THIÊN LONG BÁT BỘ

02. Ngọc bích nguyệt hoa minh



Nghê Thường chưa trọn dây đà đứt,
Loan phượng chia tay cuộc chửa tàn.
Thoang thoảng hương thừa vương gót hạc,
Đìu hiu gương lạnh bóng mênh mang.
¤

Chuyện dây dưa một lúc lâu nên lúc này mặt trăng đã lên đến đỉnh đầu. Đoàn
Dự chuyển qua hướng tây mà đi, tuy chàng không biết võ công nhưng đang
sức trai khỏe mạnh nên đi nhanh lắm được hơn chục dặm đã vòng qua đến
hậu sơn của ngọn núi chính trong dãy Vô Lượng Sơn, nghe thấy tiếng nước
chảy róc rách hóa ra đằng trước có một ngọn suối. Chàng đang khát nên lần
đến cạnh khe nước, dưới ánh trăng sáng thấy dòng suối trong trẻo lạ thường
toan thò tay vào bỗng nghe đằng xa có tiếng ai đạp vào cành cây khô nghe
cách một tiếng, kế đó là tiếng bước chân của hai người. Đoàn Dự vội vàng
nằm phục bên bờ suối, không dám động đậy.
Chỉ thấy một người nói: -Ở đây có suối nước, uống xong mình lại đi tiếp.
Giọng nghe rất quen thuộc, Đoàn Dự liền nhận ra ngay đây là đệ tử của Tả Tử
Mục Can Quang Hào khiến chàng lại càng không dám cử động. Chỉ thấy hai
người đi đến bên trên dòng nước, tiếp theo nghe thấy tiếng tạt nước và tiếng
người uống. Một lát sau Can Quang Hào nói: -Cát sư muội, chúng mình đã
thoát hiểm cảnh rồi, em đi cũng đã mệt, mình ngồi nghỉ một lát rồi hãy đi tiếp.
Có tiếng một người đàn bà ừ một tiếng rồi tiếng loạt soạt ở bên bờ suối, hẳn là
hai người đã ngồi xuống. Lại nghe người đàn bà nói: -Sư huynh liệu Thần
Nông Bang có cho người canh ở chỗ này không?
Nghe giọng hơi run run, xem chừng sợ hãi lắm. Can Quang Hào an ủi: -Sư
muội an tâm. Sơn đạo này rất là kín đáo, ngay cả trong Đông Tông chúng ta
cũng chẳng mấy người đi tới, Thần Nông Bang không thể nào biết được đâu.
Người đàn bà lại hỏi: -Thế sư huynh làm sao biết được con đường mòn này?
Can Quang Hào đáp: -Cứ năm ngày một lần sư phụ lại dẫn đệ tử đến nghiên
cứu khối Vô Lượng Ngọc Bích xem có gì bí áo, thế nhưng bao năm qua chúng
ta chỉ cứ chăm chăm nhìn khối đá này, chưa nhìn ra được điều gì. Sư phụ lão
nhân gia nói cái gì “người muốn làm nên đại công nghiệp thì phải có nghị lực
bền bỉ”, lại thêm rằng “có chí thì nên”. Thế nhưng quả thực ta nhìn mãi chán
lắm rồi, có khi giả vờ đi đại tiện rồi ra ngoài chạy lăng quăng nên mới tìm ra
được tiểu lộ này.
Cô gái kia cười khúc khích nói: -Thì ra anh không dụng công, chỉ trốn học đi
chơi. Xem ra trong các đồng môn, sư huynh là người kém nghị lực hơn cả.
Can Quang Hào cười nói: -Cát sư muội, năm năm trước tỉ kiếm trên Kiếm Hồ
Cung ta bị thua sư muội rồi …
Cô gái ngắt lời: -Thôi đừng nói “ta bị thua sư muội”. Lúc đó sư huynh giả vờ
nội lực không đủ, cố ý nhường cho tiểu muội, người ngoài thì không thấy
nhưng chẳng lẽ chính em cũng không biết hay sao?
Đoàn Dự nghe thấy thế nghĩ thầm: “Thì ra người đàn bà này thuộc về Tây
Tông của Vô Lượng Kiếm”. Can Quang Hào đáp: -Ta vừa thấy mặt em trong
lòng đã phát trọng thệ, thể nào cũng phải được cùng nhau ăn ở suốt đời. May
sao hôm nay mới gặp được cơ hội nghìn năm một thuở, Thần Nông Bang đột
nhiên đến tấn công, lại thêm có hai đứa nhãi nhép đem con chồn độc đến, làm
loạn cả lên khiến cho người trong Kiếm Hồ Cung nhốn nháo, hai đứa mình mới
thừa cơ bỏ chạy, thế chẳng phải ‘có chí thì nên” thì là gì?
Cô gái kia cười khúc khích nhỏ nhẹ đáp: -Em cũng thật là “có chí thì nên”.
Can Quang Hào nói: -Cát sư muội, em đối với anh tốt như thế, một đời anh sẽ
mãi mãi chiều theo em.
Nghe giọng nói thấy y vui sướng không để đâu cho hết. Cô gái kia thở dài một
tiếng nói: -Chúng mình lần này phản thầy rủ nhau đi trốn, thật không còn chỗ
đứng trong võ lâm nữa. Mình phải đi càng xa càng tốt, kiếm chỗ nào thật là
kín đáo mà ở, đừng để sư phụ và đồng môn biết được mới xong. Càng nghĩ
đến sao em càng thêm sợ.
Can Quang Hào đáp: -Em chớ lo làm gì. Ta xem phen này Thần Nông Bang đã
chuẩn bị rồi mới đến, hai phái Đông Tây ngoài anh và em ra e rằng chẳng một
ai thoát khỏi độc thủ của chúng được.
Người đàn bà lại thở dài nói: -Cũng mong là thế.
Đoàn Dự nghe xong tức khí xông lên nghĩ thầm: “Hai đứa chúng bay muốn
thành vợ chồng, thấy sư môn có nạn thừa cơ bỏ trốn thì cũng đành, nhưng
sao lại mong sư trưởng đồng môn của mình đều bị độc thủ? Tâm địa chúng
bay tàn độc thật.” Chàng nghĩ đến hai người tính tình thâm hiểm như thế, nếu
như chúng phát giác ra mình, thể nào cũng giết đi diệt khẩu, thành thử đến
thở mạnh cũng không dám.
Cô gái lại nói: -Cái phiến Vô Lượng Ngọc Bích kia có cái gì lạ lùng khác thường,
bên anh ở đây đã mười năm, không lẽ vẫn chưa tìm ra chút manh mối nào hay
sao?
Can Quang Hào đáp: -Mình đã là một nhà, lẽ nào anh lại còn dối em hay sao?
Sư phụ nói, nhiều năm trước, lúc đó thái sư phụ của ngu huynh làm chưởng
môn Đông Tông, những đêm trăng thấy trên bức tường ngọc có hình người
múa kiếm, khi thì đàn ông, khi thì đàn bà, có khi đàn ông đàn bà đấu kiếm với
nhau, đâm chém kịch liệt. Kiếm pháp trên khối ngọc bích dó tinh diệu lắm,
chính thái sư phụ anh bình sinh chưa thấy bao giờ, dù có nằm mơ cũng không
tưởng tượng nổi, hẳn là do tiên trên trời biểu diễn. Thái sư phụ anh chỉ mong
học được vài chiêu tiên kiếm, thế nhưng kiếm ảnh trên vách núi quá ư là kỳ lạ,
quá ư là lanh lẹ, lại mờ ảo khi có khi không, không cách nào coi cho rõ được,
có muốn học nửa chiêu cũng không xong. Hình ảnh của tiên kiếm lại đâu phải
lúc nào cũng có, có khi thì thật khuya mới có, có khi một hai tháng mới thấy
một lần. Thái sư phụ mê say kiếm ảnh trên ngọc bích sao lãng cả việc luyện
tập kiếm pháp bản môn, cũng lơ là cả việc đốc thúc đệ tử luyện tập nên về
sau mới bị Tây Tông của em đánh bại. Cát sư muội, thái sư phụ em cùng đệ tử
vào ở trong Kiếm Hồ Cung rồi có thấy cái gì không?
Cô gái nói: -Cứ như sư phụ em nói, kiếm ảnh trên tường đó thái sư phụ em
cũng thấy nhưng về sau chỉ thấy một người đàn bà múa kiếm, còn vị kiếm tiên
đàn ông kia không còn đâu nữa. Chắc là vì thái sư phụ em là đàn bà nên chỉ
có một nữ kiếm tiên hiện ra chỉ dạy thôi. Thế nhưng chỉ được hai năm thì vị nữ
kiếm tiên kia cũng biến mất. Thái sư phụ có nói rằng, thân pháp kiếm pháp
của những vị tiên hiện ra trên ngọc bích tuy thật là kỳ diệu, nhưng mơ hồ
mông lung, lại quá nhanh không thể quan sát kỹ càng.
Bức tường ngọc đó lại cách khoảng kiếm hồ và một vực sâu thành thử không
cách gì liều mạng đến gần mà coi được. Thái sư phụ tuy được thiên duyên
nhưng lại không đủ phúc trạch nên không học được nửa chiêu, bán thức để có
thể dương oai nơi võ lâm, trong lòng uất ức thế nào chẳng nói thì cũng biết.
sau khi tiên ảnh biến mất rồi, thái sư phụ em ngày đêm ở trên đỉnh núi bàng
hoàng, chăm chăm nhìn vào bức tường ngọc kia mà xuất thần, càng ngày
càng thêm tiều tụy, chỉ nửa năm sau bệnh mà chết. Khi lâm chung lão nhân
gia còn đang ở trên đỉnh núi, tuy hơi thở chỉ còn thoi thóp nhưng vẫn không
cho đệ tử đem về Kiếm Hồ Cung. Sư phụ em nói rằng khi thái sư phụ tắt thở,
hai mắt vẫn còn trừng trừng nhìn vào ngọc bích.
Cô ta ngừng lại một chút nói tiếp: -Can sư ca, anh nghĩ trên đời này có tiên
thật chăng? Hai là hai vị thái sư phụ của anh và của em nói thế để đánh lừa
người khác?
Can Quang Hào đáp: -Nếu bảo hai vị thái sư phụ tạo ra câu chuyện đó để
đánh lừa đệ tử thì chắc không phải, có được gì đâu. Hơn nữa, ta nghe Thẩm
sư bá nói rằng khi người còn nhỏ quả đã chính mắt trông thấy hình ảnh của
kiếm tiên. Thế nhưng trên đời này có tiên thật hay không, ta không biết nữa.
Người đàn bà nói: -Hay là có hai vị cao nhân múa kiếm ở trước hồ rồi bóng họ
in lên bức tường ngọc đó chăng?
Can Quang Hào đáp: -Hồi đó thái sư phụ đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Thế
nhưng trước bức tường ngọc là Kiếm Hồ, phía tây hồ lại là vực sâu, hai vị cao
nhân kia dù có thể lăng ba đạp thủy múa kiếm ngay trên mặt hồ thì thái sư
phụ cũng phải nhìn thấy rồi. Còn như nếu ở bên cạnh hồ mà múa kiếm thì
cách xa như thế, cái bóng không sao có thể chiếu lên trên ngọc bích được.
Cô gái nói: -Thái sư phụ em lìa đời rồi, các đệ tử đêm đêm thắp hương lễ bái
trước bức tường ngọc, cầu xin khấn nguyện chỉ mong cái bóng của kiếm tiên
hiện ra một lần nhưng không bao giờ thấy nữa. Sư phụ em chỉ mong được
quay lại xem ra thế nào nhưng mười năm qua hai lần tỉ kiếm đều thua Đông
Tông bên anh cả.
Can Quang Hào nói: -Từ nay trở đi, hai đứa mình không còn phân biệt Đông
Tông, Tây Tông gì nữa. Hai tông bây giờ đã hợp làm một …
Chỉ nghe cô gái cười rúc rích, ứ hự mấy tiếng, nói sẽ: -Đừng … đừng làm thế.
Hiển nhiên Can Quang Hào có hành động sàm sỡ nên cô nàng mới ngúng
nguẩy. Can Quang Hào nói: -Em đi theo anh, nếu như sau này anh phụ bạc thì
nguyện sẽ biến thành thằng chó má ngay ở cạnh hồ này.
Thiếu nữ cười khanh khách, nũng nịu nói: -Nếu anh là tên chó má thì có khác
gì anh rủa em là đứa hư thân mất nết chẳng ra gì?
Đoàn Dự nghe đến đây, nhịn không nổi bật cười lên một tiếng. Tiếng cười vừa
thoát ra chàng biết ngay là không xong vội vàng nhỏm lên, bỏ chạy thục
mạng. Chỉ nghe phía sau Can Quang Hào quát lớn: -Ai đó?
Rồi thấy tiếng người rầm rập đuổi theo. Đoàn Dự kêu khổ thầm càng hết sức
đào tẩu. Chỉ trong giây lát, phía bên tây đã có ánh sáng lấp loáng, một người
đàn bà tay cầm trường kiếm chạy về phía sườn núi hẳn là định chặn đường
của chàng. Đoàn Dự kêu lên: -Ối chao!
Chàng liền quay sang hướng đông, trong bụng lẩm bẩm: “Nam mô cứu khổ
cứu nạn Quan Thế Âm bồ tát, cứu cho đệ tử Đoàn Dự thoát được tai kiếp
này”. Tai chàng vẫn nghe thấy tiếng Can Quang Hào tiếp tục đuổi theo, chỉ
được một lát Đoàn Dự đã thở hồng hộc thì nghe Can Quang Hào quát lớn: –
Cát sư muội! Mau chặn sơn khẩu.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ta chết cũng không có gì quan trọng, ngặt là làm lụy cả
Chung cô nương cũng không sống nổi, lại hại thêm bao nhiêu mạng người
trong Thần Nông Bang, tội nghiệt thật nhiều. A Di Đà Phật! Quan Thế Âm bồ
tát!”.
Chàng lại nghĩ tiếp: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, bọn chúng có thành chó má
cũng đâu có sao, thành đứa chẳng ra gì cũng mặc kệ nó, có liên can gì đến
ngươi? Việc gì mà phải cười người ta làm gì? Tiếng cười đó chẳng phải là giết
đến mấy chục mạng hay sao? Người ta có là tuyệt sắc mỹ nhân thì một nụ
cười mới nghiêng thành, còn ngươi Đoàn Dự là cái quái gì mà cũng cười làm
chi? Nghiêng được cái gì đây không biết nữa?”.
Trong bụng tự oán tự trách như thế nhưng chân không chậm lại chút nào,
chẳng cần chọn đường đi nước bước cứ chạy bừa vào phía rừng sâu rậm rạp.
Chạy thêm một lúc nữa, hai chân đã mỏi nhừ, hơi thở phì phò bỗng thấy tiếng
nước chảy ào ào, gầm rú chẳng khác gì sóng biển đang xô tới, ngửng đầu nhìn
lên thấy phía tây bắc như một dòng sông bạc treo ngược, chính là một ngọn
thác lớn từ trên cao đổ xuống. Ở phía sau Can Quang Hào kêu lên: -Đằng
trước là cấm địa của bản phái, người ngoài không được tiến vào. Nếu ngươi
còn đi sâu thêm vài trượng, phạm vào cấm kỵ thì chết không có đất mà chôn.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu ta không vào cấm địa của phái Vô Lượng, chẳng lẽ
ngươi tha chết cho ta hay sao? Thì cùng lắm cũng đến chết là cùng, có hay
không có đất chôn thì khác gì bao nhiêu”. Chàng chân càng thêm gắng sức cố
chạy nhanh hơn. Can Quang Hào quát lớn: -Mau ngừng lại, ngươi muốn chết
hay sao? Trước mặt là …
Đoàn Dự cười nói: -Ta không muốn chết, thế mới chạy …
Nòi chưa dứt câu, đột nhiên chân bước hụt một cái đạp vào chỗ không. Chàng
không biết võ công đang chạy nhanh làm sao lùi lại cho kịp thân hình liền rơi
thẳng xuống, chỉ mới kêu lên “Ối trời!” thì đã cách chỗ mỏm núi đến mấy chục
trượng rồi. Chàng đang ở trên không, hai tay quơ loạn lên, chỉ mong nắm
được vật gì, múa may như thế đã rơi thêm mấy trăm trượng nữa, độ nhiên
nghe bùng một tiếng, mông đụng vào một cây cổ tùng thò từ vách núi ra,
thân hình liền bắn trở lên. Lách cách lách cách mấy tiếng, cành tùng to lớn đã
gãy lìa nhưng sức rơi xuống đã giảm bớt.
