Thị Trấn Tortilla Flat

CHƯƠNG 7



Làm thế nào mà các bạn của Danny đã đứng về phía cái Thiện.
Họ đã cứu giúp chàng Cướp Biển đáng thương ra sao.
 
★★★
 
Hằng ngày có khối người nhìn thấy Cướp Biển, một số cười hắn, một số tội nghiệp cho hắn; nhưng không ai biết rõ hắn, và cũng không ai dính tới hắn. Hắn là một gã to cao, vạm vỡ, có bộ râu rậm rịt, đen nhánh. Hắn mặc quần jean và áo sơ-mi xanh biển, không đội mũ. Khi đi vào phố, hắn mang giày. Mỗi khi gặp bất cứ người lớn nào là ánh mắt Cướp Biển rụt lại, cái vẻ bí mật của một con thú muốn chạy trốn nếu nó dám quay lưng đủ lâu. Qua biểu hiện này, các paisano của Monterey biết rằng đầu óc hắn không lớn cùng với phần còn lại của cơ thể. Họ gọi hắn là Cướp Biển vì bộ râu của hắn. Hằng ngày người ta thấy hắn đẩy xe củi thông quanh các phố cho đến khi bán hết củi. Và lúc nào cũng vậy lẩn quẩn dưới chân hắn là năm chú chó.
Enrique trông giống một chú chó săn, tuy đuôi hơi bù xù. Pajarito lông nâu và xoăn tít, và bạn chỉ nhìn thấy nó ở hai điểm đó. Rudolph là một con chó mà ai đi ngang qua cũng sẽ bảo, “Nó là một con chó Mỹ.” Fluff là một con chó púc còn Señor Alec Thompson có vẻ như là một con Airedale. Chúng đi thành đội hình sau lưng Cướp Biển, hết sức tôn trọng hắn, và hết sức quan tâm đến hạnh phúc của hắn. Khi hắn ngồi xuống để nghỉ đẩy xe, cả bầy đều cố ngồi trong lòng hắn để được gãi tai.
Có người thấy Cướp Biển sáng sớm ở phố Alvarado; có người thấy hắn chặt củi ngo; có người biết hắn bán củi mồi; nhưng không ai ngoại trừ Pilon biết mọi thứ mà Cướp Biển làm. Pilon biết tất cả mọi người và mọi thứ về mọi người.
Cướp Biển sống trong một chuồng gà bỏ hoang trong sân một ngôi nhà hoang ở Tortilla Flat. Hẳn là hắn nghĩ rằng ở luôn trong nhà thì quá đáng. Lũ chó ở xung quanh và trên đầu hắn, và Cướp Biển thích như vậy, vì lũ chó sưởi ấm cho hắn trong những đêm lạnh lẽo nhất. Nếu chân lạnh, hắn chỉ cần gác lên cái bụng ấm áp của Señor Alec Thompson. Chuồng gà quá thấp nên Cướp Biển phải bò vào bằng tay và đầu gối.
Mỗi sớm, khi những tia sáng đầu ngày còn chưa rọi xuống, Cướp Biển đã bò ra khỏi chuồng gà, lũ chó theo sau, xù lông và hắt hơi trong khí lạnh. Rồi cả đám đi xuống Monterey làm việc dọc theo một ngõ hẻm. Có bốn hay năm tiệm ăn có cửa sau mở ra phía con hẻm này. Cướp Biển bước vào từng tiệm một, vào trong nhà bếp của tiệm ăn, ấm áp và đầy mùi đồ ăn. Ở mỗi tiệm các bác đầu bếp càu nhàu đặt các gói đồ ăn thừa vào tay hắn. Họ chẳng biết tại sao mình làm như vậy.
Sau khi Cướp Biển ghé thăm từng cánh cửa, rồi hai cánh tay đã chất đầy các gói đồ ăn, hắn lội bộ ngược lên đồi về đường Munroe và bước vào một khu đất trống, còn lũ chó chạy lăng xăng quanh hắn. Rồi hắn mở các gói ra cho lũ chó ăn. Hắn rút bánh mì hay một mẩu thịt ở mỗi gói cho chính mình, nhưng hắn không chọn cho mình chỗ ngon nhất. Bầy chó ngồi xuống quanh hắn, hồi hộp liếm môi, nhấp nhổm đợi đồ ăn. Chúng chưa bao giờ cắn nhau vì đồ ăn, ấy là chuyện đáng ngạc nhiên. Bầy chó của Cướp Biển không bao giờ cắn nhau, nhưng chúng tấn công những thứ bốn chân khác lang thang trên các con phố Monterey. Nhìn bè lũ năm con rượt theo những con phốc lông mượt hay phốc sóc như săn thỏ thì thật là vui mắt.
Ăn xong thì ánh sáng ban ngày đã tràn ngập. Cướp Biển ngồi phệt trên đất ngắm bầu trời chuyển sang màu xanh lam cùng buổi sáng. Phía dưới hắn thấy những chiếc thuyền hai buồm dong ra khơi boong chất đầy gỗ. Hắn nghe tiếng chuông của các phao cột mốc ngân êm ái từ phía làng cá China Point. Bầy chó ngồi quanh hắn gặm xương. Cướp Biển dường đang lắng nghe nhịp sống ban ngày hơn là nhìn ngắm, vì lúc mắt hắn không chuyển động, trông hắn vẫn có vẻ đang rất chú ý. Đôi bàn tay hộ pháp của hắn bâng quơ xòe về phía lũ chó, mấy ngón tay vuốt ve bộ lông thô.
