THIÊN LONG BÁT BỘ

18. Hồ Hán ân cừu tu khuynh anh hùng lệ



Ai chia kẻ Hán người Hồ,
Bên Nam bên Bắc oán thù triền miên.
Anh hùng gặp cảnh đảo điên,
Nuốt cay ngậm đắng biết nghiêng bên nào?
¤
Hai người nhắm đường chạy về phía thành Vô Tích. Đi được vài dặm, bỗng
thấy nơi cây tùng bên vệ đường có một xác người treo lủng lẳng nhìn phục sắc
thì là một võ sĩ Tây Hạ. Đi thêm mấy trượng nữa, nơi sườn đồi lại thấy hai võ sĩ
Tây Hạ nằm còng queo, vết thương trên người máu còn chưa khô xem ra chết
cũng chưa lâu. Đoàn Dự nói: -Bọn Tây Hạ gặp phải kẻ đối đầu rồi. Vương cô
nương, cô thử nghĩ xem ai đã giết họ?
Vương Ngữ Yên đáp: -Người này võ công cực kỳ cao cường, giơ tay là giết
được người không tốn hơi sức gì, quả thật ghê gớm. Ồ, đằng kia có ai tới kìa?
Chỉ thấy trên đường lớn hai người cưỡi ngựa song song chạy đến, trên lưng
một người áo đỏ, một người áo xanh chính là hai nàng Châu Bích. Đoàn Dự
mừng quá kêu to: -A Châu cô nương, A Bích cô nương, các cô thoát hiểm rồi
ư? Hay lắm! Hay thật là hay.
Bốn người liền cùng giục ngựa chạy đi, ai nấy vui không để đâu cho hết. A
Châu nói: -Vương cô nương, Đoàn công tử, sao hai vị lại quay trở lại làm gì?
Tiểu nữ và A Bích muội tử đang định đi tìm hai người đây.
Đoàn Dự đáp: -Chúng tôi cũng đang định đi tìm hai cô đây.
Chàng vừa nói vừa liếc Vương Ngữ Yên để dọ ý xem nàng có chịu để cho gộp
chung thành “chúng tôi” thì quả thật là vinh dự. Vương Ngữ Yên hỏi: -Các
ngươi làm sao mà thoát thân được? Đã ngửi cái bình thuốc thối chưa?
A Châu cười nói: -Quả thực thối đến chết người, cô nương cũng phải ngửi rồi
phải không? Cũng do Kiều bang chủ cứu hay sao?
Vương Ngữ Yên đáp: -Không phải. Đoàn công tử cứu ta đó. Các ngươi được
Kiều bang chủ cứu hay sao?
Đoàn Dự nghe nàng chính miệng nói ra “Đoàn công tử cứu ta đó” sung sướng
như bay bổng tận mây xanh, đầu óc choáng váng tưởng chừng như muốn rơi
khỏi lưng ngựa. A Châu nói: -Đúng thế! Tiểu nữ và A Bích trúng độc rồi, mơ
mơ màng màng không sao cử động được, cùng với cả bọn người trong Cái
Bang bị bọn man tử Tây Hạ trói lại, vứt lên yên ngựa. Đi được một quãng, trời
đổ mưa rào, cả bọn liền phải tản ra, chia nhau tìm chỗ trú mưa. Tiểu nữ và A
Bích bị mấy tên Tây Hạ dẫn vào đụt tại một tòa lương đình, đến lúc tạnh mưa
mới ra đi. Vừa ngay lúc đó, đằng sau có người cưỡi ngựa chạy đến, chính là
Kiều bang chủ. Ông ta thấy chúng tôi bị bọn Tây Hạ bắt giữ, rất là ngạc nhiên,
chưa kịp mở mồm hỏi chúng tôi đã kêu lên: “Kiều bang chủ, cứu tôi với!”. Bọn
võ sĩ Tây Hạ nghe thấy ba tiếng “Kiều bang chủ”, lập tức rút binh khí ra vây
đánh ông ta. Kết quả là có đứa thì bị treo lên cây tùng, có đứa chết nơi sườn
núi, có kẻ lại lọt xuống sông.
Vương Ngữ Yên cười nói: -Đó là chuyện mới xảy ra, phải không?
A Châu đáp: -Đúng thế! Tiểu nữ nói: “Kiều bang chủ, chị em chúng tôi bị
trúng độc, phiền ông một chút, tìm trên người bọn man tử Tây Hạ xem có giải
dược không?’. Kiều bang chủ lục nơi người một võ sĩ Tây Hạ tìm được chiếc
bình nhỏ, thơm hay thối thì chẳng cần nói cũng biết.
Vương Ngữ Yên hỏi thêm: -Thế Kiều bang chủ đâu?
A Châu đáp: -Ông ta nghe nói mọi người trong Cái Bang đều trúng độc bị bắt
cả rồi nói là muốn đi cứu bọn họ, lật đật đi ngay. Ông ta cũng hỏi thăm Đoàn
công tử xem ra rất là lo lắng.
Đoàn Dự thở dài: -Vị bả huynh của tôi quả là nghĩa khí thâm trọng biết chừng
nào.
A Châu nói: -Người của Cái Bang chẳng biết hay dở, một vị bang chủ tài giỏi
như thế mà đem đuổi đi, bây giờ mình làm mình chịu, thật là đáng kiếp. Tôi
thấy là vị bả huynh đó tình nghĩa mặn nồng, thà để người phụ mình chứ nhất
định không chịu phụ người.
A Bích nói: -Vương cô nương, bây giờ chúng mình đi đâu?
Vương Ngữ Yên đáp: -Ta và Đoàn công tử đã bàn nhau phải đi cứu hai đứa
ngươi trước. Bây giờ cả bốn người mình bình an cả rồi, thật là hay không đâu
cho hết. Chuyện của Cái Bang không liên can gì đến mình, cứ như ý ta, chúng
ta đến chùa Thiếu Lâm tìm công tử các ngươi là hơn cả.
Chu Bích hai nàng quan tâm nhất chính là Mộ Dung công tử, nghe nàng nói
thế đều vỗ tay reo lên. Đoàn Dự trong lòng chua xót nhưng cũng phải ra vẻ
thản nhiên nói: -Vị công tử của các cô, tôi vẫn có bụng kính phục lắm, mong
được gặp một lần. Hiện nay không có việc gì làm, tôi đi theo các cô đến chùa
Thiếu Lâm một chuyến cũng hay.
Bốn người quay đầu ngựa đi về hướng bắc. Vương Ngữ Yên và hai nàng Châu
Bích nói cười vui vẻ, đem chuyện gặp nguy hiểm thế nào ở nhà máy xay lúa,
Đoàn Dự nghinh địch ra sao, võ sĩ Tây Hạ Lý Diên Tông tha mạng lại cho thuốc
giải tất cả kể lại rành mạch rõ ràng, khiến cho A Châu, A Bích hai nàng cực kỳ
kinh ngạc.
Ba cô gái mỗi khi đến đoạn nào vui lại cười khúc khích, thỉnh thoảng lại quay
đầu nhìn Đoàn Dự, lấy tay áo che miệng nhưng không dám cười một cách lộ
liễu. Đoàn Dự biết các cô đang bàn tán với nhau về chuyện ngốc nghếch của
mình nhưng tự nghĩ mặc dầu mình lộ đủ mọi thứ vụng dại nhưng cuối cùng
cũng bảo vệ được Vương cô nương chu toàn nên vừa thấy sượng sùng nhưng
cũng lại đầy tự hào. Chàng lại thấy ba cô gái thân mật tíu tít bỏ mặc mình
không lý gì đến, bây giờ đã vậy, đến khi gặp được Mộ Dung công tử rồi thì
chàng quả không có đất dung thân. Mộ Dung Phục chắc cũng như Bao Bất
Đồng, không nể nang gì đuổi cổ mình đi, càng nghĩ chàng càng thấy ê chề.
Đi được mấy dặm, qua khỏi một khu vườn dâu thật lớn, bỗng nghe ở bìa rừng
có tiếng hai thiếu niên đang khóc. Bốn người giục ngựa chạy lên thấy đó là hai
chú tiểu tuổi chừng mười bốn, mười lăm, trên tăng bào lấm tấm những máu,
một trong hai người còn bị thương nơi trán. A Bích dịu dàng hỏi: -Này các tiểu
sư phụ, ai hiếp đáp các chú đó? sao lại bị thương?
Chú tiểu không bị thương vừa khóc vừa trả lời: -Có vô số ác nhân phiên bang
đến chùa giết chết thầy chúng tôi rồi đuổi hai đứa chúng tôi ra ngoài.
Bốn người nghe thấy nói đến “ác nhân phiên bang” liền đưa mắt nhìn nhau
cùng nghĩ: “Hay là bọn Tây Hạ chăng?”. A Châu hỏi thêm: -Thế chùa của các
chú ở nơi nào? Bọn kẻ ác phiên bang là bọn nào thế?
Chú tiểu đáp: -Chúng tôi ở chùa Thiên Ninh, ở phía bên kia …
Vừa nói y vừa chỉ về phía đông bắc: -Bọn người phiên kia bắt đâu khoảng hơn
một trăm ăn mày đi đến chùa trú mưa, đòi rượu đòi thịt, lại định giết gà giết
bò. Sư phụ bảo là “tội lắm” không chịu cho chúng giết bò ở trong chùa, bọn
chúng liền bắt cả sư phụ lẫn hơn một chục sư huynh giết sạch, hu hu, hu hu.
A Châu hỏi tiếp: -Thế bọn chúng đã đi chưa?
Chú tiểu chỉ về phía làn khói đang lững lờ bay lên sau khu rừng dâu nói: –
Chúng nó đang nấu thịt bò kìa, thật là tội lắm, xin bồ tát phù hộ bắt bọn phiên
nhân kia bỏ xuống a tì địa ngục.
A Châu nói: -Thôi hai chú chạy cho xa chứ nếu như bọn người phiên bắt được,
không chừng chúng nó mổ ra ăn thịt đó.
Hai chú tiểu nghe nói thế kinh hãi, lật đật bỏ chạy ngay. Đoàn Dự thấy vậy
không vui nói: -Hái chú đó đã vào nước cùng không còn biết đi đâu, sao A
Châu tỉ tỉ lại còn dọa họ làm gì?
A Châu cười nói: -Có phải dọa đâu, tôi nói thực đấy chứ.
A Bích nói: -Nếu như người trong Cái Bang đang bị nhốt trong chủa Thiên
Ninh, Kiều bang chủ lại chạy về thành Vô Tích thì đúng là không nên cơm cháo
gì.
A Châu đột nhiên nghĩ ra một kế thật lạ liền nói: -Vương cô nương, tôi muốn
cải trang làm Kiều bang chủ trà trộn vào trong chùa, đem chiếc bình thuốc
thối kia cho bọn ăn mày ngửi, sau khi bọn chúng thoát hiểm rồi thể nào củng
cảm kích tấm lòng của Kiều bang chủ.
Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: -Kiều bang chủ thân thể cao to, là một hán tử
cực kỳ hùng tráng, làm sao ngươi hóa trang thành ông ta cho được.
A Châu cười nói: -Càng khó chừng nào thì càng biết tay A Châu này.
Vương Ngữ Yên cười: -Ngươi giả trang giống Kiều bang chủ chăng nữa nhưng
làm sao bắt chước được tuyệt thế thần công của ông ta. Trong chùa Thiên
Ninh đầy những cao thủ Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ, đâu có để cho ngươi
vào ra thong thả. Cứ như ý ta, giả làm một tên đầu bếp hay một bà già bán
rau trà trộn vào chùa còn dễ hơn.
A Châu nói: -Bảo tiểu nữ giả làm bà già bán rau thì có gì là thú. Thôi không đi
nữa là hơn.
Vương Ngữ Yên nhìn Đoàn Dự, mấp máy đôi môi muốn nói rồi lại thôi. Đoàn
Dự hỏi: -Cô nương định nói gì thế?
