Thị Trấn Tortilla Flat

CHƯƠNG 8



Các bạn của Danny đi tìm kho báu bí ẩn trong đêm Thánh Andrew như thế nào.
Pilon tìm thấy kho tàng ấy ra sao và sau đó làm thế nào mà một chiếc quần vải xẹc đã đổi chủ hai lần.
 
★★★
 
Nếu là một anh hùng, hẳn là Joe Voi, anh chàng người Bồ, đã phải trải qua một thời gian khổ ải trong quân đội. Đằng này, việc Joe Voi từng được đào tạo ra trò trong nhà tù của Monterey không chỉ cứu chàng khỏi sự đau khổ khi không được bày tỏ lòng yêu nước, mà còn khiến chàng tin chắc, một cách hợp lẽ, rằng ngày được chia đôi cho thức và ngủ, cho nên, cũng hợp lẽ như thế, năm được chia thành hai nửa trong tù và ngoài tù. Suốt thời gian chiến tranh, Joe Voi ở trong tù nhiều hơn hẳn ngoài tù.
Ngoài đời thường, người ta bị trừng phạt vì những thứ họ làm; nhưng luật lệ của quân đội thêm một nguyên tắc mới vào việc này – họ phạt người ta vì những việc người ấy không làm. Joe Voi không bao giờ ngộ ra điều này. Chàng không lau chùi súng trường của mình; chàng không cạo râu; và một hay hai lần gì đó, khi được nghỉ phép, chàng không quay lại. Đi kèm với những thiếu sót này là thiên hướng tranh luận thân ái của Joe Voi khi chàng được yêu cầu làm việc.
Bình thường, chàng trải qua một nửa thời gian trong tù; còn trong hai năm quân ngũ, chàng ở tù hẳn mười tám tháng. Còn lâu chàng mới hài lòng với đời tù trong quân ngũ. Trong nhà tù Monterey chàng quen với sự thoải mái và bầu bạn. Trong quân đội, chàng thấy chỉ có công việc. Ở Monterey, lúc nào người ta cũng chỉ truy tố chàng vì một tội duy nhất: say rượu và quấy rối trật tự. Còn các tội trong quân đội làm chàng hoang mang toàn diện đến nỗi tác động của chúng đến tâm hồn chàng có lẽ là vĩnh viễn.
Hết chiến tranh, tất cả các đội quân được giải tán, Joe Voi vẫn còn hạn sáu tháng tù. Tội của chàng là: “Say xỉn trong khi làm nhiệm vụ. Tấn công một trung sĩ bằng can dầu hỏa. Chối từ căn cước (chàng không thể nhớ căn cước của mình, nên chàng chối tất). Ăn trộm hai ga-lông đậu nấu, và đi vắng trái phép bằng con ngựa của thiếu tá.”
Nếu Thỏa Thuận Hưu Chiến chưa được ký, Joe Voi có thể đã bị bắn. Chàng về lại quê mình ở Monterey rất lâu sau khi các cựu chiến binh khác đã về và hưởng sạch tất cả phần ngọt ngào của chiến thắng.
Lúc Joe Voi nhảy xuống tàu, chàng vận một chiếc áo choàng nhà binh, áo chẽn và quần xẹc màu xanh lam.
Thành phố không thay đổi mấy, ngoại trừ lệnh cấm rượu; nhưng lệnh cấm không thay đổi quán của Torrelli. Joe đổi áo choàng lấy một ga-lông rượu rồi đi tìm các bạn của mình.
Đêm đó chàng không tìm thấy một người bạn đích thực nào, nhưng ở Monterey chàng thấy không thiếu những cô ả đê tiện, giả dối và những gã ma cô lúc nào cũng sẵn sàng dẫn dắt người ta vào bẫy. Joe, con người không lấy gì làm đạo đức lắm, không căm ghét bẫy; chàng thích nó.
Chẳng được mấy tiếng đồng hồ thì rượu của chàng đã cạn nhẵn, mà chàng chả có đồng nào; và rồi mấy cô ả kia cố đưa Joe ra khỏi bẫy, nhưng chàng không chịu dời bước. Ở đó chàng rất thoải mái.
Khi họ cố gắng đuổi chàng bằng vũ lực, Joe Voi, bằng một sự giận dữ kinh khủng và chính đáng, đập vỡ mọi đồ đạc, tống cổ mấy đứa con gái thiếu vải đang gào thét ra trời đêm; rồi nghĩ lại, châm lửa đốt căn nhà. Dẫn dắt Joe vào sự quyến rũ không phải là một việc làm an toàn vì chàng không hề có chút kháng cự nào.
Một viên cảnh sát cuối cùng đã can thiệp và tóm cổ chàng. Anh chàng người Bồ thở dài hạnh phúc. Chàng lại được về nhà.
Sau một phiên tòa ngắn ngủi không có bồi thẩm mà theo đó chàng bị kết án ba mươi ngày, Joe Voi vương giả ngự trên cái giường xếp bằng da ngủ say tít thò lò suốt một phần mười bản án.
Anh chàng người Bồ khoái trại giam ở Monterey. Đó là nơi để gặp gỡ mọi người. Nếu chàng ở đó đủ lâu, toàn bộ bạn bè chàng sẽ vào ra. Thời gian nhanh chóng trôi qua. Chàng hơi buồn lòng khi phải ra tù, nhưng nỗi buồn của chàng dịu đi vì biết rằng có thể quay lại chốn này rất dễ dàng.
Hẳn chàng sẽ thích thú được rơi vào bẫy lần nữa, nhưng chàng chẳng có tiền cũng chẳng có rượu. Chàng lùng sục các con phố để tìm các bạn cũ, Pilon, Danny và cả Pablo, nhưng chẳng thấy họ đâu cả. Viên trung sĩ cảnh sát nói đã lâu rồi anh ta không phạt họ.
“Chắc tụi nó chết rồi,” Joe Voi nói.
Chàng buồn bã lang thang đến quán Torrelli, nhưng Torrelli không tỏ ra thân thiện với những kẻ không tiền cũng chẳng có tài sản đổi chác nào. Torrelli không an ủi gì Joe Voi mấy; nhưng Torrelli có nói rằng Danny đã thừa kế một căn nhà ở Tortilla Flat, và rằng các bạn của chàng đều kéo tới ở chung.