Sau khoảng nửa giờ đồng hồ, Cướp Biển đi vào góc của khu đất trống, ném lớp phủ bao tải ra khỏi chiếc xe cút-kít rồi đào cái rìu của mình từ chỗ hắn chôn mỗi tối lên. Rồi hắn đẩy xe cút-kít lên đồi, vào rừng, tới khi nào tìm thấy một thân cây khô, nhiều nhựa. Tới chính ngọ thì hắn đã có được một xe đầy củi mồi loại tốt; khi đó, vẫn với lũ chó lẽo đẽo theo sau, hắn đi ra các con phố cho đến khi bán hết xe củi mồi lấy hai mươi lăm xu.
Người ta có thể quan sát thấy toàn bộ việc này, nhưng không ai biết hắn làm gì với đồng hai mươi lăm xu. Hắn không bao giờ tiêu. Ban đêm, được lũ chó bảo vệ khỏi hiểm nguy, hắn đi vào rừng và giấu đồng hai mươi lăm xu kiếm được ban ngày với hàng trăm đồng khác. Ở một chỗ nào đó hắn có một kho tiền khá lớn.
Pilon, con người sắc sảo ấy, chẳng có chuyện vặt vãnh nào trong đời của bạn bè có thể thoát khỏi mắt chàng, và người sung sướng gấp đôi khi phát hiện ra những bí mật chôn sâu trong đầu của những người quen biết của mình, khám phá ra kho tàng của Cướp Biển qua một quá trình suy luận. Pilon lập luận thế này: “Mỗi ngày Cướp Biển kiếm được hai mươi lăm xu. Nếu đó là hai đồng mười xu và một đồng năm xu, cậu ta sẽ mang tới một cửa hàng để đổi lấy một đồng hai mươi lăm xu. Cậu ta không bao giờ tiêu tí tiền nào cả. Do đó, chắc hẳn cậu ta phải giấu nó.”
Pilon cố tính toán số của cải. Hàng năm trời Cướp Biển đã sống theo cách này. Hắn đốn củi ngo sáu ngày một tuần, và đi nhà thờ ngày Chủ nhật. Quần áo, hắn kiếm được từ cửa sau các ngôi nhà, còn thức ăn, từ cửa sau các tiệm ăn. Pilon bối rối với những con số lớn mất một lúc, rồi đầu hàng. “Cướp Biển phải có ít nhất một trăm đô-la,” chàng nghĩ bụng.
Pilon đã cân nhắc những điều này từ lâu. Nhưng chỉ sau lời hứa bồng bột và sôi nổi về việc nuôi Danny ăn thì cái ý nghĩ về kho tàng của Cướp Biển mới có chút tầm quan trọng cá nhân nào đó đối với Pilon.
Trước khi có động tĩnh tiếp cận đối tượng, Pilon buộc đầu óc mình trải qua một quá trình chuẩn bị dài và đáng kinh ngạc. Chàng thấy rất tội nghiệp cho Cướp Biển. “Thằng bé trì độn bé bỏng tội nghiệp,” chàng tự nhủ. “Chúa không ban cho hắn tất cả trí não hắn phải có. Thằng bé Cướp Biển bé nhỏ tội nghiệp đó không biết cách tự trông nom bản thân. Vì như thấy đấy, nó sống trong sự bẩn thỉu của một chuồng gà bỏ hoang. Nó ăn đồ thừa chỉ xứng cho chó. Quần áo nó mong manh, rách rưới. Và bởi vì não của nó không phải là não tốt, nó lại đi cất giấu tiền của mình.”
Lúc bấy giờ, sau khi đã bày biện nền tảng cho xót thương, Pilon chuyển sang giải pháp. “Chẳng phải đó là việc làm đáng được tưởng thưởng sao,” chàng nghĩ, “khi mình làm cho nó những việc mà bản thân nó không tự làm được. Mua áo ấm cho nó, mua cho nó đồ ăn xứng đáng với một con người. Nhưng,” chàng tự nhắc nhở, “Mình chẳng có tiền để làm những việc này, cho dù những việc ấy luôn xao động trong tim mình. Làm thế nào có thể hoàn thành những việc từ thiện này đây?”
Bây giờ chàng đã tiến được một chút. Như con mèo sau cả tiếng đồng hồ rình rập giờ sắp vồ được con chim sẻ, Pilon đã sẵn sàng cho cú vồ của mình. “Ta nghĩ ra rồi!” trí óc chàng reo lên. “Sẽ như thế này: Cướp Biển có tiền, nhưng nó không có đầu óc để sử dụng. Mình có đầu óc! Mình sẽ mời nó sử dụng đầu óc của mình. Mình sẽ trao tặng đầu óc hoàn toàn miễn phí. Đó sẽ là phần từ thiện của mình cho kẻ trì độn bé nhỏ đáng thương này.”
Đấy là một trong những công trình tinh xảo nhất mà Pilon từng xây dựng. Sự nôn nao của người nghệ sĩ muốn trưng bày tác phẩm của mình cho khán giả tràn ngập lòng chàng. “Mình sẽ nói với Pablo,” chàng nghĩ. Nhưng chàng băn khoăn không biết chàng có nên làm một chuyện như thế không. Liệu Pablo có trung thực tuyệt đối không? Liệu cậu ta có muốn chuyển một phần của khoản tiền này sang cho mục đích riêng của mình hay không? Rốt cuộc, Pilon quyết định bỏ qua Pablo lần này.