Vương Ngữ Yên đáp: -Tôi vốn định nhờ công tử hóa trang thành một người đi
cùng với A Châu đến Thiên Ninh Tự, nhưng nghĩ kỹ lại thấy không xong.
Đoàn Dự hỏi: -Cô muốn tôi giả trang thành ai vậy?
Vương Ngữ Yên nói: -Các anh hùng trong Cái Bang có bụng nghi ngờ rất
nặng, vu oan cho Kiều bang chủ cùng biểu ca tôi ngầm cấu kết với nhau giết
hại Mã phó bang chủ, nếu như … nếu như … biểu ca tôi cùng Kiều bang chủ
đến cứu họ ra khỏi chỗ nguy nan, bọn họ chắc không còn nghi tâm nữa.
Đoàn Dự trong lòng chua xót nói: -Cô nương muốn tôi giả làm biểu ca cô ư?
Vương Ngữ Yên bẽn lẽn nói: -Trong chùa Thiên Ninh kẻ địch quá mạnh, hai
người đến đó cực kỳ nguy hiểm, chi bằng không đi là hơn.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cô bảo tôi làm gì tôi cũng làm, dù phải tan xương nát
thịt cũng quyết chẳng từ nan”. Chàng đột nhiên nghĩ thêm: “Nếu như mình
hóa trang thành Mộ Dung Phục, không chừng lời ăn tiếng nói nàng sẽ đổi khác
ngay, nàng sẽ dịu dàng chiều chuộng mình trong giây lát thì cũng hay”. Chàng
nghĩ đến đó lập tức tinh thần phấn khởi hăng hái nói: -Thế có gì nguy hiểm
đâu? Cái gì chứ trò chạy cong đuôi là món sở trường của Đoàn Dự này.
Vương Ngữ Yên nói: -Tôi thấy không ổn là vì biểu ca tôi sát địch dễ như trở
bàn tay, xưa nay chưa bao giờ bỏ chạy cả.
Đoàn Dự nghe nói thế một làn hơi lạnh chạy dài từ đầu xuống chân, nghĩ
thầm: “Biểu ca cô là một đại anh hùng, đại hào kiệt, ta đâu có xứng đáng giả
làm y. Giả mạo mà để cho lộ cái xấu ra trước mặt mọi người thì có phải là làm
ô nhục thanh danh của y hay không?”.
A Bích thấy chàng buồn bã không vui liền lên tiếng an ủi: -Địch đông ta ít, tạm
thời thoái nhượng thì có gì không phải đâu? Chúng ta chỉ cốt cứu được người
chứ nào có phải tỉ võ để được dương danh.
Đôi mắt tinh anh của A Châu nhìn Đoàn Dự một lượt từ đầu đến chân như để
đánh giá xem thế nào, một lúc sau gật đầu nói: -Đoàn công tử, muốn cải trang
thành công tử chúng tôi quả không phải dễ. Cũng may là bọn Cái Bang xưa
nay chưa biết công tử chúng tôi thế nào, giọng nói vẻ mặt ra sao cũng chỉ biết
đại khái thôi.
Đoàn Dự nói: -Tài nghệ của cô ghê gớm lắm, giả làm Kiều bang chủ thật thích
hợp, nếu không Kiều bang chủ đối với người của Cái Bang sớm hôm gặp gỡ,
nếu có sơ hở là họ biết ngay.
A Châu mỉm cười nói: -Kiều bang chủ là một đấng trượng phu cao lớn vậy mà
tôi giả làm ông ta lại dễ dàng. Công tử chúng tôi tầm vóc không khác công tử
bao nhiêu, tuổi tác cũng chẳng hơn nhiều, cả hai đều là hạng con nhà gia thế,
ham học hành vậy mà Đoàn công tử phải bỏ bản lai diện mục của mình để
biến thành Mộ Dung công tử thì lại thật khó khăn.
Đoàn Dự thở dài: -Mộ Dung công tử là rồng phượng trong loài người, người
khác dễ gì bắt chước cho giống được? Theo tôi thì nếu cải trang không giống
cũng tốt, để đến khi cúp đuôi bỏ chạy cũng không tổn thương đến thanh danh
của Mộ Dung công tử.
Vương Ngữ Yên mặt hơi đỏ lên, nói khẽ: -Đoàn công tử, tôi lỡ lời anh có giận
tôi không?
Đoàn Dự vội đáp: -Không, không! Đâu có, tôi làm gì dám giận cô?
Vương Ngữ Yên mặt tươi cười nói: -A Châu tỉ tỉ, hai người đi đâu cải trang
đây?
A Châu đáp: -Chắc phải đến một tiểu thị trấn mới có thể mua được những thứ
cần dùng.
Bốn người quay ngựa chạy về hướng tây. Đi chừng bảy tám dặm đến một thị
trấn tên là Mã Lang Kiều. Thị trấn này thật nhỏ bé, không có khách điếm, A
Châu nghĩ ra một cách, thuê một chiếc thuyền neo tại giữa sông rồi sau đó đi
xuống phố mua vật dụng, quần áo đem lên cải trang ngay trên thuyền. Đất
Giang Nam đâu đâu cũng đầy sông rạch, thuyền bè nhiều vô kể chẳng khác gì
gia súc ở miền bắc.
Nàng bảo Đoàn Dự thay đổi y phục trước, để chàng mặc một chiếc áo dài màu
xanh, tay phải cầm quạt xếp, ngón tay trái đeo nhẫn. A Châu nói: -Công tử
chúng tôi đeo nhẫn ngọc đời Hán, ở đây mua ở đâu ra? Thôi đành dùng tạm
đá Thanh Điền nhập nhoạng, cũng được rồi.
Đoàn Dự chỉ đành gượng cười, bụng bảo dạ: “Mộ Dung Phục là thứ ngọc quí,
còn ta chỉ là hạng đá xoàng, trong lòng ba cô gái này thân phận hai người
cách nhau xa”. A Châu trét bột mì lên mặt chàng, nặn mũi cho cao lên, sửa
cho mặt hơi mập thêm một chút, lấy bút vẽ lông mày, khóe mắt, hóa trang
xong cười hỏi Vương Ngữ Yên: -Cô nương xem thử còn chỗ nào không giống
nữa chăng?
Vương Ngữ Yên không trả lời chỉ ngây ngất nhìn chàng, trong ánh mắt chứa
đầy tình ý, hiển nhiên hồn đang bay bổng, tâm thần miên man. Đoàn Dự thấy
ánh mắt mê mẩn của nàng cũng thấy lòng lâng lâng nhưng chợt nghĩ ra:
“Nàng nhìn đây là nhìn Mộ Dung Phục chứ nào có phải Đoàn Dự ta đâu?”.
Chàng lại nghĩ thêm: “Không biết gã Mộ Dung Phục này anh tuấn cỡ nào, làm
sao hơn ta gấp trăm lần, tiếc thay ta không thấy được mình bây giờ ra sao”.
Lòng chàng khi thì vui, khi thì đổi ra giận dữ.
Hai người nhìn nhau, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ không biết A Châu, A
Bích đã ra ngoài sau khoang cải trang từ hồi nào. Một hồi sau, bỗng nghe
giọng một người đàn ông ồm ồm nói: -A, thì ra ngươi ở đây, làm cho người anh
này đi kiếm ngươi muốn chết được.
Đoàn Dự thất kinh, quay đầu lại thấy người vừa nói chính là Kiều Phong,
không khỏi vui mừng kêu lên: -Đại ca đấy ư? Thế thì hay lắm. Bọn chúng tôi
đang định cải trang thành anh để đi cứu người, bây giờ anh lại đến đây, A
Châu tỉ tỉ không cần gì phải hóa trang nữa.
Kiều Phong nói: -Người của Cái Bang đã trục xuất ta ra khỏi bang rồi, bọn họ
chết sống gì, Kiều mỗ cũng mặc kệ không coi vào đâu. Hảo huynh đệ, đi mau,
anh em mình lên bờ đi kiếm rượu uống thi với nhau hai chục bát xem nào.
Đoàn Dự vội đáp: -Đại ca, người trong Cái Bang đều là bạn bè cũ của anh, anh
làm ơn cứu họ một lần.
Kiều Phong giận dữ đáp: -Thứ đồ gàn như ngươi biết gì? Thôi đi uống rượu với
ta nào!
Nói xong ông ta liền nắm tay Đoàn Dự. Đoàn Dự không biết làm sao chỉ đành
nói: -Thôi được, để tiểu đệ hầu rượu đại ca, uống xong rồi sẽ đi cứu người
cũng được.
Kiều Phong đột nhiên cười khanh khách, giọng trong trẻo uyển chuyển, một
đại hán cao to lại nghe tiếng cười như một thiếu nữ còn xuân, quả thực quái
lạ. Đoàn Dự ngạc nhiên, lập tức hiểu ra, cười nói: -A Châu tỉ tỉ, thuật cải trang
của tỉ tỉ quả là thần kỹ, đến cả cách ăn nói cũng y hệt không khác chút nào.
A Châu lại đổi qua giọng Kiều Phong nói: -Hảo huynh đệ, thôi mình đi, ngươi
nhớ mang theo cái bình thuốc thối nhé.
Nàng quay sang nói với Vương Ngữ Yên và A Bích: -Hai vị cô nương ở đây chờ
tiện hơn.
Nói xong dắt tay Đoàn Dự, hăng hái bước lên bờ. Không biết nàng đắp cái gì
lên tay mà một bàn tay nhỏ nhắn mềm mại lúc giơ ra lại đen sì, tuy không to
như bàn tay Kiều Phong nhưng người ngoài thoáng nhìn thật khó mà phân
biệt.
Vương Ngữ Yên nhìn theo bóng Đoàn Dự, trong bụng miên man nghĩ thầm:
“Nếu anh chàng là biểu ca thật thì hay biết mấy. Biểu ca, giờ phút này chàng
có nhớ đến thiếp hay không?”.
A Châu và Đoàn Dự cưỡi ngựa chạy đến cách chùa Thiên Ninh chừng năm
dặm, ngại rằng bọn võ sĩ Tây Hạ ở trong chùa có thể nghe được tiếng chân
ngựa, đem ngựa buộc vào một chuồng bò nơi nhà một nông gia, đi bộ tới.
A Châu nói: -Mộ Dung huynh đệ, đi đến chùa rồi, ta sẽ đại ngôn đàm luận,
phét lác dọa cho chúng một mẻ, ngươi thừa cơ dùng bình thuốc thối giải độc
cho bang chúng Cái Bang.
Nàng nói mấy câu đó gọng thô hào, nghe y hệt Kiều Phong. Đoàn Dự cười đáp
lời. Hai người hùng dũng tiến về phía Thiên Ninh Tự, thấy trước cửa chùa có
độ mươi võ sĩ Tây Hạ, tay cầm trường đao, mặt mày hung ác. A Châu và Đoàn
Dự vừa trông thấy chúng tim đập thình thình không khỏi hoảng sợ. A Châu nói
nhỏ: -Nếu có chuyện gì thì công tử dắt tôi chạy cho nhanh, nếu không bọn
chúng níu lại đòi tỉ võ thì thật khó mà đối phó.
Đoàn Dự đáp: -Được!
Thế nhưng chàng nói giọng run run, trong bụng quả là khiếp sợ. Hai người
còn đang thì thầm bàn tính, nhìn quanh quất thăm dò thì một tên võ sĩ đứng
ngoài cửa đã trông thấy, lớn tiếng quát: -Hai thằng chết tiệt kia, thập thò làm
gì thế? Các ngươi là gian tế chăng?
Tiếng quát chưa dứt đã có thêm bốn tên võ sĩ khác ùa ra. A Châu không còn
biết làm sao hơn, chỉ đành ưỡn ngực, hung hăng bước tới, cất giọng ồm ồm: –
Mau báo cho tướng quân nhà các ngươi hay là Kiều Phong của Cái Bang và Mộ
Dung Phục đất Giang Nam đến xin gặp Hách Liên đại tướng quân nước Tây
Hạ.