Nỗi trìu mến và khát khao gặp lại bạn bè tới với Joe Voi. Buổi tối chàng dạo bước về phía Tortilla Flat để tìm Danny và Pilon. Khi chàng cuốc bộ trên phố, trời đã hoàng hôn, và trên đường đi chàng gặp Pilon, lúc này đang vội vã đi ngang qua với dáng vẻ của một người bận rộn.
“Này Pilon. Tôi đang đi tìm gặp huynh đây.”
“Chào Joe Voi,” Pilon cộc cằn. “Lâu nay ở đâu thế?”
“Đi lính,” Joe nói.
Đầu óc Pilon đang không tập trung vào cuộc gặp gỡ.
“Tôi phải đi tiếp”
“Tôi sẽ đi cùng huynh,” Joe nói.
Pilon dừng lại, dò xét chàng. “Cậu không nhớ đêm nay là đêm gì sao?” Pilon hỏi.
“Không. Đêm gì?”
“Là đêm Thánh Andrew.”
Tức thì anh chàng người Bồ nhớ ra; vì đây là đêm mà mọi paisano không ở tù đều loanh quanh miệt mài trong rừng. Đây là đêm mà mọi kho báu được chôn giấu trong lòng đất sẽ phát lên một ánh sáng lân tinh yếu ớt xuyên qua mặt đất. Cũng có khá nhiều kho báu ở trong rừng. Hai trăm năm qua Monterey đã bị xâm lược rất nhiều lần, và mỗi lần như thế các món đồ quý giá đã được giấu trong lòng đất.
Đêm thật trong trẻo. Pilon đã thoát ra khỏi cái vỏ thô ráp ban ngày, như thỉnh thoảng chàng vẫn như thế. Đêm nay chàng là con người lý tưởng, là người hào phóng. Đêm nay chàng thực hiện một sứ mệnh của cái thiện.
“Đi cùng tôi thì cũng được, Joe Voi, nhưng nếu chúng ta tìm thấy kho báu nào thì tôi phải là người quyết định sẽ làm gì với nó. Nếu không đồng ý, cậu có thể tự đi tìm kho báu của riêng mình.”
Joe Voi không phải là chuyên gia trong việc tự xác định mình muốn làm gì. “Tôi đi với huynh nhé, Pilon,” chàng nói. “Tôi không màng kho báu.”
Màn đêm buông xuống khi họ đi vào khu rừng. Bàn chân họ cảm nhận được lớp lá thông. Bây giờ Pilon biết là một đêm hoàn hảo. Một lớp sương mù trên cao che phủ bầu trời, và phía sau nó, mặt trăng sáng rực nên cả khu rừng ngập tràn một thứ ánh sáng như tấm màn xô. Không hề có đường viền sắc nét nào để ta nghĩ đây là cõi thực. Những thân cây không phải là những cây cột gỗ màu đen mà là những bóng hình mềm mại và yếu ớt. Những mảng cây bụi không còn hình dáng và lay chuyển dưới ánh sáng lạ lùng. Các hồn ma đêm nay có thể tự do đi lại, không phải sợ sự ngờ vực của con người; vì đêm nay là đêm ma ám, chỉ người thiếu nhạy cảm mới không biết điều đó.
Thỉnh thoảng Pilon và Joe Voi đi lướt qua những kẻ kiếm tìm khác đang lăng xăng lái xái, lượn quanh các gốc thông. Họ cúi gằm, di chuyển lặng lẽ ngang qua nhau không chào hỏi. Ai mà nói được có phải tất cả những người ấy thực sự là người sống? Joe và Pilon biết một số là bóng dáng của những kẻ xưa từng chôn giấu của cải; và vào đêm Thánh Andrew, họ quay trở lại mặt đất để đảm bảo vàng bạc của mình không bị quấy rầy. Pilon đeo huy hiệu thánh của mình quanh cổ, bên ngoài lớp quần áo; nên chàng không phải sợ các linh hồn. Joe Voi vừa đi vừa làm dấu thánh bằng những ngón tay. Mặc dù sợ hãi, họ biết rằng họ có thừa sự bảo vệ để đương đầu với cái đêm kỳ quái này.
Gió nổi lên trong lúc họ đi, kéo màn sương ngang qua mặt trăng tái nhợt như một lớp màu nước xám mỏng manh. Màn sương di động khiến khu rừng thay đổi hình dạng, mọi cây cối lén lút bò theo và những bụi rậm lay chuyển không nên tiếng, như những con mèo đen khổng lồ. Các ngọn cây trong gió xao xác chuyện trò, nói những lời tiên tri và dự báo chết chóc. Pilon biết nghe cây cối trò chuyện là không tốt. Biết trước tương lai chưa bao giờ mang lại điều gì tốt lành; vả lại, tiếng thì thào này rất là ma mị. Chàng buộc tai mình không chú ý đến cuộc chuyện trò của cây cối nữa.
Chàng bắt đầu đi luồn lách xuyên qua khu rừng, Joe Voi theo sát sau như một con chó to đầy cảnh giác. Có những người lặng lẽ, cô độc đi ngang qua họ, cứ đi mà không chào hỏi; và những người chết cũng đi ngang qua họ không một tiếng động, cứ đi mà không chào hỏi.
Tiếng còi trong màn sương rít lanh lảnh ở phía Mũi, khá xa bên dưới họ; nó than khóc nỗi buồn thương cho tất cả những con tàu huy hoàng đã đắm trên vùng đá ngầm cứng như thép, và cho tất cả những ai một khi nào đó sẽ chết ở đó.
Pilon run rẩy và cảm thấy lạnh, cho dù đêm hôm ấy trời ấm. Chàng hổn hển thì thào niệm tên Đức Mẹ Maria.
Họ đi ngang qua một bóng người màu xám đầu cúi gằm xuống, không chào hỏi gì họ.
Một giờ trôi qua, Pilon và Joe Voi vẫn loanh quanh không mệt mỏi như những người chết tụ họp trong đêm.
Đột nhiên Pilon dừng lại. Tay chàng nắm lấy cánh tay của Joe Voi. “Cậu thấy không?” chàng thì thào.
“Đâu?”
“Ngay đằng trước kia.”
“Ừ…m, tôi nghĩ vậy.”
Dường như Pilon nhìn thấy một cây cột mềm tỏa ra ánh sáng xanh lam rọi sáng mặt đất trước chàng mười thước[34].