Thật sửng sốt khi phát hiện ra những sự vật đen đủi và xấu xa lại có cái bụng trắng như tuyết. Thật rầu rĩ khi dò thấy những chỗ khuất của các thiên thần lại lở lói như thế nào. Vinh dự thay, bình an thay cho Pilon, vì chàng đã khám phá ra cách để khai phá và phơi lộ với thế gian những điều tốt đẹp bên trong những điều xấu xa. Chàng cũng không mù quáng, như rất nhiều các vị thánh thường vẫn thế, trước mặt xấu xa của những điều tốt. Phải buồn rầu thừa nhận rằng Pilon chẳng có sự ngu xuẩn, cũng chẳng có ham muốn tự phong, hay ham muốn được báo đáp để có thể trở thành một vị thánh. Với Pilon, làm việc tốt và được tưởng thưởng bằng sự ấm áp của tình huynh đệ chốn trần gian là quá đủ.
Ngay đêm hôm đó chàng đến thăm cái chuồng gà nơi Cướp Biển sống cùng bầy chó. Danny, Pablo và Jesus Maria, lúc đó đang ngồi bên bếp lò, thấy chàng đi ra nhưng không nói gì. Vì họ suy nghĩ tế nhị rằng, hẳn là men tình ái đã dậy lên trong Pilon, còn nếu không thì hẳn chàng biết có thể kiếm được ít rượu vang từ đâu đó. Cả hai trường hợp đều chẳng phải là việc của họ, chừng nào chàng chưa chia sẻ.
Lúc ấy trời đã tối từ lâu, nhưng Pilon có một cây nến trong túi, vì có lẽ nên theo dõi biểu hiện trên gương mặt của Cướp Biển trong lúc hắn nói. Và Pilon còn có một cái bánh quy đường to trong túi mà Susie Francisco, cô ả làm việc trong một tiệm bánh, đã cho chàng để đổi lấy công thức chiếm được tình yêu của Charlie Guzman. Charlie là anh chàng phát điện tín cưỡi một chiếc mô-tô; còn Susie có một chiếc mũ lưỡi trai đàn ông để đội ngược, lỡ mà Charlie có khi nào mời cô lên xe với anh ta. Pilon nghĩ chắc Cướp Biển sẽ thích bánh quy đường.
Đêm đó trời rất tối. Pilon len lỏi qua một con phố hẹp kề bên những khu đất trống và những khu vườn bỏ hoang cỏ dại mọc đầy.
Con chó trâu xấu xí của Galvez gầm gừ nhảy ra từ sân nhà Galvez, còn Pilon nói những lời vỗ về khen ngợi nó. “Chó ngoan,” chàng dịu dàng nói, rồi “chó đẹp,” cả hai rõ là những lời nói dối trắng trợn. Tuy nhiên những lời ấy bùi tai với con chó, vì nó đã rút lui vào trong sân nhà Galvez.
Rốt cuộc Pilon cũng tới khu đất trống chỗ Cướp Biển ở. Giờ thì chàng biết chàng phải cẩn thận, vì lũ chó của Cướp Biển, nếu chúng ngờ rằng ai làm chuyện gì xấu với chủ chúng, có tiếng là sẽ hung hăng bảo vệ. Khi Pilon bước vào sân, chàng nghe thấy những tiếng gầm gừ trong cổ họng và đầy đe dọa từ phía chuồng gà.
“Cướp Biển ơi,” chàng gọi. “Pilon bạn tốt của cậu đến để trò chuyện với cậu đây.”
Chỉ có im lặng. Lũ chó ngừng gầm gừ.
“Cướp Biển ơi, chỉ là Pilon thôi mà.”
Một giọng trầm trầm gắt gỏng đáp trả, “Đi chỗ khác. Tôi đang ngủ. Lũ chó đang ngủ. Trời tối rồi, Pilon. Về ngủ đi.”
“Tôi có một cây nến trong túi đây,” Pilon gọi. “Nó sẽ thắp lên ánh sáng sáng như ban ngày trong căn nhà tối của cậu. Tôi cũng có mang một cái bánh quy đường to cho cậu đây.”
Nghe có tiếng va quệt khe khẽ trong chuồng gà. “Vậy thì vào đi,” Cướp Biển nói. “Tôi sẽ bảo lũ chó là không có việc gì.”
Trong lúc tiến qua đám cỏ, Pilon có thể nghe Cướp Biển nói chuyện dịu dàng với lũ chó của mình; cậu ta giải thích cho chúng rằng đó chỉ là Pilon, hắn không làm hại gì đâu. Pilon cúi người trước cái cửa tối om và quẹt một que diêm thắp ngọn nến lên.
Cướp Biển ngồi trên nền đất, bầy chó xung quanh. Enrique gầm gừ, nên phải được trấn an lần nữa. “Con này không được khôn như mấy con kia,” Cướp Biển hòa nhã nói. Cặp mắt hắn là cặp mắt vui sướng của một đứa trẻ con khi phấn hứng. Khi mỉm cười hàm răng to, trắng của hắn lấp lánh dưới ánh nến.
Pilon chìa túi ra. “Một cái bánh ngon lành cho cậu đây,” chàng nói.
Cướp Biển cầm lấy túi nhìn vào trong; rồi hắn mỉm cười vui sướng, lấy cái bánh quy ra. Cả bầy chó đều ngoác mồm nghếch mặt lên nhìn hắn, nhúc nhích chân và liếm mép. Cướp Biển bẻ cái bánh ra thành bảy miếng. Miếng đầu tiên hắn đưa cho Pilon, khách của hắn. “Giờ tới lượt Enrique,” hắn nói. “Giờ, Fluff. Giờ thì Señor Alec Thompson.” Mỗi con chó nhận được mẩu của mình, nuốt chửng và nhong nhóng tìm thêm. Cuối cùng, Cướp Biển ăn miếng của mình và đưa hai tay lên cho lũ chó. “Không còn nữa đâu, chúng mày thấy đấy,” hắn bảo chúng. Ngay tắp lự lũ chó nằm xuống quanh hắn.