Đoàn Dự vừa rơi xuống tiếp hai tay liền chồm ra, ôm chặt lấy một cành tùng
khác, đánh đu bông bênh giữa lưng trời, không ngừng lay động. Chàng cúi
đầu nhìn xuống, trong thâm cốc mây mù che phủ, không thấy đâu là đáy.
Chàng đong đưa thân hình một cái đã chạm vào sườn núi, vội vàng thò tay ra
ôm chặt lấy một cành cây nhỏ, hai châm mò được một chỗ tựa, mới hơi bình
tĩnh lại một chút, lần theo vách đá về phía cây tùng miệng nói: -Ông thông già
ơi, may nhờ hôm nay ông đại hiển thần thông, cứu được mạng cho Đoàn Dự
này. Tổ tiên ông được Tần Thủy Hoàng trú mưa ngày xưa nên phong cho làm
Ngũ Đại Phu. Che mưa so với cứu mạng người thì có đáng gì? Ta sẽ phong cho
ông làm Lục Đại Phu, không, phải là Thất Đại Phu, Bát Đại Phu mới xứng.
Chàng xem kỹ thấy vách đá có một đường nứt lớn, nếu cố gắng có thể leo
xuống được. Chàng thở một hồi nghĩ thầm: “Can Quang Hào và Cát sư muội
của y chắc nghĩ mình đã nát như tương rồi, đâu có ngờ mình được “Bát Đại
Phu” cứu. Giờ này chắc bọn chúng đã bỏ xuống dưới núi, hai người đang
chàng chàng thiếp thiếp, Đông Tông Tây Tông hợp thành một rồi. Dưới đáy
sơn cốc này chắc nguy hiểm lắm, nhưng dẫu rằng mình có đi đời nhà ma thì ở
đây cũng thế thôi. Biết đâu may được Quan Thế Âm bồ tát phù hộ nên có khi
không chết”.
Chàng men theo khe đá, từ từ tuột xuống. Cái khe đó có rất nhiều đá và cây
cỏ nên không bị trượt. Có điều hang núi tưởng như vô cùng vô tận, một hồi
sau quần áo bị gai xé rách, bên này một miếng bên kia một mảnh, chân tay
cũng bị mấy nơi bầm dập. Không biết mất bao nhiêu thời giờ, chàng vẫn chưa
xuống được tới đáy hang. May sao càng xuống sâu, vách núi càng thoai thoải
không còn thẳng đứng như trước nên chàng bèn nằm phục tại sườn núi vừa
trườn vừa lăn từ từ trượt xuống nên nhanh hơn nhiều.
Tiếng thác nước ỳ ầm ỳ ầm mỗi lúc một lớn khiến chàng không khỏi kinh hãi,
nghĩ thầm: “Nếu dưới này sóng nước chảy xiết thì thật là nguy hiểm biết bao”.
Chỉ thấy những giọt nước bắn tung tóe đầy mặt, đầy đầu khiến chàng hơi
nhức nhối.
Thế nhưng Đoàn Dự đâu có thì giờ suy nghĩ, chỉ giây lát đã đến đáy vực rồi.
Chàng đứng lên đột nhiên hét lên một tiếng, thấy phía bên trái trên sườn núi
là một cái thác lớn chẳng khác gì một con rồng ngọc treo lơ lửng, cuồn cuộn
tuôn xuống, chảy vào một chiếc hồ lớn nước trong trẻo lạ thường. Ngọn thác
đó năm này tháng khác, chảy mãi không ngừng nhưng mặt hồ vẫn không đầy
tràn hẳn là có chỗ nước thoát đi. Chỗ thác nước chảy xuống nước vỗ bập bềnh
nhưng chỉ ra ngoài chừng mươi trượng thì mặt hồ lặng êm như gương. Dưới
ánh trăng chiếu xuống, đáy hồ cũng có một vầng nguyệt sáng vằng vặc.
Đoàn Dự nhìn thấy kỳ cảnh của tạo hóa không khỏi ngơ ngẩn xuất thần, nửa
mừng nửa lo liếc chung quanh thấy bờ hồ mọc đầy những bụi hoa trà, lung
linh trong ánh đêm. Hoa trà đất Vân Nam đứng đầu thiên hạ, Đoàn Dự vốn đã
yêu thích, có ngờ đâu thân lạc vào nơi nguy hiểm lại thấy nó nên đến gần xem
kỹ, lẩm bẩm: -Nơi đây hoa trà tuy nhiều, nhưng cũng thường thường, chỉ có
vài bụi Vũ Y Nghê Thường, so với ở nhà ta thì khá hơn. Còn mấy bụi Bộ Bộ
Sinh Liên, phẩm chủng lại không thuần.
Chàng thưởng ngoạn hoa trà một hồi rồi đi đến bên bờ hồ, vốc lên uống vài
ngụm. Nước trong vắt, vào đến miệng ngon ngọt lạ thường, mát rượi chạy
tuột thẳng vào trong bụng. Chàng định thần đi men theo bờ hồ tìm lối ra khỏi
vực sâu.
Cái hồ đó hình bầu dục quá nửa nằm ẩn trong những bụi hoa, tàn cây, chàng
đi từ tây sang đông, lại từ đông sang tây đi giáp một vòng, phải đến ba dặm,
phía đông nam và tây bắc là hai bên vách đá dựng đứng, không có lối nào ra,
chỉ có chỗ chàng rơi xuống là tương đối thoai thoải còn nơi khác không cách
nào có thể leo lên được.
Chàng ngửng đầu nhìn lên thấy mây mù che phủ miệng hang, đi xuống đã
thấy biết bao gian nan, nghĩ đến việc trèo lên lại càng ngán ngẩm, nghĩ thầm:
“Dù có là người võ công tuyệt đính cũng chưa chắc đã lên được. Có hay không
có võ công thì cũng thế thôi”.
Khi đó trời đã hửng sáng nhưng trong thâm cốc vẫn lặng như tờ, không thấy
vết tích con người ngay vết chân thú cũng không thấy có, chỉ có tiếng chim
kêu ríu rít, đối đáp lẫn nhau. Chàng thấy tình cảnh như thế trong bụng buồn
rầu, nghĩ thầm mình có chết đói nơi đây cũng không sao nhưng làm lụy tới cả
Chung cô nương thì thật không phải chút nào, còn cha mẹ mình sẽ ngày đêm
khắc khoải nhớ thương.
Chàng ngồi phịch xuống bên bờ hồ rầu rĩ, trong bụng chưa biết tính sao. Trong
khi thất vọng lòng nảy ra một huyễn tưởng: “Giá như mình biến thành con cá,
theo thác nước mà bơi ngược lên thì mới may ra thoát khỏi được vách đá dựng
đứng này”. Chàng đưa mắt nhìn theo dòng nước từ dưới đi lên, thấy bên phía
phải của dòng thác có một vách đá nhẵn bóng, sáng loáng như ngọc, nghĩ
thầm muôn ngàn năm trước chắc dòng thác lớn hơn bây giờ nhiều, qua không
biết bao nhiêu thời gian mới mài cho nửa bên vách đá thành nhẵn nhụi đến
thế, về sau lượng nước giảm ít mới lộ ra phiến đá lưu ly khiến cho vách núi
trong như hình một mặt gương.
Ngay lúc đó chàng nhớ lại những lời mà Can Quang Hào và Cát sư muội của y
nói chuyện, nghĩ thầm: “Xem ra đây chính là cái mà họ nói là Vô Lượng Ngọc
Bích rồi. Họ kể lại năm xưa các chưởng môn Đông Tông, Tây Tông của Vô
Lượng Kiếm thường nhìn thấy trong những đêm trăng thấy trên vách núi này
bóng các vị tiên hiện ra. Ngọc bích này dựng đứng bên cạnh cái hồ, nếu có
chiếu lên thì phải ở trên mặt hồ còn không thì phải ở bờ hồ phía đông mà múa
kiếm thì bóng mới chiếu lên trên đó được. Thế nhưng phía đông cũng lại là
vách đá thẳng tắp phản chiếu ánh sáng, nếu không có ánh trăng thì không thể
có bóng người. A, đúng rồi, chắc tại mặt hồ có chim bay qua lượn lại, bóng nó
chiếu lên trên sơn bích, nhìn xa thấp thoáng thì thấy thân pháp linh động, vừa
nhanh nhẹn, vừa kỳ lạ. Bọn họ trong đầu đã có chủ ý nên tưởng là tiên đang
múa kiếm, mờ mờ tỏ tỏ không nhìn thấy rõ vì sao nên phải đi vào ma đạo”.
Chàng nghĩ ra rồi không khỏi bật cười. Từ lúc ăn uống ở trong Kiếm Hồ Cung
tới giờ cũng đã bảy tám giờ nên bụng đói meo, thấy bên bờ hồ có một lùm cây
đầy trái xanh xanh đỏ đỏ nên đến hái một chùm, cho vào miệng nhai thử thấy
trái chua lè nhưng đang đói nên cũng không coi vào đâu, ăn luôn một hơi đến
hơn chục chùm mới lưng lửng dạ, thấy toàn thân xương cốt mỏi nhừ nên lăn
ra cỏ nằm thiu thiu ngủ.
Chàng ngủ một giấc thật say, đến khi tỉnh dậy mặt trời đã ngả về phương tây,
mặt hồ hiện ra một hình cầu vồng, đẹp không thể tả được. Đoàn Dự biết rằng
hơi nơi thác nước xông lên gặp ánh mặt trời chiếu vào nên hiện ra hình cầu
vồng, nghĩ thầm mình sắp chết đến nơi nhưng được thưởng thức mỹ cảnh,
phúc lộc quả không phải nhỏ, lại được chết dưới bóng hoa nơi bờ hồ thật
phong lưu biết bao, ánh hồ sáng loáng diễm lệ, chỉ hiềm hoa trà không phải là
giai chủng nên có phần mỹ trung bất túc.
Chàng ngủ được một giấc rồi tinh thần phấn chấn, nghĩ thầm: “Không chừng
sơn cốc có lối ra, ẩn sau cây cối nham thạch, đêm qua trời tối mình lật đật vội
vã nên không thấy chăng”. Chàng lại cất tiếng hát véo von, cao hứng đi vòng
quanh hồ tìm lần nữa. Lần này chàng chăm chú tìm kiếm ở những nơi kín đáo,
thế nhưng phía sau những tùm cây hoa cỏ chỉ toàn là nham thạch cứng chắc,
tảng nào cũng liền với bức vách núi cao vút tận mây, chẳng nói gì đường đi ra
mà ngay cả hang thỏ lỗ rắn cũng chẳng có.
Tiếng hát của chàng càng lúc càng nhỏ dần, trong lòng càng lúc càng uể oải,
đến lúc quay lại chỗ nằm ngủ hồi nãy thì chân đã mỏi nhừ, ngồi phịch xuống
nghĩ thầm: “Chung cô nương vì cứu ta mà đâm ra chết oan”.
Nghĩ đến Chung Linh, chàng thò tay vào túi lấy đôi giày hoa ra ngắm nghía,
hình dung đôi chân bé nhỏ, khuôn mặt xinh xắn của nàng, nhịn không nổi đưa
đôi giày lên miệng hôn mấy cái rồi lại bỏ vào bọc nghĩ thầm: “Phen này ta chắc
không thoát chết được rồi, Chung cô nương cũng bỏ mạng. Giá như nàng
cũng ở nơi đây, hai đứa chết chung nơi bờ hồ này thì quả thật đẹp biết bao.
Chỉ tiếc nàng giờ đây lại ở bên cạnh lão râu dê Tư Không Huyền thật là chán
ngắt. Giờ đây ta đang nghĩ đến nàng chắc hẳn nàng cũng đang nghĩ đến ta”.
Chàng không có việc gì làm đành đi hái mấy quả chua kia ăn tạm, bỗng nghĩ
ra: “Chỗ nào mình cũng tìm hết rồi, chỉ còn chỗ này chưa mò đến, không
chừng cột nhà không nhìn nhìn trôn kim sờ sờ trước mắt mà không thấy”.
Chàng liền vạch bụi cây ra lập tức lắc đầu. Đằng sau cái cây chỉ là một vách
núi trơ trơ, bám đầy dây leo, làm gì có lối nào ra? Thế nhưng phiến thạch bích
đó phẳng lạ thường, chẳng khác gì một tấm gương đồng nhưng so với vách đá
bên phía tây hồ nước thì nhỏ hơn nhiều, trong lòng chợt động: “Hay đây mới
thực là Vô Lượng Ngọc Bích?”. Chàng bèn gỡ hết các dây leo bám trên phiến
đá, nhưng chỉ thấy đó là một bản đá phẳng lì tuyệt nhiên không có gì khác lạ.
Chàng nghĩ bụng: “Ta chết nơi thâm cốc này vĩnh viễn không ai hay biết, chi
bằng khắc vài chữ trên phiến đá này, à, khắc tám chữ Đại Lý Đoàn Dự chết tại
nơi đây xem ra cũng thú”.
Chàng bèn dọn sạch các dây leo bám trên mặt đá, cởi trường bào ra, xuống
dưới hồ nhúng nước, đem lên rửa thật sạch cho hết rong rêu khiến phiến đá
đó trở nên trắng bóng như ngọc. Chàng nhặt một hòn đá nhọn lên vẽ chữ lên
trên thạch bích, thế nhưng vách đá cứng rắn lạ thường, một hồi lâu mới xong
một chữ Đoàn vừa nông vừa méo xẹo, chẳng ra trò trống gì, nghĩ thầm:
“Người sau nhìn thấy sẽ cho rằng Đoàn Dự chữ không biết viết, viết tám chữ
này có khác nào để tiếng xấu đến muôn đời”. Chàng thấy cổ tay mỏi nhừ, đau
nhức nên liệng hòn đá đi không viết nữa.
Đến khi trời tối, chàng lại ăn thêm ít trái cây dại rồi nằm xuống ngủ. Trong giấc
mơ chàng thấy một đôi giày bay qua lượn lại trước mắt, vải xanh thêu hoa
vàng, chính là đôi giày của Chung Linh, vội vươn tay ra cầm lấy nhưng đôi giày
chẳng khác gì bướm dại, chập chờn lên xuống, không sao bắt được. Một lúc
sau, đôi giày hoa mỗi lúc một cao, Đoàn Dự kêu lên: -Giày kia đừng bay nữa.
Chàng bàng hoàng tỉnh dậy thì mới hay là một giấc mộng, giơ tay dụi mắt,
đưa tay ra sờ, đôi giày hoa vẫn còn trong túi bèn đứng lên ngửng đầu thấy
mặt trăng tròn văng vặc, chiếu xuống chẳng khác gì tráng lên một lớp bằng
bạc lên mặt hồ, đưa mắt nhìn khắp nơi đột nhiên giật mình thấy ở bức vách
bên kia quả nhiên có một bóng người.
Chàng kinh hãi không để đâu cho hết, nhưng cũng xiết đỗi vui mừng, kêu lên:
-Các vị tiên ơi! Cứu tôi với! Các vị tiên ơi! Cứu tôi với!
Hình người kia hơi rung động nhưng không trả lời. Đoàn Dự định thần, chăm
chú xem lại cho kỹ nhưng bóng người kia không rõ ràng, chỉ thấy áo dài, khăn
nho sinh quả là một người đàn ông.
Chàng vội vàng tiến lên mấy bước đã đến bên cạnh hồ kêu to: -Vị tiên ơi! Cứu
tôi với!
Bóng người trên vách ngọc lắc lư mấy cái, lớn thêm lên nhiều. Đoàn Dự vội
đứng lại, cái bóng đó cũng không di chuyển nữa. Chàng ngạc nhiên lập tức
hiểu ra: “Thì ra đó là bóng của chính mình!” Chàng nghiêng qua bên trái, cái
bóng đó cũng nghiêng qua bên trái, chàng bước qua bên phải cái bóng trên
vách núi cũng qua bên phải, không còn hoài nghi gì nữa nhưng vẫn còn điều
chưa hiểu được: “Vầng trăng từ tây nam chiếu qua làm sao lại chiếu được
bóng ta lên bức tường trước mặt nhỉ?”.
Chàng quay đầu lại thấy chữ Đoàn chàng khắc lúc ban ngày cũng có một cái
bóng in lên trên thạch bích, nhưng chữ đó bé và đâm nét hơn nhiều. Chàng
nghĩ ra ngay: -Thì ra bóng trăng chiếu bóng của ta lên trên phiến đá trước,
sau đó mới rọi lên trên vách núi chẳng khác gì mình đứng giữa hai tấm gương,
tấm gương lớn phản ảnh hình của ta trên tấm gương nhỏ.