Gã võ sĩ đứng đầu nghe thế giật nảy mình, vội vàng vòng tay khom lưng nói: –
Thì ra là Kiều bang chủ của Cái Bang quang giáng, quả là thất lễ, tiểu nhân xin
vào bẩm báo.
Y lập tức quay vào trong chùa, những kẻ còn lại cung kính thõng tay đứng
hầu. Chẳng mấy chốc đã nghe tiếng tù và vang dội, cửa chùa mở toang,
đường chủ Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ là Hách Liên Thiết Thụ cùng bọn
Nỗ Nhi Hải các cao thủ, đi ra nghinh tiếp. Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc
Thần, Vân Trung Hạc cũng có mặt trong số đó.
Đoàn Dự hồi hộp tim đập thình thình, cúi đầu không dám nhìn thẳng vào bọn
họ. Hách Liên Thiết Thụ nói: -Đã ngưỡng mộ đại danh của Cô Tô Mộ Dung từ
lâu với môn “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, hôm nay được gặp cao hiền thực
quả là vinh hạnh.
Nói xong y vòng tay ôm quyền hướng về phía Đoàn Dự hành lễ. Y nghĩ bụng
Tây Hạ Nhất Phẩm Đường với Cái Bang nay đã thành thù nghịch nên không tỏ
vẻ gì nể nang Kiều Phong cả.
Đoàn Dự vội vàng hoàn lễ nói: -Uy danh Hách Liên tướng quân vang dậy ra
ngoài biên ải, tại hạ vốn đã mong có dịp gặp được các vị anh hùng hào kiệt
trong Nhất Phẩm Đường một phen, hôm nay đường đột đến đây, xin rộng lòng
tha thứ.
Nói mấy câu khách sáo kia đúng là chàng đã quen mồm như cháo chẩy nên
không có chút sơ hở nào. Hách Liên Thiết Thụ nói: -Vẫn thường nghe tiếng
trong võ lâm đồn rằng “Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung”, trong số anh kiệt của
Trung Nguyên hai vị là đứng đầu, hôm nay cùng giá lâm một lượt, quả là vinh
hạnh xiết bao! Xin mời!
Y tránh qua một bên nhường lối mời hai người vào trong đại điện. A Châu và
Đoàn Dự gượng làm ra vẻ thản nhiên đi song song với Hách Liên Thiết Thụ.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Cứ xem thần thái ngôn ngữ của gã tướng quân Tây Hạ
này, xem chừng y coi trọng Mộ Dung công tử hơn cả Kiều đại ca, không lẽ gã
Mộ Dung Phục kia nhân phẩm võ công còn trên đại ca ta một mức hay sao? Ta
xem ra thì đâu có thể như vậy được”.
Bỗng nghe tiếng một người thật quái lạ: -Không thể như thế được! Không thể
được!
Đoàn Dự giật mình, liếc qua xem ai vừa nói, chính là Nam Hải Ngạc Thần. Y
giương đôi mắt nhỏ như hạt đậu đánh giá Đoàn Dự, vừa nhìn vừa lắc đầu.
Đoàn Dự chột dạ, bụng bảo dạ: “Chết rồi! Chết thật rồi! Y nhận ra mình!”. Lại
nghe Nam Hải Ngạc Thần tiếp: -Xem thân thể ngươi chưa được ba lạng
xương, làm cái quái gì được? Này, ta hỏi ngươi. Nghe người ta nói ngươi biết
thuật “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, Nhạc lão nhị này đếch tin nổi.
Đoàn Dự bấy giờ mới thở phào nghĩ thầm: “Hóa ra y chưa nhận ra mình”. Nam
Hải Ngạc Thần nói: -Ta không cần ngươi phải ra tay, ta chỉ hỏi ngươi, ngươi có
biết Nhạc lão nhị này có môn gì đặc biệt không? Ngươi dùng cái công phu con
mẹ gì mà đối phó với ta để mà “gậy ông đập lưng ông” được?
Nói xong y đứng chống nạnh, vẻ mặt nhơn nhơn tự đắc. Hách Liên Thiết Thụ
đang toan lên tiếng chặn y lại nhưng lại nghĩ ngay, Mộ Dung Phục tên tuổi rất
lớn, danh với thực có đi đôi với nhau hay không, chi bằng để gã Nam Hải Ngạc
Thần điên điên khùng khùng này thử xem cho biết nên để yên không can
thiệp.
Trong khi nói chuyện thì cả bọn đã vào trong đại điện rồi, Hách Liên Thiết Thụ
mời Đoàn Dự ngồi ghế trên cùng nhưng Đoàn Dự nhường thủ vị đó cho A
Châu. Nam Hải Ngạc Thần lớn tiếng nói: -Này, Mộ Dung tiểu tử, ngươi nói thử
ta nghe nào, công phu đắc ý nhất của ta là gì thế?
Đoàn Dự mỉm cười nghĩ bụng: “Người nào hỏi ta thì ta không trả lời được chứ
còn như ngươi hỏi ta thì thật là gãi đúng chỗ ngứa”. Chàng bèn mở chiếc quạt
ra, phe phẩy mấy cái nói: -Nam Hải Ngạc Thần Nhạc Lão Tam, cái bản lãnh đắc
ý nhất của ngươi là lách cách một tiếng, vặn gãy cổ người ta. Mấy năm nay
công phu lại càng tiến bộ, bây giờ môn võ công tinh thục hơn cả là ngạc vĩ
tiên và ngạc chủy tiễn. Ta muốn đối phó với ngươi lẽ dĩ nhiên phải dùng roi
đuôi cá sấu và kéo hình hàm cá sấu chứ còn gì.
Chàng mở miệng nói ra hai cái tên ngạc vĩ tiên và ngạc chủy tiễn khiến cho
Nam Hải Ngạc Thần kinh ngạc đến há hốc mồm, đến ngay cả Diệp Nhị Nương
và Vân Trung Hạc cũng ngạc nhiên không kém. Hai món binh khí đó Nam Hải
Ngạc Thần mới luyện gần đây chưa từng thi triển với ai, chỉ cùng Vân Trung
Hạc động thủ một lần nơi đỉnh Vô Lượng Sơn, khi đó ngoài Mộc Uyển Thanh ra
không một ai trông thấy. Bọn họ có ngờ đâu Mộc Uyển Thanh đã kể hết đầu
đuôi cho anh chàng Mộ Dung công tử giả hiệu này nghe rồi.
Nam Hải Ngạc Thần nghiêng đầu quan sát Đoàn Dự thật kỹ. Y tuy rất hung ác
tàn nhẫn nhưng lại có bụng bội phục những người anh hùng hảo hán, ngắm
nghía một hồi giơ ngón tay cái lên nói: -Giỏi thật!
Đoàn Dự đáp: -Chẳng bõ cười!
Nam Hải Ngạc Thần nghĩ thầm: “Đến cả món binh khí ta mới luyện đây y cũng
nói ra được, những võ công khác còn phải hỏi làm gì. Tiếc thay lão đại không
có nơi đây, không thì sẽ một phen vặn hỏi y xem sao. À! Có rồi!”. Y bèn lớn
tiếng: -Mộ Dung công tử, ngươi biết võ công của ta thật chẳng có gì khó hiểu.
Thế nhưng nếu như sư phụ ta đến đây, võ công của ông ấy ngươi chẳng thể
nào biết được.
Đoàn Dự mỉm cười hỏi: -Sư phụ ngươi là ai thế? Ông ta có võ công gì đặc biệt?
Nam Hải Ngạc Thần dương dương đắc ý đáp: -Thụ nghiệp ân sư của ta thì qua
đời đã lâu, chẳng nói đến làm gì. Còn người thầy ta mới bái sư đây tài nghệ
thật ghê gớm lắm, chẳng phải ngoa, chỉ riêng một môn Lăng Ba Vi Bộ xem ra
trên đời này không người thứ hai nào biết được.
Đoàn Dự trầm ngâm đáp: -Lăng Ba Vi Bộ thì quả là một môn võ công cao siêu.
Nếu bảo là Đoàn công tử nước Đại Lý thu các hạ làm đồ đệ, ta thật chẳng tin
chút nào.
Nam Hải Ngạc Thần vội đáp: -Ta nói láo ngươi làm chi? Ở đây có bao nhiêu
người nghe thấy Đoàn công tử chính miệng gọi ta là đồ nhi mà!
Đoàn Dự trong bụng cười thầm: “Lúc đầu ngươi nhất định thà chết không chịu
lạy ta làm thầy, lúc này thì lại sợ ta không nhận là học trò”. Chàng bèn nói: -Ồ,
nếu như thế các hạ chắc đã học được tuyệt kỹ của sư phụ rồi? Chúc mừng!
Chúc mừng!
Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu quầy quậy nói: -Chưa có! Chưa có! Nhà ngươi tự
cho rằng võ công trong thiên hạ cái gì cũng biết, cái gì cũng rành, nếu đi được
ba bước Lăng Ba Vi Bộ thôi thì Nhạc lão nhị này mới thực là bội phục.
Đoàn Dự mỉm cười đáp: -Lăng Ba Vi Bộ tuy khó thật nhưng tại hạ cũng học
qua vài bước. Nhạc lão gia tử, ông thử chạy lại bắt tôi xem nào.
Nói rồi trường bào phất phới chàng đã lướt ra chính giữa đại điện. Quần hào
nước Tây Hạ trước nay chưa từng nghe nói đến Lăng Ba Vi Bộ, nay nghe Nam
Hải Ngạc Thần xưng tụng là một thần kỹ tuyệt luân, ai nấy đều háo hức muốn
xem ra thế nào, lập tức chia ra đứng chung quanh bốn góc để xem Đoàn Dự
biểu diễn.
Nam Hải Ngạc Thần gầm lên một tiếng thật ghê rợn, tay trái vươn ra, tay phải
xuyên qua bên dưới tả chưởng, chộp luôn vào Đoàn Dự. Đoàn Dự đạp xéo qua
hai bước, lui về sau nửa bước, thân hình nhẹ nhàng như gió lướt qua tàu lá
sen, khéo léo sao tránh được. Chỉ nghe bộp một tiếng, Nam Hải Ngạc Thần thu
chưởng về không kịp, năm ngón tay phải đã cắm vào cột trong đại điện, sâu
đến mấy tấc. Người đứng chung quanh thấy y công lực cao thâm như thế ai
nấy đều tái mặt. Nam Hải Ngạc Thần tấn công không trúng, lại rống lên lần
nữa, nhảy vọt tới, đem cả thân mình từ trên cao chộp xuống.
Đoàn Dự không thèm lý đến y, chỉ việc đạp theo phương vị bát quái, tiêu sái
lướt qua. Nam Hải Ngạc Thần càng tấn công nhanh hơn, tiếng rống mỗi lúc
một lớn chẳng khác gì một con mãnh thú. Đoàn Dự bỗng nhìn thấy khuôn mặt
khủng khiếp của y, trong lòng không khỏi sựng lại, vội vàng quay đầu đi, lấy
trong tay áo ra một chiếc khăn tay, buộc lên che mắt mình lại nói: -Nếu như ta
bịt mắt lại ngươi cũng không bắt được ta đâu.
Song chưởng của Nam Hải Ngạc Thần múa lên vù vù xông thẳng vào tấn công
Đoàn Dự nhưng vẫn cách thân chàng một chút. Người đứng xem ai nấy sợ
giùm, lòng bàn tay tươm mồ hôi lạnh. A Châu quan tâm đến Đoàn Dự nên
cũng rợn cả người, đột nhiên cất giọng ồm ồm quát lên: -Nam Hải Ngạc Thần,
ngươi thấy Lăng Ba Vi Bộ của Mộ Dung công tử so với sư phụ ngươi thì thế
nào?