Pilon ngồi trên sàn và dựng ngọn nến trên mặt đất trước mặt. Cướp Biển nhìn chàng đầy vẻ thăm dò. Pilon ngồi im lặng, mặc cho nhiều câu hỏi trôi ngang qua đầu Cướp Biển. Cuối cùng chàng lên tiếng, “Cậu là mối lo cho bạn bè của cậu đấy.”
Cắp mắt Cướp Biển tràn ngập vẻ kinh ngạc. “Tôi? Cho bạn bè tôi ư? Bạn bè nào?”
Pilon dịu giọng. “Cậu có nhiều bạn bè nghĩ đến cậu. Họ không đến gặp cậu bởi vì cậu kiêu hãnh quá. Họ nghĩ có thể tổn thương đến lòng tự hào của cậu khi để họ thấy cậu sống trong cái chuồng gà này, mặc giẻ rách, ăn rác rưởi cùng lũ chó. Nhưng các bạn bè của cậu lo sợ rằng cuộc sống tồi tệ có thể khiến cậu đau ốm.”
Cướp Biển dõi theo lời chàng mà kinh ngạc nghẹt thở, và não hắn cố gắng ghi nhận những thứ mới mẻ hắn đang nghe. Hắn không mảy may nghi ngờ những lời ấy, vì Pilon nói chúng ra. “Tôi có những người bạn này ư?” hắn ngỡ ngàng nói. “Vậy mà tôi không hề hay biết. Và tôi lại là mối lo cho những người bạn ấy nữa. Tôi không hề biết, Pilon ạ. Nếu biết tôi đã không làm cho họ lo lắng.” Hắn nuốt nước bọt để cảm xúc không làm nghẹn cổ họng. “Anh thấy đấy, Pilon. Lũ chó thích ở đây. Tôi cũng thích chỗ này vì chúng. Tôi không nghĩ là mình là mối âu lo cho bạn bè” Cướp Biển ngân ngấn nước mắt.
“Tuy nhiên,” Pilon nói, “kiểu sống của cậu làm tất cả bạn bè cậu bất an.”
Cướp Biển nhìn xuống đất cố suy nghĩ cho rành mạch, nhưng như mọi khi, mỗi khi hắn thử đương đầu với khó khăn, não hắn trở nên xám xịt và chẳng giúp ích gì được, ngoại trừ một cảm giác vô vọng. Hắn nhìn sang lũ chó của mình trông cậy sự bảo vệ, nhưng chúng đã đi ngủ tiếp, vì chuyện ấy chẳng phải việc của chúng. Và rồi hắn nhìn vào mắt Pilon thắm thiết. “Anh phải bảo tôi làm gì chứ Pilon. Tôi không biết tất cả những việc này.”
Quá dễ dàng. Pilon hơi ngượng vì chuyện quá dễ dàng như thế. Chàng ngần ngừ; gần như bỏ cuộc; nhưng rồi chàng biết chàng sẽ giận dữ với bản thân nếu chàng làm như thế. “Các bạn của cậu đều nghèo,” chàng nói. “Họ muốn giúp cậu nhưng họ không có tiền. Nếu cậu có tiền cất giấu, thì cậu hãy mang nó ra. Mua cho bản thân ít quần áo. Ăn thứ đồ ăn không phải do người khác vứt đi. Mang tiền của cậu ra khỏi chỗ cất giấu, Cướp Biển ạ.”
Pilon đã chăm chú nhìn vẻ mặt của Cướp Biển trong khi nói. Chàng thấy cặp mắt hắn cụp xuống nghi ngờ rồi hờn dỗi. Trong phút chốc Pilon biết tỏng hai điều; một, đó là Cướp Biển có tiền cất giấu; và hai, không dễ gì mó vào chỗ ấy. Chàng thấy vui vì sự kiện sau. Cướp Biển đã trở thành một thách thức chiến thuật khiến Pilon thích thú.
Giờ Cướp Biển lại đang nhìn chàng, trong mắt hắn là vẻ láu cá, và trên cả, một vẻ ngây thơ cố tình. “Tôi không có tiền ở đâu cả,” hắn nói.
“Nhưng hằng ngày, bạn hiền ạ, tôi thấy cậu kiếm được một đồng hai mươi lăm xu từ việc bán củi, và chưa bao giờ tôi thấy cậu tiêu nó.”
Lần này não của Cướp Biển xuất hiện kịp thời để ứng cứu. “Tôi cho một bà già nghèo,” hắn nói. “Tôi không có tiền ở đâu cả.” Và bằng giọng của mình hắn đóng sầm cánh cửa về đề tài này.
“Vậy là phải dùng mẹo đây,” Pilon nghĩ. Và như thế những tài năng thiên phú, vốn được mài giũa sắc bén trong chàng, sẽ phải được triệu vào cuộc chơi. Chàng đứng dậy nhấc ngọn nến lên. “Tôi chỉ nghĩ phải nói với cậu bạn bè của cậu lo lắng thế nào thôi,” chàng gay gắt nói. “Nếu cậu không có ý muốn giúp đỡ, thì tôi chịu không làm được gì cho cậu cả.” Sự dịu dàng trở lại trong mắt Cướp Biển. “Bảo họ tôi khỏe,” hắn van vỉ. “Hãy bảo các bạn tôi đến gặp tôi. Tôi không quá kiêu hãnh đâu. Tôi sẽ mừng vui gặp họ bất kỳ lúc nào. Liệu huynh có chuyển lời giùm tôi không, Pilon?”
