi hắn dọn giường ra mái hiên và nằm ngủ ở ngoài ấy. Còn Li-đa, sau khi cài then cửa lại, cuộn mình nằm co trên giường.

Sáng hôm sau, hai người ra về; ngồi trên xe cạnh cụ già đánh xe, Ra-dơ-va-li-khin hút hết điếu thuốc này đến điếu khác.

“Cái con bà cô không thể sờ đến được này có thể đem kể hết chuyện với Pa-ven thật đấy. Con bé cũng lắm mồm lắm đấy! Thà như nó đẹp gì cho cam. Đằng này nó xấu như ma. Phải làm lành với con bé mới được không thì đến phiền mất. Pa-ven vốn chẳng ưa gì mình”.

Nghĩ vậy, Ra-dơ-va-li-khin bèn lại ngồi bên Li-đa. Hắn làm ra bộ hổ thẹn, đôi mắt có vẻ như sầu não; ấp a ấp úng thanh minh câu trước mâu thuẫn với câu sau, hắn tỏ ra hắn đã ăn năn hối hận rồi.

Và Ra-dơ-va-li-khin đã đạt được ý muốn: đến đầu thôn, Li-đa hứa sẽ không kể lại câu

chuyện xảy ra đêm qua với ai cả.

*

Các chi đoàn thanh niên cộng sản lần lượt ra đời trong các xã biên khu. Các đồng chí ủy viên của quận đoàn thanh niên cộng sản đã hiến nhiều thì giờ và sức lực cho những mầm non đầu tiên đó của phong trào cộng sản. Pa-ven và Li-đa Pô-lê-vích suốt cả ngày công tác ở các làng vùng đó.

Ra- dơ-va-li-khin không thích về xã. Hắn không biết làm thân với anh em thanh niên nông dân, không được họ tin và làm việc gì cũng hỏng. Còn Li-đa và Pa-ven thì khác hẳn, cả hai đều có một tác phong làm việc giản dị và tự nhiên. Li-đa tập hợp được các chị em trẻ, kết bạn và liên hệ chặt chẽ với họ, làm cho chị em tự nhiên thích thú với sinh hoạt và công tác của Đoàn thanh niên cộng sản. Trong khắp quận, toàn thể anh em đều biết Pa-ven. Tiểu đoàn tổng quân huấn thứ hai đã có một ngàn sáu trăm thanh niên chưa đến lượt gọi nhập ngũ, vào học tập quân sự. Chưa bao giờ tiếng đàn gió lại giữ một vài trò lớn trong công tác tuyên truyền như là ở đây, trong những tối liên hoan

của dân làng ở ngoài trời. Chiếc đàn gió đã làm Pa-ven thành “bạn cố tri” của mọi người. Đối với khá nhiều chàng trai, con đường đi đến vội Đoàn thanh niên cộng sản Lê-nin vĩ đại thường bắt đầu bằng cái đàn gió có sức thu hút mê người, lúc thì lôi cuốn say sưa và làm rung động trái tim với nhịp điệu đầy nhiệt huyết của bài hành quân, lúc lại dịu ngọt và mơn man bởi những làn ngân não ruột của những bài dân ca U-cơ-ren. Người ta nghe tiếng đàn gió, người ta nghe cả người chơi đàn gió – trước kia anh là công nhân, ngày nay là chính ủy bộ đội và “bí thư tí hon” thanh niên cộng sản. m điệu của đàn gió và những lời nói chuyện của người chính ủy trẻ tuổi thấm vào lòng mọi người, êm ái và hòa nhịp với nhau. Những bài hát mới đã bắt đầu vang lên trong các thôn xóm; trong những túp nhà tranh, bây giờ không phải chỉ cố độc những tập Thánh thi và những sách dạy đoán mộng, mà đã có cả những loại sách khác rồi. Cuộc đời của bọn buôn lậu trở nên gay go. Đối với chúng bây giờ không phải chỉ độc có những chiến sĩ biên phòng mới là đáng gờm thôi: chính quyền Xô- viết đã tranh thủ được những bạn trẻ, những người giúp sức tích cực của mình. Đôi khi, vì bốc lên muốn tự mình tóm được kẻ thù, nên các chi đoàn thanh niên cộng sản biên thuỳ đã vượt quá phạm vi của họ. Và lúc đó thì Pa-ven lại tìm cách gỡ ra cho anh em. Có một hôm, Gơ-ri-sút-ca Khô-rô-vết-cô, bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản ở Pốt-đúp-xi, một tay mắt xanh, nhanh nhẹn, rất hăng say trong những cuộc thảo luận chống tôn giáo, được báo bằng nguồn tin riêng của anh là đêm nay sẽ có chuyến hàng lậu tới nhà tên chủ máy xay trong thôn. Lập tức anh huy động toàn chi đoàn thanh niên đi. Cả chi đoàn do Gơ- ri-sút-ca đứng đầu, võ trang bằng khẩu súng tập và hai lưỡi lê, ngay đêm ấy, thận trọng đến nấp trước cái máy xay rình con thú dữ. Đồn biên thùy của Cục chính trị Nhà nước đã biết tin về bọn buôn lậu và đã phái một đơn vị đến. Đêm hôm ấy, hai bên chạm trán nhau và nhờ có tinh thần kiên nhẫn sáng suốt của các chiến sĩ biên phòng mà các đoàn viên thanh niên đã không bị bắn chết trong trận chạm trán đó. Người ta chỉ tước vũ khí những chàng trai mà thôi và các cậu bị dẫn đến giam ở một làng bên cạnh cách đấy bốn cây số.

Lúc đó Pa-ven đang ở nhà Ga-vơ-ri-lốp. Sáng hôm sau, tiểu đoàn trưởng cho biết bản báo cáo vừa nhận được về việc trên, bí thư quận đoàn Pa-ven liền phi ngựa đi cứu bọn trẻ của anh.

Đồng chí đại diện Cục chính trị Nhà nước vừa cười vừa kể lại chuyện xảy ra đêm qua cho Pa-ven nghe:

Bây giờ chúng ta làm thế này, đồng chí Pa-ven ạ. Các chú ấy là những tay thanh niên can đảm đấy. Chúng tôi cũng chẳng làm to chuyện với họ làm gì. Nhưng để từ nay về sau, họ đừng giẫm chân vào nhiệm vụ của chúng tôi, thì đồng chí cẩn phải chỉnh cho họ một chập ra trò mới được.

Người gác mở cửa nhà giam. Mười một chàng thanh niên nhổm dậy, lúng ta lúng túng, chân nhúc nhích mà không dám bước.

Đồng chí đại diện Cục chính trị Nhà nước chìa hai tay ra dáng bất bình:

Đấy, đồng chí xem. Mấy chú cứ vẽ ra thêm chuyện cho nên tôi bắt buộc phải giải mấy chú lên tỉnh thôi.