“Joe Voi này,” chàng thì thầm, “đi tìm hai cái que dài chừng ba bốn bộ. Tôi không muốn nhìn chỗ khác. Tôi sợ mất dấu.”
Pilon đứng như một con chó chỉ đường trong khi Joe Voi phóng đi tìm mấy cái que. Chàng nghe tiếng Joe Voi bẻ hai nhánh thông khô nhỏ. Và chàng nghe thấy tiếng rốp rốp khi Joe Voi vặt những cành con trên mấy cái que của mình. Pilon vẫn nhìn trừng trừng vào cột ánh sáng âm u nhợt nhạt. Nó thật là yếu ớt đến nỗi đôi khi dường như biến mất hẳn đi. Đôi khi chàng cũng không chắc chàng có thực sự nhìn thấy nó không. Chàng không chớp mắt khi Joe Voi nhét mấy cái que vào tay. Pilon đặt hai que chéo nhau thành góc vuông rồi từ tốn tiến lên, cầm hình thánh giá trước mặt mình. Khi lại gần, ánh sáng dường như tan đi, nhưng chàng đã thấy nó phát lên từ đâu, một vết lõm tròn vành vạnh trong đống lá thông.
Pilon đặt hình thánh giá trên vết lõm, và nói, “Tất cả mọi thứ nằm ở đây đều do ta khám phá ra. Hãy đi đi, tất cả các hồn ma. Hãy đi đi, hồn của những kẻ chôn giấu kho báu này, In Nomen Patris et Filius et Spiritu Sancti[35],” và chàng trút một tiếng thở dài sườn sượt đoạn ngồi phệt xuống đất. “Ta đã tìm thấy, ôi bạn tôi, Joe Voi,” chàng thốt lên. “Đã bao nhiêu năm tôi kiếm tìm, và nay tôi đã tìm thấy nó.”
“Ta đào thôi,” Joe Voi nói.
Nhưng Pilon vội lắc đầu. “Khi tất cả các hồn ma còn đang tự do ư? Khi mà thậm chí có mặt ở đây đã là nguy hiểm? Cậu rõ là đồ ngốc, Joe Voi ạ. Ta sẽ ngồi đây đến sáng, đánh dấu chỗ này, đêm mai ta sẽ đào. Bây giờ không ai khác có thể thấy luồng ánh sáng bởi vì ta đã che nó bằng thánh giá. Đêm mai sẽ không còn nguy hiểm.”
Đêm dường như đáng sợ hơn khi giờ đây họ ngồi trên đống lá thông, nhưng hình thánh giá tỏa ra một hơi ấm linh thiêng và an toàn, như một đống lửa nho nhỏ trên mặt đất. Tuy nhiên, cũng giống như lửa, nó chỉ sưởi ấm phía trước mặt họ. Lưng họ chìa ra về phía cái lạnh và những thứ tà ma vẩn vơ trong cánh rừng.
Pilon đứng dậy vẽ một vòng tròn to quanh cả chỗ ấy, và khi kép kín vòng tròn rồi chàng bèn đứng vào bên trong. “Nhân danh đức Chúa Jesus linh thiêng cao cả, hãy chớ để cho bất kỳ thứ tà ma nào vượt qua vạch này,” chàng ngân nga. Rồi chàng lại ngồi xuống. Cả chàng lẫn Joe Voi cảm thấy ổn hơn rất nhiều. Họ có thể nghe thấy tiếng chân khe khẽ của những hồn ma lang thang mệt mỏi; họ có thể thấy những đốm sáng nhỏ nhoi lóng lánh từ những hình thù trong suốt khi chúng dạo ngang qua; nhưng cái vòng bảo vệ của họ là bất khả xâm phạm. Không điều gì xấu xa từ thế giới này hoặc từ bất kỳ thế giới nào khác có thể vượt vào trong vòng tròn ấy.
“Huynh định làm gì với số tiền này?” Joe Voi hỏi.
Pilon nhìn Joe khinh khỉnh. “Cậu chưa bao giờ tìm được kho báu, Joe Voi ạ, vì cậu chẳng biết cư xử thế nào. Tôi không thể giữ lại kho báu này cho mình. Nếu tôi đi tìm nó với ý định giữ nó lại, thì kho báu sẽ tự động đào hố và chui sâu xuống như dã tràng trong cát, và tôi sẽ không bao giờ tìm thấy nó. Không, không phải như thế. Tôi đào kho báu này là cho Danny.”
Mọi sự lý tưởng trong Pilon lúc đó chợt phát ra. Chàng bảo Joe Voi Danny tốt với bạn bè như thế nào.
“Và bọn tôi chẳng làm gì cho anh ấy cả,” chàng nói. “Chúng tôi chẳng trả đồng tiền thuê nhà nào. Đôi khi chúng tôi còn say xỉn và đập phá đồ đạc. Bọn tôi đánh nhau với Danny khi giận anh ấy, và bọn tôi rủa anh ấy bằng tên này nọ. Ồ, chúng tôi rất là tệ, Joe Voi ạ. Vì vậy tất cả bọn tôi, tức Pablo, Jesus Maria, Cướp Biển cùng tôi đã trao đổi và lên kế hoạch. Đêm nay, tất cả bọn tôi đều vào rừng, đi tìm kho báu. Và kho báu là để cho Danny. Anh ấy quá tốt, Joe Voi ạ. Anh ấy quá tử tế; còn bọn tôi quá tồi tệ. Nhưng nếu bọn tôi mang một túi to châu báu đến cho anh ấy, anh ấy sẽ rất vui. Chính là vì lòng tôi tịnh không có chút ích kỷ nào nên tôi mới có thể tìm thấy kho báu này.”
“Huynh không giữ lại một chút nào à?” Joe Voi hỏi, ngỡ ngàng. “Thậm chí không cả mua chỉ một ga-lông rượu sao?”
Chẳng có mẩu nào của chàng Pilon Xấu tồn tại trong Pilon đêm nay. “Không, một mẩu vàng vụn cũng không! Một đồng xu xỉn be bé cũng không! Tất cả là dành cho Danny, tất tần tật.”
Joe thất vọng. “Tôi đã đi suốt quãng đường này, vậy mà thậm chí một ly rượu cũng không được,” chàng rền rĩ.