“Tôi sẽ bảo họ,” Pilon cộc cằn nói. “Nhưng các bạn của cậu sẽ không vui vẻ gì khi thấy cậu không chịu làm gì để tâm hồn họ nhẹ nhõm đâu.” Pilon thổi tắt ngọn nến và bỏ đi vào trong bóng tối. Chàng biết Cướp Biển sẽ không bao giờ nói kho tàng của hắn ở đâu. Phải lén tìm ra nó, đoạt lấy bằng vũ lực và rồi mọi thứ tốt đẹp sẽ được trao cho Cướp Biển. Đó là cách duy nhất.
Và thế là Pilon buộc mình theo dõi Cướp Biển. Chàng theo hắn vào rừng khi hắn đi chặt củi mồi. Đêm, chàng nằm đợi bên ngoài chuồng gà. Chàng nói chuyện với hắn thật lâu và tha thiết, nhưng chẳng moi được cái mẻ gì. Kho báu vẫn muôn trùng cách xa khám phá. Hẳn là nó được chôn trong chuồng gà hoặc được giấu sâu trong rừng, và hắn chỉ ghé thăm nó vào ban đêm.
Những đêm dài thức trắng không thu hoạch được kết quả nào bào mòn sự kiên nhẫn của Pilon. Chàng biết mình cần có trợ giúp và tư vấn. Và còn ai có thể làm điều đó tốt hơn những người bạn đồng chí hướng – Danny, Pablo và Jesus Maria. Ai có thể lắm mưu, nhiều chước như họ? Ai có thể mủi lòng trước cái thiện hơn họ?
Pilon chia sẻ bí mật với các bạn mình; nhưng trước hết chàng chuẩn bị tư tưởng cho họ, như chàng đã chuẩn bị cho chính mình: Sự nghèo túng của Cướp Biển, tình trạng vô vọng của hắn, và cuối cùng – giải pháp. Khi chàng nói tới giải pháp, các bạn chàng phát cuồng vì lòng từ thiện. Họ hoan hô chàng. Gương mặt họ sáng bừng với vẻ thiện tâm. Pablo nghĩ chắc phải có hơn một trăm đô-la trong kho tàng.
Khi niềm vui đã lắng đọng lại thành nhiệt tình làm việc, họ bàn tới các kế hoạch.
“Ta phải theo dõi cậu ấy,” Pablo nói.
“Nhưng tôi đã theo dõi cậu ta,” Pilon cãi. “Ắt hẳn cậu ta bò đi mất trong đêm, chưa kể không thể theo cậu ta quá sát, vì bầy chó của cậu ta bảo vệ chủ chúng như quỷ sứ. Sẽ không dễ dàng chút nào đâu.”
“Huynh đã dùng hết mọi lý lẽ chưa?” Danny hỏi
“Rồi. Tất tần tật.”
Rốt cuộc chính là Jesus Maria, con người nhân ái ấy, tìm được lối ra. “Sẽ khó khăn khi cậu ta sống trong cái chuồng gà ấy,” chàng nói. “Nhưng giả như cậu ta sống ở đây, cùng chúng ta, thì sao? Hoặc sự im lặng của cậu ta sẽ bị phá vỡ vì sự tử tế của chúng ta, còn không thì cũng sẽ dễ biết hơn khi cậu ta ra ngoài vào ban đêm.”
Những người bạn suy nghĩ rất lung về đề xuất này. “Thỉnh thoảng những thứ cậu ta có được từ các tiệm ăn gần như còn mới nguyên,” Pablo trầm ngâm. “Tôi đã từng nhìn thấy cậu ta có một miếng bít tết chỉ sứt một tí.”
“Có khi phải đến hai trăm đô-la,” Pilon nói.
Danny chợt phản đối. “Nhưng còn những con chó ấy – cậu ta hẳn sẽ mang theo lũ chó.”
“Lũ chó khá ngoan,” Pilon nói. “Chúng răm rắp tuân lệnh cậu ta. Ta có thể vẽ một vạch quanh một góc nhà và nói, “Bắt lũ chó của cậu ở trong vạch này.” Cậu ấy sẽ bảo và lũ chó sẽ ở trong đó.”
“Có một sáng tôi nhìn thấy Cướp Biển, cậu ta có đến gần nửa ổ bánh ngọt trong tay, chỉ hơi ẩm một tí vì cà phê,” Pablo nói.
Vậy là câu hỏi đã tự được giải quyết. Căn nhà tự biến thành một hội đồng, và hội đồng đi thăm Cướp Biển.
Cái chuồng gà ấy quá chật chội khi tất cả bọn họ len vào trong. Cướp Biển cố che giấu niềm vui sướng của mình bằng một giọng cộc cằn.
“Thời tiết tệ quá,” hắn nói xã giao. Rồi, “Chắc có lẽ các anh không tin, chứ tôi tìm thấy một con rận to bằng quả trứng bồ câu trên cổ con Rudolph.” Và hắn nói bâng quơ về nhà của mình, như một vị chủ nhà nên như thế. “Nhà nhỏ quá,” hắn nói. “Nó không phải chỗ phù hợp cho bạn bè đến chơi. Nhưng chỗ này ấm cúng, đặc biệt đối với lũ chó.”