Nghe nói thế, Gơ-ri-sút-ca rất đỗi xúc động:

Thưa đồng chí Xa-kha-rốp, chúng tôi có làm gì bậy đâu? Chúng tôi muốn phục vụ chính quyền Xô- viết. Từ lâu, chúng tôi đã đặt người theo dõi cái tên buôn lậu đó rồi. Thế mà các đồng chí lại tống giam chúng tôi như thể chúng tôi là thổ phỉ. Gơ-ri-sút-ca tủi thân quay đi.

Pa-ven và Xa-kha-rốp khó khăn lắm mới giữ mãi được vẻ mặt nghiêm nghị. Sau một hồi làm ra vẻ phải điều đình với nhau găng lắm, hai người thôi không “chỉnh” toán thanh niên nữa.

Xa-kha-rốp nói với Pa-ven:

Nếu đồng chí đảm bảo cho các chú ấy và hứa với chúng tôi là từ nay về sau, các chú không đi ra biên giới nữa, còn giúp đỡ chúng tôi thì giúp đỡ bằng cách khác, có thế tôi mới tha cho các chú ấy.

Được tôi xin chịu trách nhiệm về các anh em ấy. Tôi hy vọng anh em sẽ không làm phiền cho tôi nữa.

Thế là cả chi đoàn thanh niên lại hát vang trên đường trở về Pốt-đúp-xi. Việc rắc rối vẫn chưa lộ ra. Còn tên chủ máy xay thì sau đó ít lâu bị bắt quả tang. Lần này, việc tóm cổ nó làm rất đúng nguyên tắc.

Bọn chủ trại Đức sống giàu sang trong những làng vùng rừng Mai-đan Vin-la. Những trại ấp sung túc của bọn cu-lắc ở cách nhau từng nửa cây số một; những tòa nhà đèo thêm những nhà phụ trông giống như những đồn lũy nhỏ. Bọn thổ phỉ An-tô-nhúc được bọn cu-lắc ở đây chứa chấp. Tên quan hai cũ ấy của Nga hoàng đã tập hợp họ hàng bà con nó, lập thành một nhóm gồm bảy tên phỉ và bắt đầu dùng đến khẩu súng ngắn của hắn trên các ngả đường lân cận, làm đổ máu nhiều người. Hắn chẳng từ gì bọn buôn lậu, nhưng cũng không tha các cán bộ Xô-viết qua lại. Bọn hắn di động rất nhanh. Hôm nay, chúng giết chết hai xã viên hợp tác xã trong thôn, ngày mai, cách đấy hai mươi cây số, đã thấy hắn tước vũ khí một nhân viên bưu điện và móc hết của anh từng hào, từng xu. An-tô-nhúc thi nhau với tên đồng nghiệp của nó là Goóc-đi; thằng này chẳng kém gì thằng kia, cả hai đứa đã làm mất khá nhiều thời giờ của dân quân và Cục chính trị Nhà nước của liên quận. An- tô-nhúc đã mò đến tận ngoại vi thị trấn Bê-rê-dơ- đốp. Các ngả đường vào thị trấn đã trở thành nguy hiểm. Khó mà tóm cổ được tên phỉ ấy; cứ khi nào bị dồn bí quá thì hắn chuồn sang bên kia biên giới, ngồi rúc ở đấy, rồi những lúc nào người ta ít để tâm nhất đến hắn thì hắn lại thò đầu ra. Mỗi lần con thú dữ nguy hiểm và không tài nào bắt được đó xồ ra cắn chảy máu thì đồng chí Li-xi-xưn lại một phen cắn môi tức tối.

Còn để cho tên mạt kiếp này cắn chúng mình đến bao giờ? Cuối cùng rồi mình đến

phải tự tay trừ nó mới được. – Tiếng đồng chí rít qua hai hàm răng cắn chặt. Có hai lần đồng chí chủ tịch cùng đi với Pa-ven và ba đảng viên cộng sản nữa đã đuổi theo vết chân còn mới của tên phỉ. Song An-tô-nhúc đã đi khỏi rồi.

Trên liên quận đã phái về Bê-rê-dơ-đốp một đội chống phỉ, do anh chàng Phi-la-tốp rất diện chỉ huy. Vì kiêu căng, vênh váo như một con gà trống mới lớn, Phi-la-tốp đã không chấp hành đúng điều lệnh công tác hiện hành ở vùng biên giới, cho việc đến trình diện với đồng chí chủ tịch là không cần thiết, nên cứ dẫn đội của mình đến thẳng một làng bên cạnh là Xê-ma-ki. Đến vào lúc đêm, Phi-la-tốp cho đóng quân trong túp nhà ngay đầu thôn. Toán người lạ có vũ khí, hành động lại rất bí mật ấy, làm cho một đoàn viên thanh niên cộng sản ở bên hàng xóm để ý. Người đoàn viên này liền chạy đến báo cho chủ tịch Xô-viết thôn. Chủ tịch Xô-viết thôn không hiểu gì về đội này, tưởng nhầm đấy là bọn phỉ, thế là cho người đoàn viên thanh niên đi ngựa hỏa tốc lên quận. Sự sơ suất của Phi-la-tốp suýt nữa thì làm toi mạng rất nhiều người. Li-xi-xưn đang đêm nghe tin có “phỉ”, liền huy động dân quân và mang theo độ chục người phi ngựa đến Xê-ma-ki. Họ chạy thộc vào tận sân, xuống ngựa và nhảy qua hàng rào, tiến vào nhà. Người gác đứng ở ngưỡng cửa bị một cú báng súng ngắn vào đầu ngã lăn xuống như cái bị rơi. Li-xi-xưn lấy vai hích mạnh cánh cửa bật tung ra, và toán người ùa vào gian nhà le lói ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn treo trên trần. Một tay cầm quả lựu đạn vung ra sau người chực ném, tay kia lăm lăm khẩu súng ngắn Mô-de, Li-xi-xưn thét lên, mạnh đến nỗi làm rung cả cửa kính:

– Giơ tay hàng, không tao xé tan xác chúng bay ra bây giờ.

Chỉ thiếu một giây nữa là người của Li-xi-xưn lia cho toán người còn ngái ngủ kia một

làn mưa đạn. Nhưng cái vẻ đáng sợ của người lăm lăm cầm lựu đạn kia làm cho hàng

chục cánh tay giơ cao lên. Một lát sau, khi các người trong đội diệt phỉ mặc độc có áo

ngủ bị dẫn ra sân, Phi-la-tốp nhìn thấy chiếc huân chương đính trên áo Li-xi-xưn mới

khỏi ríu lưỡi.

Li-xi-xưn nhổ nước bọt tức tối và phát bẳn lên, giọng khinh bỉ:

Thật là đồ ngu!