Chàng suy nghĩ thêm một chút, hiểu ra ngay cái si mê “ngọc bích tiên ảnh”
của Vô Lượng Kiếm mấy chục năm qua chẳng có gì thần kỳ: “Năm xưa quả có
ai đó đứng nơi đây múa kiếm, bóng chiếu lên trên bức vách đá. Đầu tiên có
một nam một nữ, sau đó người đàn ông bỏ đi đâu hay chết rồi không biết, chỉ
còn lại người đàn bà ở lại u cốc này tịch mịch cô đơn, hai năm sau cũng từ
trần”.
Chàng nghĩ đến giai nhân lẻ bạn, sống vò võ nơi hang sâu, uất hận mà chết
không khỏi ngậm ngùi. Thế nhưng sau khi hiểu được lý lẽ đó rồi, nỗi vui mừng
biến mất không còn tăm hơi đâu nữa. Nỗi buồn kéo đến khiến chàng giơ tay
múa chân, tay đấm chân đá, nghĩ thầm: “Giá như Tả Tử Mục, Song Thanh hai
người đang ở trên mỏm núi kia bỗng thấy ngọc bích có hình bóng tiên hiện
hiện ra, chắc tưởng là đang biểu diễn võ công thần kỳ, thể nào chẳng hết sức
cố gắng học, vùi đầu nghiên cứu để truyền cho hậu thế, ha ha, ha ha!”. Chàng
càng nghĩ càng khoái chí, nhịn không nổi cười lên sằng sặc.
Cười chán chê rồi, chàng bỗng nghĩ ra một việc: “Hai vị tiền bối kia ngày xưa
thường thường cùng nhau múa kiếm, nếu như không ở ngay dưới đáy vực này
thì cũng phải có đường đi ra đi vào. Dù cho hai người võ công cao đến đâu
nhưng leo lên leo xuống để múa kiếm thì thật là phiền nhiễu hết sức, một hai
lần thì được chứ ngày nào cũng làm thì xem ra không ổn”.
Chàng bỗng thấy một tia hi vọng trước mắt, nghĩ thầm: “Ngày mai mình sẽ cố
gắng tìm đường ra. Gã Can Quang Hào đã chẳng nói: Có chí thì nên đấy ư? Ha
ha! Ha ha! Y lập chí quyết lấy cho bằng được Cát sư muội làm vợ, còn ta lập
chí nhất định phải thoát khỏi nơi đây”.
Chàng ngồi ôm gối, thản nhiên nhìn ánh trăng trên mặt hồ, bốn bề thanh tĩnh
nghĩ thầm: “Có chí thì nên” câu đó tuy không phải là sai nhưng Khổng phu tử
có nói: Người biết không bằng người hiền, người hiền không bằng người vui.
Câu này xem ra hợp với bụng ta hơn.
Cha mẹ ta vẫn bảo ta là “si nhi”, từ thuở bé đã thích cái gì là mê mẩn như điên
như cuồng. Năm ta bảy tuổi, ta mê một cây hoa trà Thập Bát Học Sĩ, từ sáng
đến tối, đến nửa đêm còn len lén trở dậy nhìn ngơ ngẩn, bỏ ăn bỏ uống, quên
cả học hành đến khi hoa tàn khóc mấy ngày chưa thôi. Lúc ta học đánh cờ
cũng không ăn không ngủ, suốt ngày suốt đêm chỉ nghĩ đến bàn cờ, chẳng
còn thiết gì khác.
Một hôm kia gia gia bảo ta luyện võ, thế nhưng lúc đó ta đang nghiên cứu
Dịch Kinh, ngay cả khi ăn cơm giơ đũa ra gắp đồ ăn cũng nghĩ phương vị chiếc
đũa bên này là Đại Hữu hay là Đồng Nhân. Ta không chịu học võ, không hiểu
vì không muốn bỏ Kinh Dịch qua một bên hay thực sự không thích cái môn
đánh nhau giết người này? Cha ta bảo ta “cưỡng từ đoạt lý” chắc hẳn quả ta
có cãi chầy cãi cối thật không chừng. Mẹ ta hiểu bụng dạ tính nết ta lắm mới
khuyên gia gia: “Thằng con “si” này một mai thích học võ rồi, ông có bảo nó
bớt luyện đi một chút, nó cũng chẳng nghe đâu. Bây giờ nó không chịu học,
cứng đầu không chịu có ép cũng không xong”. Ôi! Bảo ta lập chí làm điều gì
quả là khó, nếu như một ngày nào đó ta mê luyện võ thì gia gia, má má, bá
phụ hẳn sung sướng biết bao nhiêu. Ta luyện võ cho giỏi rồi, không đánh ai
cũng chẳng giết ai, luyện võ đâu phải chỉ là để giết người. Bá phụ võ công cao
cường biết bao nhưng tính tình nhân từ, e rằng xưa nay chưa từng giết qua
một người nào. Có điều nếu như ông ấy muốn giết ai đâu có cần phải tự mình
ra tay”.
Chàng ngồi bên bờ hồ, đầu óc suy nghĩ miên man không biết thời giờ trôi qua,
bỗng chợt thấy vách đá bên cạnh dường như có ánh sáng đủ màu di động, vội
chăm chú nhìn thấy bên dưới chữ Đoàn chàng khắc có bóng một thanh kiếm,
hình ảnh rõ ràng lạ thường, có cả cán, cả vòn che tay, thân kiếm, mũi kiếm
mọi thứ đều đâu ra đấy. Mũi kiếm nghiêng nghiêng chỉ xuống còn thanh kiếm
có màu cầu vồng tỏa ra, lấp loáng chuyển động không ngừng. Chàng lấy làm
lạ tự hỏi: “sao bóng thanh kiếm lại hiện màu cầu vồng?”. Chàng ngửng đầu lên
nhìn nhưng không thấy vầng trăng đâu thì ra bóng nguyệt đã chìm về phương
tây, ẩn ở đằng sau vách núi rồi. Thế nhưng vách núi đó có một lỗ hổng, ánh
trăng chiếu theo đó mà rọi xuống, trong cái hang đó có ánh sáng lấp lánh mới
vỡ lẽ ra: “Đúng rồi! Thì ra trên vách núi kia có treo một thanh kiếm, trên thanh
kiếm này có nạm các loại bảo thạch đủ màu, ánh trăng chiếu vào in hình thanh
kiếm và các loại châu báu thành đủ màu sắc thành ra mới rực rỡ đến thế”.
Chàng nghĩ tiếp: “Như thế ắt phải đục được lưỡi kiếm ra rồi nạm bảo thạch
cho ánh trăng chiếu qua được thành hình đủ màu. Còn như không đục được
lưỡi kiếm thì ánh trăng đâu có thể chiếu xuyên qua bảo thạch. Người chế tạo
ra chiếc kiếm quái lạ này thật là tốn nhiều công sức”.
Chàng thấy cái hang đó cách mặt đất đến mấy chục trượng không cách nào có
thể trèo tới mà xem cho kỹ được, từ dưới trông lên, chỉ thấp thoáng thấy ánh
sáng của mấy viên đá quí chiếu lên thạch bích vừa huyền ảo, vừa đẹp đẽ, nhìn
mà mê mẩn tâm thần.
Chàng chỉ mới xem được một lát chừng thời gian uống một chén trà, ánh
trăng đã di động, cái bóng đó mờ dần rồi biến mất, vách đá chỉ còn một màu
trắng bệch. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thanh bảo kiếm này chắc là của hai vị cao
nhân kia để trên đó. Sơn cốc thâm hiểm thế này, người của phái Vô Lượng
Kiếm chẳng một ai dám mạo hiểm trèo xuống xem xét, cứ đứng trên đỉnh núi
thì đâu có thấy được tiểu thạch bích, cũng không nhìn thấy cái hang trên bức
vách bên kia có treo một thanh kiếm, thành ra phái Vô Lượng Kiếm có đứng
trên đầu núi ngơ ngẩn một trăm năm nữa thì cũng không sao thấy được cái bí
mật này. Thế nhưng lấy được thanh bảo kiếm kia thì có ích lợi gì?”. Chàng nghĩ
ngợi một hồi rồi ngủ thiếp đi.
Trong giấc ngủ đột nhiên chàng choàng tỉnh dậy, nghĩ thầm: “Để có thể treo
được thanh kiếm trên bức tường đá kia quả là một việc thực khó khăn, dẫu võ
công có cao cường cũng không dễ gì làm được. Xếp đặt mất nhiều công lao
như thế, phải có thâm ý gì. Hẳn là trong cái hang này còn cất giấu võ học bí
cập chi đó”. Chàng nghĩ đến võ công thấy không còn gì hứng thú: “Võ công bí
cập kia người của Vô Lượng Kiếm coi là quí giá chứ còn như ta, dù có để ngay
trước mặt ta cũng chẳng thèm liếc mắt đến làm gì”.
Hôm sau chàng lại đi men theo chung quanh hồ, tính ra từ hôm rơi vào cái vực
này đã đến ngày thứ ba, nghĩ thầm chỉ còn bốn ngày nữa, chất kịch độc của
đoạn trường tán trong ruột phát tác, lúc đó có tìm được lối ra cũng thành vô
dụng.
Đêm hôm đó chàng ngủ đến nửa đêm liền tỉnh dậy, đợi cho bóng trăng chìm
về phương tây. Đến khoảng canh tư, ánh trăng chiếu vào cái hang núi, lại
chiếu lên trên thạch bích hình thanh kiếm đủ màu. Chỉ thấy thanh kiếm trên
bức vách xéo vào hướng bắc, mũi kiếm chỉ đúng vào một khối đá lớn, Đoàn Dự
trong lòng chợt động: “Không lẽ khối nham thạch này có gì khác thường?”
Chàng đi đến bên tảng đá đẩy thử, tay chạm vào rêu xanh trơn tuồn tuột
nhưng khối đá dường như hơi lắc lư. Chàng ra sức đẩy hai tay, lại thấy tảng đá
rung rinh. Khối đá đó cao đến ngực, không hai nghìn cũng phải một nghìn
cân, đúng ra không thể nào nhúc nhích được. Chàng đưa tay mò dưới đáy khối
đá, thì ra tảng đá này không sát đất mà để ở trên một tảng đá nhỏ hơn, không
biết trời sinh như thế hay là do người sắp đặt. Tim chàng đập thình thình nghĩ
thầm: “Khối đá này quả có điều gì khác lạ!”.
Chàng dùng hai tay đẩy phía bên phải tảng đá, hòn đá lại lắc lư nhưng rồi lại
trở về, nghe như có tiếng dây leo bị nghiến đứt biết là có các loại cây cỏ quấn
chặt hai tảng đá với nhau. Lúc bấy giờ ánh trăng đã lặn, chàng chỉ thấy mờ
mờ, nghĩ bụng: “Tối thế này nhìn không rõ, để đến sáng mai mình xem kỹ thử
coi thế nào”.
Chàng nằm xuống bên cạnh tảng đá chợp mắt một lúc, đến khi sáng rõ mới
trở dậy xem kỹ chung quanh rồi cúi xuống gỡ sạch các dây leo, cỏ dại quấn
giữa hai tảng đá, lại vét cả đất cát ra sau đó mới giơ tay đẩy lần nữa, quả
nhiên khối nham thạch từ từ chuyển động chẳng khác gì một cái cánh cửa lớn,
xê dịch mới một nửa đã thấy để lộ ra một cái hang cao chừng ba thước.
Chàng mừng lắm, không kịp nghĩ xem trong động có gì nguy hiểm, liền khom
lưng chui vào, đi được mươi bước thì cái hang đã tối om không còn chút ánh
sáng nào. Chàng đành giơ hai tay ra, mỗi bước lại mò thử xem có gì không
nhưng thấy dưới chân vững chãi chẳng khác gì đi trên một con đường đá, hẳn
là hang này do tay người tu sửa nên càng mừng hơn. Thế nhưng cái hang đi
xeo xéo xuống dưới, càng lúc càng thấp. Đột nhiên tay chàng sờ phải một vật
gì hình tròn lạnh ngắt, vội buông ra nghe keng một tiếng, âm thanh trong
trẻo, đưa tay ra mò lại lần nữa thì ra là một cái vòng cửa.
Đã có vòng cửa ắt là cửa lớn, chàng hai tay sờ thấy đến hơn một chục cái đinh
đồng to bắng cái bát, trong lòng vừa sợ vừa mừng: “Nếu bên trong cửa này có
người ở thì thật là kỳ quái”. Chàng cầm môn hoàn gõ mạnh ba cái keng keng
keng, đợi một lát thấy không có ai trả lời, chàng lại gõ thêm ba cái nữa, rồi mới
đưa tay đẩy cửa.
Cái cửa đó dường như đúc bằng đồng bằng sắt, rất nặng nề nhưng bên trong
không cài then, chàng vừa ra sức đẩy cánh cửa đã từ từ mở ra. Chàng lớn
tiếng gọi: -Tại hạ Đoàn Dự, không được mời mà đến tự tiện xông vào quí phủ,
mong được chủ nhân thứ tội.
Chàng đợi một lúc, không thấy bên trong có âm hao gì, liền cất bước tiến vào.
Mặc dù chàng mở mắt trừng trừng nhưng không nhìn thấy gì cả, chỉ thấy mùi
ẩm mốc xông vào mũi dường như nơi đây đã lâu không có người ở. Chàng đi
tiếp về phía trước, đột nhiên bình một tiếng, trán đã đụng phải vật gì. Cũng
may chàng đi rất chậm nên cũng không đau mấy, giơ tay sờ thử thì ra nơi đây
lại có một cái cửa khác. Chàng vận sức vào tay từ từ đẩy cửa mở ra, thấy bên
trong là một thạch thất hình tròn, ánh sáng từ bên trái chiếu qua nhưng chỉ
mờ mờ không phải ánh sáng mặt trời.
Chàng đi đến chỗ có ánh sáng, bỗng thấy có một con tôm lớn bơi ngoài cửa
sổ. Chàng lấy làm lạ, đi thêm mấy bước nữa, lại thấy một con cá chép hoa vằn
vện bơi qua. Chàng nhìn kỹ cái cửa sổ đó thì ra là một khối thủy tinh lớn nạm
vào trong đá, to phải bằng cái mâm, ánh sáng chính là từ khối thủy tinh đó
chiếu vào.
Chàng ghé mắt nhìn qua khối thủy tinh ra ngoài thấy nước xanh biếc cuồn
cuộn chảy qua, các loài cá tôm thủy tộc bơi qua bơi lại, nhìn tới cùng cũng
không thấy đâu là bờ là bến. Chàng hiểu ngay, thì ra nơi chàng đang đứng là
dưới đáy hồ, năm xưa người kiến tạo thạch thất này hao tốn không biết bao
nhiêu công sức mới đem được ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào, khối thủy tinh
này là một bảo vật thật khó kiếm.
Chàng định thần suy nghĩ bỗng dưng kêu khổ thầm: “Chết rồi, chết rồi! Ta
chạy vào dưới đáy hồ, đường đi chỉ toàn giơ tay lần mò không biết qua bao
nhiêu chỗ quẹo, chui xuống đây rồi làm thế nào mà trở ra?”.
Chàng quay đầu lại, chỉ thấy trong gian phòng này có để một chiếc bàn đá,
đằng trước có một chiếc ghế con, trên bàn là một chiếc gương đồng, bên cạnh
còn để lược, thoa các loại, xem ra là nơi ở của người khuê các. Chiếc gương
đồng đã hoen rỉ xanh lè, trên bàn cũng đóng bụi dầy cả tấc, không biết đã bao
lâu chưa hề có người lui tới.
Chàng thấy tình cảnh đó không khỏi sững sờ, nghĩ thầm: “Nhiều năm trước
hẳn là có một người đàn bà ở chốn hẻo lánh này, không hiểu vì sao mà lại đau
lòng rời xa nhân gian lui về ở ẩn. Ôi! Chắc hẳn là người đàn bà đứng múa kiếm
bên vách đá kia”. Chàng nghĩ ngợi một hồi, coi kỹ lại thấy trong gian phòng hai
phía đông tây treo đầy những gương đồng, đếm lại có đến hơn ba mươi tấm.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chắc hẳn người đàn bà này là một giai nhân tuyệt thế,
bạn tình chết đi rồi, sống lẻ loi vò võ ở chốn phòng khuê, ngày ngày chỉ còn
biết cùng hình bóng của chính mình than thở. Tình cảnh đó thật là đau lòng
xót dạ”.
Chàng đi đi lại lại trong gian phòng, khi thì tắc lưỡi, lúc thì thở dài thương cảm
cho người chủ cũ. Một lúc sau, đột nhiên trong lòng chợt động: “Ồ, ta chỉ nghĩ
đến cái đau lòng của người xưa, quên rằng chính mình thân lâm tuyệt cảnh”.