Rồi Pilon cất tiếng. Chàng bảo Cướp Biển rằng sự âu lo đang giết các bạn mình; nhưng nếu hắn tới sống cùng họ, thì họ sẽ có thể ngủ nghê thoải mái.
Đó quả là một cú sốc khủng khiếp với Cướp Biển. Hắn nhìn hai bàn tay mình. Rồi hắn nhìn sang lũ chó của mình tìm kiếm sự động viên, nhưng chúng không đáp lại cái liếc nhìn của hắn. Cuối cùng hắn lau khô niềm hạnh phúc trong mắt bằng mu bàn tay, và hắn quệt bàn tay lên hàm râu đen xồm xoàm của mình.
“Còn lũ chó?” hắn hỏi nhỏ. “Các anh cũng thích lũ chó chứ? Các anh có phải là bạn của chúng?”
Pilon gật đầu. “Ừ, cả lũ chúng nó. Sẽ có nguyên một góc dành riêng cho chó.”
Cướp Biển là người kiêu hãnh. Hắn e rằng mình có thể đã cư xử không được đàng hoàng lắm. “Các anh về đi,” hắn khẩn khoản. “Cứ về nhà đi. Sáng mai tôi sẽ tới.”
Các bạn của hắn biết hắn cảm thấy thế nào. Họ bò ra khỏi cửa và để mặc hắn.
“Ở cùng chúng ta, cậu ta sẽ hạnh phúc,” Jesus Maria nói.
“Anh chàng cô đơn bé nhỏ đáng thương,” Danny thêm vào. “Nếu biết từ trước, tôi đã đề nghị với cậu ta từ lâu, kể cả nếu cậu ta chẳng có kho tàng nào.”
Một ngọn lửa hân hoan bùng lên trong lòng tất cả bọn họ.
Họ sớm ổn định trong mối quan hệ mới. Danny, với một mảnh phấn xanh trong tay, vẽ một phần của vòng tròn, khoanh một góc phòng khách lại, đó là chỗ lũ chó phải ở khi chúng ở trong nhà. Cướp Biển cũng ngủ trong vòng tròn đó, cùng bầy chó.
Nhà bắt đầu hơi đông đúc, với năm người và năm con chó; nhưng ngay từ đầu, Danny cùng các bạn đã nhận ra rằng lời mời của họ đối với Cướp Biển được truyền cảm hứng bởi vị thiên thần mệt mỏi và đầy âu lo hộ vệ cho vận số của họ, bảo vệ họ khỏi cái ác.
Mỗi sáng, rất lâu trước khi các bạn tỉnh giấc, từ xó nhà của mình, Cướp Biển nhổm dậy đi một vòng quanh các tiệm ăn và cầu cảng, lũ chó lẽo đẽo theo sau. Hắn là một trong những người mà ai cũng có thiện cảm. Các gói đồ ăn của hắn ngày càng to ra. Bốn chàng paisano cứ thế nhận và tận hưởng các phẩm vật của hắn; nào là cá tươi, nào là những ổ bánh còn phân nửa, những ổ bánh mì ỉu chưa ai đụng đến, với cả những tảng thịt chỉ cần cho chút sô-đa vào là tẩy được mốc xanh. Họ thực sự bắt đầu sống.
Việc bốn chàng chấp nhận những món quà làm Cướp Biển cảm động sâu xa hơn bất cứ thứ gì họ có thể làm cho hắn. Trong mắt hắn ánh lên vẻ sùng bái khi ngắm họ ăn những thứ mình mang về.
Buổi tối, khi họ ngồi quanh bếp lò bàn luận những hoạt động của Tortilla Flat bằng cái giọng biếng lười của những vị thần no nê, mắt của Cướp Biển đưa từ miệng người này sang miệng người kia, môi hắn mấp máy, thì thầm lặp lại những lời các bạn nói. Lũ chó sấn vào quanh hắn đầy ghen tị.
Đây là bạn của mình, hắn tự nhủ trong đêm, khi căn nhà tối om, khi lũ chó rúc sát vào hắn để cả bọn đều ấm. Những con người này yêu mến hắn nhiều đến độ họ lo âu khi để hắn sống một mình. Cướp Biển phải thường xuyên lặp đi lặp lại với bản thân điều này, vì đó là một điều đáng kinh ngạc, một sự thật không thể tin nổi. Giờ đây cái xe cút-kít của hắn dựng trong sân nhà Danny, và hằng ngày hắn đẵn củi thông đem bán. Nhưng Cướp Biển quá sức lo lắng về việc có thể bỏ lỡ đôi lời các bạn nói vào buổi tối, hay có thể không ở đó để thấm đẫm đôi làn hơi ấm áp của tình bầu bạn, nên đã nhiều ngày hắn không đến thăm kho tàng của mình để cất những đồng xu mới.
Các bạn của Cướp Biển cũng quá xá tử tế với hắn. Họ cư xử rất đỗi nhã nhặn; nhưng luôn luôn có một ánh mắt nào đó dõi theo hắn. Khi hắn đẩy xe vào trong rừng, một trong những người bạn sẽ đi cùng và ngồi trên một khúc gỗ trong khi hắn làm việc. Khi hắn đi xuống khe núi, việc cuối cùng của buổi đêm, Danny hoặc Pablo hoặc Pilon hoặc Jesus Maria sẽ đi theo. Và trong đêm, để bò ra khỏi nhà mà không một cái bóng sau lưng, hắn phải rất im ắng.