Nam Hải Ngạc Thần ngạc nhiên, bao nhiêu khí lực trong người toát ra hết, lập
tức dừng lại nói: -Hay quá! Hay quá! Ngươi bịt mắt mà vẫn đi theo bộ pháp
quái dị kia được, e rằng đến sư phụ ta làm cũng không được. Gớm thật, Cô Tô
Mộ Dung quả thật danh bất hư truyền, Nam Hải Ngạc Thần này thực là bội
phục.
Đoàn Dự gỡ chiếc khăn che mắt ra, quay lại chỗ ngồi, trong đại tiếng tiếng
hoan hô vang lên như sấm rền. Hách Liên Thiết Thụ đợi hai người ngồi xuống
rồi mới cầm chén trà lên nói: -Mời dùng trà. Hai vị anh hùng quang lâm không
biết có chuyện gì muốn chỉ giáo?
A Châu đáp: -Tệ bang có mấy anh em không biết đắc tội chỗ nào, nghe nói
tướng quân sai các cao thủ dùng võ công thượng thừa bắt họ lại nơi đây. Tại
hạ mạo muội đến xin tướng quân tha cho họ.
Nàng nhấn mạnh mấy chữ “sai các cao thủ dùng võ công thượng thừa bắt họ
lại” để mỉa mai người Tây Hạ sử dụng chất độc hèn hạ thô bỉ bắt người. Hách
Liên Thiết Thụ mỉm cười nói: -Lời nói đó không sai. Mới rồi Mộ Dung công tử
đại hiển thân thủ, quả là không phải mang cái hư danh. Kiều bang chủ tên
tuổi đứng ngang với Mộ Dung công tử, vậy cũng xin lộ chút công phu cho xem
thử, để cho người Tây Hạ chúng tôi vui vẻ mà bội phục lúc đó sẽ thả các vị
anh hùng hảo hán của quí bang ra.
A Châu trong bụng hoang mang, nghĩ thầm: “Nếu như bảo ta giả mạo thân
thủ của Kiều bang chủ thì lập tức sẽ lòi đuôi ngay”. Nàng còn đang tìm cách
thoái thác, bỗng thấy chân tay mềm nhũn, tưởng như cử động một ngón tay
cũng không được, giống hệt như bị trúng độc tối hôm trước thật là kinh hãi:
“Chết rồi! Có ai ngờ đâu trong giờ phút này, bọn ác nhân Tây Hạ lại giở trò cũ
ra ám toán, không biết phải làm sao đây?”.
Các loại tà độc không thể nào xâm nhập vào người Đoàn Dự nên chàng hoàn
toàn không thấy gì khác, thấy A Châu mềm nhũn ngồi trên ghế, biết nàng lại
bị trúng độc khí nữa rồi, vội vàng lấy trong túi ra chiếc bình thuốc thối, mở nắp
đưa vào mũi nàng. A Châu vội hít mấy hơi vì nàng trúng độc chưa nhiều nên
tay chân liền hết tê dại. Nàng liền cầm chiếc bình ngửi liên tiếp, trong bụng lấy
làm lạ lùng sao địch nhân không ra tay can thiệp? Nhìn lại bọn người Tây Hạ,
thấy người nào người nấy cũng xuội lơ ngồi ỳ ra, không ai cử động gì được, chỉ
giương mắt nhìn quanh quất._
Đoàn Dự nói: -Quái lạ làm sao! Bọn người này chẳng lẽ tự hại mình, tự phóng
độc, tự trúng độc hay sao?
A Châu liền đi tới gần lay Hách Liên Thiết Thụ. Gã đại tướng quân kia liền xiêu
đi nằm ngoẹo trên ghế, quả thực bị trúng độc rồi. Thế nhưng y vẫn còn nói
năng được, quát lên: -Đứa nào dùng Bi Tô Thanh Phong đó? Có mau lấy thuốc
giải ra không nào!
Y quát tháo luôn mấy bận nhưng tất cả các thủ hạ của y ai nấy đều nằm gục
đó chỉ bẩm báo: -Bẩm tướng quân, thuộc hạ không cử động được.
Nỗ Nhi Hải nói: -Chắc là có kẻ nội gian, nếu không làm sao biết được cách sử
dụng phức tạp của loại Bi Tô Thanh Phong này?
Hách Liên Thiết Thụ giận dữ nói: -Đúng đó! Đứa nào thế? Ngươi mau mau tra
xét cho rõ ràng, đem nó ra chặt thành vạn mảnh.
Nỗ Nhi Hải đáp: -Vâng! Có điều bây giờ cần phải có thuốc giải trước đã.
Hách Liên Thiết Thụ nói: -Ngươi nói phải lắm! Mau mau đi lấy thuốc giả coi
nào.
Nỗ Nhi Hải lông mày nhíu lại, liếc mắt nhìn chiếc bình sứ trong tay A Châu nói:
-Phiền Kiều bang chủ đem thuốc giải trong cái bình cho chúng tôi ngửi, tướng
quân chúng tôi thể nào cũng trọng thưởng.
A Châu cười nói: -Ta muốn đến đây giải cứu anh em trong bang chứ nào phải
tham đồ trọng thưởng của tướng quân nhà ngươi đâu.
Nỗ Nhi Hải lại nói: -Mộ Dung công tử, bên người tôi cũng có một cái bình nhỏ,
phiền công tử lấy ra, mở nắp cho tôi ngửi một chút.
Đoàn Dự thò tay vào túi y lấy ra một chiếc bình nhỏ, quả nhiên cũng là thuốc
giải bèn cười nói: -Ta lấy giải dược ra nhưng không cho ngươi ngửi.
Chàng cùng A Châu hai người xuống hậu điện, đẩy cửa phòng ở phía đông
thấy bên trong đầy người đều là người của Cái Bang bị bắt cầm giữ nơi đây. A
Châu vừa bước vào, Ngô trưởng lão đã kêu lên: -Kiều bang chủ, ông đấy ư?
Thật phúc đức quá!
A Châu đưa giải dược cho ông ta ngửi nói: -Đây là thuốc giải, ông đem cho các
anh em khác cùng ngửi để trừ chất độc trong cơ thể.
Ngô trưởng lão mừng quá, đợi đến khi tay chân bắt đầu cử động được liền
đưa chiếc bình cho Tống trưởng lão, còn Đoàn Dự thì đưa chiếc bình lấy được
của Nỗ Nhi Hải cho Từ trưởng lão. A Châu nói: -Cái Bang đông người nếu
muốn trục độc từng người một thì biết bao giờ mới xong? Ngô trưởng lão,
phiền ông đến chỗ bọn Tây Hạ tra xét xem chúng có mang thuốc giải không?
Ngô trưởng lão đáp: -Vâng!
Ông ta liền rảo bước ra ngoài đại điện, rồi nghe từ ngoài vọng vào tiếng chửi
bới, tiếng kêu trời, rồi tiếng kêu lốp bốp, hẳn là Ngô trưởng lão một mặt đi
kiếm thuốc giải, đồng thời đánh cho bõ tức. Một lúc lâu sau, ông ta cầm sáu
cái bình quay vào cười nói: -Ta cứ xem đứa Hồ Lỗ nào ăn mặc sang trọng mà
tìm, quả nhiên lục một hồi trong người đều có thuốc giải, ha ha, mấy tên đó
đứa nào cũng khổ sở.
Đoàn Dự cười hỏi: -sao thế?
Ngô trưởng lão cũng cười: -Cứ mỗi đứa ta cho hai hai cái bạt tai, đứa nào có
thuốc giải thì lại càng mạnh tay.
Ông ta bỗng nhiên nhớ ra mình chưa từng gặp Đoàn Dự lần nào nên hỏi: –
Chẳng hay vị huynh đài này cao tính đại danh là chi? Xin cảm ơn đã cứu chúng
tôi.
Đoàn Dự đáp: -Tại hạ họ kép là Mộ Dung, đến cứu hơi trễ để quí vị phải chờ
đợi, quả thật đắc tội.
Người trong Cái Bang nghe thấy người trước mặt là kẻ danh tiếng lẫy lừng Cô
Tô Mộ Dung, ai nấy đều hết sức ngạc nhiên. Tống trưởng lão nói: -Bọn chúng
ta quả là có mắt như mù nói oan cho Mộ Dung công tử giết hại Mã phó bang
chủ. Hôm nay nếu không nhờ y và Kiều bang chủ ra tay cứu, cả bọn rơi vào
tay bọn chó dại Tây Hạ này, thì còn gì nữa?
Ngô trưởng lão nói: -Kiều bang chủ, người trên không chấp lỗi của người dưới,
xin ông trở lại làm bang chủ cho xong.
Toàn Quan Thanh lạnh lùng nói: -Kiều gia và Mộ Dung công tử quả nhiên là
chỗ tri giao.
Y gọi Kiều Phong là Kiều gia chứ không là Kiều bang chủ đủ biết y không
muốn Kiều Phong trở lại làm bang chủ nữa, lại bảo ông với Mộ Dung công tử
là chỗ tri giao hảo hữu, câu nói quả là lợi hại. Người trong Cái Bang nghi Kiều
Phong mượn tay Mộ Dung Phục, dùng kế mượn dao giết người để trừ khử Mã
Đại Nguyên, Kiều Phong vẫn chối không hề quen biết với Mộ Dung Phục. Hôm
nay hai người cùng đến chùa Thiên Ninh, nói nói cười cười, xem ra vẻ thân
thiết lắm hiển nhiên không phải chỉ vừa biết nhau.
A Châu nghĩ bụng những người này ai ai cũng biết Kiều Phong từ lâu, càng để
dây dưa càng khiến cho họ nhìn ra chỗ sơ hở liền nói: -Chuyện đại sự trong
bang, từ từ bàn thảo với nhau cũng không muộn. Ta đi xem những con chó
Tây Hạ kia ra sao.
Nói xong liền đi ra ngoài đại điện, Đoàn Dự cũng đi theo. Hai người vừa ra đến
ngoài vừa lúc nghe Hách Liên Thiết Thụ quát tháo: -Mau mau tra xét cho rõ
ràng, thằng khốn kiếp Tây Hạ nào đó tên là gì, kiếm đến nhà nó, bắt hết già
trẻ trai gái, con gà con chó giết cho kỳ hết. Con bà nó chứ, nó là người Tây
Hạ, sao lại đi tương trợ người ngoài lấy Bi Tô Thanh Phong đem ra rải loạn lên
là sao?
Đoàn Dự ngạc nhiên nghĩ thầm: “Y đang chửi gã Tây Hạ nào thế?”. Chỉ nghe
Hách Liên Thiết Thụ chửi một câu thì Nỗ Nhi Hải lại vâng dạ một câu. Hách
Liên Thiết Thụ lại tiếp: -Y viết trên tường tám chữ không phải là châm chọc
bọn mình hay sao?
A Châu và Đoàn Dự ngửng đầu lên, thấy trên tường vôi có bốn câu, mỗi hàng
bốn chữ như rồng bay phượng múa:
Hễ ai có tài nghệ gì,
Ta đem trả ngược lại về cho ngươi.
Độc phong chuyên để hại người,
Cứ nguyên như thế dùng nơi chúng mày.
Dĩ bỉ chi đạo,
Hoàn thi bỉ thân.
Mê nhân độc phong,
Nguyên bích qui quân.
Nét bút còn ướt sũng chưa khô, hiển nhiên người viết đi chưa lâu. Đoàn Dự
“A” lên một tiếng ấp úng: -Cái đó … cái đó … có phải Mộ Dung công tử viết
đấy chăng?
A Châu hạ giọng thì thầm: -Đừng quên công tử đang đóng vai Mộ Dung công
tử, công tử chúng tôi biết viết nhiều loại chữ khác nhau, tôi cũng không phân
biệt được có phải ông ta viết hay không?
Đoàn Dự quay sang hỏi Nỗ Nhi Hải: -Ai viết đó?
Nỗ Nhi Hải không trả lời trong bụng khiếp sợ, không biết người trong Cái Bang
sẽ làm gì mình. Bọn chúng bắt được các bang chúng Cái Bang rồi, tra khảo
đánh đập, không việc gì không làm, bọn họ chỉ cần “ăn miếng trả miếng” là
cũng đủ khổ sở lắm rồi. A Châu thấy quần hào Cái Bang lũ lượt kéo vào đại
điện nói nhỏ: -Đại sự xong rồi, thôi mình đi!