“Khi Danny có tiền,” Pilon khéo léo nói, “biết đâu anh ấy sẽ mua một ít rượu. Dĩ nhiên là tôi sẽ không gợi ý, vì kho báu này là của Danny. Nhưng tôi nghĩ biết đâu anh ấy có thể mua một ít rượu. Và khi đó nếu cậu đàng hoàng với anh ấy, cậu có thể cũng được một ly.”
Joe Voi yên tâm, vì chàng đã quen biết Danny từ rất lâu. Chàng nghĩ có thể Danny sẽ mua kha khá rượu.
Đêm trôi qua rất nhanh. Vầng trăng đã lặn khiến cánh rừng chìm trong bóng tối bủa vây. Tiếng còi trong sương cứ rúc lên, rúc lên. Suốt cả đêm Pilon vẫn không bị phát hiện. Chàng còn giảng cho Joe Voi một chút như những kẻ mới cải đạo hay làm như thế.
“Sống tử tế và rộng rãi cũng đáng lắm,” chàng nói. “Những hành động như vậy không chỉ xây nên ngôi nhà hoan hỉ trên chốn Thiên đàng; mà trên mặt đất cũng được tưởng thưởng ngay. Người ta cảm thấy một sự ấm áp tuyệt diệu như món enchilada nóng sốt trong bụng mình. Linh hồn Chúa Trời gói ghém ta trong một tấm áo choàng mềm mại như lông lạc đà. Không phải lúc nào tôi cũng là người tốt, Joe Voi ạ. Tôi công khai thú nhận điều này.” Joe Voi biết chuyện ấy quá rõ.
“Tôi đã từng rất tệ,” Pion tiếp tục sôi nổi. Tự chàng hoàn toàn lấy làm sung sướng. “Tôi đã nói dối và trộm cắp. Tôi đã sống phóng đãng. Tôi đã phạm tội ngoại tình và đã nhạo báng Chúa Trời.”
“Tôi cũng thế,” Joe Voi vui vẻ nói.
“Và kết quả ra sao, hở Joe Voi? Tôi cảm thấy hèn mọn. Tôi từng nghĩ mình sẽ phải xuống địa ngục. Nhưng giờ đây tôi thấy rằng kẻ có tội không bao giờ quá tồi tệ đến mức không thể tha thứ. Mặc dù chưa đi xưng tội, tôi có thể cảm thấy là sự thay đổi trong tôi làm Đức Chúa Trời hài lòng, vì ân phước của ngài đã phủ lên tôi. Cậu cũng phải thay đổi cách sống, Joe Voi ạ; nếu cậu bỏ thói rượu chè be bét, không đánh nhau và rũ bỏ mấy cô ả ở Nhà Dora William, thì cậu cũng có thể cảm thấy như tôi.”
Nhưng Joe Voi đã ngủ khò. Chàng chưa bao giờ thức quá lâu khi không phải di chuyển.
Ân phước không phải là quá rõ rệt đối với Pilon khi chàng không thể nói với Joe Voi về điều đó, nhưng chàng ngồi ngắm vị trí kho báu trong khi bầu trời xám đi và bình minh hiện ra sau màn sương. Chàng nhìn thấy rõ hình dáng những cây thông hiện ra từ cõi mịt mờ. Gió lặng đi, những con thỏ lam bé nhỏ từ bụi cây ló ra và nhảy quanh trên lớp lá thông. Mắt Pilon nặng trĩu nhưng lòng chàng đầy vui sướng.
Khi trời sáng hẳn chàng lấy chân khều Joe Voi.
“Đi đến nhà Danny thôi. Sáng bảnh rồi.” Pilon ném hình thánh giá đi, vì không còn cần tới nó nữa, và chàng xóa cái dấu vòng tròn. “Bây giờ,” chàng nói, “chúng ta không được làm dấu, nhưng ta phải ghi nhớ chỗ này nhờ cây cối và những phiến đá.”
“Sao ta không đào ngay bây giờ?” Joe Voi hỏi.
“Và tất cả mọi người ở Tortilla Flat sẽ đến đào phụ chúng ta,” Pilon nói giọng châm chích.
Họ nhìn cảnh vật xung quanh thật kỹ, rồi nói, “Có ba cây đứng sát nhau bên phải và hai cây bên trái. Đằng kia có một mảng cây bụi, và chỗ này có một phiến đá.” Cuối cùng họ đi khỏi chỗ kho báu, vừa đi vừa cố ghi nhớ đường. Ở nhà Danny, họ gặp những người bạn mệt rũ của mình. “Có tìm thấy gì không?” các bạn hỏi.
“Không,” Pilon nhanh nhảu nói, để chặn trước thú nhận của Joe.
“Thế à, Pablo nghĩ là anh ấy nhìn thấy ánh sáng, nhưng nó tan biến trước khi anh ấy đến chỗ đó. Còn Cướp Biển nhìn thấy bóng ma của một mụ già, bà ta còn dẫn theo cả con chó của cậu ấy.”
Cướp Biển nhoẻn miệng cười. “Mụ già ấy bảo tôi rằng con chó của tôi giờ đang hạnh phúc,” hắn nói.
“Đây là Joe Voi, mới đi lính về,” Pilon thông báo.
“Chào Joe.”
“Chỗ này của các anh cũng được đấy chứ,” anh chàng người Bồ nói, buông người xuống một chiếc ghế.
“Cậu tránh xa giường của tôi ra đấy,” Danny bảo, vì chàng biết rằng Joe Voi đến là để ở lại. Cái cách cậu ta ngồi trên ghế vắt chân chữ ngũ có một dáng vẻ cố định.
Cướp Biển đi ra ngoài, lấy xe cút-kít rồi bắt đầu đi vào rừng để chặt củi mồi; nhưng năm người còn lại nằm dài ra dưới ánh nắng xuyên qua màn sương mù, và chẳng mấy chốc cả bọn đều ngủ khò.
Mãi đến giữa buổi chiều mà chưa có người nào tỉnh dậy. Cuối cùng rồi họ cũng duỗi cánh tay ngồi dậy và uể oải nhìn xuống vịnh bên dưới, ở đó một con tàu chở dầu màu nâu đang chậm rãi đi ra biển. Cướp Biển đã để lại các túi trên bàn, những người bạn mở túi lấy ra những thức ăn mà Cướp Biển đã thu gom được.