*

Tiếng vang của cách mạng Đức vọng đến tận quận này. Những tràng đạn nổ đổ hồi réo trên các chiến lũy Hăm-bua vang tới. Biên giới không còn yên tĩnh như xưa nữa. Người ta đọc báo, lòng náo nức mong đợi. Gió của tháng Mười từ phía Tây thổi lại. Ở quận đoàn thanh niên, đơn gửi đến như mưa xin gia nhập Hồng quân, làm quân chí nguyện. Pa-ven phải giải thích nhiều cho đại biểu các chi đoàn hiểu chính sách của nước Xô-viết là chính sách hòa bình, và hiện nay thì Nhà nước Xô-viết không có ý định gây chiến với bất cứ một nước láng giềng nào cả. Nhưng những lời giải thích đó ít tác dụng lắm. Chủ nhật nào, những đoàn viên thanh niên tất cả các chi đoàn cũng kéo tới thị trấn, và họp ngay trong khu vườn nhà lão cố đạo.

Một hôm vào giữa trưa, toàn chi đoàn thanh niên Pốt-đúp-xi đông đủ mặt, hàng ngũ chỉnh tề kéo đến cái sân rộng trước trụ sở quận đoàn. Pa-ven nhìn qua cửa sổ, trông thấy, liền đi ra thềm. Mười một người thanh niên do Gơ-ri-sút-ca dẫn đầu, người nào cũng đi giày ống, đeo ba-lô to tướng trên lưng. Họ dừng lại trước cửa. Pa-ven ngạc nhiên hỏi:

– Chuyện gì thế, Gơ-ri-sút-ca?

Nhưng Gơ-ri-sút-ca nháy mắt ra hiệu và cùng Pa- ven đi vào trong nhà. Khi Li-đa, Ra-dơ-va-li-khin và hai đoàn viên thanh niên nữa xúm quanh lấy Gơ-ri- sút-ca thì anh này đóng cửa và cau đôi mày nhợt lại một cách nghiêm nghị, giải thích rằng:

Các đồng chí ạ, đây là tôi làm báo động diễn tập đấy mà. Hôm nay, tôi có tuyên bố với những đoàn viên chi đoàn tôi rằng: ở quận có điện xuống, tất nhiên là điện tối mật: chiến tranh với bọn tư sản Đức bắt đầu rồi, và không bao lâu nữa sẽ nổ ra chiến tranh chống bọn chúa đất Ba Lan. Vì thế ở Mát-xcơ-va ra lệnh: tất cả đoàn viên thanh niên cộng sản đều ra tiền tuyến; còn ai sợ, cứ viết đơn xin, sẽ cho ở nhà. Tôi nói với họ là không được nói gì về chiến tranh cả mỗi người mang theo một miếng bánh mì và một ít mỡ, ai không có mỡ thì mang đi mấy nhánh hành hay nhánh tỏi, một giờ sau phải bí mật tập hợp ở sau làng. Chúng ta sẽ đi lên quận và từ quận lên liên quận nhận vũ khí. Chuyện đó có tác dụng rất lớn đối với anh em. Họ bắt đầu hỏi vặn tôi nhiều lắm, song tôi cắt đứt: không có nói chuyện lôi thôi gì cả. Ai đi thì đi. Còn ai từ chối thì cứ việc viết đơn. Đi đây là đi tình nguyện. Nghe tôi nói xong, các bạn đoàn viên của tôi ai về nhà nấy. Lúc đó tim tôi đập mạnh lắm: nếu không ai đến đi cả thì sao? Nếu vậy tôi chỉ còn cách giải tán chi đoàn, còn mình thì bỏ đi nơi khác. Tôi ngồi đợi ở gần thôn và theo dõi. Họ đến từng người một. Một vài người mặt mũi còn ngấn nước mắt, nhưng bề ngoài họ làm ra vẻ thản nhiên. Cả mười người đều đến, không một ai bỏ trốn cả. Đấy, chi đoàn Pốt-đúp- xi như thế đấy! – Gơ-ri-sút-ca kết luận, giọng rất phởn, nắm tay lại hãnh diện đập lên ngực.

Và khi Li-đa bực mình mắng Gơ-ri-sút-ca như tát nước thì Gơ-ri-sút-ca nhìn chị bằng một con mắt ngạc nhiên không hiểu ra làm sao cả.

Chị Li-đa nói gì lạ thế ? Thử hỏi Li-đa, để tập báo động, còn có sáng kiến nào hơn nữa? Có như thế thì mới nhìn người kỹ được, nhìn ai cũng mới khỏi bị lầm. Muốn có thêm tác dụng, tôi còn muốn đưa họ lên liên quận nữa kia, nhưng họ đều mệt cả rồi. Thôi để cho họ về. Song anh Pa-ven ạ, thế nào anh cũng nên nói chuyện với họ, được chứ anh? Anh không nói thì còn ra thế nào nữa. Cứ nói là lệnh động viên đã bãi bỏ rồi, song danh dự và quang vinh thuộc về những người thanh niên anh dũng như họ. Pa-ven ít lên liên quận. Những chuyến đi như thế thường mất đến mấy ngày, mà công tác thì cần ngày nào cũng có mặt ở quận. Trái lại, Ra-dơ-va-li-khin động có dịp là nhảy tót lên thị xã ngay. Võ trang từ đầu đến chân, trong lòng cứ những sánh mình với một trong những nhân vật của Cu-pơ((Phê-mi-no Cu-pơ, tác giả Mỹ thế kỷ 19, viết

nhiều tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm về những bộ lạc người da đỏ ở Châu Mỹ) ), đi du ngoạn như thế hắn ta lấy làm thích thú lắm. Hắn tạt vào rừng, đem súng ra bắn vào đàn quạ hoặc bắn vào con sóc chạy nhanh thoăn thoắt, chặn khách qua đường nào đi một mình, hỏi người ta như là dự thẩm tòa án hỏi cung: ông là ai, ở đâu đến và đi đâu. Đến gần thị xã, Ra-dơ-va-li-khin bỏ súng trường giấu xuống lớp rơm trên xe ngựa, súng ngắn thì nhét vào túi và cố giữ vẻ bình thường, đi vào liên quận đoàn thanh niên cộng sản.

– Thế nào, ở Bê-rê-dơ-đốp các anh có gì mới không?

Trong phòng Phê-đô-tôp, bí thư của liên quận đoàn, người lúc nào cũng đông. Ai cũng tranh nói lấy được. Phải biết làm việc trong hoàn cảnh ấy thì mới làm nổi, một lúc nghe bốn người nói, đồng thời lại viết và trả lời cho một người thứ năm. Phê-đô-tốp còn trẻ măng, song đã vào Đảng từ 1919. Chỉ có ở cái thời sóng gió ấy mới có thể mười lăm tuổi đã được kết nạp vào Đảng.