Nàng lớn tiếng nói: -Ta có việc gấp phải lo, cùng với Mộ Dung công tử đi làm
cho xong, sau này gặp lại.
Nói xong rảo bước đi ra khỏi điện. Ngô trưởng lão cùng cả bọn kêu lên: -Bang
chủ đừng đi vội!
A Châu đâu dám nán lại thêm, lại cùng Đoàn Dự càng đi nhanh hơn. Quần hào
Cái Bang xưa nay kính sợ Kiều Phong đâu có người nào dám bước ra ngăn trở.
Hai người đi chừng một dặm, A Châu cười nói: -Đoàn công tử, quả thật khéo
làm sao, đứa học trò xấu như ma lem lại đòi công tử biểu diễn Lăng Ba Vi Bộ,
còn bảo công tử giỏi hơn cả sư phụ y nữa.
Đoàn Dự cũng ồ lên một tiếng. A Châu lại tiếp: -Không biết kẻ nào ngầm
phóng thuốc mê? Gã Tây Hạ tướng quân luôn mồm chửi rủa đứa nội gian, xem
chứng chính người Tây Hạ làm chuyện này!
Đoàn Dự đột nhiên nghĩ đến một người bèn nói: -Hay chính là Lý Diên Tông?
Là gã võ sĩ Tây Hạ chúng tôi gặp nơi nhà máy xay lúa?
A Châu chưa từng gặp Lý Diên Tông nên không thể nào trả lời gì được, chỉ
nói: -Thôi mình đến nói cho Vương cô nương hay để xem cô ta nghĩ thế nào?
Hai người đang đi bỗng nghe tiếng ngựa chạy, trên đường cái một người phi
ngựa chạy tới. Đoàn Dự nhìn từ xa thấy chính là Kiều Phong, mừng rỡ kêu lên:
-Kiều đại ca kìa!
Chàng đang tính lên tiếng gọi, A Châu vội vàng giật tay áo chàng nói: -Chớ có
lên tiếng, người thật tới rồi đây.
Nàng vội vàng quay người đi. Đoàn Dự chợt hiểu ra: “A Châu đang giả làm
Kiều đại ca, để ông ta trông thấy quả là không hay”. Chẳng mấy chốc Kiều
Phong đã cưỡi ngựa đến gần. Đoàn Dự không dám đối diện với ông ta nghĩ
bụng: “Kiều đại ca khi gặp quần hào Cái Bang rồi, chân tướng sẽ rõ ngay,
không biết có trách A Châu đã dựng cái màn kịch này hay không?”.
¤K
iều Phong cứu được A Châu, A Bích hai nàng rồi biết tin anh em của Cái
Bang bị người Tây Hạ bắt giữ, trong bụng hốt hoảng vội chạy lồng đi tìm khắp
nơi. Thế nhưng đất Giang Nam chỗ nào cũng ruộng lúa vườn dâu, sông hồ
đường cái, ngang dọc chằng chịt không như phương bắc chỉ toàn đường đi,
Kiều Phong tìm kiếm mãi, may sao lại gặp được hai chú tiểu chùa Thiên Ninh,
hỏi rõ phương hướng lúc ấy mới chạy đến Thiên Ninh Tự được. Ông ta thấy
Đoàn Dự thần thái hiên ngang, diện mạo anh tuấn nghĩ thầm: “Chàng công tử
này trông mặt mũi sáng sủa chẳng kém gì Đoàn Dự huynh đệ”. A Châu lúc ấy
đã quay mặt đi, ông ta cũng không để ý, trong bụng chỉ lo cho người của Cái
Bang nên quất ngựa chạy cho nhanh về phía trước.
Ông chạy đến trước chùa Thiên Ninh, thấy độ mươi bang chúng Cái Bang
đang áp giải các võ sĩ Tây Hạ bị trói từ trong chùa đi ra. Kiều Phong mừng quá
nghĩ thầm: “Thì ra các anh em Cái Bang đã phản bại vi thắng rồi”.
Những người của Cái Bang thấy Kiều Phong đi rồi quay trở lại, tíu tít ra nghinh
đón nói: -Bẩm bang chủ, bọn giặc Hồ Lỗ náy bây giờ tính sao đây, xin thỉnh thị
hiệu lệnh của bang chủ.
Kiều Phong nói: -Ta không còn là người của Cái Bang nữa, hai tiếng bang chủ
xin đừng đề cập đến. Các anh em có ai tổn thương gì không?
Bọn Từ trưởng lão trong chùa nghe tin vội vàng chạy ra đón, trông thấy Kiều
Phong hoặc mặt đỏ bừng, hoặc vui sướng ra mặt. Tống trưởng lão cao giọng
nói: -Bang chủ, hôm qua ở trong rừng hạnh, thám tử bản bang phái qua Tây
Hạ đem về quân tình khẩn cấp, Từ trưởng lão tự mình quyết định nên không
cho ông xem, bang chủ có biết chuyện gì không? Từ trưởng lão, mau đem ra
cho bang chủ coi nào.
Giọng nói của ông ta xem ra có chiều khách khí. Từ trưởng lão mặt mày sượng
sùng, lấy viên giấy bên trong cục sáp ong, thở dài đưa cho Kiều Phong nói: –
Tôi quả là lầm lẫn.
Kiều Phong lắc đầu không cầm. Tống trưởng lão chen lên, cầm lấy mở cục giấy
vo viên kia ra lớn tiếng đọc: -Khải bẩm bang chủ: Thuộc hạ thám thính thấy
tướng quân Hách Liên Thiết Thụ của Tây Hạ dẫn các cao thủ Nhất Phẩm
Đường đi đến Trung Nguyên để đối phó với bản bang. Bọn họ có một loại độc
khí ghê gớm lắm, khi tung ra không mùi vị gì, khiến cho người ta không hay
biết gì cử động không được. Khi gặp bọn chúng, tuyệt đối phải bịt mũi lại,
hoặc đánh ngã tên đầu não của họ cướp lấy giải dược có mùi thối rất kinh
người, nếu không cực kỳ nguy hiểm.
Rất khẩn cấp, rất khẩn cấp.
Thuộc hạ Đại Tín Đà Dịch Đại Bưu cấp bẩm báo.
Tống trưởng lão đọc xong, cùng bọn Ngô trưởng lão, Hề trưởng lão hầm hầm
nhìn Từ trưởng lão. Bạch Thế Kính nói: -Anh em Dịch Đại Bưu báo tin khẩn
cấp đúng ra cũng về đúng lúc, tiếc thay mình không kịp mở ra xem. Cũng may
anh em chỉ bị một phen hoảng vía không ai bị thương tổn. Bang chủ, tất cả
chúng tôi xin chịu lỗi, ông đại nhân đại nghĩa chẳng nói cũng biết.
Ngô trưởng lão nói: -Bang chủ vừa đi khỏi anh em đã ra nông nỗi này, không
nhờ ông và Mộ Dung công tử kịp thời đến cứu thì toàn thể Cái Bang đã bị diệt
sạch rồi. Nếu như ông không quay về chủ trì đại cuộc, đứng đầu bản bang thì
không xong.
Kiều Phong ngạc nhiên hỏi lại: -Cái gì mà Mộ Dung công tử?
Ngô trưởng lão nói: -Gã Toàn Quan Thanh kia chỉ nói năng lếu láo, ông đừng
để tâm lời y làm gì. Kết giao bằng hữu có gì là không phải? Tôi tin là đến hôm
nay bang chủ mới quen biết được Mộ Dung công tử.
Kiều Phong hỏi: -Mộ Dung công tử ư? Phải chăng ông nói đến Mộ Dung Phục?
Ta chưa từng gặp y bao giờ.
Từ trưởng lão cùng Tống, Hề, Trần, Ngô bốn trưởng lão mặt mày ngơ ngác, ai
nấy ngớ người ra nghĩ bụng: “Chỉ mới vừa đây ông ta dắt tay Mộ Dung công
tử đến đưa thuốc giải cho bọn mình, sao bây giờ lại chối không biết Mộ Dung
Phục?”. Hề trưởng lão suy nghĩ một chút hiểu ngay nói: -À, đúng rồi, gã thanh
niên kia chỉ nói phức tính Mộ Dung chứ nào có bảo rằng y là Mộ Dung Phục.
Trên đời này người họ Mộ Dung hàng nghìn hàng vạn, có gì là lạ đâu?
Trần trưởng lão nói: -Y đề trên tường “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, không
phải Mộ Dung Phục thì còn ai?
Bỗng nghe có tiếng người eo éo nói: -Gã công tử nhãi nhép kia công phu gì
cũng biết, môn nào so với chính chủ nhân lại còn tinh diệu hơn, chẳng là Mộ
Dung Phục thì gì? Chính là hắn rồi! Nhất định là hắn.
Mọi người nhìn vào kẻ vừa nói, thấy y mắt nhỏ như chuột, râu ngắn mặt vàng,
chính là Nam Hải Ngạc Thần. Y trúng độc rồi bị trói nằm đó, nhịn không nổi
liền chõ mồm vào nói góp. Kiều Phong lạ lùng hỏi: -Thế ra Mộ Dung Phục đã
đến đây rồi ư?
Nam Hải Ngạc Thần giận dữ chửi: -Con mẹ ngươi rắm thối. Chính ngươi vừa
mới dắt tay Mộ Dung Phục đến đây, không biết dùng cái trò quái gì khiến cho
lão tử mê man. Ngươi có mau thả lão tử ra không nào, nếu không, hừ hừ …
Y liên tiếp mấy tiếng hừ hừ, không biết định nói “nếu không” là sao, nghĩ đi
nghĩ lại chỉ đành “hừ hừ …” không dứt. Kiều Phong nói: -Ta xem ngươi cũng là
một hảo thủ võ lâm, sao lại nói năng quấy quá như thế? Ta đến đây hồi nào?
Làm gì có chuyện dắt tay Mộ Dung Phục đến đây, nghe ra cực kỳ hoang
đường.
Nam Hải Ngạc Thần tức đến thở hồng hộc gầm lên: -Kiều Phong, tổ mẹ gã
Kiều Phong, thật uổng cho ngươi thân làm bang chủ Cái Bang mà lại nói năng
tầm xàm đến thế. Này các anh em lớn bé, có phải Kiều Phong vừa mới đến
hay chăng? Tướng quân chúng ta chẳng mời y ngồi trên uống trà là gì?
Cả bọn Tây Hạ đồng thanh đáp: -Đúng thế, Mộ Dung Phục thi diễn Lăng Ba Vi
Bộ, Kiều Phong đứng bên vỗ tay khen hay, không lẽ còn giả được hay sao?
Ngô trưởng lão giật tay áo Kiều Phong nói nhỏ: -Bang chủ, người ngay không
làm trò ám muội, chuyện mới rồi chẳng nên chối làm gì.
Kiều Phong cười gượng: -Ngô tứ ca, đến tứ ca cũng không tin ta nữa hay sao?
Ngô trưởng lão lấy chiếc bình thuốc giải đưa ra nói: -Bang chủ, chiếc bình này
trả lại cho ông, mai sau có việc dùng không chừng.
Kiều Phong ngạc nhiên: -Trả lại cho ta ư? sao lại trả cho ta?
Ngô trưởng lão nói: -Thuốc giải này ông vừa mới đưa cho tôi, không lẽ quên rồi
sao?
Kiều Phong sững sờ: -Cái gì? Ngô tứ ca, có thực ông vừa mới gặp ta hay
không?