Joe Voi bước xuống lối đi về phía cánh cổng xập xệ. “Gặp lại sau nhé,” chàng nói với Pilon.
Pilon hồi hộp nhìn theo cho đến khi chàng thấy Joe Voi đi xuống dốc đồi về phía Monterey, chứ không phải lên dốc về phía rừng thông. Bốn người bạn ngồi xuống mơ mòng ngắm chiều buông xuống.
Chập tối Joe Voi quay lại. Chàng và Pilon trao đổi trong sân, ngoài tầm nghe của người trong nhà.
“Mình sẽ mượn dụng cụ của bà Morales,” Pilon nói. “Một cái xẻng và một cái cuốc chim cạnh chuồng gà của bà.”
Họ khởi sự khi trời đã khá tối. “Bọn tôi đi gặp mấy ả bạn gái của Joe,” Pilon giải thích. Họ bò vào sân nhà bà Morales và mượn các dụng cụ. Và rồi, từ đám cỏ dại ven đường, Joe Voi nhấc ra một bình đựng một ga-lông rượu.
“Ngươi đã bán đứng kho báu rồi,” Pilon kêu lên giận dữ. “Ngươi là kẻ phản bội, ôi ngươi là đồ chó của chó của chó.”
Joe Voi trấn an. “Tôi không hề nói kho báu ở đâu,” có chút phẩm giá trong cách chàng nói. “Tôi chỉ bảo, ‘Bọn tôi tìm thấy một kho báu,’ tôi nói, ‘nhưng nó dành cho Danny. Chừng nào Danny có kho báu rồi, tôi sẽ mượn một đô-la và trả tiền rượu.’”
Pilon choáng váng. “Vậy mà người ta cũng tin cậu và cho cậu mang rượu đi?” chàng hỏi.
“Ừm,” Joe Voi lưỡng lự. “Tôi để lại một thứ để đảm bảo tôi sẽ mang tiền tới.”
Pilon quay ngoắt lại nhanh như chớp thộp lấy cổ họng Joe. “Cậu để lại cái gì?”
“Chỉ một cái chăn nhỏ thôi mà, Pilon,” Joe Voi rống lên. “Chỉ một cái thôi.”
Pilon lắc lắc Joe Voi, nhưng Joe quá nặng cân nên Pilon chỉ có thể lắc chính mình. “Chăn nào,” chàng quát. “Nói, cậu ăn cắp cái chăn nào.”
Joe Voi gào. “Chỉ một cái của Danny. Chỉ một thôi. Anh ấy có hai cái. Tôi chỉ lấy cái bé tí. Đừng đánh tôi, Pilon. Cái kia to hơn. Danny sẽ lấy lại được nó khi ta tìm thấy kho báu mà.”
Pilon quay Joe mòng mòng rồi đá chàng ta cú nào ra cú nấy, phừng phừng lửa giận. “Đồ lợn,” chàng nói, “đồ bò trộm cắp bẩn thỉu. Mi đi lấy cái chăn lại không thì ta đập mi tan thành từng mảnh.”
Joe Voi cố xoa dịu chàng. “Tôi cứ tưởng ta đang giúp Danny,” chàng thì thào. “Tôi đã nghĩ, ‘Danny sẽ vui biết mấy, anh ấy có thể mua một trăm cái chăn mới.’”
“Ở yên đó,” Pilon nói. “Mi phải lấy đúng cái chăn đó lại còn không ta sẽ đập mi bằng một hòn đá.” Chàng vớ lấy bình rượu, mở nút và tu một ít để dịu cơn nóng giận; chẳng những thế chàng còn đậy nút bình lại mà không cho anh chàng người Bồ một giọt nào. “Vì cái tội trộm cắp này mi phải cáng đáng tất cả việc đào bới. Cầm mấy dụng cụ kia lên rồi đi với ta.”
Joe Voi rên rỉ như một con cún con và tuân lệnh. Chàng không thể đỡ nổi cơn cuồng nộ chính đáng của Pilon.
Họ cố đi tìm kho báu một hồi lâu. Tới lúc Pilon chỉ tay vào ba cây đứng thành một hàng thì đã khuya. “Kia kìa,” chàng nói.
Họ rà soát cho đến khi tìm thấy chỗ lõm trên mặt đất. Ánh trăng dìu dịu hắt xuống chỉ đường cho họ, vì đêm nay trời không có sương mù.
Vì bây giờ không phải đào bới, Pilon phát minh ra một lý thuyết mới để phát hiện kho báu. “Đôi khi tiền nằm trong các bao tải,” chàng nói, “và bao đã mục nát. Nếu mi đào thẳng xuống có thể mi sẽ làm mất một ít.” Chàng vẽ một vòng tròn to quanh chỗ hõm. “Bây giờ, hãy đào một cái rãnh vòng quanh, và rồi ta sẽ chạm đến trên kho báu.”
“Huynh không định đào sao?” Joe Voi hỏi.
Pilon nổi đóa. “Ta có phải là kẻ ăn cắp chăn không?” chàng la lên. “Ta có đi chôm chỉa từ giường của bạn ta, người che chở cho ta không?”
“Uầy, tôi không một mình làm tất cả cái việc đào bới này đâu,” Joe Voi nói.
Pilon nhặt một nhánh thông mà mới đêm hôm trước chàng dùng làm một phần thánh giá lên. Chàng hằm hằm tiến về phía Joe Voi. “Thằng ăn trộm,” chàng gầm gừ. “Đồ lợn dơ bẩn, đồ bạn bè giả dối. Cầm xẻng lên.”
Lòng can đảm của Joe Voi trôi đi mất, chàng cúi xuống nhặt xẻng lên. Nếu lương tâm của Joe Voi không tồi, chàng có thể đã phản ứng; nhưng chàng quá sợ Pilon, con người đang được vũ trang bằng chính nghĩa và một que gỗ thông.
Joe Voi căm ghét toàn bộ nguyên tắc của việc đào xúc. Chuyển động của cái xẻng xúc đất chẳng có gì hấp dẫn. Mà cái kết quả cần phải đạt được, tức là lấy đất từ nơi này đổ sang nơi khác, thì thật là ngớ ngẩn và vô ích đối với bất cứ người nào có chút tầm nhìn. Nguyên cả một cuộc đời đào xúc thực sự chẳng được trò trống gì. Phản ứng của Joe Voi có phần giản đơn hơn thế. Chàng không thích xúc đất. Chàng đã đi lính để chiến đấu, thế mà rút cục chàng chẳng làm gì ngoài việc đào đất.