Nghe câu hỏi của Phê-đô-tốp, Ra-dơ-va-li-khin uể oải đáp lại:

Nhiều chuyện mới lắm, không thể kể hết được. Tôi chạy ngược chạy xuôi suốt từ sáng cho đến tận tối khuya. Phải lấp hết mọi lỗ hổng hiện nay, phải làm từ đầu mọi việc trên một vùng cơ sở trắng. Tôi đã tổ chức được thêm hai chi đoàn mới nữa. Các đồng chí triệu tập về đây có việc gì thế? – Và nói xong, hắn làm ra bộ quan trọng ngồi xuống ghế bành.

Đồng chí Cơ-rưm-ski, trưởng ban kinh tế, từ nãy giờ cúi mình trên tập tài liệu, nghe hắn nói thì ngẩng đầu lên nhìn lại:

Chúng tôi triệu tập Pa-ven, chứ không triệu tập anh.

Pa-ven không thích đến đây, tôi cứ phải vất vả đi lại thay hắn… Có một số bí thư láu cá như thế đấy. Bản thân họ chẳng muốn động xác làm gì, chỉ đẩy những con lừa như hạng tôi đi. Khi nào Pa-ven đi ra biên giới, thế là ở lại đấy hàng hai ba tuần. Tôi lại phải nai lưng gánh hết mọi việc cho hắn.

Ra-dơ-va-li-khin chẳng úp mở gì, có ý muốn tỏ cho mọi người biết lẽ ra chính hắn mới thực đáng làm bí thư quận đoàn kia.

Khi Ra-dơ-va-li-khin ra rồi, đồng chí Phê-đô-tốp nói thẳng với các đồng chí trong chấp ủy:

Tôi thấy chẳng ưa cái thằng cha này chút nào cả.

Những cách luồn lọt xúc xiểm thâm hiểm của Ra- dơ-va-li-khin bị phơi ra ánh sáng một cách tình cờ. Một hôm, Li-xi-xưn rẽ vào nhà đồng chí Phê-đô-tốp nhận thư từ, công văn. Thường hễ có ai ở quận lên là nhận luôn thư cho mọi người khác. Phê-đô-tốp nói chuyện lâu với Li-xi-xưn. Trong câu chuyện đó, Ra- dơ-va-li-khin đã bị lột mặt nạ.

Khi tiễn đồng chí chủ tịch quận ra về, Phê-đô-tốp dặn :

Nhưng dù sao đồng chí cũng cứ cho Pa-ven lên đây nhé. Chúng tôi ở đây vẫn chưa quen biết đồng chí ấy lắm.
Được. Nhưng phải định trước với nhau mới được: các đồng chí đừng nhằm lấy mất của chúng tôi Pa- ven kia, nếu lấy, chúng tôi kiên quyết phản đối đấy.

Năm ấy, ở biên giới, quốc khánh tháng Mười cử hành trong không khí phấn khởi chưa từng có. Pa- ven được bầu làm chủ tịch ban tổ chức lễ kỷ niệm Cách mạng tháng Mười ở các xã biên giới. Sau cuộc mít tinh ở Pốt-đúp-xi, khối quần chúng năm ngàn người, gồm nam nữ nông dân ở ba xã lân cận họp lại, xếp hàng trên một cây số rưỡi, bắt đầu đi về phía các xã biên giới. Đi đầu là đội kèn và tiểu đoàn quân huấn, với những lá cờ đỏ tung bay. Đoàn biểu tình rất trật tự và có tổ chức bắt đầu tiến hành trên đất xô-viết, dọc theo các cột biển, tiến về phía những thôn xã biên giới cắt làm đôi. Dân Ba Lan chưa bao giờ được trông thấy cảnh tượng ấy. Đi trước hàng quân là tiểu đoàn trưởng Ga-vơ-ri-lốp và Pa-ven, cả hai cùng cưỡi ngựa; phía sau hai người, tiếng kèn đồng rung lên như sấm động, cờ bay phần phật và những bài hát, những bài hát vang lên. Thanh niên nông dân mặc toàn quần áo ngày hội. Những nhịp cười của các cô gái vang đi xa, nghe như tiếng róc rách của một dòng thác bạc; nét mặt người lớn thì nghiêm túc, các cụ già thì trịnh trọng. Cả dòng sông người ấy cứ chảy mãi, đến nơi xa tít; bờ của dòng sông ấy là biên giới. Không một bàn chân nào rời khỏi mảnh đất Xô-viết, không một bước chân nào chạm vào đường phân giới nghiêm cấm. Pa-ven đứng ra bên, nhường cho thác người chảy qua trước mặt mình. Bài hát của thanh niên cộng sản vang lên:

“Từ rừng Tai-ga đến tận biển nước Anh Hồng quân là hùng mạnh nhất”.

nối tiếp bài đồng ca của nữ thanh niên: “Kìa trên, đồi cao,

Chị em thợ gặt đang gặt lúa vàng”.

Các chiến sĩ biên phòng Xô-viết vui sướng mỉm cười chào mừng đoàn biểu tình; những lính gác Ba Lan thì đứng nhìn, đầy vẻ bối rối hốt hoảng. Cuộc tuần hành dọc biên giới, tuy đã có báo trước cho bộ Tư lệnh Ba Lan, vẫn làm cho phía bên kia lo lắng. Những đội tuần tra của hiến binh tiền tuyến hối hả đâm bổ đi sục sạo; mỗi chỗ gác tăng lên gấp năm, ở trong các giao thông hào thì bố trí thêm quân dự bị để đề phòng mọi việc bất ngờ xảy đến. Nhưng, đoàn biểu tình chỉ tiến bước trên đất nước nhà mình, náo nhiệt và vui vẻ, tiếng hát vang dậy khắp không trung.

Trên một mô đất, một người lính Ba Lan đứng gác. Đoàn người đi đều bước, tiến gần lại. m điệu đầu tiên một bài hành khúc cất tiếng bay lên. Người lính Ba Lan trút súng khỏi vai đặt xuống chân, đứng nghiêm. Pa-ven nghe rõ tiếng hô: “Công xã muôn năm!”.

Trông đôi mắt của người lính thấy đúng là chính anh ta vừa hô khẩu hiệu đó. Pa-ven

nhìn anh ta không chớp mắt, nhìn anh ta hết sức nhiệt tình.

Đấy là một người bạn! Dưới vạt áo lính, trái tim anh ta đang đập hòa nhịp với đoàn du hành. Và Pa- ven khẽ đáp lại bằng tiếng Ba Lan: – Chào đồng chí!