Ngô trưởng lão thấy ông ta nhất quyết phủ nhận, trong lòng không vui lại cảm
thấy dường như không ổn. Kiều Phong tuy là người tinh minh tài giỏi nhưng
làm sao đoán ra được chỉ mới trước đây giây lát đã có kẻ giả làm mình, đến
chùa Thiên Ninh giải cứu người cho được? Ông nghĩ thầm việc này ắt có một
âm mưu trọng đại giấu bên trong. Ngô trưởng lão, Hề trưởng lão đều là người
thẳng tính, quyết không thể nào có điều gì gian dối nhưng vì kẻ bày mưu tính
kế là kẻ thật lợi hại nên đã an bài bố trí thật tinh vi khiến cho những gì mình
làm trở thành hoang đường tà ác.
Mọi người trong Cái Bang được giải cứu vốn dĩ ai nấy đều cảm kích nhưng nay
nghe thấy ông ta nhất quyết không nhận nên ai nấy đều kinh ngạc. Có người
nghĩ rằng mấy hôm nay ông gặp nhiều chuyện đau lòng, khiến cho thần trí
thác loạn, người khác lại cho rằng Kiều Phong có kế mưu bí mật đối phó với
Tây Hạ nên không chịu công khai nhận chuyện trước mặt bọn này, có người lại
cho rằng Mã Đại Nguyên quả đúng là bị ông ta giả tay Mộ Dung Phục giết đi, e
ngại gian mưu bai lộ nên khăng khăng chối là mình không quen biết gì với họ
Mộ Dung, kẻ khác lại đoán ông có ý định quay trở lại làm bang chủ Cái Bang
nên sắp đặt kế sách như thế, người lại cho rằng việc này ông ra tay chỉ vì Khất
Đan để hại Tây Hạ, Đại Tống. Mỗi người trong lòng nghĩ một nẻo nên trên mặt
kẻ thì hoài nghi, người lộ vẻ sùng kính, kẻ lại băn khoăn, phẫn nộ, hoặc giả
khinh bỉ, hận thù mỗi người một cách.
Kiều Phong thở dài một tiếng nói: -Các vị đều đã thoát hiểm rồi, Kiều Phong
này thôi xin từ biệt.
Nói xong ông ôm quyền, xoay người nhảy lên ngựa, giơ roi lên quất ngựa chạy
ngay. Bỗng nghe Từ trưởng lão gọi vói theo: -Kiều Phong, hãy để Đả Cẩu Bổng
lại.
Kiều Phong gò cương, nói: -Đả Cẩu Bổng ư? Ở nơi rừng hạnh, ta đã giao lại rồi
mà?
Từ trưởng lão nói: -Bọn ta sẩy tay bị bắt, Đả Cẩu Bổng rơi vào tay bọn ác cẩu
Tây Hạ. Bây giờ tìm khắp nơi không thấy đâu, ắt hẳn nhà ngươi lấy được rồi.
Kiều Phong ngẩng mặt lên trời cười ha hả, thanh âm thê lương lớn tiếng nói: –
Kiều Phong này với Cái Bang không còn giây mơ rễ má gì nữa, lấy Đả Cẩu
Bổng để làm gì? Từ trưởng lão, ông coi Kiều Phong này nhẹ thể quá.
Hai chân ông kẹp một cái, con ngựa liền tung bốn vó soải dài chạy vọt về
hướng bắc. Kiều Phong từ thuở nhỏ đã được cha mẹ nâng niu, về sau được
Huyền Khổ đại sư của chùa Thiếu Lâm dạy võ nghệ, lại bái Uông bang chủ của
Cái Bang làm thầy, trước nay hành tẩu giang hồ tuy từng gặp nhiều gian hiểm
nhưng sư phụ bằng hữu ai nấy đãi ông một dạ chân thành. Trong hai ngày
qua ngờ đâu trời đất nổi cơn sóng gió, từ một vị bang chủ uy danh lừng lẫy,
chí thành chí nhân bị người ta coi thành một kẻ tiểu nhân bán nước hại dân,
vô sỉ vô tín.
Ông cứ để cho con ngựa tùy ý chạy đi, trong lòng cực kỳ hỗn loạn: “Nếu như
ta quả là người Khất Đan thật thì trong mười năm qua tay ta giết biết bao
nhiêu người Khất Đan, phá vỡ bao nhiêu đồ mưu của họ, có phải là kẻ đại bất
trung ư? Nếu đúng là cha mẹ ta bị người Hán giết ngoài Nhạn Môn Quan, ta
lại bái kẻ giết cha mẹ mình làm thầy, ba mươi năm qua nhận người khác làm
cha làm mẹ, có phải là kẻ đại bất hiếu ư? Kiều Phong ơi Kiều Phong, ngươi là
kẻ bất trung bất hiếu như thế, còn mặt mũi nào đứng giữa đất trời? Nếu như
Tam Hòe Công không phải cha ta thì ta nào có phải là Kiều Phong? Ta họ gì?
Cái tên cha ruột ta đặt cho ta là gì? Ha ha, ta không phải chỉ là kẻ bất trung
bất hiếu mà còn là đứa không họ không tên”.
Ông lại chợt nghĩ: “Có thể lắm! Không chừng tất cả mọi việc đều do một kẻ đại
gian đại ác vu hãm cho ta khiến cho một kẻ đường đường trượng phu như
Kiều Phong này trở thành thân bại danh liệt, không còn ngóc đầu lên được
nữa, nếu vì cái công phẫn nhất thời mà bỏ đi, chuyện Cái Bang từ nay không
ngó ngàng gì đến nữa thì có phải là gian mưu của y đã thành công rồi ư? Ôi,
nói gì thì nói, mình phải tra cứu cho minh bạch mới được”.
Trong bụng tính toán việc đầu tiên là phải đến núi Thiếu Thất tỉnh Hà Nam, hỏi
Tam Hòe Công về thân thế lai lịch của mình, kế đó sẽ vào chùa Thiếu Lâm
khấu kiến thụ nghiệp ân sư Huyền Khổ đại sư để xin cho biết rõ chân tướng.
Hai người này xưa nay đối với ta thương yêu khôn xiết, chắc sẽ không giấu
diếm điều gì.
Ông đã trù tính như vậy, trong lòng không còn phiền não nữa. Từ trước tới nay
ông vốn là bang chủ Cái Bang nên hành tẩu giang hồ bốn biển đâu đâu cũng
là nhà, giờ này không tiện đến các phân đà tá túc nữa, nhưng để cho khỏi rắc
rối thêm nên đến đâu cũng tránh đường lớn để khỏi gặp lại các bộ thuộc cũ
trong Cái Bang.
Đi được hai ngày, tiền bạc trong người cạn cả rồi, đành phải đem con ngựa
đoạt được của người Tây Hạ đem ra bán để làm lộ phí.
Hôm đó ông đến chân dãy Tung Sơn bèn nhắm theo ngọn Thiếu Thất mà tới.
Đây là nơi ông sinh sống hồi nhỏ nên chỗ nào cũng quen thuộc. Từ khi ông
xuất nhiệm làm bang chủ Cái Bang đến nay, Cái Bang là bang hội lớn nhất
giang hồ, phái Thiếu Lâm là môn phái lớn nhất võ lâm nên nếu như bang chủ
Cái Bang đến ắt phải đủ loại nghi lễ sắp xếp kinh động rất nhiều nên chưa bao
giờ quay trở lại, chỉ hàng năm sai người đem áo quần đồ ăn thức uống kính
biếu cha mẹ, ân sư, hỏi thăm sức khỏe mà thôi. Đến lúc này quay trở về quê
cũ, nghĩ đến mình thân thế mơ hồ, chỉ trong một hai giờ nữa sẽ rõ, nên tuy
ông là người trấn tĩnh trầm ổn nhưng lòng cũng thấy nao nao.
Nhà cũ của ông ở bên cạnh một triền núi ở phía đông núi Thiếu Thất. Kiều
Phong rảo bước đi vòng sơn pha, thấy dưới gốc cây táo bên cạnh vườn rau có
úp một chiếc nón cạnh một bình trà. Chiếc bình trà quai đã gãy, Kiều Phong
nhận ra ngay là vật của phụ thân Kiều Tam Hòe, trong lòng dâng lên một lòng
thương cảm: “Cha ta cần mẫn tiết kiệm, chiếc bình trà vỡ này dùng đã mấy
chục năm nay nhưng cũng không nỡ vứt bỏ”.
Ông nhìn thấy cây táo lớn, nhớ tới khi còn nhỏ mỗi mùa trái chín, phụ thân
đều nắm bàn tay bé nhỏ của ông cùng rung cho táo rụng. Những trái táo chín
đỏ đến nứt cả ra, vừa ngọt vừa nhiều nước, từ thuở rời cố hương đến nay ông
chưa từng nếm lại thứ táo nào ngon đến thế. Kiều Phong nghĩ thầm: “Dẫu hai
người không phải cha mẹ ruột ta chăng nữa nhưng cái ơn dưỡng dục kia suốt
đời cũng không sao báo đáp được. Bất luận thân thế chân tướng của ta thế
nào, ta nhất quyết không vì thế mà đổi cách xưng hô”.
Ông đi đến trước ba gian nhà đất, thấy đằng trước trải một chiếc phên tre
phơi đầy rau, một con gà mẹ dẫn một bầy gà con, đang tìm mồi nơi đám cỏ.
Ông không khỏi mỉm cười: “Hôm nay thể nào má chẳng giết gà làm cơm đãi
đứa con lâu nay không gặp”. Ông cao giọng gọi: -Ba, má! Con đã về đây!
Ông gọi luôn mấy tiếng không nghe đáp lại, nghĩ thầm: “À, đúng rồi! Hai ông
bà tai điếc rồi, không nghe được nữa”. Ông đẩy cửa ra bước vào, trong nhà
bàn ghế giường phản, cày bừa mai xẻng vẫn không khác khi ông ra đi bao
nhiêu, nhưng không thấy một bóng người.
Kiều Phong lại gọi thêm mấy tiếng nữa: -Ba má ơi!
Vẫn không thấy ai trả lời, ông hơi ngạc nhiên, lẩm bẩm một mình: -Không biết
hai người đi đâu?
Ông thò đầu vào trong phòng ngủ xem thử, không khỏi giật mình kinh hãi,
thấy vợ chồng Kiều Tam Hòe nằm lăn trên mặt đất, không động đậy gì cả. Kiều
Phong vội vàng nhảy vào, trước hết đỡ mẹ dậy, thấy bà ta đã tắt thở nhưng
thân còn hơi ấm, xem ra chết chưa đầy một giờ. Ông lại đỡ cha lên thì cũng y
như thế.
Kiều Phong vừa kinh hoàng, lại vừa đau xót, ôm xác cha chạy ra ngoài cửa,
dưới ánh sáng mặt trời xem xét kỹ, thấy ngực ông gân cốt đều bị đứt đoạn,
hiển nhiên bị một cao thủ võ học dùng chưởng lực cực kỳ lợi hại đánh chết.
Ông lại quan sát mẫu thân thì cũng không khác chút nào. Kiều Phong trong
lòng hỗn loạn: “Cha mẹ ta là vợ chồng nhà quê trung hậu thực thà, sao lại bị
cao thủ võ học đến hạ độc thủ? Ắt hẳn là tại ta mà ra”.
Ông xem kỹ bên trong ba gian phòng, trước nhà sau nhà, nhảy cả trên mái
nhà để tra xét xem hung thủ là hạng người nào. Thế nhưng kẻ hạ độc đến dấu
chân cũng không để lại. Kiều Phong mặt mày đẫm lệ, càng nghĩ càng đau
buồn, nhịn không nổi khóc òa lên.
Chỉ mới khóc được một lát, bỗng nghe sau lưng có tiếng người: -Tiếc thay!
Tiếc thay, chúng ta đến chậm một bước rồi.
Kiều Phong đứng lên quay lại, thấy bốn nhà sư trung niên, phục sức theo lối
chùa Thiếu Lâm. Kiều Phong tuy đã từng học nghệ phái Thiếu Lâm nhưng
người truyền thụ võ công cho ông là Huyền Khổ đại sư mỗi ngày đến nửa đêm
xuống thẳng nhà ông dạy võ thành ra ông không biết một nhà sư nào trong
chùa. Lúc này ông trong lòng buồn khổ, tuy thấy người ngoài nhưng nhất thời
không cầm được nước mắt.