Suốt một tuần, những người bạn chỉ đơn thuần theo dõi Cướp Biển. Nhưng cuối cùng tình trạng án binh bất động khiến họ mệt mỏi. Không thể hành động trực tiếp được, họ biết điều đó. Vì vậy một tối nọ chủ đề cất giấu tiền được đem ra bàn luận.
Pilon mào đầu. “Tôi có một ông bác, một con người bủn xỉn bình thường, bác ấy giấu vàng của mình trong rừng. Một lần nọ bác tới xem lại, thì chẳng thấy đâu nữa. Ai đó đã phát hiện ra và trộm mất. Khi ấy bác đã già rồi, tiền bạc mất hết, thế là bác treo cổ tự tử.” Pilon thỏa mãn thấy vẻ hoang mang hiện lên trên gương mặt của Cướp Biển.
Danny cũng để ý thấy như thế; chàng tiếp tục, “Ông cụ, tức ông nội tôi, chủ căn nhà này, cũng chôn tiền. Tôi không biết ông cụ có bao nhiêu, nhưng ông là người giàu có tiếng, nên ắt hẳn phải đến ba hay bốn trăm đô-la. Ông đào một cái hố sâu cất tiền ở đó, lấp lại, rồi rải lá thông lên trên mặt đất cho đến khi ông nghĩ là không ai có thể nhìn ra có gì xáo trộn ở đó. Nhưng khi trở lại, hố đã bị xới lên, và tiền không cánh mà bay.”
Cặp môi Cướp Biển dõi theo từng lời. Một vẻ kinh hoàng hiện lên gương mặt hắn. Mấy ngón tay của hắn tần ngần trên túm lông cổ của Señor Alec Thompson. Những người bạn trao đổi với nhau một ánh nhìn và tạm bỏ qua đề tài. Họ chuyển sang bình luận đời sống ái tình của Cornelia Ruiz.
Đêm hôm ấy, Cướp Biển rón rén bò ra khỏi nhà, lũ chó bò theo sau; và Pilon bò theo sau rốt. Cướp Biển mau mắn đi vào trong rừng, sải những bước chân quả quyết qua những khúc gỗ và bụi cây. Pilon chật vật bám theo. Nhưng khi đi được chừng hai dặm, Pilon đứt hơi và bị dây leo cào trầy trụa. Chàng dừng lại nghỉ một chút; chợt nhận ra mọi âm thanh phía trước chàng đã ngưng lại. Chàng chờ đợi, nghe ngóng và bò loanh quanh, nhưng Cướp Biển đã biến mất.
Sau hai tiếng đồng hồ, Pilon quay trở lại, chậm chạp và mệt mỏi. Cướp Biển đã ở trong nhà, ngủ say giữa bầy chó. Lũ chó ngóc đầu lên khi Pilon bước vào, và Pilon nghĩ chúng cười nhạo chàng.
Sáng hôm sau một hội nghị diễn ra trong khe núi.
“Không thể nào bám theo cậu ta được,” Pilon báo cáo. “Cậu ta biến mất. Cậu ta nhìn thấy đường trong bóng tối. Cậu ta thuộc từng cái cây trong rừng. Ta phải tìm cách nào đó khác.”
“Có lẽ một người không đủ,” Pablo gợi ý. “Nếu tất cả bọn mình cùng bám theo cậu ta, thì một người trong bọn có thể không mất dấu.”
“Đêm nay chúng ta sẽ nói chuyện tiếp,” Jesus Maria nói, “chỉ nói chuyện tệ hơn thôi nhé. Một nàng tôi quen sắp biếu tôi ít rượu,” chàng khiêm tốn thêm vào. “Có lẽ có tí rượu vào Cướp Biển sẽ không biến mất quá dễ dàng.” Chuyện tạm ngưng ở đó.
Cô nàng của Jesus Maria biếu chàng nguyên một ga-lông rượu. Không gì có thể sánh với niềm sướng vui của Cướp Biển tối hôm đó khi một hũ rượu được ấn vào tay hắn, khi hắn ngồi cùng các bạn mình nhấm nháp rượu vang và lắng nghe cuộc chuyện trò. Niềm hoan hỷ như thế hiếm khi đến trong cuộc đời Cướp Biển. Hắn ước gì có thể siết chặt những con người yêu quý này vào ngực và nói với họ rằng hắn yêu quý họ chừng nào. Nhưng ấy là điều mà hắn không thể làm, vì họ có thể nghĩ rằng hắn say. Hắn ao ước mình có thể làm một điều gì đó kỳ vỹ để cho họ thấy tình yêu của hắn.
“Tối hôm qua ta nói về việc chôn tiền,” Pilon nói. “Hôm nay tôi sực nhớ chuyện một người anh họ, một con người khôn ngoan. Nếu trên thế gian này có ai có thể giấu tiền ở chỗ không bao giờ có thể bị tìm thấy, thì chính là anh ấy. Vì vậy anh đã mang tiền đi giấu. Có lẽ các bạn đã gặp anh ấy, con người bé nhỏ đáng thương lê la ở cầu cảng xin đầu cá để nấu xúp. Đó là anh họ của tôi. Có người đã trộm tiền chôn giấu của anh ấy.”
Âu lo quay trở về trên gương mặt Cướp Biển.
Chuyện nọ chất chồng chuyện kia, chuyện nào cũng đủ điều gở đeo theo dấu chân những ai cất giấu tiền.
“Tốt hơn hết là giữ tiền sát bên người, thỉnh thoảng chi tiêu vài đồng, hay cho bạn bè một chút,” Danny kết luận.