Người lính gác đứng lại đằng sau. Anh ta nhường bước cho đoàn người, súng vẫn để dựng nguyên như cũ. Pa-ven nhiều lần ngoái cổ lại nhìn cái bóng bé nhỏ đen đen đó. Kia lại một người Ba Lan khác nữa. Râu mép bạc lốm đốm. Hai con mắt nhìn không động trông dài dại dưới vành mạ kền của chiếc mũ “liên bang”. Pa-ven trong đầu vẫn còn mang máng lời nói của người lính Ba Lan trước mà anh vừa nghe, liền nói trước như là nối thầm với mình bằng tiếng Ba Lan :

Chào đồng chí. Không có tiếng đáp lại.
Ga-vơ-ri-lốp mỉm cười. Ga-vơ-ri-lốp hiểu hết chuyện. Anh nói:

Cậu tham quá, Pa-ven ạ ! Ngoài những lính bộ binh thường, ở đây còn có cả bọn hiến binh đi chân nữa kia. Cậu không thấy cái lon hình chữ V trên tay áo hắn à? Đấy là một thằng hiến binh.

(Lon chữ V thường thêu trên tay áo bọn quân nhân đế quốc để ghi công trạng và niên hạn tại ngũ của chúng)

Đoạn đầu của đoàn người đã từ trên núi kéo về phía làng bị biên giới cắt đôi. Nửa làng bên Xô-viết đã chuẩn bị đón tiếp một cách long trọng. Cả thôn Xô-viết đều tập hợp gần cầu biên giới, trên bờ dòng sông con. Trai, gái trong làng đứng thành hàng rào hai bên vệ đường. Bên nửa thôn phía Ba Lan, mái các nhà, mái các quán đều đầy kín những người trèo lên chăm chú nhìn xem những việc đang xảy ra bên kia sông. Nông dân xúm lại trên ngưỡng cửa các nhà và dọc các hàng rào. Khi đoàn biểu tình tiến vào dãy hàng rào người kia thì đội nhạc cử bài ca “Quốc tế” . Trên bục diễn đàn vừa làm vội, trang hoàng bằng lá cây lớp thanh niên mái tóc còn xanh và nhũng cụ già đầu bạc, đọc những diễn văn cảm động. Pa-ven cũng lên nói chuyện bằng tiếng U-cơ-ren, tiếng mẹ đẻ của anh. Những lời nói của anh bay vượt qua biên giới và những người đứng bên kia bờ sông cũng nghe được rõ. Ở bên kia, chúng nó đã quyết không để cho bài nói này làm bốc cháy lòng người. Đội ba-tui của hiến binh bắt đầu phi ngựa đi khắp làng, lấy roi ngựa quất đuổi nhân dân vào trong nhà. Tiếng súng nổ đì đẹt lướt qua các mái nhà.

Đường sá trở nên vắng tanh. Đám thanh niên bị đạn xua chạy, đã tụt xuống khỏi các mái nhà. Từ phía bên bờ Xô-viết, nhân dân đã nhìn sang thấy thế đều cau mày. Một ông lão chăn cừu có các thanh niên đỡ bước lên diễn đàn. Lòng sôi sục căm giận, ông lão nói bằng một giọng cảm động :

Khá thật! Các con hãy nhìn xem! Ngày trước, chúng ta cũng đã từng bị quân chúng nó đánh đập như vậy rồi. Nhưng bây giờ, trong làng chẳng còn ai thấy cảnh chính

quyền dùng roi ngựa đánh một nông dân bao giờ. Chúng ta đã tiêu diệt được hết đời bọn địa chủ quý tộc và cái roi da nện trên lưng chúng ta cũng hết đời luôn. Các con hãy giữ gìn chính quyền mới này cho vững, các con ạ. Lão già rồi, lão chẳng biết nói chuyện. Nhưng lão muốn nói nhiều lắm. Dưới ách Nga hoàng, suốt đời chúng ta đã phải chịu vất vả cay đắng như thân con bò kéo xe, cho nên bây giờ nhìn thấy cảnh đó vẫn còn đang tiếp tục ở bên kia, thật đau lòng!… – Nói đến đây ông lão giơ bàn tay xương xẩu vẫy sang phía con sông và bắt đầu khóc hu hu lên, thật chỉ có các trẻ em và các cụ già mới khóc như vậy.

Gơ-ri-sút-ca lên tiếp lời cụ già. Nghe bài nói đầy căm hờn của Gơ-ri-sút-ca, Ga-vơ-ri-

lốp quay ngựa lại nhìn xem bên kia bờ sông có kẻ nào đứng ghi những lời nói của Gơ-

ri-sút-ca không. Nhưng bờ sông bên kia vắng vẻ, ngay cả người lính gác cạnh cầu

cũng bị gọi về rồi.

Ga-vơ-ri-lốp nói đùa:

Thế thì chắc chẳng có công hàm phản đối gửi đến Ban dân ủy ngoại giao của ta đâu. Vào một đêm mưa thu vào cuối tháng Mười Một, tên phỉ An-tô-nhúc và bảy đứa bộ hạ của nó đã phải ngừng làm đổ máu người trên các đường nó qua lại. Cái đàn chó sói đó mò đến dự đám cưới của một tên chủ trại giàu có ở Mai-đan Vin-la. Các đảng viên vùng Khơ-rô-lin-ski đã bám riết và tóm được chúng trong đám cưới.

Mồm các mụ đàn bà lắm điều đã truyền cái tin những tay khách ấy sẽ đến dự đám cưới tên chủ trại. Trong nháy mắt, cả mười hai đảng viên của chi bộ đã họp lại, ai có thứ khí giới gì thì mang thứ nấy. Họ đi xe ngựa đến thôn Mai-đan Vin-la, còn người liên lạc hỏa tốc thì phi ngựa như bay về Bê-rê-dơ- đốp. Đến Xi-ma-ki thì đồng chí liên lạc tìm được đội của Phi-la-tốp. Phi-la-tốp dẫn quân của mình phi nước kiệu đuổi theo dấu chân còn mới của địch. Các đảng viên Khơ-rô-lin-ski vây lấy thôn Mai-đan, và cuộc nói chuyện bằng súng đạn giữa họ với bọn phỉ An-tô- nhúc thế là bắt đầu. An-tô-nhúc cùng bọn thủ hạ nấp vào một chái nhà bên và cứ thế bắn bất cứ ai sa vào tầm súng của chúng. Hắn muốn liều sức thử mở đường máu chạy, song các chiến sĩ Khơ-rô-lin-ski sau khi bắn chết một thằng phỉ, dồn cả bọn chúng chui vào chái nhà trở lại. Nhiều phen An-tô-nhúc cũng đã bị hãm vào đường cùng như thế. Nhưng lần nào hắn cũng thoát thân vô sự: thủ pháo và đêm tối đã giúp cho hắn thoát. Có thể lần này nữa, hắn cũng quyết chạy thoát vì các chiến sĩ công xã đã mất đi hai người trong cuộc chiến đấu. Nhưng đang lúc đó, Phi-la-tốp vừa kịp đến tiếp viện. An-tô-nhúc hiểu rằng hắn bị kẹp chặt rồi và lần này không lối nào thoát. Đạn từ trong các cửa sổ chái nhà phụt ra cho đến tận sáng, nhưng tảng sáng thì người ta bắt được hắn. Cả bảy thằng chẳng thằng nào chịu hàng phục cả. Việc tiêu diệt cái ổ chó sói đó đã phải hy sinh mất bốn mạng người. Chi đoàn trẻ tuổi thanh niên cộng sản Khô- rô-lin-ski đã hiến ba người trong số bốn liệt sĩ đó.