Một nhà sư dáng người cao cao đầy vẻ giận dữ, lớn tiếng nói: -Kiều Phong,
ngươi quả là không bằng heo bằng chó. Vợ chồng Kiều Tam Hòe tuy không
phải là cha mẹ ruột của ngươi nhưng hơn mười năm nuôi nấng, cái ơn đó quả
là không nhỏ, ngươi nỡ nào ra tay sát hại?
Kiều Phong sụt sùi đáp: -Tại hạ vừa mới trở về nhà, thấy cha mẹ bị hại, chính
đang muốn tra xét hung thủ là ai để báo thù cho cha mẹ, đại sư sao lại nói
như thế?
Nhà sư kia bực tức đáp: -Người Khất Đan lòng như lang sói, quả nhiên hành
động không khác gì cầm thú. Ngươi chính tay giết cha mẹ nuôi, bọn ta chỉ tiếc
đến quá muộn. Họ Kiều kia, ngươi muốn đến núi Thiếu Thất làm càn, e rằng
không xong đâu.
Nói xong nghe vù một tiếng đã đánh ra một chưởng thẳng vào ngực Kiều
Phong. Kiều Phong vừa toan tránh né, bỗng thấy sau lưng có hơi gió nhè nhẹ,
biết ngay có người đánh lén, ông không muốn cùng những nhà sư Thiếu Lâm
kia chưa rõ đầu đuôi đã động thủ, chân trái điểm một cái đã nhẹ nhàng vọt ra
xa hơn một trượng, quả nhiên một nhà sư Thiếu Lâm đá hụt vào quãng không.
Bốn nhà sư thấy ông dùng khinh công tránh được ai nấy lộ vẻ kinh dị. Nhà sư
cao lớn liền chửi: -Võ công ngươi tuy giỏi thật nhưng đã làm sao? Ngươi tưởng
rằng giết nghĩa phụ nghĩa mẫu diệt khẩu để che giấu xuất thân lai lịch, chỉ tiếc
thay ngươi là giống nghiệt chủng Khất Đan, việc này đã truyền vang trên
giang hồ, trong võ lâm có ai còn không biết, có ai còn không hay? Ngươi làm
chuyện đại nghịch như thế chỉ làm tăng thêm tội nghiệt mà thôi.
Một nhà sư khác lại tiếp: -Ngươi trước kia giết Mã Đại Nguyên, rồi nay giết vợ
chồng Kiều Tam Hòe, hừ hừ, chuyện xấu xa đó tưởng thế mà che giấu được
hay sao?
Kiều Phong tuy nghe hai nhà sư nhục mạ riếc móc như thế, trong lòng chỉ cảm
thấy xót xa, chẳng có chút nào oán hận. Ông bình sinh gặp chuyện lớn, quyết
đoán hiềm nghi, đã từng gặp không biết bao nhiêu chuyện khó khăn lúc này
lại càng cố nén nhịn, vòng tay hành lễ nói: -Xin hỏi pháp danh bốn vị đại sư
xưng hô thế nào? Có phải là tăng nhân chùa Thiếu Lâm chăng?
Một nhà sư người tầm thước tính tình dễ chịu nhất liền nói: -Bọn ta đều là đệ
tử Thiếu Lâm. Ôi, nghĩa phụ nghĩa mẫu ngươi một đời trung hậu sao lại gặp
cảnh thảm báo thế này. Kiều Phong, người Khất Đan các ngươi ra tay quả là
độc địa.
Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu như họ không chịu tuyên lộ pháp danh, có hỏi
thêm cũng vô ích. Nhà sư cao kia đã nói rằng họ đến cứu chậm mất rồi hẳn là
có người báo tin đến cứu viện, thế nhưng ai là người đến đưa tin? Ai là người
dự đoán cha mẹ ta sẽ gặp hung hiểm?”. Ông liền đáp: -Bốn vị đại sư lòng dạ
từ bi, xuống núi đến cứu cha mẹ tôi, tiếc thay chậm mất một bước …
Nhà sư cao kia tính nóng như lửa, giơ nắm tay to lớn lên, nghe vù một tiếng
nhắm Kiều Phong đấm tới, quát lớn: -Bọn ta chậm một bước nên mới để ngươi
làm chuyện ngược ngạo này, ngươi còn hợm hĩnh khoe khoang, đắc ý châm
chọc nữa hay sao?
Kiều Phong biết bốn người đều có lòng tốt, vừa nghe tin lập tức chạy xuống
cứu cha mẹ mình nên không muốn cùng họ động thủ quá chiêu, thế nhưng
nếu không chế ngự được bọn họ thì vĩnh viễn sẽ không bao giờ tìm được chân
tướng nên nói: -Tại hạ hết sức cảm kích hảo ý của bốn vị, chuyện hôm nay
không biết làm sao hơn, đành phải đắc tội.
Nói xong thân mình quay vụt lại nhắm ngay vai nhà sư thứ ba đánh tới. Nhà sư
đó kêu lên: -Muốn động thủ thực hay sao?
Câu nói chưa dứt, đầu vai đã bị Kiều Phong đánh trúng rồi, thân mình mềm
nhũn, ngồi phịch xuống đất. Kiều Phong học nghệ của phái Thiếu Lâm nên võ
công gia số của bốn nhà sư ông thuộc nằm lòng, liên tiếp xuất chưởng đánh
ngã từng người một nói: -Đắc tội! Xin hỏi bốn vị sư phụ, các ông nói là đến
cứu chậm mất rồi, vậy làm sao biết được là cha mẹ tôi gặp phải nguy nan? Ai
là người báo tin cho bốn vị sư phụ?
Nhà sư cao kia giận dữ đáp: -Có phải ngươi muốn biết rõ ai là người đưa tin để
tới ra tay giết hại người ta ư? Đệ tử Thiếu Lâm lẽ nào chịu để cho bọn chó
Khất Đan tàn nhẫn kia bức cung? Ngươi cứ thử dùng độc hình xem bọn ta có
thổ lộ nửa lời hay chăng?
Kiều Phong trong bụng than thầm: “Hiểu lầm mỗi lúc một thêm, dù ta có hỏi
cách nào bọn họ cũng nghĩ là mình đang tra vấn”. Ông đưa tay xoa nắn trên
lưng mỗi người mấy cái, giải những huyệt đạo bị phong cho bốn người nói: –
Nếu như muốn sát nhân diệt khẩu thì lúc này mỗ đã lấy mạng bốn vị rồi. Chân
tướng thị phi, thể nào rồi đây cũng có ngày thủy lạc thạch xuất.
Bỗng nghe từ sườn núi có tiếng người cười khẩy: -Muốn giết người bịt miệng
cũng đâu phải dễ dàng như thế.
Kiều Phong quay đầu lại đã thấy bên cạnh núi đứng khoảng hơn chục nhà sư
Thiếu Lâm, trong tay ai nấy cầm kim binh khí. Hai nhà sư đứng đầu đều vào
khoảng trên dưới năm mươi, trong tay đều cầm một cây phương tiện sản_,
đầu sản hình mặt trăng làm bằng đồng ròng phát ra hàn quang lấp lánh, mắt
cả hai như bắn vào người chỉ thoạt nhìn đã biết nội công cực kỳ thâm hậu.
Kiều Phong tuy không sợ gì cả nhưng cũng biết những người vừa đến võ công
không phải tầm thường, nếu hai bên phải giao tranh thì không thể không giết
vài người mới có thể bảo toàn tính mạng mà thoái lui. Ông hai tay ôm thành
quyền nói: -Kiều Phong vô lễ, xin tạ tội với chư vị đại sư.
Đột nhiên thân hình bay ngược về sau, lưng đụng phá vỡ cánh cửa chui tọt
vào trong căn nhà đất. Biến cố đó cực kỳ nhanh, các nhà sư cùng kinh hoảng
kêu la, năm sáu người cùng xông lên nhưng vừa đến cửa, một luồng kình
phong từ bên trong đánh ra. Năm sáu người kia ai nấy đều vội vàng giơ tả
chưởng lên vận nội lực chống đỡ, nghe bùng một tiếng, bụi đất bay mịt mù,
tất cả bị chưởng lực từ bên trong ép phải lùi lại bốn năm bước.
Đợi đến khi mọi người đứng vững lại rồi, ai nấy thấy khí huyết trong ngực trào
lên, người nào cũng mặt mày ngơ ngác, trong bụng đều hiểu rằng: “Chưởng
lực của Kiều Phong tuy mãnh liệt thật nhưng vẫn còn dư lực, nếu đánh ra
chưởng thứ hai chưa chắc đã chống đỡ nổi”. Ai nấy cho rằng Kiều Phong là kẻ
cùng hung cực ác nên đang thu lực để đánh thêm, có biết đâu ông ra nhẹ đòn
không muốn đả thương người khác.
Mọi người ai nấy thủ thế đề phòng, một hồi sau, hai nhà sư đứng đầu cầm
phương tiện sản, cùng sử chiêu Song Long Nhập Động đánh ép hai bên, thân
hình theo sản song song cùng tiến vào căn nhà đất. Keng keng keng hai thanh
sản chạm nhau, kết thành một màn lưới bảo hộ toàn thân nhưng chỉ thấy
trong nhà trống không, nào thấy hình bóng Kiều Phong đâu nữa? Lạ lùng
nhất, đến thi thể vợ chồng Kiều Tam Hòe cũng không còn.
Hai nhà sư sử dụng phương tiện sản thuộc Giới Luật Viện trong chùa Thiếu
Lâm, một người giữ chức trì giới tăng, giám thủ hành vi các đệ tử bản phái,
còn một người là thủ luật tăng, bình thời hành tẩu giang hồ tra xét công tội
các đệ tử môn hạ, bản thân võ công cố nhiên cao cường, kiến văn cũng rộng
rãi người khác không thể nào bì kịp.
Hai người thấy Kiều Phong trong khoảnh khắc biến đi đằng nào không biết
cũng đã cực kỳ khó rồi, lại ôm theo hai cái xác vợ chồng Kiều Tam Hòe, quả
thật không thể nào ngờ nổi. Các nhà sư tra xét ngõ trước vườn sau, đến cả
nhà bếp, lục lọi mấy lần. Hai nhà sư giới luật cùng chạy xuống núi đuổi theo,
đuổi đến hơn hai chục dặm nhưng nào có thấy tung tích Kiều Phong đâu?
Có ai ngờ được Kiều Phong ôm xác cha mẹ lại chạy ngược lên núi Thiếu Thất.
Ông tìm đến một sườn núi thật kín đáo, rậm rạp cheo leo đem cha mẹ chôn
nơi đó, quì xuống cung kính lạy tám lạy, trong bụng khấn thầm: “Cha mẹ bị
người nào hạ độc thủ giết hại, hài nhi thể nào cũng tìm cho ra hung thủ, đưa
đến mộ phần moi tim tế sống hai vị lão nhân gia”.
Ông nghĩ đến lần này quay trở về nhà, chỉ chậm mất một bước, nên đã không
gặp được cha mẹ, nếu không ông bà thấy mình đã trở thành tráng kiện khôi
ngô, thể nào cũng vui mừng lắm. Giá như ba người được tụ hội một ngày nửa
buổi thì cũng còn được khoái hoạt trong giây lát. Nghĩ đến như thế, nhịn
không nổi lại khóc thầm. Ông từ bé vốn tính tình cứng cỏi, ít khi khóc lóc, hôm
nay vì hết sức thương tâm, hết sức bi phẫn nên nước mắt tuôn trào không sao
cầm được giọt lệ.