Họ dõi nhìn Cướp Biển kỹ lưỡng, và ở giữa một câu chuyện tồi tệ nhất họ nhìn thấy vẻ âu lo tan đi trên gương mặt hắn, thay vào đó là một nụ cười thanh thản. Bây giờ hắn nhấp rượu, mắt lấp lánh niềm vui.
Những người bạn tuyệt vọng. Mọi kế hoạch của họ đều thất bại ê chề. Trong lòng mọi người đều ủ rũ. Sau tất cả lòng tốt và từ thiện của họ, điều này đã xảy ra. Cướp Biển bằng một cách nào đó đã vuột khỏi cái tốt mà họ dự định trao tặng. Họ uống cạn chỗ rượu và đi ngủ mà lòng ủ ê.
Ít có chuyện gì xảy ra trong đêm mà Pilon lại không biết. Tai chàng vẫn mở trong lúc phần còn lại của thân thể ngủ. Chàng nghe thấy tiếng Cướp Biển và bầy chó lén ra khỏi nhà. Chàng trườn sang đánh thức các bạn; trong thoáng chốc cả bốn người bám theo Cướp Biển về hướng khu rừng. Trời tối đen như mực lúc họ đi vào rừng thông. Bốn người bạn chạy đâm sầm vào cây, vấp vào những dây dâu leo; nhưng suốt một quãng lâu họ có thể nghe thấy tiếng Cướp Biển rảo bước phía trước. Họ bám theo Cướp Biển xa bằng Pilon đi theo tối hôm trước, và rồi, đột ngột, im lặng, chỉ còn tiếng rừng thầm thì và tiếng gió đêm mơ hồ. Họ luồn qua rừng và những mảng bụi rậm, nhưng một lần nữa Cướp Biển đã biến mất.
Cuối cùng, lạnh lẽo và chán nản, họ gặp lại nhau, mệt mỏi lê bước về phía Monterey. Trời đã rạng trước khi họ về tới nơi. Mặt trời đã chiếu sáng trên vịnh. Làn khói từ những đống lửa buổi sáng từ Monterey lãng đãng bay về phía họ.
Cướp Biển bước ra hàng hiên chào đón họ, mặt hắn rạng ngời niềm vui. Họ đi ngang qua hắn đầy vẻ hờn dỗi, bước thẳng vào phòng khách. Ở đó trên bàn có một túi vải lớn.
Cướp Biển theo họ vào nhà. “Tôi nói dối huynh, Pilon ạ,” hắn nói. “Tôi nói với huynh tôi không có tiền, vì tôi sợ. Khi đó tôi không biết về các bạn. Các bạn đã bảo tiền cất giấu thường thì bị mất trộm thế nào, làm tôi lại càng sợ thêm. Mãi đến tối qua tôi mới nghĩ ra cách mới. Tiền của tôi sẽ an toàn với các bạn của tôi. Không ai có thể ăn trộm nếu bạn bè tôi bảo vệ nó cho tôi.”
Bốn người trừng trừng nhìn hắn kinh hãi. “Hãy mang tiền của cậu về lại trong rừng mà giấu nó đi,” Danny nói phũ. “Bọn này không muốn canh nó.”
“Không đâu,” Cướp Biển nói. “Tôi sẽ không cảm thấy an toàn khi giấu nó. Nhưng tôi sẽ rất vui khi biết rằng các bạn tôi canh gác nó cho tôi. Nói thì các anh không tin, nhưng hai đêm vừa rồi có ai đó bám theo tôi vào rừng để trộm tiền của tôi.”
Như bị giáng một đòn khủng khiếp, Pilon, con người nhanh trí ấy, cố thoát ra. “Trước khi giao tiền vào tay chúng tôi, có khi cậu muốn lấy ra một ít,” chàng nhẹ nhàng gợi ý.
Cướp Biển lắc đầu. “Không. Tôi không thể làm thế. Đó là lời hứa. Tôi có gần một nghìn đồng hai lăm xu. Chừng nào có một nghìn tôi sẽ mua một giá nến bằng vàng cho Thánh Francis de Assisi. Tôi từng có một con chó ngoan, bị ốm; và tôi hứa dâng một giá nến bằng vàng đáng giá một nghìn ngày làm việc nếu con chó đó bình phục. Và,” hắn xòe đôi bàn tay kềnh càng ra, “con chó ấy đã bình phục.”
“Có phải là một trong mấy con này không?” Pilon hỏi.
“Không,” Cướp Biển nói. “Sau đó một xe tải cán phải nó.”
Thế là hết, mọi hy vọng có thể kiếm chác chút ít từ chỗ tiền. Danny và Pablo ủ ê nhấc cái túi trĩu nặng những đồng hai lăm xu bằng bạc lên, mang vào phòng bên kia và đặt dưới gối trên giường Danny. Sau này họ sẽ vui lên khi nghĩ đến chuyện có một túi tiền nằm dưới gối, nhưng vào lúc này, chỉ có vị cay đắng của thất bại. Họ chẳng còn có thể làm gì về việc ấy nữa. Dịp may của họ đã đến, và nó đã đi.
Cướp Biển đứng trước mặt họ, mắt tràn những giọt lệ vui sướng vì hắn đã chứng tỏ tình yêu của hắn đối với các bạn của mình
“Nghĩ xem,” hắn nói, “suốt bao năm nay, tôi cứ nằm trong cái chuồng gà ấy, không hề biết đến bất cứ niềm vui nào. Nhưng bây giờ,” hắn thêm, “ôi, bây giờ tôi rất hạnh phúc.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.