Chàng lẩm bẩm một mình: “Đoàn Dự này quả là một thằng đàn ông thối tha,
nếu như chết ở đây có phải là đường đột với giai nhân không, chết ở bên
ngoài bờ hồ mới đúng. Kẻo rồi hậu nhân tìm đến, thấy khô lâu của ta, lại
tưởng là nắm xương tàn của người đẹp, chẳng hóa ra … chẳng hóa ra …”.
Chàng chưa nghĩ ra “chẳng hóa ra” cái gì, thấy bên phía đông có một tấm
gương treo hơi lệch phản chiếu ánh sáng, có hình góc tường phía tây nam,
trên tường đá dường như có vết nứt. Chàng liền tiến đến, cố gắng đẩy bức
tường đó, quả nhiên là một cánh cửa, từ từ mở ra, để lộ một cái hang. Chàng
nhìn vào trong động, thấy có những bậc thang bằng đá.
Chàng vỗ tay reo lên, hoa chân múa tay một hồi rồi theo những bậc thang đó
mà đi. Đi xuống chừng mươi bậc, mờ mờ phía trước dường như có một cánh
cửa. Chàng giơ tay đẩy bỗng thấy sáng lòa, thất thanh kêu lên: -Ối chao!
Trước mắt là một mỹ nữ ăn mặc theo lối người ở trong cung vua, tay cầm
trường kiếm, mũi kiếm chỉ thẳng vào ngực chàng.
Qua một lúc lâu, chỉ thấy người đàn bà đó đứng yên không cử động, chàng
định thần nhìn kỹ thấy nàng tuy hình dáng nghi biểu thật giống nhưng dường
như không phải người sống, thu hết can đảm đến gần xem kỹ thì ra là một
pho tượng bằng ngọc trắng. Pho tượng đó cũng to bằng người thật, tà áo lụa
màu vàng nhạt hơi rung động, lạ nhất là đôi mắt trong sáng, thần thái linh
hoạt. Đoàn Dự chỉ biết ấp úng: -Xin lỗi! Xin lỗi! Tôi nhìn cô nương chăm chăm,
thật là vô lễ.
Tuy biết là khiếm lễ nhưng mắt chàng vẫn không thể rời xa đôi mắt, không biết
ngẩn ngơ đứng nhìn bao lâu, mới biết hai con ngươi tạc bằng bảo thạch màu
đen, trong mắt tưởng như có quang thái lưu chuyển càng nhìn càng sâu thăm
thẳm. Pho ngọc tượng này sở dĩ giống người thật như hệt, chỉ vì đôi mắt thật
là linh động.
Những vân trên khuôn mặt pho tượng ngọc lại ẩn ẩn sắc hồng chẳng khác gì
da dẻ người sống. Đoàn Dự nghiêng đầu ngó pho tượng, thấy ánh mắt của
người đẹp cũng nhìn theo chẳng khác gì người thật. Chàng kinh hãi, nghiêng
qua phía phải, đôi mắt của pho tượng dường như cũng đi theo. Dù chàng
đứng ở phía nào thì đôi mắt pho tượng ngọc cũng chuyển hướng, ánh mắt
thật là khó hiểu, không ra buồn mà cũng chẳng vui, dường như tràn đầy tình ý
mà lại có vẻ ngậm ngùi.
Chàng ngơ ngẩn đứng nhìn, vái một cái thật sâu nói: -Thần tiên tỉ tỉ, tiểu sinh
Đoàn Dự hôm nay được trộm thấy phương dung, có chết cũng không có gì ân
hận. Tỉ tỉ xa rời nhân thế một mình vò võ nơi đây, không tịch mịch lắm sao?
Bảo thạch trên đôi mắt pho tượng lung linh biến huyễn, tưởng như nghe được
lời chàng nên tỏ ra chua xót. Lúc này Đoàn Dự đã mê mẩn tâm hồn, chẳng
khác gì bị ma nhập, mắt như dính chặt vào pho tượng không rời nói. Chàng
nghĩ thầm: “Không biết thần tiên tỉ tỉ xưng hô ra thế nào? Để coi chung quanh
xem có lưu lại phương danh của tỉ tỉ chăng?”.
Chàng tra xét bốn bề, thấy bức tường bên phía đông viết đầy chữ nhưng
không có bụng dạ nào mà xem, lại quay trở lại ngắm pho tượng ngọc bấy giờ
mới hay tóc trên đầu pho tượng là tóc người thật, tóc mây từng cuộn bồng
bềnh, lại rủ một chùm cong cong, bên cạnh cài một cái vòng ngọc, trên nạm
hai hạt minh châu lấp lánh to bằng ngón tay. Trên tường cũng nạm đầy minh
châu bảo thạch, chiếu sáng lẫn nhau, bên vách phía tây có sáu khối thủy tinh
lớn, nhìn ra thấy nước thấp thoáng khiến cho gian phòng này so với gian
phòng trước còn sáng hơn nhiều.
Chàng lại say sưa ngắm pho tượng ngọc một hồi rồi mới quay ra, thấy bức
tường phía đông được mài nhẵn nhụi, trên khắc mấy hàng chữ đều lấy từ
trong sách Trang Tử, các thiên Tiêu Dao Du, Dưỡng Sinh Chủ, Chí Lạc … bút
pháp phiêu dật dường như do một người nào đó có sức cổ tay rất mạnh dùng
một vật nhọn khắc thành, nét nào nét nấy sâu vào trong đá đến nửa tấc. Cuối
bài văn đó là một hàng lạc khoản đề: “Tiêu Dao Tử vi Thu Thủy muội thư.
Động trung vô nhật nguyệt, nhân gian chí lạc dã”.
Đoàn Dự nhìn hàng chữ đó mà thừ người một hồi, nghĩ thầm: “Vị Tiêu Dao Tử
và Thu Thủy muội hẳn là hai vị cao nhân nam nữ mấy chục năm trước cùng
nhau múa kiếm dưới sơn cốc. Pho tượng ngọc có lẽ là người mà ông ta gọi là
Thu Thủy muội, Tiêu Dao Tử được sống với bà ta ở nơi mật động dưới u cốc
này, đúng là cực lạc của nhân gian. Thực ra thì đâu phải chỉ là chỗ cực lạc của
nhân gian, mà ngay cả trên trời dễ gì có chỗ nào hơn”.
Mắt chàng nhìn đến mấy hàng chữ trên vách:
Miểu cô xạ chi sơn, hữu thần nhân cư yên. Cơ phu nhược băng tuyết, xước
ước nhược xử tử, bất thực ngũ cốc, hấp phong ẩm lộ.
(Ở nơi núi xa xăm mờ mịt, có thần nhân ở. Da trắng như tuyết, giữ mình như
ngọc, không ăn ngũ cốc, hút gió uống sương)
Chàng lại quay đầu qua nhìn pho tượng nghĩ thầm: “Mấy câu này của Trang
Tử đem ra để hình dung vị thần tiên tỉ tỉ quả thật đúng quá”. Chàng đi đến
trước pho tượng, ngây ngất đứng nhìn, xem có đúng là nàng có da thịt trắng
như tuyết không, chỉ tiếc là không được đưa một ngón tay ra vuốt ve thử, lòng
như mê đi, thoang thoảng dường như ngửi thấy mùi lan xạ thơm ngát, vì yêu
mà đâm ra kính trọng, từ kính trọng trở thành say đắm.
Một lúc sau chàng không nhịn nổi phải kêu lên: -Thần tiên tỉ tỉ, tỉ tỉ có thể sống
lại nói chuyện với ta một câu chăng, dù ta phải vì nàng mà chết một nghìn lần,
một vạn lần thì cũng thực là vui sướng, hoan hỉ vô cùng.
Đột nhiên hai gối gập lại, quì xuống vái lạy. Chàng quì xuống rồi mới phát giác
trước mặt pho tượng đã sẵn hai chiếc bồ đoàn, hẳn là để cho người ta chiêm
bái, chỗ chàng quì là cái bồ đoàn lớn, dưới chân tượng còn một chiếc bồ đoàn
nhỏ hơn, chắc để cho người ta rập đầu. Chàng rập đầu xuống mới thấy bên
trong đôi giày của pho tượng hình như có thêu gì đó, nheo mắt xem kỹ mới
thấy bên phải chiếc giày có những chữ:
Lạy ta nghìn lạy đi thôi,
Để ta sai khiến một đời chẳng sai.
Còn bên trái thì viết:
Hãy mau theo lệnh của ta,
Dù cho trăm chết chớ hề thở than.
Những chữ đó thêu bằng chỉ màu xanh đậm còn nhỏ hơn đầu con ruồi, hơi
sậm hơn màu giày xanh lục một chút, trong ánh sáng mông lung của thạch
thất nếu không rập đầu lại chăm chú nhìn cho kỹ thì không thể nào thấy được.
Thế nhưng giá có phải lạy một nghìn lần thì âu cũng phải, còn để cho nàng sai
phái thì cầu còn chưa được, huống chi tuân hành mệnh lệnh một mỹ nhân
như thế này, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa cháy cũng đâu có hối
hận gì. Thành thử chàng không do dự, tâm thần mê mẩn cứ thế mà “năm,
mười, mười lăm, hai mươi …” mồm thì đếm, còn người thì cung kính lạy cho
đủ số.
Chàng rập đầu đến năm, sáu trăm rồi thấy lưng đã mỏi, xương cốt đau nhức,
cổ đã thấy cứng nhưng nghĩ thầm bằng giá nào mình cũng phải làm cho kỳ
xong mới thôi. Mệnh lệnh đầu tiên của thần tiên tỉ tỉ đã không xong thì còn nói
gì đến chuyện “dẫu chết trăm lần cũng không hối hận?”.
Đến lúc được trên tám trăm cái, mặt chiếc bồ đoàn nhỏ đã sờn, lộ ra bên dưới
có vật gì đó. Chàng không để ý đến, vẫn cứ cung cung kính kính lên gối xuống
gối cho đủ một nghìn lần. Khi xong rồi thấy lưng mỏi nhừ, vừa ngóc đầu đã
khuỵu ngay xuống.
Chàng nằm lăn ra nghỉ cho lại sức, thấy mình đã tuân hành được một chuyện
của người ngọc, chân càng chồn, gối càng mỏi thì trong lòng càng sung
sướng. Qua một lúc sau chàng mới từ từ trở dậy, giơ tay mò vào chỗ rách của
cái tiểu bồ đoàn thấy vật gì trơn nhẵn hóa ra là một cái túi bằng lụa nghĩ
thầm: “Thì ra thần tiên tỉ tỉ đã sắp xếp, nếu ta không lạy đủ một nghìn cái thì
cái đệm nhỏ này đâu có rách, vật báu của nàng tặng cho ta đâu có lộ ra
được”. Chàng xưa nay châu báu ngọc ngà có coi vào đâu nhưng cái túi này là
của thần tiên tỉ tỉ ban cho, dẫu bên trong chỉ là lá khô, cỏ mục, vải rách giấy
vụn thì chàng cũng coi như quí giá nhất đời. Chàng lôi cái túi ra, hai tay bưng
lên ngang ngực.
Cái túi đó dài chừng một thước, trên nền lụa trắng viết mấy chữ nhỏ:
“Ngươi đã lạy ta đủ một nghìn lần thì hãy tuân theo mệnh lệnh của ta suốt đời
không hối hận, cuộn này là tinh yếu võ công của phái Tiêu Dao, mỗi ngày ba
lần những giờ mão, ngọ, dậu cố gắng tu tập, nếu như biếng nhác thì ta thật
đau lòng. Thần công thành tựu rồi, hãy tới Lang Hoàn Phúc Địa đọc cho kỳ hết
các điển tịch nơi đây để biết hết gia số các môn phái trong thiên hạ mà dùng.
Đừng gấp gáp, cứ thư thả, học xong rồi hạ sơn, giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao,
nếu sót một người thì ta ở trên trời dưới đất cũng khắc khoải chưa tiêu mối
hận”.
Hay tay chàng run rẩy cầm cái bọc lụa nghĩ thầm: “Như thế là thế nào? Ta vốn
đã không muốn học võ, còn việc giết sạch người của phái Tiêu Dao thì lại càng
không thể làm được. Thế nhưng mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ lẽ nào không
tuân hành? Ta đã rập đầu đủ một nghìn lần nghĩa là bằng lòng tuân theo
mệnh lệnh của nàng ta, để cho người sai sử. Thế nhưng nàng bảo ta học võ
giết người, biết làm sao đây?”.
Trong đầu chàng lúc này thật rối như tơ vò, nghĩ tiếp: “Nàng bảo ta học võ của
phái Tiêu Dao, rồi lại bảo ta đi giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao, thật là lạ lùng
thay. Ôi, chắc là sư huynh sư đệ, sư tỉ sư muội trong phái Tiêu Dao của nàng
làm nàng khốn khổ cho nên nàng mới mong báo thù. Nàng đến lúc chết vẫn
chưa nguôi mối hận nên mới tính chuyện thu đệ tử để thay mình hoàn thành
tâm nguyện. Những kẻ đó làm hại thần tiên tỉ tỉ đến điều như thế, hẳn là xấu
xa, gian ác nhất trên đời có giết cho hết thì cũng phải. Khổng phu tử có nói:
Dĩ trực báo oán, chính là như thế. Cha ta cũng nói rằng, nếu gặp kẻ xấu xa
gian tà, mình không giết nó, nó cũng giết mình, nếu như không biết võ công
thì có khác gì để cho người ta đâm chém gì cũng được. Câu đó xem ra không
sai chút nào”.
Khi cha chàng ép chàng học võ, chàng đem ra đủ các đạo lý của nhà nho, nhà
Phật nhất định không chịu học. Cha chàng sách vở không thông hiểu bằng
chàng nên không sao biện giải được. Lúc này chàng vì say mê pho tượng ngọc
mới nhận rằng lời cha là đúng.
Chàng nghĩ tiếp: “Thần tiên tỉ tỉ qui tiên đã mấy chục năm, chắc gì trên đời
này còn phái Tiêu Dao? Người đời có nói: “Ác hữu ác báo” biết đâu những kẻ
ác quán mãn doanh kia chẳng cần phải ta ra tay giết cũng đã chết cả rồi. Nếu
không còn đệ tử phái Tiêu Dao, tâm nguyện của thần tiên tỉ tỉ đã hoàn thành,
nàng ở trên trời dưới đất đâu có còn canh cánh khắc khoải nữa”.
Chàng nghĩ ra như thế rồi trong lòng cảm thấy dịu lại, khấn thầm: “Thần tiên tỉ
tỉ, những việc tỉ tỉ sai bảo, Đoàn Dự này dĩ nhiên phải tuân theo không dám lỡ
làng, nhưng mong rằng tỉ tỉ pháp lực vô biên, đệ tử phái Tiêu Dao ai nấy đều
không bệnh hoạn mà chết cả rồi”.
Chàng hồi hộp mở cái bọc gấm ra, bên trong là một cuộn lụa cuốn tròn. Chàng
mở cuộn lụa, hàng chữ đầu tiên viết “Bắc Minh thần công”, nét chữ mềm mại
nhưng có lực, so với hàng chữ bên ngoài túi không khác gì. Bên dưới viết tiếp:
Trang Tử Tiêu Dao Du có viết:
Ở tận cùng phía bắc có ao tối, đó chính là ao trời. Trong ao có cá lớn vài nghìn
dặm, không ai nhìn thấy bao giờ.
Lại viết:
Nếu như nước tích không đủ thì không có sức mang nổi thuyền lớn. Đổ một
chén nước vào chỗ trũng, lấy cái lá cỏ làm thuyền thì được, còn lấy cái chén
làm thuyền thì không xong vì nước nông mà thuyền quá lớn.
Bản phái võ công cũng chẳng khác, yếu nghĩa đầu tiên là tích súc nội lực. Nội
lực đầy đủ rồi, võ công trong thiên hạ ta đều dùng được, khác gì biển bắc,
thuyền lớn thuyền nhỏ đều chở được, cá lớn cá nhỏ đều dung được. Cho nên
nội lực là gốc, chiêu số là ngọn. Những hình vẽ dưới đây nên cố gắng tu tập.
Đoàn Dự khen ngợi: -Đoạn này thần tiên tỉ tỉ viết thật là rõ ràng.