Nhưng Pilon đứng chắn phía trên chàng và cái rãnh bao quanh nơi có kho báu. Kêu ốm, đói hay mệt cũng chả ích gì. Pilon không hề lay chuyển, và tội trộm chăn của Joe chống lại chàng. Mặc dù chàng càu nhàu, cảu nhảu, giơ hai tay lên để cho thấy chúng bị đau thế nào, Pilon vẫn đứng chắn trên chàng và buộc chàng phải đào bới.
Đến nửa đêm, cái rãnh đã sâu ba bộ. Lũ gà trống của Monterey đã gáy. Mặt trăng chìm khuất sau các khóm cây. Cuối cùng Pilon ra lệnh dịch chuyển vào trên kho báu. Đất bây giờ được hất lên chậm chạp; Joe Voi đã kiệt sức. Ngay trước rạng sáng, xẻng của chàng va vào vật gì cưng cứng.
“Ối,” chàng kêu lên. “Ta thành công rồi, Pilon.”
Vật tìm được khá to và có hình vuông. Trong lúc vội vã họ đã đào phải nó trong bóng tối và họ không thể nhìn thấy nó.
“Cẩn thận,” Pilon cảnh báo. “Đừng làm nó sứt.”
Ánh sáng ban ngày tỏa xuống trước khi họ lôi nó ra được. Pilon sờ thấy đó là kim loại và quỳ xuống trong làn ánh sáng xam xám để nhìn. Đó là một khối bê-tông vuông khá lớn. Trên đỉnh là một đĩa nâu tròn. Pilon đánh vần những chữ trên đó:
Khảo sát địa chất hợp chủng quốc Hoa Kỳ + 1915 + Cao độ 600 bộ.
Pilon ngồi phịch xuống hố, vai rũ xuống não nề.
“Không có kho báu ư?” Joe Voi ảo não hỏi.
Pilon không trả lời. Anh chàng người Bồ kiểm tra cái trụ xi măng, lông mày chàng nhíu lại suy nghĩ. Chàng quay sang Pilon ủ rũ. “Hay là ta lấy mảnh kim loại tốt này đem bán?”
Pilon nhướn mắt trong tuyệt vọng. “Johnny Pom-pom đã tìm thấy một cái tương tự,” chàng nói với giọng nhợt nhạt vì nỗi thất vọng to lớn. “Johnny Pom-pom lấy mảnh kim loại đó và cố mang đi bán. Đào một cái này lên là một năm trong tù,” Pilon than. “Một năm tù và hai nghìn đô-la tiền phạt.” Trong đau khổ, Pilon chỉ muốn thoát khỏi nơi chốn bi kịch này. Chàng đứng dậy, tìm một túm cỏ để bọc chai rượu lại, và bắt đầu đi xuống đồi.
Joe Voi rảo bước theo sau ân cần. “Mình đi đâu?” chàng hỏi.
“Tôi không biết,” Pilon nói.
Lúc họ tới bãi biển trời đã sáng bảnh; nhưng ngay cả ở đó Pilon cũng không dừng bước. Chàng lê bước dọc bờ cát thô bên mép nước cho đến khi bỏ lại Monterey xa phía sau lưng và chỉ có những đụn cát ở bãi Seaside, những con sóng lăn tăn của vịnh để có thể chứng kiến nỗi thảm sầu của chàng. Cuối cùng chàng ngồi trên bãi cát khô, có mặt trời sưởi ấm cho chàng. Joe Voi ngồi bên cạnh, trong chừng mực nào đó chàng cảm thấy mình chịu trách nhiệm về nỗi đau không lời của Pilon.
Pilon lấy bình rượu ra khỏi túm cỏ, mở nút tu một hơi dài, và bởi vì nỗi sầu muộn là mẹ đẻ của lòng mến thương hào hiệp, chàng trao rượu của Joe cho tên vô lại Joe.
“Chúng ta đã hão huyền làm sao,” Pilon kêu lên. “Chúng ta đã để sự mơ mộng dắt mũi. Tôi đã tưởng tượng chúng ta sẽ mang những túi vàng đến cho Danny. Tôi có thể nhìn thấy gương mặt anh ấy. Anh ấy sẽ ngạc nhiên. Phải một lúc lâu anh ấy mới tin được.” Chàng lấy lại cái chai từ tay Joe Voi và tu ừng ực. “Thế mà mất hết, tất cả đã bay biến trong đêm.”
Vầng dương giờ đây đang sưởi ấm bãi biển. Bất chấp nỗi thất vọng, Pilon cảm thấy một sự thoải mái đầy phản trắc cứ dần xâm chiếm mình, một thôi thúc xảo trá cứ muốn tìm ra vài điểm tốt đẹp trong tình thế này.
Joe Voi đang lặng lẽ uống nhiều hơn phần rượu của mình. Pilon giằng lấy đầy phẫn nộ và tu liền tù tì.
“Nhưng rốt cuộc,” chàng nói đầy vẻ triết lý, “biết đâu nếu ta tìm thấy vàng, có khi lại không tốt cho Danny. Anh ấy lúc nào cũng là người nghèo. Giàu có có thể làm anh ấy phát rồ.”
Joe Voi gật đầu quả quyết. Rượu trong chai vơi dần, vơi dần.
“Hạnh phúc tốt hơn là giàu có,” Pilon nói. “Nếu ta cố làm cho Danny hạnh phúc, việc ấy tốt hơn đem tiền trao cho anh ấy.”
Joe Voi lại gật đầu và tháo giày ra. “Hãy làm cho anh ấy hạnh phúc. Chính phải là thế.”
Pilon buồn bã xoay sang hắn. “Cậu chỉ là một con lợn, không phù hợp để sống chung với người,” chàng dịu dàng nói. “Cậu, kẻ ăn trộm chăn của Danny, nên bị tống vào chuồng lợn và cho ăn vỏ khoai tây.”
Ánh nắng ấm áp làm họ rất buồn ngủ. Những con sóng nhỏ rì rầm dọc bờ biển. Pilon cởi giày ra.