*

Tiểu đoàn Pa-ven bị gọi đi tham gia cuộc diễn tập mùa thu của các đơn vị địa phương. Tiểu đoàn bắt đầu hành quân từ sáng sớm, đi suốt một ngày dưới mưa rào, vượt bốn mươi cây số, tối mịt mới đến doanh trại của sư đoàn địa phương. Tiểu đoàn trưởng Gu- xếp và chính ủy hành quân bằng ngựa. Tám trăm thanh niên vừa đến trại đã lăn ra ngủ. Bộ tham mưu sư đoàn địa phương đã triệu tập tiểu đoàn này quá chậm: sáng mai đã bắt đầu diễn tập rồi. Tiểu đoàn mới dàn ra trên thao trường để duyệt. Một chốc thì đã có nhiều kỵ binh từ tham mưu sư đoàn phi đến. Tiểu đoàn mặc quân phục và mang súng rồi thì trông như là thay hình đổi dạng hẳn. Cả Gu-xếp lẫn Pa- ven đã bỏ ra nhiều sức lực và thời giờ rèn luyện tiểu đoàn của mình, cho nên đến tham gia diễn tập lòng bình tĩnh không lo lắng. Khi cuộc duyệt chính thức đã xong và tiểu đoàn đã tỏ rõ tài vận động và lập đội hình của mình, thì có một người trong cấp chỉ huy, mặt bảnh trai nhưng phị mỡ, lại hỏi Pa-ven bằng một giọng xẵng:

Tại sao đồng chí lại đi ngựa? Chỉ huy và chính ủy của một tiểu đoàn tổng quân huấn không được có ngựa. Tôi ra lệnh đồng chí cho ngựa vào chuồng, diễn tập toàn phải đi đất hết.

Pa-ven biết rằng nếu anh xuống ngựa thì không thể nào tham gia cuộc diễn tập được: chân anh không thể đi bộ được lấy một cây số. Làm thế nào để giải thích điều đó cho chàng công tử nhặng ngậu xị, mình buộc đầy những dây lòng thòng này?

Không đi ngựa, tôi không thể tham gia diễn tập được.

Tại sao?

Biết là không thể giải thích cách nào khác, Pa-ven trả lời một cách gọn lỏn:

Chân tôi bị sưng. Tôi không thể chạy và đi bộ trong một tuần được. Hơn nữa, tôi không biết đồng chí là ai.

Tôi là tham mưu trưởng trung đoàn của anh, đấy là một điều tôi nói với anh. Còn điều thứ hai là một lần nữa tôi ra lệnh cho anh xuống ngựa, còn nếu anh là người có thương tật mà vẫn ở trong bộ đội thì đấy không phải là lỗi của tôi.

Pa-ven có cảm tưởng như bị roi quất vào mặt. Anh quất mạnh roi vào con ngựa, nhưng bàn tay chắc của Gu-xếp đã giữ anh lại. Mấy phút qua, trong người Pa-ven có hai thứ tình cảm đấu tranh với nhau: ức không chịu được và kiên tĩnh. Song Pa-ven ngày nay không còn là cậu lính Hồng quân ngày trước không hề do dự chạy từ đơn vị này sang đơn vị khác. Pa- ven bây giờ là chính ủy của một tiểu đoàn, tiểu đoàn đó đang đứng sắp hàng sau anh. Cách xử sự của anh sẽ nêu một gương chấp hành kỷ luật như thế nào cho cả đơn vị? Bởi vì anh đã huấn luyện giáo dục tiểu đoàn mình có phải vì cái thằng cha bắng nhắng này đâu! Anh bỏ chân ra khỏi bàn đạp, từ trên ngựa tụt xuống và cố bấm bụng chịu đau đớn ghê gớm trong các khớp xương, anh đi về chỗ đứng của anh, ở sườn bên phải tiểu đoàn.

Liên tiếp trong nhiều ngày, trời nắng đẹp không chê vào đâu được. Cuộc diễn tập đã gần xong. Đến ngày thứ năm thì cuộc diễn tập tiến hành ở quanh thị trấn Sê-pê-tốp-

ca. Đây là địa điểm diễn tập cuối cùng. Tiểu đoàn Bê-rê-dơ-đốp nhận nhiệm vụ từ phía làng Cơ-li-men-tô-vích tiến công chiếm lĩnh nhà ga. Pa-ven đã thông thạo vùng này quá đi rồi, anh chỉ cho Gu-xếp biết hết các ngõ ngách ra vào. Tiểu đoàn chia làm hai, không cho “kẻ địch” biết, đi vòng một đường sân luồn vào tung thâm và thét to những tiếng “hoan hô” rồi ập vào nhà ga. Những người trọng tài diễn tập đều công nhận đấy thật là một trận đánh rất cừ. Nhà ga bị các chiến sĩ Bê-rê-dơ-đốp chiếm lĩnh, còn tiểu đoàn giữ nhà ga thì sau khi bị “thiệt hại” năm mươi phần trăm số quân, đã rút lui vào rừng.

Pa-ven chỉ huy một nửa tiểu đoàn. Cùng với đại đội trưởng và chính trị viên đại đội ba đứng ở giữa đường phố, anh ra lệnh cho bố trí tuyến xạ kích. Một chiến sĩ Hồng quân chạy đến vừa thở vừa báo cáo:

Báo cáo chính ủy. Tiểu đoàn trưởng hỏi là các chỗ đường xe lửa và đường xe hơi gặp nhau đã có các chiến sĩ súng máy chiếm lĩnh chưa? Ban giám khảo diễn tập sẽ đến đóng ở đấy.

Pa-ven và một đại đội trưởng tới chỗ hai đường xe lửa và xe hơi gặp nhau. Ban chỉ huy trung đoàn đã họp mặt cả ở đây. Người ta khen Gu-xếp đã khéo chỉ huy trận đánh thành công. Các đại biểu của tiểu đoàn bị thua day chân ngượng nghịu và cũng không buồn nói năng bào chữa gì nữa.

Đây không phải công lao của tôi, mà chính là công đồng chí Pa-ven người địa phương đây, đã chỉ huy chúng tôi nên mới đánh được như thế.