Chàng nghĩ thầm: “Bắc Minh thần công là công phu tu luyện nội lực, có học
cũng không sao”. Tay trái chàng lần từ từ giở cuộn vải ra, đột nhiên “A” lên
một tiếng, tim đập thình thình rồi mặt đỏ bừng, người nóng hổi. Thì ra trên
tấm lụa là hình vẽ một người con gái nằm ngang, thân thể không một mảnh
vải, diện mạo chẳng khác gì pho tượng ngọc. Đoàn Dự cảm thấy nếu như
mình còn nhìn lâu thêm không khỏi coi thường thần tiên tỉ tỉ nên vội vàng cuộn
lại không coi nữa. Một hồi sau chàng mới nghĩ thầm: “Thần tiên tỉ tỉ có dặn là
những hình vẽ dưới đây nên cố gắng tu tập, ta cũng chỉ theo lệnh mà làm
không thể coi là bất kính”.
Chàng run run đưa tay mở cuộn vải ra, thấy bức hình người con gái khỏa thân
kia như mỉm cười, đầu mày cuối mắt, trên môi trên má thật là kiều mị, so với
pho tượng khuôn mặt trang nghiêm tuy dung mạo có giống nhưng thần tình
khác hẳn. Chàng tưởng như thấy ngực mình rộn ràng, nghe được cả tiếng tim
đập, liếc mắt nhìn trộm bức hình, thấy có một đường chỉ nhỏ màu xanh từ
trên vai trái vòng xuống dưới cổ rồi chạy xéo xuống vú bên phải.
Chàng nhìn đến đôi nhũ hoa đầy đặn của người đẹp trong lòng thảng thốt, vội
vàng nhắm mắt lại, một lát sau mới he hé nhìn thấy sợi chỉ xanh đó chạy
xuống dưới nách rồi kéo dài đến tận cánh tay phải, qua cổ tay tới ngón tay cái
mới ngừng. Chàng càng nhìn càng yên bụng, nghĩ thầm mình nhìn bàn tay,
ngón tay của thần tiên tỉ tỉ thì không sao nhưng nghĩ đến cánh tay trắng muốt
trong lòng không khỏi rộn ràng.
Lại có một sợi chỉ xanh khác từ cổ đi xuống, qua bụng rồi đi tiếp nữa tới cách
rốn mấy tấc mới ngừng. Đoàn Dự không dám nhìn sợi dây đó lâu, chăm chú
nhìn đường trên cánh tay, thấy bên cạnh sợi dây ghi đầy những chữ nhỏ, nào
Vân Môn, Trung Phủ, Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt
Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế … đến Thiếu Thương ở ngón tay cái thì
ngừng lại. Chàng bình thời thường nghe cha mẹ bình luận võ công, tuy không
lưu ý nhưng vào tai cũng đã nhiều biết ngay Vân Môn, Trung Phủ … đều là tên
các huyệt đạo trên thân thể con người.
Chàng mở thêm một chút thấy bên dưới có một hàng chữ:
Bắc Minh thần công lấy nội lực của thiên hạ làm của mình. Nước lớn biển bắc
không phải tự nhiên mà có. Lời rằng: Trăm sông đổ vào biển, nước của biển sở
dĩ có là vì dung chứa nước của trăm sông. Biển cả bao la cũng là vì biết tích
tụ. Thủ Thái Âm Phế Kinh này là bài học đầu tiên của Bắc Minh thần công.
Bên dưới viết kỹ phương pháp luyện môn công phu này. sau cùng chép:
Người đời luyện công đều đi từ Vân Môn đến Thiếu Thương, phái Tiêu Dao ta
lại đi ngược lại, đi từ Thiếu Thương trở về Vân Môn, ngón tay cái vừa chạm
vào người khác, nội lực của người liền chảy vào thân thể mình vào tới các
huyệt. Nếu như nội lực kẻ địch mạnh hơn ta tức là nước biển chảy ngược vào
sông hồ cực kỳ hung hiểm, phải hết sức cẩn thận. Bàng chi trong bản phái
không biết được đạo lý này nên chỉ biết làm tiêu hao nội lực kẻ địch mà không
biết đưa vào để dùng cho mình, khác nào trong tay có nghìn vàng đem vứt
dưới đất, coi vật quí giá không ra gì chẳng nực cười ru!”.
Đoàn Dự thở dài một tiếng, mang máng thấy công phu này dường như không
được quang minh, lấy nội lực của người làm của mình có khác gì ăn cắp tài vật
người ta ư? Thế nhưng chàng lại nghĩ ngay: “Cái thí dụ của thần tiên tỉ tỉ thật
là đúng, trăm sông đổ vào biển đấy là do tự ý chảy vào chứ biển cả có cướp
đoạt nước của sông đâu. Ta lại cho rằng thần tiên tỉ tỉ đi lấy của người khác,
thật là lếu láo, đáng đánh đòn!”.
Chàng giơ tay lên, vả ngay vào mặt mình một cái, má trái liền sưng lên thật là
đau, lại vả bên phải một cái nữa nhưng nhẹ hơn, nghĩ thầm: “Kẻ xấu xa tàn ác
dám mạo phạm đến thần tiên tỉ tỉ, thần tiên tỉ tỉ bèn lấy nội lực của chúng để
dùng chính là bẻ nanh bẻ vuốt bọn chúng, có khác gì cướp con dao trong tay
tên đồ tể chứ có phải giết y đâu. Thần tiên tỉ tỉ làm như thế có gì là không
phải?”.
Chàng mở tiếp cuộn vải lụa, trên đó vẽ toàn là hình con gái khỏa thân, kẻ
đứng người nằm, hoặc trước mặt, hoặc sau lưng cùng một khuôn mặt nhưng
khi vui khi buồn, khi thì tình ý triền miên, lúc lại có vẻ bực bội mỗi bức một
khác. Tất cả tổng cộng ba mươi sáu bức tranh, trên bức tranh nào cũng có
những sợi chỉ màu, ghi rõ bộ vị huyệt đạo và phương pháp luyện công.
Đến sau cùng tên cuốn lụa có bốn chữ Lăng Ba Vi Bộ, kế đó vẽ đầy những vết
chân, ghi rõ Qui Muội, Vô Vọng các loại, đều là những phương vị trong Dịch
Kinh. Mấy hôm trước đây Đoàn Dự toàn tâm toàn lực nghiên cứu kinh Dịch,
vừa đọc đến những danh xưng lập tức tinh thần phấn khởi chẳng khác gì gặp
lại người quen. Chỉ thấy dấu chân chằng chịt, không biết bao nhiêu trăm, bao
nhiêu nghìn, từ bước nọ sang bước kia có một đường dây xuyên qua, trên
đường đó có dấu mũi tên xem ra là một loại bộ pháp phức tạp. sau cùng là
một hàng chữ viết:
Nếu gặp phải cường địch, thì dùng cái này để bảo vệ chính mình, tích thêm
nội lực sau đó sẽ quay lại giết kẻ địch.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Bộ pháp của thần tiên tỉ tỉ để lại ắt thật là tinh diệu, khi
gặp cường địch đào tẩu thoát thân thật tốt biết bao còn như việc “sau đó sẽ
quay lại giết kẻ địch” bất tất phải nghĩ đến”.
Chàng cuộn tấm lụa lại, để lên vái hai cái rồi trịnh trọng bỏ vào trong túi, quay
sang nói với pho tượng ngọc: -Thần tiên tỉ tỉ dặn ta sáng trưa chiều ba lần
luyện công, Đoàn Dự này không dám trái lời. Từ nay trở đi đối với người khác
sẽ hết sức nể nang để cho người khác khỏi đánh, khỏi phải hút nội lực của
người ta. Còn Lăng Ba Vi Bộ kia ta sẽ gia tâm luyện cho thành thục, nếu thấy
không xong, lập tức chạy ngay khỏi phải hút nội lực của họ”.
Còn lời dặn “giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao” chàng không dám nghĩ đến. Chàng
thấy bên trái có một cái cửa hình tròn nên chậm rãi đi vào, bên trong lại là một
gian thạch thất khác, trong đó có một chiếc giường đá, trước giường để một
cái nôi bằng gỗ nho nhỏ. Chàng ngơ ngẩn nhìn chiếc nôi đó nghĩ thầm:
“Không lẽ thần tiên tỉ tỉ lại có con ư? Không phải, không phải, một cô nương
xinh đẹp như thế, làm sao lại sinh con được?”. Chàng nghĩ đến người thần tiên
tỉ tỉ “giữ mình như ngọc” kia lại có con không khỏi cực kỳ thất vọng, nhưng lại
nghĩ ngay: “A, đúng rồi! Đây chắc là cái nôi của thần tiên tỉ tỉ nằm khi nàng
còn bé, do cha mẹ nàng làm cho nàng. Hai người Tiêu Dao Tử và Thu Thủy
muội chắc là song thân, đúng rồi, chắc là thế đó”. Chàng cũng không thèm
nghĩ thêm xem những điều mình suy đoán có gì sơ xuất hay không nên tinh
thần lại trở nên cao hứng.
Trong gian phòng này không có chăn gối quần áo gì, trên tường có treo một
cây thất huyền cầm, dây đã đứt cả. Bên cạnh giường lại có một cái bàn đá,
trên bàn khắc mười chín đường bàn cờ, trên còn sắp xếp đến hơn hai trăm
quân, trắng đen đang kịch liệt xem ra chưa rõ được thua.
Đàn còn đó, cờ chưa xong mà giai nhân mờ mịt nơi nào. Đoàn Dự đứng sững
sờ trong gian thạch thất, không khỏi bi thương, hai hàng lệ chảy dài trên má.
Bỗng dưng chàng lại hoảng hốt: “Trời ôi! Nếu có bàn cờ, ắt phải có hai người
giao đấu, e rằng thần tiên tỉ tỉ chính là Thu Thủy muội, cùng chồng là Tiêu Dao
Tử ngồi đây đánh cờ. Ôi thôi! Thật là … thật là …Ồ, đúng rồi! Bàn cờ này
không phải hai người đánh mà là thần tiên tỉ tỉ ở một mình nơi u cốc, tịch mịch
không có gì làm, nên đánh cờ một mình. Thần tiên tỉ tỉ, năm xưa sao nàng
không gọi lên vài tiếng? Đoàn Dự này nghe tiếng oanh êm ả, thể nào chẳng
vào trong sơn cốc hầu cờ cùng tỉ tỉ?”. Chàng đến bên coi kỹ lại cuộc cờ, không
ngờ càng xem càng kinh hãi.
Cuộc cờ đó biến hóa phiền phức không đâu sánh kịp, là thế cờ mà dịch nhân
vẫn gọi là Trân Lung, hai bên tuy hết sức tranh đoạt nhưng vẫn có đường sống
lại có kế lâu dài. Đoàn Dự đã từng nghiên cứu về cờ vây mấy năm qua, có lúc
mê mẩn đã từng đánh cờ với Thôi tiên sinh trong nhà. Chàng vốn thông minh
nên lúc đầu Thôi tiên sinh chấp chàng bốn quân mà sau một năm đã chấp lại
ông ta ba quân, kỳ lực có thể nói là một tay cao thủ trong nước Đại Lý. Thế
nhưng bàn cờ trước mắt rồi sẽ ra sao vẫn không thể nào nghĩ cho ra, bên đen
trông như thắng mà bên trắng lại cũng có cách lật ngược lại. Chàng đứng
trông hồi lâu, thế cờ càng lúc càng mờ mịt, thấy có hai chân đèn trên còn hai
cây nến cháy dở, bên cạnh có cả hỏa đao, hỏa thạch, bùi nhùi nên đánh lửa
lên đốt đèn coi cho rõ. Chàng xem đến khi đầu váng mắt hoa, trong bụng bực
bội.
Đoàn Dự đứng lên, vặn lưng cho bớt mỏi bỗng giật mình: “Bàn cờ thế này khó
quá, dù ta có nghĩ thêm tám ngày mười ngày chưa chắc đã giải nổi, đến lúc đó
tính mạng mình đã không còn mà Chung cô nương thì cũng đã bị Thần Nông
Bang chôn sống”. Chàng biết rằng nếu còn ngồi coi nữa thì không biết bao giờ
mới nhãng ra được nên đành quay ra, tiện tay cầm luôn cây đèn không để mắt
vào bàn cờ nữa, trong lòng đột nhiên mừng như điên cuồng: “Đúng rồi! Đúng
rồi! Bàn cờ này phức tạp đến thế, chắc là thần tiên tỉ tỉ tự mình sắp đặt một
thế Trân Lung, chứ nào có phải hai người đánh với nhau mà thành, quả thật
hay quá!”.
Chàng ngửng đầu lên thấy dưới chân giường lại cũng có một cái cửa hình
tròn, tường bên cạnh có bốn chữ Lang Hoàn Phúc Địa. Chàng nhớ đến câu
thần tiên tỉ tỉ viết bên ngoài cuộn lụa, nghĩ thầm: “Thì ra Lang Hoàn Phúc Địa
ở ngay đây. Thần tiên tỉ tỉ có nói là điển tịch các môn phái trong thiên hạ đều
có ở trong này. Ta đâu muốn học võ công, những điển tịch đó không xem là
hơn. Thế nhưng thần tiên tỉ tỉ đã dặn đâu có thể nào trái lời”. Chàng bèn cầm
đuốc tiến vào trong phòng đó.
Vừa bước chân vào Đoàn Dự đưa mắt nhìn bốn phía thở hắt ra khoan khoái,
trong lòng nhẹ hẳn đi. Thì ra Lang Hoàn Phúc Địa là một cái thạch động thật
lớn, to gấp mấy lần những phòng ở bên ngoài, trong bày đầy những giá sách
bằng gỗ có điều trên những kệ đó trống trơn, không còn một quyển nào.
Chàng bưng cây nến lại gần thấy trên giá có cắm đầy những thẻ, nào là “Côn
Lôn Phái”, “Thiếu Lâm Phái”, “Tứ Xuyên Thanh Thành Phái”, “Sơn Đông Bồng
Lai Phái” … bên trong có cả “Đại Lý Đoàn Thị”. Thế nhưng trong chiếc thẻ đề
“Thiếu Lâm Phái” thì có chú thích “Thiếu Dịch Cân Kinh”, trong thẻ đề “Cái
Bang” thì chú thích “Thiếu Hàng Long Thập Bát Chưởng”, còn thẻ đề “Đại Lý
Đoàn Thị” thì ghi chú “Thiếu Nhất Dương Chỉ, Lục Mạch Thần Kiếm Kiếm
Pháp, thật đáng tiếc”.
Như vậy hẳn là năm xưa trên những kệ sách này chất đầy đồ phổ, kinh sách
của các môn phái nhưng nay đã bị người nào đó khuân đi hết rồi chỉ còn giá
không. Thấy thế lòng Đoàn Dự tưởng như trút được tảng đá, vui sướng không
để đâu cho hết: “Nếu như không còn võ công điển tịch nữa thì ta không học
võ công cũng không thể nói là không tuân hành mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ”.
Thế nhưng trong lòng chàng bỗng cảm thấy hổ thẹn: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự,
ngươi vì không phải tuân hành mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ mà lấy làm vui thì
đã là bất trung với nàng rồi. Ngươi không thấy võ công điển tịch đáng lẽ phải
thất vọng mới phải, sao lại lấy làm sung sướng là sao? Thần tiên tỉ tỉ trên trời
dưới đất nếu có linh thiêng ắt sẽ không bằng lòng”.
Chàng thấy Lang Hoàn Phúc Địa này không có cửa ra, bèn quay lại gian phòng
có pho tượng ngọc, vừa mới nhìn vào đôi mắt người đẹp, tâm hồn lại say mê
điên đảo, ngơ ngẩn một hồi mới vái một cái thật sâu nói: -Thần tiên tỉ tỉ, hôm
nay ta có việc quan trọng đành phải tạm biệt, sau khi cứu xong Chung cô
nương rồi, sẽ quay lại tụ hội với tỉ tỉ.
Chàng đành cầm chúc đài hăng hái ra khỏi thạch thất, vừa mới toan tìm
đường đi thấy bên cạnh có một hàng bậc thang bằng đá chênh chếch đi lên,
lúc đầu mắt vẫn còn dán chặt vào pho tượng ngọc nên không để tâm đến
những thạch cấp. Mỗi bước đi lại dùng dằng do dự, biết bao nhiêu lần chàng
toan quay lại nhìn pho tượng mỹ nhân, nhưng rồi nghiến răng hạ quyết tâm
mới khắc chế được nỗi thèm muốn.
Đi được chừng hơn một trăm bước, qua ba khúc quẹo, nghe văng vẳng tiếng
rì rầm ỳ ào của nước chảy, lại thêm hai trăm bậc nữa thì ầm ầm điếc cả tai,
trước mắt có ánh sáng chiếu vào. Chàng càng đi nhanh hơn đến hết các bậc
thang, trước mặt là một cái lỗ hổng chui lọt người, thò đầu ra thăm dò bỗng
sợ đến tim đập thình thình.