“Cưa đôi nhé,” Joe Voi nói, và họ dốc cạn bình đến giọt cuối cùng.
Bờ biển dao động nhè nhẹ, nâng lên hạ xuống với một chuyển động như là có sóng cồn dưới đất.
“Cậu không phải là người xấu,” Pilon nói. Nhưng Joe Voi đã ngủ mất. Pilon cởi áo khoác ra phủ lên mặt. Chẳng mấy chốc chàng cũng ngủ ngon lành.
Mặt trời lăn qua bầu trời. Thủy triều tràn lên bãi biển, rồi rút. Một bầy chim choi choi lướt qua thăm dò những người đang ngủ. Một con chó lang thang ngửi ngửi họ. Hai bà già, đang nhặt vỏ sò, nhìn thấy mấy thân người vội vã đi ngang qua vì sợ rằng những người này có thể thức dậy trong cơn mê cuồng và sẽ đuổi theo hành hung họ. Thật là đáng xấu hổ, họ đồng ý với nhau, rằng cảnh sát đã chẳng làm gì để kiểm soát những vấn đề đó. “Chúng nó quắc cần câu rồi,” một người nói.
Và người kia nhìn chằm chằm ngược về phía bãi biển nơi mấy người kia đang ngủ. “Lũ quỷ say xỉn,” bà ta tán thành.
Khi cuối cùng mặt trời lặn xuống sau những khóm thông trên đồi ở mặt sau của Monterey, Pilon tỉnh dậy. Miệng chàng khô khốc; đầu chàng thì nhức và người chàng thì đau cứng vì cát thô. Joe Voi vẫn ngáy khò khò.
“Joe,” Pilon gọi, nhưng gọi thì chả nhằm nhò gì với anh chàng người Bồ. Pilon chống người trên khuỷu tay nhìn ra phía biển. “Một chút rượu sẽ tốt cho cái miệng khô khốc của mình,” chàng nghĩ. Chàng dốc bình nhưng chả được giọt nào để làm dịu cái lưỡi khô ran. Rồi chàng quay sang các túi quần túi áo hy vọng rằng trong khi ngủ một phép lạ nào đó đã xảy ra; nhưng chẳng có gì cả. Có một con dao bỏ túi bị gãy mà với nó chàng đã bị từ chối một ly rượu ít nhất hai chục lần. Có một lưỡi câu cá móc trong một cái nút bần, một mẩu dây bẩn, một cái răng chó và nhiều chiếc chìa khóa chẳng tra vừa bất cứ gì mà Pilon biết. Trong nguyên cả đống đấy chẳng có món nào mà Torrelli sẽ coi là đáng giá ngay cả trong một phút giây mất trí.
Pilon nhìn Joe Voi đoán chừng. “Thằng cu đáng thương,” chàng nghĩ. “Khi Joe Voi thức dậy, nó sẽ thấy khát khô y như mình. Nó sẽ khoái chí nếu mình kiếm được một ít rượu cho nó.” Chàng lay mạnh Joe Voi nhiều lần, nhưng anh chàng người Bồ chỉ ú ớ, rồi lại ngáy. Pilon nhìn qua các túi của Joe Voi. Chàng tìm thấy một cái cúc quần bằng đồng, một cái đĩa bằng kim loại nhỏ có dòng chữ “Ăn Ngon tại quán Dutchman,” bốn hay năm que diêm không còn đầu và một mẩu nhỏ thuốc lá nhai.
Pilon ngồi thừ trên gót chân. Vậy là chẳng ích gì. Ắt chàng phải héo khô ở đây trên bãi biển trong khi cổ họng chàng kêu gào thèm khát rượu.
Chàng để ý thấy cái quần xẹc mà anh chàng người Bồ đang bận, và chàng lấy mấy ngon tay mân mê. “Vải đẹp,” chàng nghĩ. “Sao tay người Bồ bẩn thỉu này lại mặc đồ tốt như thế khi mọi bạn bè của hắn chỉ mặc quần jean?” Rồi chàng nhớ ra cái quần chẳng vừa vặn với Joe Voi tí nào, hông quần chật ních cho dù phải mở đến hai cúc, và lai quần thì cách mặt trên của giày đến vài phân. “Ai đó có cỡ người ngon hẳn sẽ rất vui khi vận chiếc quần này.”
Nhớ lại tội ác của Joe Voi đối với Danny, Pilon trở thành một thiên thần báo thù. Làm sao mà tay người Bồ cao to đen hôi này dám sỉ nhục Danny như thế! “Chừng nào hắn tỉnh dậy, ta sẽ tẩn hắn! Nhưng,” cái chàng Pilon tinh tế hơn cãi lại, “tội của hắn là tội ăn cắp. Chẳng phải là sẽ dạy cho hắn ta một bài học để biết bị mất cắp thì có cảm giác thế nào sao? Hình phạt có ích gì nếu không rút ra bài học nào?” Đó là một vị thế vinh quang cho Pilon. Nếu chỉ với một hành động mà chàng có thể báo thù cho Danny, trừng phạt Joe Voi, đồng thời dạy một bài học đạo đức và kiếm được ít rượu, thì có ai trên thế gian này có thể phê phán chàng chứ?
Chàng đẩy anh chàng người Bồ thật mạnh, và Joe Voi phủi chàng như thể chàng là con ruồi. Pilon khéo léo cởi cái quần, cuộn nó lại và thư thả bước đi mất hút vào trong các đụn cát.
Lão Torrelli đi vắng, nhưng thím Torrelli mở cửa cho Pilon. Bộ dạng của chàng thật bí ẩn, nhưng cuối cùng chàng giơ cái quần lên cho thím xem xét.
Thím cương quyết lắc đầu.
“Nhưng nhìn xem,” Pilon nói. “Chị chỉ thấy các đốm và những chỗ bẩn. Hãy nhìn lớp vải lót rất đẹp này. Hãy nghĩ đi, señora! Chị giặt sạch những đốm bẩn này và ủi nó! Torrelli bước vào. Anh ấy im lặng; anh ấy rầu rĩ. Và rồi chị mang cho anh nhà cái quần đẹp này! Xem mắt anh ấy sáng lên thế nào! Xem anh ấy hạnh phúc thế nào! Anh ấy ôm chị vào lòng! Hãy nhìn xem anh ấy mỉm cười với chị thế nào, señora! Chừng ấy hạnh phúc có quá cao với mức một ga-lông rượu đỏ không?”