Tham mưu trưởng cho ngựa sát lại gần Pa-ven và nói giọng chế giễu:

À té ra đồng chí có thể chạy được rất cừ, đồng chí ạ. Còn lúc trước đồng chí đi ngựa thì chắc là để diện thôi, có phải không?

Hắn định nói gì thêm nữa, nhưng cái nhìn của Pa- ven đã làm hắn dừng ngay lại và đứng tưng hửng.

Khi ban chỉ huy trung đoàn đã đi rồi, Pa-ven khẽ hỏi Gu-xếp:

Cậu có biết thằng cha ấy tên là gì không?

Thôi cậu đừng để ý đến cái thằng khốn ấy làm gì Tên hắn đâu là Tru-gia-nin. Hình như thời trước hắn là một tên chuẩn úy của quân đội cũ thì phải.
Ngày hôm ấy, Pa-ven đã mấy lần cố nhớ ra xem cái tên ấy anh đã nghe được ở đâu rồi, song mãi vẫn không tài nào nhớ được.

Cuộc diễn tập đã xong. Sau khi đã được giấy chứng nhận thành tích diễn tập xuất sắc, tiểu đoàn lại kéo về Bê-rê-dơ-đốp. Pa-ven thân thể bị đau nhừ, đem ngựa gửi ở nhà A-rơ-chom, rồi về chỗ mẹ nghỉ hai ngày. Suốt hai ngày, ngày nào Pa-ven cũng ngủ mười hai tiếng đồng hồ. Đến ngày thứ ba, anh đến xưởng đầu máy tìm A-rơ-chom. Trong tòa nhà kho đầu máy ám khói đen sì này, Pa-ven thấy hình như được về chính nhà mình: anh thở hít một cách say sưa mùi khói than. Cái khung cảnh này đây, quen

thuộc từ tấm bé, có một sức mạnh quyến rũ anh mãnh liệt. Chính ở nơi đây, anh đã lớn lên. Anh có cảm tưởng như thời gian qua mình đã mất đi một cái gì rất yêu rất quý. Bao nhiêu tháng trời ròng rã, anh không được nghe tiếng rú của còi tàu. Giờ đây, cảnh thân thuộc này của nhà máy thu hút tâm hồn anh thợ đốt lò và thợ lắp máy điện, y như một người thủy thủ sau một thời gian xa biển, lòng bồi hồi xúc động mỗi lần được trông thấy khoảng nước biếc bao la. Phải một lúc lâu Pa-ven mới nén được bồi hồi. Chuyện với A-rơ-chom, Pa-ven nói ít. Anh nhìn thấy một nếp răn mới hiện ra trên trán A-rơ-chom. A-rơ-chom làm việc ở cầu di động. Anh đã có thêm một đứa con nữa. Rõ ràng cuộc sống của anh gay go vất vả. A-rơ-chom không nói gì đến cảnh nhà, song chỉ nhìn anh cũng đủ rõ cảnh nhà anh như thế nào.

Anh em cùng làm việc với nhau trong hai tiếng đồng hồ rồi chia tay nhau. Đến chỗ hai đường xe lửa và xe hơi gặp nhau, Pa-ven dừng ngựa lại và nhìn nhà ga một hồi lâu, rồi quất ngựa như bay dọc theo con đường đi về phía rừng.

Đường rừng bây giờ không còn nguy hiểm đối với người qua lại nữa. Những người bôn-sê-vích đã tiêu diệt hết tất cả bọn phỉ lớn nhỏ rồi, đã đốt hết sào huyệt của chúng. Bà con các thôn xóm đã bắt đầu được sống yên ổn.

Pa-ven phi ngựa đến Bê-rê-dơ-đốp vào khoảng gần trưa. Li-đa vui sướng ra tận thềm trụ sở quận đoàn đón anh.

Anh về đấy à! Vắng anh, chúng tôi đã bắt đầu thấy buồn rồi – Và Li-đa khoác vai Pa-ven cùng đi vào nhà.

Pa-ven vừa cởi áo ca-pốt vừa hỏi:

Ra-dơ-va-li-khin đâu?

Chẳng biết anh ấy đi đâu. À, tôi nhớ ra rồi. Sáng nay, anh ta nói là anh ta đi đến trường học lên lớp bài khoa học xã hội thay anh. Anh ta bảo: “Đấy là nhiệm vụ trực tiếp của tôi, chứ không phải của Pa-ven”.

Chuyện ấy làm Pa-ven ngạc nhiên một cách khó chịu. Chẳng bao giờ anh thấy ưa Ra-dơ-va-li-khin cả. Pa-ven bực mình nghĩ thầm: “Cái thứ ấy lại đến trường để bày trò gì đây!”.

Thôi được, chị kể xem ở nhà có chuyện gì hay không nào? Chị có đến Gơ-ru-sốp-ca không? Thế nào công việc ở đó ra sao?

Li-đa kể hết mọi chuyện cho Pa-ven nghe. Pa-ven nhoài ra đi-văng, duỗi hai chân mỏi nhừ cho đỡ mệt.

Ngày hôm kia vừa kết nạp Ra-ki-chi-na làm đảng viên dự bị. Thế là chi bộ Pốt-đúp-xi của chúng ta được tăng cường hơn. Ra-ki-chi-na là một nữ thanh niên tốt, tôi rất thích cô ấy. Anh có thấy không, trong đám giáo viên đã bắt đầu có chuyển, một số bây giờ hoàn toàn đi hẳn với chúng ta.

Đôi khi buổi tối ở nhà Li-xi-xưn, ba người : Li-xi-xưn, Pa-ven và đồng chí bí thư mới

của Đảng ủy, khu Lư-xi-cốp, ngồi quanh cái bàn lớn, nói chuyện cho đến tận khuya. Cửa vào phòng ngủ đã đóng kín. A-nhút-ca là vợ li-xi-xưn đang ngủ, còn ba người đang ngồi quanh bàn cặm cụi trên một cuốn sách nhỏ. Chỉ ban đêm, Li-xi-xưn mới có thời giờ học tập. Những ngày Pa-ven ở nông thôn trở về, buồn rầu nhận thấy Li-xi-cốp và Li-xi-xưn đã học bỏ xa mình rồi.

Một tin buồn từ Pốt-đúp-xi đến : đêm qua không biết có bọn nào đã giết chết mất Gơ-ri-sút-ca. Được tin ấy, Pa-ven quên cả chân vẫn còn bị đau nhói. Chỉ mấy phút sau anh đã chạy đến chuồng ngựa của Ủy ban. Giận như điên, anh vội thắng yên ngựa và lấy roi da thúc hai hông ngựa, chạy như bay về phía biên thùy.