Chàng vừa nhìn ra thấy bên ngoài sóng nước cuồn cuộn gầm rú, nước chảy rất
xiết chính là một con sông lớn. Hai bên bờ sông là vách đá dựng, đứng sừng
sững xem tình hình này đã đến bờ sông Lan Thương. Chàng vừa kinh hoàng,
vừa vui sướng, từ từ chui ra khỏi động thấy chỗ đang đứng cao hơn mặt nước
sông đến mươi trượng, nước sông có dâng lên cũng không thể nào tràn vào
được nhưng nếu muốn đến được bờ sông cũng không phải dễ dàng. Chàng
bèn dùng cả tay lẫn chân bò men lên, đồng thời đưa mắt nhìn tứ phía ghi nhớ
kỹ cảnh vật để khi cứu người xong sẽ quay lại chốn này. Đoàn Dự nghĩ thầm:
“Từ nay mỗi năm ta để vài tháng vào trong hang này làm bạn với thần tiên tỉ
tỉ”.
Bờ sông toàn là đá núi, không có đường đi, chập choạng leo lên leo xuống đi
được chừng bảy, tám dặm. Chàng trông thấy một cây đào hoang, trên cành
đầy trái nên hái ăn thật no, tinh thần phấn chấn đi thêm được mươi dặm nữa
mới gặp một con đường mòn nhỏ. Chàng men theo con đường đó mãi đến lúc
chiều tối mới gặp một chiếc cầu treo bằng xích sắt ngang qua sông, trên tảng
đá bên cạnh cầu có khắc ba chữ lớn “Thiện Nhân Độ”.
Chàng rất mừng, con đường Chung Linh chỉ cho phải qua cầu treo Thiện Nhân
Độ, như vậy đường chàng đang đi là đúng rồi. Chàng bèn bám sợi dây xích
bước lên trên cầu. Cây cầu đó có cả thảy bốn sợi dây xích, hai sợi bên dưới để
lát gỗ để đi qua, còn hai sợi ở hai bên là để vịn. Chàng vừa đặt chân, cây cầu
đã đong đưa, đến giữa sông lại càng chao đảo, hé mắt nhìn thấy nước sông
cuồn cuộn, sủi lên bao nhiêu là bọt nước, chẳng khác nào một bầy ngựa
hoang chạy dưới chân, chỉ lỡ bước một cái là lộn nhào xuống sông dù bơi lội
giỏi đến chừng nào cũng không sao thoát chết được.
Chàng không dám nhìn xuống nữa, chăm chăm hướng về phía trước, lập cập
niệm tụng: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật!” từng bước từng bước lần mãi cũng
qua được bên kia.
Chàng ngồi nghỉ một lát rồi cứ theo đường Chung Linh chỉ mà đi cho nhanh. Đi
chừng hơn nửa giờ thấy trước mặt là một khu rừng rậm biết là đã đến cửa Vạn
Kiếp Cốc, nơi Chung Linh ở. Chàng đến gần quả nhiên thấy một hàng chín cây
cổ tùng vươn lên cao vút. Chàng đếm từ bên phải đến cây thứ tư, theo đúng
lời Chung Linh chỉ điểm, vòng qua phía sau vạch đám cỏ dài, quả nhiên trên
cây có một cái hang, nghĩ thầm: “Cái Vạn Kiếp Cốc này quả thật kín đáo, nếu
không được Chung cô nương cho hay thì nào ai biết được cửa cốc lại ở ngay
một cây tùng”.
Chàng tiến vào cửa hang, một tay vạch cỏ ra tay phải mò thấy một cái vòng
sắt lớn, dùng sức kéo lên, mộc bản liền mở bên dưới là một hàng bực thang
bằng đá. Chàng đi xuống mấy bậc rồi hai tay lại nâng cánh cửa gỗ để lại chỗ
cũ, tiếp tục đi xuống, khoảng chừng ba mươi bước thì đường ngoặt qua phía
phải, sau mấy trượng lại trồi trở lên nghĩ thầm: “Ở đây làm bậc đá so với thần
tiên tỉ tỉ kiến tạo những nấc thang trong hang thật dễ hơn nhiều”. Chàng đi
lên chừng ba mươi bậc thì đến một khoảng đất bằng.
Trước mắt chàng thấy một bãi cỏ rộng, xa xa là những cây tùng. Chàng đi qua
cánh đồng thấy một cây tùng lớn trên bạt đi một mảng vỏ dài chừng một
trượng, ngang chừng một thước trên sơn trắng viết một hàng chữ lớn: “Ai họ
Đoàn vào đây sẽ bị giết không tha”. Những chữ khác đều màu đen, riêng chữ
“giết” lại màu đỏ.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “sao cốc chủ lại hận thù họ Đoàn ta đến thế? Dẫu như có
người họ Đoàn đắc tội với y nhưng trên đời này người họ Đoàn hàng nghìn,
hàng vạn, đâu phải gặp ai cũng giết”. Khi đó trời đã tối, những chữ đó trông
như giơ nanh, múa vuốt, chữ giết kia màu đỏ chói trông chẳng khác gì rải đầy
máu tươi, trông thật ghê rợn. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chung cô nương bảo ta
đừng xưng mình họ Đoàn thì ra là thế. Cô ta bảo mình gõ vào chữ thứ ba ba
lần, tức là phải gõ vào chữ Đoàn. Lúc đó nàng không nói rõ ra, sợ ta nổi giận.
Gõ thì đã sao, đánh cũng còn được. Nàng cứu mạng ta chẳng nói chi gõ vào
chữ Đoàn ba lần mà có đánh cho Đoàn Dự này ba cái cũng không hề hấn gì”.
Chàng thấy trên cây có đóng một cái đinh, trên đinh treo một cái búa nhỏ, liền
lấy xuống gõ vào chữ Đoàn một cái. Cái búa gõ xuống nghe tiếng kim loại vang
lên, Đoàn Dự không đề phòng phải giựt nảy người, mới hay bên dưới chữ
đoàn là một miếng sắt, phía sau rỗng, chỉ vì bên ngoài sơn trắng nên không
nhìn ra. Chàng gõ thêm hai lần nữa rồi treo cái búa lại chỗ cũ.
Qua một lát đằng sau cây tùng có tiếng một thiếu nữ kêu lên: -Tiểu thư về rồi!
Giọng nói nghe đầy vẻ vui mừng. Đoàn Dự nói: -Tôi nhận lời ủy thác của
Chung cô nương đến xin được gặp cốc chủ.
Cô gái kia “Ồ” một tiếng xem chừng như kinh ngạc lắm, ấp úng: -Ngươi …
ngươi là người ngoài ư? Tiểu thư nhà ta đâu?
Đoàn Dự không nhìn thấy người cô ta, nói: -Chung cô nương gặp phải hung
hiểm tôi tới đây báo tin.
Thiếu nữ kinh hãi hỏi lại: -Nguy hiểm gì?
Đoàn Dự đáp: -Chung cô nương bị người ta bắt giữ, e rằng nguy hiểm đến
tính mạng.
Thiếu nữ kêu lên: -Trời ơi! Ngươi … ngươi … ngươi chờ một chút, để ta vào
báo cho phu nhân.
Đoàn Dự đáp: -Thế thì hay lắm.
Chàng nghĩ thầm: “Chung cô nương vốn dĩ muốn mình gặp mẹ nàng trước”.
Chàng đứng đó một hồi thì nghe đằng sau cây có tiếng chân người gấp gáp,
rồi giọng thiếu nữ hồi nãy nói: -Phu nhân xin mời.
Cô gái bước ra, trông chừng mười sáu mười bảy, ăn mặc theo lối a hoàn nói: –
Tôn khách … công tử xin đi theo tôi.
Đoàn Dự hỏi: -Chẳng hay tỉ tỉ tên gọi thế nào?
Cô gái xua tay, ý nói không thể tiết lộ. Đoàn Dự thấy cô gái có vẻ sợ hãi nên
không dám hỏi thêm nữa. Người tớ gái đó dẫn Đoàn Dự đi ngang qua một khu
rừng cây, theo một con đường mòn đi về hướng trái đến trước một gian nhà
ngói. Cô ta đẩy cửa quay sang vẫy Đoàn Dự rồi đứng tránh qua một bên
nhường chàng đi trước. Đoàn Dự đi đến bên cửa thấy đó là một gian sảnh
nhỏ, trên bàn có để một đôi nến lớn. Sảnh tuy nhỏ nhưng bày biện tinh nhã.
Chàng ngồi xuống rồi, người a hoàn kia liền bưng trà lên nói: -Mời công tử
dùng trà, phu nhân sẽ ra gặp ngay.
Đoàn Dự nhấp hai ngụm thấy ở phía đông treo một bộ tứ bình trên vẽ mai lan
cúc trúc bốn loại hoa cỏ nhưng thứ tự lại xếp thành lan, trúc, cúc, mai; bên
phía tây có bốn bức tranh vẽ xuân hạ thu đông nhưng lại treo thành đông, hạ,
xuân, thu nghĩ thầm: “Cha mẹ của Chung cô nương là con nhà võ, không rành
thư họa, cũng không có gì lạ”.
Chỉ nghe thấy tiếng vòng leng keng, từ bên trong đi ra một người đàn bà mặc
áo dài màu xanh nhạt, tuổi chừng ba mươi sáu, ba mươi bảy, mặt mày thanh
tú, rất giống Chung Linh nên biết ngay đó là Chung phu nhân. Đoàn Dự đứng
lên vái một cái thật sâu nói: -Vãn sinh Đoàn Dự, bái kiến bá mẫu.
Chàng vừa nói xong, mặt liền biến sắc, bụng kêu thầm: “Chao ôi! sao ta lại
xưng tên thật của mình thế này? Ta chỉ chăm chăm xem bà ta có giống Chung
Linh hay không, quên bẵng đi là mình phải dùng tên giả”.
Chung phu nhân ngạc nhiên, kéo vạt áo lên đáp lễ nói: -Công tử vạn phúc.
Rồi lập tức hỏi lại ngay: -Cậu … cậu họ Đoàn?
Vẻ mặt có chiều khác lạ. Đoàn Dự đã báo tính danh rồi, có muốn nói láo thì
cũng đã muộn, đành nói: -Vãn sinh họ Đoàn.
Chung phu nhân nói: -Công tử quê quán ở đâu? Lệnh tôn xưng hô thế nào?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Hai việc này ta phải nói láo mới được để bà ta khỏi tìm ra
thân thế mình”. Chàng bèn nói: -Vãn sinh người ở phủ Lâm An, đất Giang
Nam, gia phụ tên chỉ có một chữ Long.
Mặt Chung phu nhân lộ vẻ hoài nghi nói: -Thế sao giọng nói của công tử nghe
như tiếng người Đại Lý?
Đoàn Dự đáp: -Vãn sinh đã ở Đại Lý ba năm rồi, học nói khẩu âm bản địa e
rằng không được giống lắm, mong phu nhân đừng cười.
Chung phu nhân hừ một tiếng nói: -Nghe giọng giống lắm, thật chẳng khác gì
người chính gốc ở đây đủ biết công tử quả là thông minh. Mời công tử ngồi.
Hai người ngồi xuống rồi, Chung phu nhân nhìn trái nhìn phải chăm chăm
đánh giá chàng khiến cho Đoàn Dự đâm ra ngượng nghịu nói: -Vãn sinh trên
đường đi gặp hung hiểm khiến cho áo quần rách rưới, quả thực thất lễ. Lệnh
ái đang gặp hiểm nguy vãn sinh vội đến báo tin, việc quá gấp gáp không kịp
thay đổi y quan xin phu nhân thứ tội.
Chung phu nhân thần sắc đang hoảng hốt nghe thấy thế như từ một giấc mơ
choàng tỉnh dậy, lật đật hỏi: -Tiểu nữ ra sao?
Đoàn Dự lấy trong túi ra đôi giày hoa của Chung Linh nói: -Chung cô nương
đưa cho vãn sinh vật này để làm tin đến bái kiến phu nhân trước.
Chung phu nhân cầm lấy đôi giày nói: -Đa tạ công tử, không biết tiểu nữ gặp
phải chuyện gì?
Đoàn Dự bèn đem chuyện chàng gặp Chung Linh ở Kiếm Hồ Cung trên núi Vô
Lượng như thế nào, mình xen vào việc của Thần Nông Bang ra sao để Chung
Linh bị bắt buộc phải sai con thiểm điện điêu ra cắn người rồi nàng phải nhờ
mình đi cầu cứu, bị rơi vào hang núi mấy ngày qua nhưng không nhắc đến
pho tượng ngọc trong động đá.
Chung phu nhân lặng lẽ ngồi nghe, vẻ mặt mỗi lúc một thêm lo lắng, đợi Đoàn
Dự nói xong mới chậm rãi thở dài một tiếng nói: -Cái con bé cứ ra khỏi nhà là
gây chuyện.
Đoàn Dự nói: -Chuyện này toàn do vãn sinh mà ra, không thể trách Chung cô
nương được.
Chung phu nhân chăm chăm nhìn chàng, khẽ nói: -Đúng thế, cũng chẳng nên
trách nó làm gì, năm xưa … năm xưa ta cũng thế …
Đoàn Dự hỏi: -Cái gì?
Chung phu nhân đôi má ửng hồng, bà ta tuy tuổi đã trung niên nhưng nét e
thẹn cũng không khác gì một cô gái nhỏ, bẽn lẽn nói: -Ta … ta nhớ đến một
chuyện cũ.
Bà nói tới đây, mặt càng đỏ hơn vội nói trớ ra: -Ta … ta nghĩ chuyện này …
xem ra … thật khó lòng.
Đoàn Dự thấy bà ấp úng nghĩ thầm: “Thì chuyện này quả khó lòng, nhưng có
gì đâu mà sao bà ta lại thẹn thùng đến thế. Con gái bà xem ra còn già dặn
hơn nhiều”.
Ngay lúc đó, từ bên ngoài cửa có tiếng một người đàn ông ồm ồm nói: -Hay
nhỉ, Tiến Hỉ Nhi lại bị người ta giết là sao?
Chung phu nhân giật mình kinh hãi, nói nhỏ: -Ngoại tử đến rồi, ông ta … ông
ta đa nghi lắm, Đoàn công tử tạm tránh qua một bên.
Đoàn Dự nói: -Vãn sinh thể nào cũng phải bái kiến tiền bối, chi bằng …
Chung phu nhân giơ tay ra bịt miệng chàng lại, tay kia cầm chàng kéo qua căn
phòng phía đông, nói: -Cậu trốn ở đây, tuyệt đối không được mở miệng nói
năng. Ngoại tử tính nóng như lửa, có gì sơ xẩy tính mạng cậu e khó mà bảo
toàn, dẫu ta cứu cũng không được.
Bà ta tuy hình dung mảnh dẻ nhưng một thân đầy võ công, vừa nắm vừa lôi,
Đoàn Dự không sao kháng cự được, chỉ đành chịu một phép, trong bụng hơi
bực bội: “Ta đường xa tới đây báo tin, dẫu sao cũng là một người khách, lấp
lấp ló ló trốn nơi đây, có khác gì thằng ăn trộm vặt?”.
Chung phu nhân quay sang nhìn chàng mỉm cười vẻ thật ôn nhu. Đoàn Dự
thấy nụ cười đó liền hết giận, gật đầu. Chung phu nhân quay mình đi ra khép
cửa phòng trở lại khách sảnh.
Chỉ nghe thấy tiếng bước chân hai người đi vào trong phòng, một giọng đàn
ông cất tiếng chào: -Phu nhân!
Đoàn Dự nhìn qua khe tường thấy một người chừng ba mươi tuổi ăn mặc theo
lối gia nhân, vẻ mặt kinh hoàng. Một người đàn ông khác mặc áo đen, vừa cao
vừa gầy, mặt quay ra ngoài nên chàng không nhìn rõ tướng mạo chỉ thấy hai
bàn tay to như hai cái quạt nan xuôi theo mình, trên lưng bàn tay nổi đầy gân
xanh, nghĩ thầm: “Bàn tay cha Chung cô nương to thật”.
Chung phu nhân hỏi: -Tiến Hỉ Nhi chết rồi ư? Có chuyện gì thế?
Người kia đáp: -Lão gia sai Tiến Hỉ Nhi và tiểu nhân đến Bắc Trang đón khách.
Lão gia nói là tất cả có bốn người, hôm nay lúc trưa mới có một vị, nói là họ
Nhạc. Lão gia từng dặn nếu gặp họ Nhạc thì chào là “tam lão gia”. Tiến Hỉ Nhi
tiến lên cung kính gọi “tam lão gia”. Ngờ đâu người đó bỗng nổi cơn lôi đình,
quát lớn: “Ta là Nhạc lão nhị, cớ gì lại gọi ta là tam lão gia? Ngươi coi thường
ta phải không?” Nghe bộp một cái đã đánh cho Tiến Hỉ Nhi sứt đầu chảy máu,
lăn ra ngay.