“Đũng quần này mỏng quá,” thím nói.
Chàng giơ nó lên ánh đèn. “Chị có nhìn xuyên qua được không? Không! Cái đũng quần này cũng chẳng còn thô ráp, vướng víu. Nó đang ở thời kỳ hoàn hảo.”
“Không,” thím đáp chắc nịch.
“Chị ác với chồng chị quá, señora. Chị khước từ hạnh phúc của anh ấy. Tôi sẽ không ngạc nhiên khi thấy anh nhà chạy theo các ả đàn bà khác đâu. Hay là một phần tư ga-lông được không?”
Cuối cùng sự kháng cự của thím cũng bị đánh sập và thím đưa cho chàng một phần tư ga-lông. Pilon uống cạn ngay tức thì. “Chị đã phá giá lạc thú đấy,” chàng cảnh cáo thím. “Lẽ ra tôi phải được nửa ga-lông.”
Thím Torrelli rắn như đá. Pilon không được thêm một giọt nào. Chàng ngồi trong bếp, nghiền ngẫm. “Đồ Do Thái, ả chính là đồ Do Thái. Ả đã lừa mình mất oan cái quần của Joe Voi.”
Pilon buồn rầu nghĩ về người bạn của chàng ngoài kia trên bãi biển. Cậu ấy có thể làm gì? Nếu cậu ấy đi vào trong phố, cậu ấy sẽ bị bắt. Vậy mà con mụ phù thủy này đã làm gì để xứng đáng với cái quần? Mụ ta đã cố mua cái quần của bạn của Pilon với giá một phần tư ga-lông khốn nạn của một thứ rượu khốn nạn. Pilon cảm thấy cơn giận dữ với mụ khiến mình như tan ra.
“Tôi sắp đi đây” chàng bảo thím Torrelli. Cái quần được treo trong một góc nhỏ gần nhà bếp.
“Chào cậu,” thím Torrelli nói vọng lại. Thím ta vào căn bếp nhỏ của mình sửa soạn bữa tối.
Trên đường ra, Pilon đi ngang qua góc phòng đó và lấy xuống không chỉ cái quần, mà cả cái chăn của Danny.
Pilon thả bộ về bãi biển, nơi chàng đã để Joe Voi lại. Chàng có thể nhìn thấy một đống lửa bập bùng sáng trên bờ cát, và khi lại gần hơn, chàng nhìn ra một số hình thù bé nhỏ sẫm tối phía trước ngọn lửa. Bấy giờ trời đã rất tối; ngọn lửa dẫn đường cho chàng. Lại gần, chàng nhận ra đó là một tiệc nướng ngoài trời của hội Nữ Hướng Đạo Sinh. Chàng tiến lại đầy cảnh giác.
Mất một lúc chàng không nhìn thấy Joe Voi đâu, nhưng cuối cùng chàng tìm thấy cậu ta, đang nằm nửa người dưới cát, nín lặng vì lạnh và lo lắng. Pilon quả quyết dấn bước về phía hắn và giơ cái quần lên.
“Cầm lấy, Joe Voi, và hãy vui mừng là cậu có lại nó.”
Joe đang đánh đàn răng. “Ai lấy trộm quần của tôi, Pilon? Tôi đã nằm đây hàng giờ đồng hồ và không thể đi chỗ khác bởi vì mấy đứa con gái kia.”
Pilon buộc phải đứng giữa Joe Voi và những cô gái nhỏ đang chạy quanh đống lửa. Anh chàng người Bồ phủi cát ẩm và lạnh khỏi cặp giò rồi mặc quần vào. Họ sóng bước dọc theo bãi biển tối về phía Monterey, nơi có những ánh đèn giăng giăng thành từng vòng chồng lên nhau trên lưng đồi. Các đụn cát nép mình lại dọc theo phía sau bãi biển như những con chó săn mỏi mệt nằm nghỉ; những con sóng nhẹ nhàng tập dợt vỗ bờ, nhè nhẹ gầm gào. Đêm lạnh lẽo và xa cách, sức sống ấm áp của nó đã rút đi, chỉ còn lại đầy những cảnh báo cay đắng đối với con người rằng anh ta cô đơn trong thế giới, cô đơn giữa đồng loại; rằng chẳng có sự thoải mái nào chờ đợi anh ta.
Pilon vẫn đang ủ ê, và Joe Voi cảm nhận được chiều sâu trong cảm xúc của chàng. Cuối cùng Pilon ngoảnh đầu sang bạn. “Bài học cho chúng ta trong chuyện này là, tin đàn bà là một việc đại ngốc,” chàng nói.
“Có ả nào lấy quần tôi sao?” Joe Voi phấn khích hỏi. “Ai vậy? Tôi sẽ đá cho mụ ta dập mề.”
Pilon lắc đầu buồn rầu như đấng Jehovah già nua, người đã nhận ra trong lúc nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy rằng thế giới của ngài sẽ buồn chán. “Mụ ta đã bị trừng phạt,” Pilon nói. “Cậu có thể nói là mụ ấy tự trừng phạt mình, và ấy là cách tốt nhất. Mụ ấy lấy quần của cậu; mụ mua nó bằng lòng tham; và giờ đây mụ không có gì cả.”
Những điều này quá tầm Joe Voi. Chúng là những chuyện bí ẩn mà tốt hơn là cứ để mặc, và đấy đúng là điều mà Pilon muốn. Joe Voi khiêm tốn nói, “Cảm ơn anh đã lấy quần của tôi lại, Pilon.” Nhưng Pilon đang quá đắm chìm trong triết lý đến nỗi ngay cả cảm ơn cũng không có giá trị gì.
“Không có gì,” chàng nói. “Trong toàn bộ chuyện này, chỉ có bài học ta rút ra là có giá trị.”
Họ trèo lên khỏi bãi biển và đi ngang một cái tháp lớn màu bạc của nhà máy khí đốt.
Joe Voi vui vẻ được ở bên Pilon. “Đây là một người quan tâm đến bạn bè,” chàng nghĩ. “Ngay cả khi họ ngủ anh ấy cũng cảnh giác để đảm bảo họ không bị làm hại.” Chàng quyết một lúc nào đó sẽ làm một điều gì đó tốt đẹp cho Pilon.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.