Trong căn nhà rộng của Xô-viết làng, Gơ-ri-sút-ca nằm trên chiếc bàn kết lá xanh, người anh phủ lá cờ Xô-viết. Trước khi chính quyền đến, không ai được lại gần thi hài anh ; ngoài ngưỡng cửa có một chiến sĩ biên phòng của Hồng quân và một Đoàn viên thanh niên cộng sản đứng canh. Pa-ven đi vào nhà, lại gần bàn, cuốn lá cờ lên : Gơ-ri-sút-ca nằm không động, gục đầu vào vai, mặt anh tái nhợt, hai mắt mở to còn ghi sâu cơn giãy giụa trước khi mất. Gáy anh bị một thứ vũ khí gì nhọn đâm, người ta đã lấy một cành thông phủ lên vết thương đó.

Bố Gơ-ri-sút-ca trước là một người đi ở cho tên chủ máy say, sau trở thành ủy viên của Ban dân cày nghèo và đã hy sinh cho cách mạng. Bàn tay kẻ nào đã phạm vào Gơ-ri-sút-ca, vào người thanh niên này, vào đứa con một của bà mẹ góa Khô-rô-vốt-cô này ?

Con bị giết, bà cụ đau đớn ngã vật ra đất. Hàng xóm đến ân cần săn sóc bà cụ đã nửa sống nửa chết ; con bà chết đi, đem theo những điều bí mật về cái chết của mình. Cái chết của Gơ-ri-sút-ca làm chấn động cả xã. Rõ ràng là Gơ-ri-sút-ca, người phụ trách trẻ tuổi của thanh niên cộng sản và người bảo vệ quyền lợi cho anh chị em cố nông này, có nhiều bạn hơn là thù ở trong thôn xã.

Xúc động vì cái chết của người đồng chí, Ra-ki-chi-na òa lên khóc ở phòng riêng. Và khi Pa-ven đến, chị cũng chẳng ngẩng đầu lên nữa. Pa-ven nặng nề đặt mình xuống ghế, hỏi Ra-ki-chi-na :

Ra-ki-chi-na nghĩ thế nào ? Ai đã giết Gơ-ri-sút-ca ?

Còn ai ngoài bọn chủ máy say nữa ? Vì Gơ-ri-sút-ca là cái gai trước mắt đối với những quân buôn lậu ấy.

Hai xã đến đưa đám Gơ-ri-sút-ca. Pa-ven đẫn cả tiểu đoàn của anh tới. Toàn thể tổ chức Đoàn thanh niên cơ sở đến tiễn biệt người đồng chí của mình. Ga-vi-rơ-lốp cho dàn hai trăm rưởi chiến sĩ của đại đội biên phòng bồng súng đứng trước trụ sở Xô-viết thôn. Theo điệu nhạc buồn vĩnh biệt, người ta chuyển quan tài phủ màu cờ đỏ đến đặt trên khu đất đã đào sẵn trong đám huyệt, cạnh những mộ các chiến sĩ du kích bôn-sê-vích đã hy sinh trong thời nội chiến.

Máu của Gơ-ri-sút-ca đã thắt chặt thêm nữa hàng ngũ những người mà lúc sống anh

đã suốt đời đem toàn sức ra bênh vực. Thanh niên bần cố nông hứa hết lòng ủng hộ chi đoàn thanh niên. Tất cả những người lên phát biểu đều căm phẫn vô cùng, đòi kết tội tử hình bọn giết người, đòi phải tìm ra được bọn chúng và xử ngay ở đây, trước nấm mồ này, để mỗi người đều được trông thẳng vào mặt kẻ thù.

Súng vang ba loạt vĩnh biệt người bạn chiến đấu và những cành thông đã phủ lên nấm mồ mới. Ngay tối hôm ấy, chi đoàn cử người bí thư mới: Ra-ki-chi- na. Trạm biên thuỳ của Cục chính trị Nhà nước báo tin cho Pa-ven biết là ngoài ấy đã dõi được hành tung của lũ giết người.

Một tuần sau, cuộc đại hội lần thứ hai của Xô-viết quận họp tại nhà hát địa phương.

Li-xi-xưn, vẻ mặt nghiêm nghị, trịnh trọng bắt đầu bản báo cáo.

Thưa các đồng chí! Tôi sung sướng có thể báo cáo với đại hội rằng một năm qua, tất cả chúng ta đã cố gắng rất lớn. Chúng ta đã củng cố vững mạnh chính quyền Xô-viết trong quận, đã diệt đến tận gốc bọn phỉ và tróc được tận rễ bọn buôn lậu. Những tổ chức vững mạnh của bần cố nông trong các xã đã lớn lên, những tổ chức thanh niên cộng sản đã đông lên gấp mười lần, những tổ chức Đảng đã được mở rộng. âm mưu ngóc đầu dậy gần đây của bọn phú nông ở Pốt-đúp-xi mà đồng chí Gơ-ri-sút-ca của chúng ta đã là nạn nhân, âm mưu đó cũng đã bị khám phá. Bọn thủ phạm giết người là tên chủ máy xay và con rể hắn, cả hai đều bị bắt. Ngày sắp tới, tòa án tỉnh sẽ tới đây xử bọn chúng. Rất nhiều đoàn đại biểu xã đã đến gặp văn phòng Xô-viết và yêu cầu đại hội ra quyết nghị đòi xử tử bọn phỉ khủng bố giết người…

Cả phòng họp rung lên những tiếng hô vang:

Ủng hộ đề nghị đó! Kẻ thù của chính quyền Xô- viết phải chết!

Có bóng Li-đa hiện ra ở cửa nách. Chị lấy ngón tay ra hiệu gọi Pa-ven.

Ngoài hành lang, Li-đa đưa cho Pa-ven một bì thư có dấu “Cần”. Pa-ven bóc ra:

“Gửi Quận đoàn thanh niên cộng sản quận Bê-rê- dơ-đốp. Sao gửi Đảng ủy quận. Ban thường vụ Tỉnh đoàn ra quyết nghị điều động đồng chí Pa-ven từ quận về tỉnh để giao một công tác phụ trách của Đoàn”.

Pa-ven từ biệt quận mà anh đã từng công tác trong một năm nay. Trong cuộc họp vừa qua, đảng ủy quận đã thảo luận hai vấn đề: Thứ nhất là công nhận đồng chí Pa-ven làm đảng viên chính thức Đảng cộng sản; thứ hai, sau khi cho đồng chí từ chức bí thư quận đoàn thanh niên cộng sản rồi thì nhận xét về phẩm chất của đồng chí ấy. Li-xi-xưn và Li-đa siết chặt tay Pa-ven, siết đến đau và ôm lấy anh thân thiết. Khi con ngựa Pa-ven cưỡi rời khỏi sân nhà bước ra đường cái thì mười khẩu súng ngắn bắn lên trời chào biệt.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.