Chung phu nhân nhíu mày: -Trên đời này sao lại có kẻ ngang ngược đến thế!
Nhạc lão tam trở thành Nhạc lão nhị từ bao giờ?
Chung cốc chủ nói: -Nhạc lão tam xưa nay tính tình nóng nảy, lại điên điên rồ
rồ.
Nói xong y bèn quay mình lại. Đoàn Dự từ bên kia bức vách nhìn ra không khỏi
giật mình kinh hãi, thấy y mặt dài như mặt ngựa, mắt ở thật cao, cái mũi tròn
xoay thì lại như dính liền với miệng, thành thử từ mắt xuống mũi có một
khoảng trống bèn bẹt chẳng đâu vào đâu. Chung Linh dung mạo xinh đẹp như
thế, ngờ đâu phụ thân lại cực kỳ khó coi, cũng may nàng chỉ giống mẹ không
có chút nào giống cha.
Chung cốc chủ vốn dĩ mặt mày đăm đăm nhưng vừa mới gặp nương tử, lập
tức chuyển sang nhu hòa, khuôn mặt xấu xa cũng có vài phần dễ chịu, nói: –
Nhạc lão tam tính tình ngang ngược, ta cũng sợ y kinh động đến phu nhân,
nên không để cho y vào trong cốc. Chuyện nhỏ nhặt kia nàng đừng để tâm
làm gì.
Đoàn Dự hơi cảm thấy khác lạ: “Khi nãy phu nhân nghe thấy chồng đến bỗng
sợ đến tái người nhưng xem điệu bộ Chung cốc chủ thì y vừa yêu thương, vừa
kính trọng”.
Chung phu nhân nói: -sao lại là chuyện nhỏ nhặt được? Tiến Hỉ Nhi trung
thành chăm chỉ hầu hạ mình bao nhiêu năm nay, nay bị gã trư bằng cẩu hữu
kia giết chết, trong lòng ta thật đau đớn xiết bao.
Chung cốc chủ cười gượng: -Đúng, đúng lắm! Nàng thương xót kẻ ăn người
làm, quả là tốt bụng.
Chung phu nhân hỏi gã gia nhân: -Lai Phúc Nhi, rồi sau ra sao?
Lai Phúc Nhi đáp: -Tiến Hỉ Nhi bị y đánh ngã xuống vốn đâu đã chết. Tiểu
nhân vội vàng chào “Nhị lão gia, nhị lão gia, xin lão nhân gia đừng nóng nảy”.
Y liền cười hề hề rất là cao hứng. Tiểu nhân bèn đỡ Tiến Hỉ Nhi dậy, rồi dọn
một mâm rượu cho gã họ Nhạc kia ăn.
Y hỏi: “Chung … Chung … sao không ra tiếp ta?”. Tiểu nhân trả lời: “Lão gia
chúng tôi chưa biết nhị lão gia đại giá quang lâm, nếu không thì đã ra nghinh
tiếp rồi. Để tiểu nhân quay vào bẩm báo”.
Người đó gật đầu, thấy Tiến Hỉ Nhi khép na khép nép đứng bên cạnh hầu hạ,
liền hỏi: “Hồi nãy ta đánh ngươi một chưởng, trong bụng ngươi thể nào cũng
rủa thầm ta, có đúng không nào?”. Tiến Hỉ Nhi vội đáp: “Không, không, tiểu
nhân đâu dám thế! Vạn lần không dám!”.
Người đó nói: “Ngươi trong bụng nhất định bảo ta là một đại ác nhân, ác
không ai ác hơn, hà hà!”. Tiến Hỉ Nhi nói: “Không, không! Nhị lão gia là một
người rất tốt, không ác một tí nào”. Người kia dựng ngược lông mày quát:
“Ngươi bảo ta không ác chút nào ư?”.
Tiến Hỉ Nhi sợ đến toàn thân run rẩy, nói: “Ngài … nhị lão gia … không ác tí
nào, chẳng … hoàn toàn chẳng ác”. Người kia gầm lên một tiếng, đột nhiên
giơ tay ra vặn cổ Tiến Hỉ Nhi …”.
Y giọng vẫn còn run rẩy hiển nhiên chưa lại hồn. Chung phu nhân thở dài một
tiếng, vẫy tay nói: -Ngươi đã sợ hãi lắm rồi, thôi xuống nhà nghỉ ngơi đi.
Lai Phúc Nhi đáp lời: -Vâng, để tiểu nhân ra xem Nhạc lão tam xem có gây
thêm chuyện gì không.
Chung phu nhân nói: -Ta khuyên ngươi nên gọi hắn là Nhạc lão nhị cho xong.
Chung cốc chủ nói: -Hừ, tuy Nhạc lão tam hung ác thật nhưng ta lại không sợ,
nghĩ tình y vạn dặm xa xôi đến đây giúp một tay, cũng là nể mặt ta lắm, việc
giết Tiến Hỉ Nhi thôi cũng đừng tra hỏi làm gì.
Chung phu nhân lắc đầu: -Hai người chúng ta ăn yên ở lành nơi đây, trong
mười năm qua, ta chưa hề đặt chân ra khỏi cốc, phu quân cũng chưa vừa ý
hay sao? Việc gì còn tính chuyện đi mời “Tứ Đại Ác Nhân” đến để một phen
long trời lở đất? Bình thời … chàng nói với ta những lời ngon ngọt thật dễ
nghe, thực ra a! chàng có coi ta ra gì đâu.
Chung cốc chủ vội nói: -Ta … ta có làm gì mà bảo không coi nàng vào đâu? Ta
mời bốn người đó tới đây chẳng phải vì nàng hay sao!
Chung phu nhân hừ một tiếng nói: -Vì tôi ư? Thế thì cảm ơn ông. Nếu quả
thực vì tôi thì hãy ra bảo Tứ Đại Ác Nhân đi về đi.
Đoàn Dự ở bên kia vách nghe thế bụng lấy làm lạ lùng: “Gã Nhạc lão tam kia
chẳng duyên cớ gì ra tay giết người, thật ác không đâu bằng, không lẽ trên
đời này còn có ba người cũng hung ác như y hay sao?”.
Chỉ thấy Chung cốc chủ hầm hầm giận dữ đi qua đi lại trong phòng khách, thở
hổn hển nói: -Gã họ Đoàn kia làm nhục ta quá lắm, thù này không báo, Chung
Vạn Cừu này còn mặt mũi nào mà sống trong trời đất nữa?
Đoàn Dự nghĩ bụng: “Thì ra tên ngươi là Chung Vạn Cừu. Cái tên đó xem ra
không ổn. Người đời thường nói “Oan gia nên cởi không nên buộc”, nhớ một
mối thù cũng đã không hay, huống chi lại Vạn Cừu? Thảo nào mặt ngươi mới
dài thoòng như thế. Cứ như hình dung nhà ngươi, lấy được một người vợ như
hoa như ngọc thì quả là một đại hạnh trên đời, phải đổi tên thành Chung Vạn
Hạnh mới phải”.
Chung phu nhân nhướng mày lên, lạnh lùng đáp: -Thực ra ông trong lòng hận
tôi chứ đâu phải là hận người khác. Nếu quả như ông muốn gây chuyện với
người ta, sao không tự mình đến kiếm y, một quyền một cưới so cao thấp?
Nhờ người đến giúp, dẫu có thắng thì cũng đâu có vinh dự gì.
Gân xanh trên trán Chung Vạn Cừu cuồn cuộn nổi lên quát lớn: -Người ta binh
tôm tướng cá đông như thế, bà không biết hay sao? Ta muốn một chọi một y
không chịu gặp, còn làm thế nào được bây giờ.
Chung phu nhân cúi đầu không nói, nước mắt tuôn tràn rơi xuống vạt áo.
Chung Vạn Cừu vội nói: -Ta xin lỗi, ta xin lỗi. A Bảo, A Bảo, xin nàng đừng
giận, ta đúng ra không nên to tiếng với nàng như thế.
Chung phu nhân vẫn không nói gì, nước mắt càng thêm đầm đìa. Chung Vạn
Cừu vò đầu bứt tai, thật là quýnh quáng, chỉ biết luôn miệng: -A Bảo, nàng
đừng giận, ta nhất thời không tự chế được, thật đáng chết.
Chung phu nhân nói nhỏ: -Thì ra trong lòng ông chẳng bao giờ quên được
chuyện cũ, tôi có sống cũng thật là vô vị. Chi bằng ông một chưởng đánh chết
tôi đi, thế là kết thúc mọi chuyện, để trong bụng ông khỏi ấm ức. sau đó ông
ra ngoài kiếm một bà nào xinh đẹp làm vợ là xong.
Chung Vạn Cừu giơ bàn tay lên, vả luôn vào mặt mình hai cái, bốp bốp nói: -Ta
đáng chết! Ta đáng chết!
Đoàn Dự thấy bàn tay to như cái quạt của y đánh vào bộ mặt dài như ngựa,
trông thật hoạt kê, nhịn không nổi phải cười hộc lên một tiếng. Tiếng cười vừa
ra chàng biết ngay lần này mình gây họa còn lớn gấp mấy, chỉ mong Chung
Vạn Cừu không nghe thấy nào ngờ đã nghe y quát tháo: -Đứa nào đó?
Tiếp theo nghe bình một tiếng cửa phòng đã bị đá tung ra, ai đó đã bước vào.
Đoàn Dự chỉ thấy bị nắm cổ lôi ra, giáng một cái mạnh trên sàn nhà, mắt tối
sầm, bao nhiêu xương cốt tưởng như gãy hết.
Chung Vạn Cừu lại nắm cổ áo chàng kéo lên, quát hỏi: -Ngươi là ai? sao trốn ở
trong phòng phu nhân làm gì?
Y thấy chàng dung mạo thanh tú, trong lòng nổi cơn nghi ngờ, quay sang hỏi
Chung phu nhân: -A Bảo, nàng … nàng … lại … lại …
Chung phu nhân giận dỗi nói: -Cái gì mà lại với chẳng lại? Lại cái gì? Mau bỏ y
ra, y tới báo tin cho mình đó.
Chung Vạn Cừu hỏi: -Báo tin gì?
Y nhắc Đoàn Dự lên khỏi mặt đất, quát lớn: -Thằng thối tha này, ta xem ngươi
mặt trơ trán bóng, quyết không tốt lành gì. Ngươi lấp la lấp ló trốn trong
phòng phu nhân là sao? Khai mau, khai mau! Ngươi chỉ nói láo nửa câu, ta sẽ
đánh cho cái sọ ngươi nát như tương.
Y một quyền đấm xuống, nghe lách lách lách cách, chiếc bàn bằng gỗ lê đã
vạt đi một nửa. Đoàn Dự bị quật một cái vốn đã đau, lại bị y nhấc bổng lên
không sao vùng vẫy được, nghe giọng y xem chừng nghi mình có chuyện thậm
thụt gì với vợ y, trong lòng không còn sợ mà hóa giận, lớn tiếng đáp: -Ta họ
Đoàn, ngươi muốn giết thì mau mau ra tay. Không biết gì thì đừng có nói bậy
nói bạ.
Chung Vạn Cừu giơ tay lên, hầm hầm nói: -Tên tiểu tử này cũng lại họ Đoàn
ư? Lại cũng họ Đoàn nữa, lại … lại cũng họ Đoàn nữa.
Nói đến câu sau, giọng phẫn nộ của y biến thành thê thảm, đôi mắt tròn xoe
ứa nước mắt ra. Đoàn Dự bỗng nổi lòng thương xót đại hán này, dường như y
biết tài mạo mình không xứng với vợ cho nên chuyện gì cũng dễ ghen tuông,
thực ra y đáng thương biết bao. Chàng quên rằng mạng mình đang ở trong
tay người, cất tiếng an ủi: -Tôi họ Đoàn, trước đây chưa từng gặp mặt phu
nhân, cốc chủ chớ có nghi ngờ cho khổ vào thân.
Chung Vạn Cừu mặt lộ vẻ vui mừng, nghẹn ngào nói: -Thật thế sao? Ngươi
trước nay chưa hề … chưa hề gặp A Bảo ư?
Đoàn Dự nói: -Tôi đến đây chỉ chưa đầy nửa giờ.
Chung Vạn Cừu ngoác mồm cười hề hề mấy tiếng nói: -Đúng lắm, đúng lắm! A
Bảo mười năm nay chưa ra khỏi cốc, mười năm trước ngươi chỉ mới chín mười
tuổi, không thể nào … không thể nào … không thể nào …
Thế nhưng y vẫn xách Đoàn Dự lên chưa thả xuống. Chung phu nhân mặt đỏ
lên, nói: -Mau thả Đoàn công tử ra!
Chung Vạn Cừu vội đáp: -Vâng! Vâng!
Y nhẹ nhàng để Đoàn Dự xuống, đột nhiên mặt lại lộ vẻ ngờ vực, hỏi: -Đoàn
công tử? Đoàn công tử? Thế … thế cha ngươi là ai?
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu ta còn nói láo chẳng hóa ra mình quả có tà ý hay
sao?”. Chàng ngang nhiên đáp: -Hồi nãy tôi không nói thật với Chung phu
nhân, thực ra chẳng có gì phải giấu diếm. Tôi tên Đoàn Dự, tự Hòa Dự, chính
người Đại Lý. Cha tôi tên trên Chính dưới Thuần.
Chung Vạn Cừu thoạt đầu chưa nghĩ ra trên Chính dưới Thuần là gì, Chung
phu nhân đã run run hỏi lại: -Cha ngươi là … là Đoàn … Đoàn Chính Thuần ư?
Đoàn Dự gật đầu: -Đúng thế!
Chung Vạn Cừu gào lên: -Đoàn Chính Thuần!
Ba tiếng đó y hét lên long trời lở đất, đột nhiên mặt đỏ bừng, toàn thân run
lên bần bật: -Ngươi là … ngươi là con thằng cẩu tặc Đoàn Chính Thuần đấy
sao?
Đoàn Dự giận quá, quát lại: -sao ngươi dám lớn mật chửi mắng cha ta?
Chung Vạn Cừu bực bội nói: -Có gì mà không dám? Đoàn Chính Thuần, ngươi
là tên cẩu tặc, là đồ khốn nạn.
Đoàn Dự bấy giờ mới rõ, y viết ở ngoài cửa cốc: Ai họ Đoàn vào đây sẽ bị giết
không tha” chính là vì y cực kỳ căm hận cha mình, nên mới giận lây ra tất cả
những người họ Đoàn khác nên thản nhiên đáp: -Chung cốc chủ, nếu ông có
thù với cha tôi thì nên quang minh chính đại kết thúc mối hận này. Ông có giỏi
thì tới gặp tận mặt cha tôi mà chửi, còn chửi sau lưng thì đâu có gì là anh
hùng hảo hán? Cha tôi ở trong thành Đại Lý, ông muốn kiếm thật dễ như trở
bàn tay, việc gì mà phải để một tấm biển trước cửa nhà: Ai họ Đoàn vào đây
sẽ bị giết không tha” làm gì?
Chung Vạn Cừu mặt lúc xanh, lúc đỏ xem ra những gì Đoàn Dự nói ra câu nào
cũng trúng vào tim đen. Đôi mắt y trợn ngược lộ hung quang, xem chừng định
ra tay giết người, đứng sừng sững một hồi, đột nhiên đấm bình bình hai cái,
đánh vỡ tan hai chiếc ghế ngồi, giơ chân đá ra, trên vách liền vỡ một mảng
lớn, kêu lên: -Ta không sợ không đánh lại cha ngươi, ta … ta chỉ sợ … chỉ sợ
cha ngươi biết được … biết được A Bảo đang ở đây thôi …
Nói tới mấy câu đó thanh âm đã lẫn tiếng nức nở, hai tay ôm mặt, kêu lên: -Ta
là đứa nhát gan! Ta là đứa nhát gan!
Y cắm đầu cắm cổ chạy ra, chỉ nghe bình bành, loảng xoảng liên tiếp không
ngừng, hẳn là trên đường đụng phải các thứ kệ, bồn hoa, ghế đá. Đoàn Dự
ngạc nhiên hồi lâu nghĩ thầm: “Cha ta biết được phu nhân của ngươi ở đây thì
đã sao? Không lẽ đến đây giết bà ta chăng?”. Nghĩ lại lời mình nói ra quả có
nặng nề, khơi dậy mối đau lòng của Chung Vạn Cừu nên chàng cảm thấy ăn
năn, quay đầu lại thấy Chung phu nhân đang chăm chăm nhìn mình.
Hai người ánh mắt chạm nhau, Chung phu nhân lập tức quay đi chỗ khác, trên
khuôn mặt xanh xao kia ẩn ẩn hiện lên sắc hồng, một hồi sau, hạ giọng hỏi: –
Đoàn công tử, lệnh tôn mấy năm nay có được khỏe không? Mọi việc vẫn trôi
chảy chứ?
Đoàn Dự thấy bà ta hỏi thăm cha mình, vội vàng đứng lên, cung kính đáp: –
Gia nghiêm lúc này vẫn khỏe, mọi việc đều bình thường.
Chung phu nhân nói: -Thế thì hay lắm. Ta … ta cũng …
Đoàn Dự thấy hàng lông mi dài của bà rưng rưng mấy giọt nước mắt, nói chưa
dứt lời đã quay đi, giơ tay chùi lệ, trong lòng không khỏi thương cảm, an ủi bà
ta: -Chung cốc chủ tuy tính tình nóng nảy, đối với bá mẫu kính yêu biết mấy.
Hai vị hôn nhân mỹ mãn, nếu có đôi khi lỡ lời thất hòa, bá mẫu cũng đừng
phải đau lòng.
Chung phu nhân quay đầu lại, miệng mỉm cười nói: -Cậu mới bấy nhiêu tuổi
đầu, biết thế nào là nhân duyên mỹ mãn hay không mỹ mãn.
Đoàn Dự thấy nụ cười của bà xem ra có chiều ngây thơ, trong lòng chợt động,
lập tức nghĩ đến Chung Linh, mắt liền quay qua nhìn đôi giày hoa của nàng
trên ghế, nghĩ thầm: “Chung cô nương bị gã râu dê kia bắt giữ, một giờ một
khắc cũng đau đớn biết bao, phải mau mau cứu nàng ra mới được”. Chàng
bèn nói: -Vãn sinh mới rồi ngôn ngữ vô lễ, xin bá mẫu chuyển lời tạ tội đến cốc
chủ, xin cốc chủ sớm lên đường đi cứu lệnh ái.
Chung phu nhân đáp: -Ngoại tử hiện đang bận tiếp những bằng hữu từ xa tới
đây, thật khó có thể phân thân được. Công tử đã nghe qua rồi, những người
khách đó tính tình cổ quái, ra tay không nói năng gì đã giết người, nếu như đối
đãi với họ lễ số không chu toàn, không khỏi hậu hoạn vô cùng. Ôi! Sự đã đến
nước này, ta đi theo công tử vậy.
Đoàn Dự mừng rỡ nói: -Bá mẫu đích thân ra đi, thật tốt biết mấy.
Chàng nhớ lại lời của Chung Linh nên hỏi thêm: -Bá mẫu có trị được chất độc
của thiểm điện điêu chăng?
Chung phu nhân lắc đầu nói: -Ta không trị được.
Đoàn Dự phân vân nói: -Thế thì … e rằng …
Chung phu nhân quay vào phòng ngủ, lật đật viết một lá thư, vừa xong liền lấy
trên tường xuống một thanh trường kiếm đeo vào lưng, quay trở lại sảnh
đường nói: -Thôi mình đi.
Bà ta xoay mình đi trước. Đoàn Dự thuận tay nhặt luôn đôi giày của Chung
Linh bỏ vào túi. Chung phu nhân lặng lẽ lắc đầu, định nói gì, nhưng lại thôi.
Hai người ra khỏi cái hang sau thân cây, Chung phu nhân liền gia tăng cước
bộ, nếu chỉ thấy thân hình mảnh dẻ của bà ta không ai dám bảo rằng bà ta
chạy nhanh hơn Đoàn Dự nhiều. Đoàn Dự vẫn không yên tâm, nói: -Bá mẫu
nếu không biết trị chất độc của con chồn, e rằng Thần Nông Bang không chịu
thả lệnh ái ra đâu.
Chung phu nhân thản nhiên nói: -Ai cần chúng phải thả người? Thần Nông
Bang dám bắt giữ con gái ta để uy hiếp chẳng phải không muốn sống hay
sao? Ta không cứu người được, chẳng lẽ cũng không biết giết người?
Đoàn Dự không khỏi nổi da gà, nghe bà ta nói thản nhiên như không, tưởng
như chỉ giết loài cây loài cỏ thật nào có kém gì gã Nhạc lão tam hung thần ác
sát kia. Chung phu nhân hỏi lại: -Cha cậu có tất cả bao nhiêu thị thiếp?
Đoàn Dự đáp: -Chẳng có ai cả, một người cũng không. Mẹ cháu không chịu.
Chung phu nhân hỏi thêm: -Cha cậu sợ mẹ cậu lắm sao?
Đoàn Dự cười nói: -Cũng chẳng phải sợ, có lẽ là vì yêu mà đâm ra kính, cũng
như cốc chủ đối với bá mẫu vậy thôi.
Chung phu nhân nói: -Ồ, thế cha cậu hàng ngày có luyện võ không? Bao nhiêu
năm nay, công lực chắc tiến triển rất nhiều rồi?
Đoàn Dự đáp: -Cha cháu mỗi ngày đều luyện công nhưng công lực đến đâu
thật cháu không biết tí gì.
Chung phu nhân nói: -Nếu công phu ông ta không kém sút, ta … ta cũng yên
lòng. sao cậu không biết chút võ công nào là sao?
Hai người vừa đi vừa nói chuyện đã đi hơn một dặm, Đoàn Dự đang định trả
lời bỗng nghe đằng sau có tiếng người gầm gừ gọi tới: -A Bảo, nàng … nàng
đi đâu đó?
Đoàn Dự quay đầu lại chỉ thấy Chung Vạn Cừu từ sau gốc cây đang đuổi tới
như bay. Chung phu nhân giơ tay đỡ vào nách Đoàn Dự, quát lớn: -Chạy cho
nhanh.
Bà ta nhấc chàng lên lao vụt về phía trước. Đoàn Dự hai chân rời khỏi mặt đất,
bị Chung phu nhân lôi đi không sao cưỡng lại được. Hai người chạy trước, một
người đuổi theo ba người chỉ giây lát đã chạy được mấy chục trượng. Chung
phu nhân khinh công tuy không kém trượng phu nhưng vì phải đỡ thêm một
người thành thử Chung Vạn Cừu dần dần đuổi kịp. Lại chạy thêm vài chục
trượng nữa, Đoàn Dự xem chừng hơi thở gấp rút của Chung Vạn Cừu đã ở
ngay sau lưng. Đột nhiên soẹt một tiếng, chàng thấy lưng lạnh toát, áo đã bị
Chung Vạn Cừu xé toạc một mảng.
Chung phu nhân tay trái vận kình ném Đoàn Dự ra xa hơn trượng, quát lên: –
Chạy mau!
Tay phải rút phắt trường kiếm đâm ngược về sau. Cứ như võ công của Chung
Vạn Cừu, nhát kiếm đó không thể nào trúng y được, huống chi Chung phu
nhân hoàn toàn không có ý đả thương trượng phu, chỉ cốt ngăn y khỏi đuổi
tới. Ngờ đâu bà ta đâm ra, thấy mũi kiếm chạm phải vật gì ngăn lại đã đâm
trúng ngay ngực chồng.
Thì ra Chung Vạn Cừu không né tránh cũng không đỡ gạt, lại ưỡn ngực tới để
nhận nhát kiếm. Chung phu nhân giật mình kinh hãi, quay đầu lại, thấy chồng
sắc mặt thê thảm, nước mắt rưng rưng, trên ngực trúng kiếm máu chảy túa
ra, giọng run run nói: -A Bảo, nàng … rồi cũng bỏ ta mà đi sao?
Chung phu nhân thấy nhát kiếm đó ngay chính giữa ngực, tuy không trúng
tim, nhưng mũi kiếm đâm vào mấy tấc, sống chết không biết ra sao, trong cơn
khẩn cấp vội vàng rút kiếm ra, nhào tới giơ tay chặn vết thương lại, chỉ thấy
máu chảy như suối, theo kẽ ngón tay mà cuồn cuộn ra ngoài.
Chung phu nhân giận dữ nói: -Tôi nào có định giết ông, sao không tránh né?
Chung Vạn Cừu gượng cười đáp: -Nàng … nàng … muốn bỏ ta mà đi, ta … ta
chết cho xong.
Nói xong liên tiếp ho sù sụ. Chung phu nhân nói: -Ai bảo tôi bỏ ông mà đi? Tôi
ra ngoài đi cứu con gái chúng mình, vài ngày sẽ quay lại, trên giấy đã viết rõ
như thế đấy thôi?
Chung cốc chủ nói: -Tôi có thấy tờ giấy nào đâu.
Chung phu nhân nói: -Ôi, sao ông đểnh đoảng thế.
Bà ta vội vàng nói sơ qua việc Chung Linh bị Thần Nông Bang bắt giữ. Đoàn
Dự thấy tình cảnh đó, sợ đến mất vía, cố gắng định thần, xé áo ra, lật đật đến
băng bó cho Chung Vạn Cừu. Chung Vạn Cừu bỗng nhiên giơ chân đá phốc
một cái khiến chàng lăn chòng chọc, quát lớn: -Thằng chó đẻ, tao không muốn
thấy cái mặt mày.
Y quay lại nói với Chung phu nhân: -Bà lừa tôi, tôi không tin. Rõ ràng là nó …
nó đến gọi bà đi. Thằng khốn kiếp này là con nó … Nó lại còn mở miệng chửi
tôi …
Nói xong y lại ho khúc khắc, mỗi lần ho máu trên ngực lại tuôn ra xối xả. Y
quay sang Đoàn Dự: -Giỏi thì lên đây. Ta bị thương nhưng cũng không sợ Nhất
Dương Chỉ của ngươi đâu! Cứ tiến lên động thủ.
Đoàn Dự bị ngã đập vào một hòn đá, lồm cồm đứng lên, một bên mặt đầy
máu nói: -Tôi không biết sử dụng Nhất Dương Chỉ mà dẫu có biết, tôi cũng
không đánh nhau với ông.
Chung Vạn Cừu lại ho thêm mấy tiếng, giận dữ nói: -Thằng chó đẻ, ngươi còn
giả vờ nữa sao? Ngươi … ngươi đi gọi thằng bố mày tới đây.
Y nổi giận càng ho như xé phổi. Chung phu nhân nói: -Cái bệnh ghen của ông
sao không sao đổi được. Nếu ông không tin được y, thôi để tôi chết trước mặt
ông cho xong.
Chung Vạn Cừu nghe nói thế vẻ mặt liền vui mừng, run run hỏi: -A Bảo, có
thật nàng không đi theo tên tiểu tạp chủng này chứ?
Chung phu nhân giận dữ nói: -Người ta rõ ràng là một công tử họ Đoàn, cái gì
mà tiểu tạp chủng, lão tạp chủng là sao? Tôi đi theo Đoàn công tử là để giết
sạch Thần Nông Bang, cứu đứa con gái cưng của mình về.
Chung Vạn Cừu thấy vợ không tính chuyện bỏ mình, trong lòng vui mừng
không sao kể xiết, nhìn nàng hờn dỗi lại càng thương hơn, vội cười: -Nếu đã
thế thì ta quả không ra gì. Chẳng qua … chẳng qua, sao ta đuổi theo nàng lại
không đứng lại nói cho ba mặt một nhời.
Chung phu nhân mặt hơi đỏ lên nói: -Tôi không muốn ông gặp lại Đoàn công
tử.
Chung Vạn Cừu đột nhiên lại nổi nghi ngờ, hỏi dồn: -Thằng tiểu … à Đoàn
công tử, không phải là con bà đấy chứ?
Chung phu nhân vừa thẹn vừa giận, hứ một cái nói: -Ông nói lăng nói nhăng
gì đó? Lúc thì nghi y là tình lang của tôi, lúc lại nghi y là con tôi. Nói thực cho
ông hay, y là cha tôi, là bố vợ ông đó.
Chung Vạn Cừu ngơ ngẩn nhưng hiểu ngay ra là vợ mình nói đùa, ôm bụng
cười ngặt nghẽo. Y cười khiến cho máu ở vết thương lại túa ra, Chung phu
nhân sụt sùi nói: -Làm … làm sao bây giờ đây?
Chung Vạn Cừu vui sướng, đưa tay ra ôm lưng vợ nói: -A Bảo, nàng quan tâm
đến ta như thế, dẫu có chết ngay ta cũng cam lòng.
Chung phu nhân hai má đỏ hồng, nhẹ nhàng đẩy y ra nói: -Có Đoàn công tử ở
đây, ông đừng có điên điên rồ rồ như thế.
Chung Vạn Cừu vẫn cười hà hà, cực kỳ hoan hỉ, cười mấy tiếng lại ho mấy
tiếng. Chung phu nhân thấy trượng phu thần tình ủ rũ, sắc mặt nhợt nhạt nên
thật lo lắng nói: -Thôi tôi không đi cứu Chung Linh nữa, tự nó gây chuyện, thôi
đành phó thác cho trời.
Bà ta đỡ chồng lên, quay sang nói với Đoàn Dự: -Đoàn công tử, cậu đi nói với
Tư Không Huyền chồng ta là kẻ năm xưa tung hoành giang hồ Mã Vương
Thần Chung Vạn Cừu, còn ta là Cam Bảo Bảo, có cái ngoại hiệu chẳng dễ
nghe chút nào là Tiếu Dược Xoa, nếu y dám động đến một sợi tóc Chung Linh
thì đừng trách vợ chồng ta ra tay độc ác vô tình.
Bà ta nói câu nào Chung Vạn Cừu cũng gật gù: -Đúng thế, không sai.
Đoàn Dự thấy tình hình như thế biết rằng Chung Vạn Cừu không thể nào đi
được mà cả Chung phu nhân cũng chẳng thể bỏ mặc trượng phu để cứu con,
chỉ với hai cái tên Mã Vương Thần Chung Vạn Cừu và Tiếu Dược Xoa Cam Bảo
Bảo liệu có đủ làm cho Tư Không Huyền khiếp sợ hay không, quả không sao
biết được. Xem ra chất độc đoạn trường tán trong bụng mình thật không có
cách gì giải cứu. Chàng nghĩ thầm: “Sự tình đã đến nước này, có nói nhiều
cũng vô ích”. Chàng bèn nói: -Vâng, vậy để vãn sinh đi chuyển lại những lời
đó.
Chung phu nhân thấy chàng nói là làm, lập tức bỏ đi, hành sự quả thật tiêu sái
không chấp trước khiến bà nhớ đến người xưa kêu lên: -Đoàn công tử, ta còn
một câu nữa.
Bà nhẹ nhàng bỏ Chung Vạn Cừu xuống, chạy đến bên cạnh Đoàn Dự, lấy
trong túi ra một vật nhét vào tay chàng nói nhỏ: -Cậu đem vật này về giao lại
cho cha cậu, nhờ ông ta ra tay cứu con chúng ta.
Đoàn Dự đáp: -Nếu như cha cháu chịu ra tay, thể nào cũng cứu được Chung
cô nương. Chỉ có điều ở đây với Đại Lý chẳng phải gần, e rằng không kịp.
Chung phu nhân nói: -Để ta đi mượn cho cậu một con ngựa, cậu chờ nơi đây.
Đừng quên nói với cha cậu rằng: “Xin ông ta ra tay cứu con chúng ta”.
Bà không đợi Đoàn Dự đáp lời, quay mình chạy lại bên trượng phu, đỡ y dậy,
dìu nhau đi. Đoàn Dự mở tay ra, thấy Chung phu nhân nhét vào tay mình là
một cái hộp trang sức nhỏ bằng vàng, điêu khắc rất tinh mỹ, mở ra xem thấy
bên trong có một mảnh giấy, sắc đã úa vàng, hiển nhiên đã cũ lắm rồi. Mảnh
giấy có lấm tấm điểm mấy giọt máu, trên viết mười chữ: “Canh Thân Niên, Nhị
Nguyệt, Sơ Ngũ, Sửu Thời, Nữ” nét bút mềm mại dường như do tay đàn bà,
thư pháp xem chừng vụng về lắm, ngoài ra không còn gì khác. Đoàn Dự nghĩ
thầm: “Đây là ngày sinh tháng đẻ của ai đây? Chung phu nhân nói ta đem về
đưa cho gia gia, không hiểu có dụng ý gì? Năm Canh Thân …” Chàng bấm đốt
ngón tay tính toán thì ra là mười sáu năm trước”… không lẽ lại là niên canh
bát tự của Chung cô nương? Hay là Chung phu nhân muốn gả con gái cho ta
nên nhờ cha ta đi cứu con dâu mình?”.
Chàng còn đang trầm ngâm, bỗng nghe tiếng một người đàn ông gọi: -Đoàn
công tử!


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.