Đột nhiên trong lòng lại nảy ra một ý niệm, kêu thầm: “Chết rồi, không xong,
thụ nghiệp ân sư của ta là Huyền Khổ đại sư không chừng cũng bị nguy
hiểm”. Đột nhiên ông hiểu rõ luôn mấy việc: “Hung thủ giết cha mẹ ta không
phải chỉ là ngẫu nhiên xảo hợp mà hạ thủ chỉ nửa giờ trước khi ta về đến nhà
mà là y đã dự mưu, hạ thủ xong rồi lập tức thông tri cho các nhà sư chùa
Thiếu Lâm rằng ta đang lên núi Thiếu Thất giết hai ông bà để bịt miệng. Các
nhà sư đó bụng dạ hiệp nghĩa, một lòng muốn cứu cha mẹ ta thể nào cũng
chạm trán với ta. Trên đời này biết được thân thế ta nay chỉ còn một sư phụ
Huyền Khổ mà thôi, phải phòng hung đồ hạ độc thủ đem tội danh đổ riệt lên
đầu mình”.
Ông nghĩ đến Huyền Khổ đại sư vì mình mà phải chịu nguy nan, lập tức tâm
can nóng như lửa đốt, vội vàng cất bước chạy thẳng lên chùa Thiếu Lâm. Ông
biết rõ trong chùa cao thủ đông như kiến, trong Đạt Ma Đường cững đã có vài
vị lão tăng mang tuyệt kỹ kinh người, mình chỉ vừa lộ diện, chúng tăng sẽ
cùng xông lên tấn công, muốn thoát thân không phải là chuyện dễ dàng nên
chỉ tìm những đường mòn mà chạy. Gai góc cỏ cây móc hai ống quần ông tơi
tả, trên đùi cũng máu me đầm đìa nhưng ông cũng không coi vào đâu. Đi
vòng theo đường nhỏ lên núi, lộ trình dài gần gấp rưỡi, chạy đến hơn một giờ
mới lên đến sau chùa. Lúc đó trời đã tối mịt, ông trong lòng vừa mừng vừa lo,
mừng là vì trời tối dễ dàng trốn tránh, lo là sợ hung thủ thùa cơ đánh lén
không phải dễ dàng tìm ra tung tích của y được.
Mấy năm qua ông tung hoành giang hồ, ít khi gặp địch thủ, thế nhưng lần này
kẻ địch, võ công cố nhiên cao cường đã đành mà tâm kế cũng công phu, tính
toán độc địa, trước nay ông chưa từng gặp bao giờ. Chùa Thiếu Lâm tuy là
đầm rồng hang hổ nhưng đâu có đề phòng có người đến gia hại Huyền Khổ
đại sư, nếu như có người tới đánh trộm thì e rằng khó mà thoát được ám toán.
Kiều Phong đâu phải không biết mình đang ở vào cảnh bị hiềm nghi cực nặng
nề, nếu như lúc này Huyền Khổ đại sư đã bị độc thủ, dẫu không ai nhìn thấy
hung thủ hình dạng thế nào nhưng nếu mình bị người ta phát giác lén lén lút
lút lẻn vào trong chùa thì dù có trăm cái miệng cũng không biện bạch nổi.
Nếu lúc này ông muốn độc thiện kỳ thân_ thì tránh xa chùa Thiếu Lâm càng xa
càng tốt, nhưng một là quan hoài an nguy của ân sư Huyền Khổ đại sư, thứ
nữa cũng muốn thừa cơ bắt lấy hung thủ đích thực để báo thù cho cha mẹ
nên dẫu cực kỳ nguy hiểm ông cũng không coi vào đâu.
Ông tuy ở tại núi Thiếu Thất hơn chục năm nhưng chưa hề bước chân vào
trong chùa, thành thử phương hướng phòng ốc hoàn toàn không biết gì cả.
Do đó Huyền Khổ đại sư ngụ tai nơi nao ông chẳng hề hay biết, nghĩ bụng:
“Nếu như ân sư bình an không sao cả, ta gặp được thầy ta rồi sẽ bẩm rõ nội
tình để lão nhân gia để ý đề phòng, sau đó sẽ hỏi thân thế lai lịch, may ra ân
sư có thể đoán được hung thủ là ai”.
Trong chùa Thiếu Lâm, điện, đường, viện, lạc đâu phải chỉ vài mươi căn, đông
một tòa, tây một tòa rải rác khắp các sườn núi. Huyền Khổ đại sư ở trong chùa
không chấp chưởng chức vụ gì, nhà sư hàng chữ “Huyền” ít ra cũng phải hai
chục người, người nào ăn mặc cũng giống nhau, trong đêm tối biết tìm ông
nơi đâu? Kiều Phong tính thầm trong bụng: “Chỉ còn một cách duy nhất là bắt
lấy một nhà sư Thiếu Lâm, ép y phải đưa mình đến gặp Huyền Khổ sư phụ,
sau khi gặp ông rồi sẽ nói rõ việc mình bất đắc dĩ phải làm như thế rồi trịnh
trọng xin lỗi ông ta. Thế nhưng những nhà sư Thiếu Lâm phần lớn tôn sư
trọng nghĩa, nếu như y lại tưởng ta mưu toan điều gì bất lợi cho Huyền Khổ
đại sư, hẳn là thà chết chứ không chịu khuất phục, nhất định không chịu cho
ta biết ông ta ở nơi đâu. Ôi, hay là ta đến nhà bếp tìm một gã hỏa công bảo y
dẫn đường thế nhưng những người đó chắc gì đã biết được sư phụ ta ở chỗ
nào”.
Ông nhất thời bàng hoàng không biết tính sao, mỗi khi qua một điện đường
sương phòng lại nằm phục bên ngoài cửa sổ nghe ngóng, hi vọng biết được
chút mối manh gì. Tuy ông thân thể cao to nhưng thân thủ nhanh nhẹn, trồi
lên hụp xuống nhẹ nhàng như một con mèo nên không ai biết được.
Cứ từng bước từng bước như thế, đi đến một tòa nhà nhỏ bỗng nghe bên
trong có người nói: -Phương trượng có việc quan trọng cần bàn bạc, xin sư
thúc lập tức đến ngay Chứng Đạo Viện.
Lại nghe một giọng già nua trả lời: -Được rồi! Ta sẽ đến ngay.
Kiều Phong nghĩ thầm: “Phương trượng triệu tập người để bàn việc quan
trọng, sư phụ ta cũng có mặt không chừng. Chi bằng ta theo người này đến
Chứng Đạo Viện”. Chỉ nghe kẹt một tiếng, cánh cửa mở ra, hai nhà sư đi ra,
người già đi về hướng tây còn người trẻ đi về hướng đông chắc là đi truyền tin
cho những người khác.
Kiều Phong bụng bảo dạ, phương trượng mời lão tăng này đến thương lượng
yếu sự, ông ta ắt hẳn vai vế cực cao, chùa Thiếu Lâm không phải như những
chùa khác, phàm những người bối phận cao võ công ắt cũng cao thâm. Ông
không dám đi sát theo sau, chỉ nhìn theo sau lưng đi xa xa thấy ông ta đi
thẳng về hướng tây đi vào một tòa nhà. Kiều Phong đợi ông ta đi vào trong
phòng rồi mới đi vòng ra phía sau, xem kỹ chung quanh không có ai mới dám
nằm phục xuống bên cạnh cửa sổ.
Ông trong lòng bi phẫn, lại thêm tức tối tự nhủ: “Kiều Phong này từ thuở hành
tẩu giang hồ đến nay, đối đãi với đồng đạo chính phái trong võ lâm, có chuyện
gì mà không quang minh lỗi lạc, đàn anh kẻ cả đâu? Vậy mà hôm nay ta phải
lén lén lút lút, nếu như hành tung bại lộ thì một đời anh danh của Kiều mỗ còn
mặt mũi nào mà nhìn ai?”. Ông lập tức lại nghĩ ngay: “Năm xua sư phụ hằng
đêm xuống núi đây võ nghệ cho ta, dẫu có mưa to gió lớn cũng chưa bao giờ
bỏ một ngày nào. Cái ơn nặng như thế, ta dù tan xương nát thịt cũng chưa
báo đáp được, huống hồ một chút nhục cỏn con”.
Chỉ nghe ngoài cửa có tiếng bước chân người, trước sau đi vào bốn người,
chẳng mấy chốc lại thêm hai người nữa, bóng chiếu trên giấy dán cửa sổ, phải
đến trên mười người cả thảy. Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu như họ thương
lượng việc quan trọng cơ mật của phái Thiếu Lâm nếu như ta nghe lỏm được,
dù ta không cố ý nhưng cũng không ổn, chi bằng ta tránh ra xa xa thì hơn.
Nếu như sư phụ có ở trong nhà, trong đó cao thủ nhiều như thế, dẫu hung
thủ có lợi hại thế nào chăng nữa cũng không sao đả thương ông ta được, đợi
khi thương nghị xong rồi, quần tăng phân tán ta sẽ tìm cách gặp sư phụ sau”.
Ông đang toan rón rén đi ra, bỗng nghe trong nhà hơn chục tăng nhân cùng
lên tiếng tụng kinh. Kiều Phong không biết họ tụng kinh văn nào, nhưng nghe
thấy giọng trang nghiêm hiền từ, một số người tụng kinh lại ra vẻ có chiều
thương xót. Đoạn kinh văn đó tụng thật dài, ông xem ra bất ổn nghĩ thầm:
“Bọn họ dường như ở đây làm lễ cầu siêu, hay tham thiền nghiên cứu kinh
điển chi đó, sư phụ ta xem ra không có ở đây”. Ông lắng tai nghe, quả nhiên
trong tiếng quần tăng đang tụng niệm không nghe thấy giọng trầm ấm hậu
thực của Huyền Khổ đại sư.
Kiều Phong nhất thời không quyết định được có nên chờ thêm chút nữa hay
không, chỉ thấy tiếng tụng kinh chấm dứt, một giọng nói uy nghiêm cất lên: –
Huyền Khổ sư đệ, ngươi có còn gì để nói nữa chăng?
Kiều Phong mừng quá: “Sư phụ quả nhiên có ở trong đây, lão nhân gia vẫn
bình an không sao cả. Thì ra ông không lên tiếng đọc kinh”. Chỉ nghe một
giọng hồn hậu bắt đầu nói, Kiều Phong nghe thấy biết chắc chính là tiếng của
thụ nghiệp ân sư Huyền Khổ đại sư: -Ngày tiểu đệ thụ giới, tiên sư đặt tên cho
là Huyền Khổ. Phật tổ có nói đến bảy nỗi khổ trên đời, đó là sinh, lão, bệnh,
tử, oán tăng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc _. Tiểu đệ cố gắng thoát khỏi bảy nỗi
khổ đó để mong độ được cho mình chứ chẳng dám độ cho người, nói ra thật là
hổ thẹn. Cái nỗi khổ “oán tăng hội” kia nguyên là một cảnh giới mà nhân sinh
ai ai cũng có. Gieo trồng nhân nào thì ắt sẽ gặt nghiệp đó. Các vị sư huynh, sư
đệ thấy ta túc nghiệp_ đáng ra phải mừng cho ta mới phải.
Kiều Phong nghe ông nói cực kỳ bình tĩnh, có điều những điều thốt ra đề là
ngôn ngữ nhà Phật nên không hiểu ý ông định nói gì. Lại nghe giọng nói uy
nghiêm kia tiếp: -Huyền Bi sư đệ mấy tháng trước táng mạng trong tay gian
nhân, bọn chúng ta hết sức truy nã hung thủ, xem ra đã vi phạm vào giới luật
đừng sân đừng nộ rồi. Thế nhưng việc hàng ma trừ gian cốt là phổ cứu thế
nhân, phận người học võ chúng ta, bản ý vốn là để hoằng pháp, theo đòi tâm
đại từ đại bi của Như Lai để giải trừ khổ nạn cho chúng sinh …
Kiều Phong nghĩ thầm: “Thanh âm uy nghiêm kia chắc hẳn là giọng của Huyền
Từ đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm”. Lại nghe ông nói tiếp: -… trừ một
ma đầu, ấy là cứu được vô số thế nhân. Sư đệ, kẻ đó có phải là Cô Tô Mộ
Dung chăng?
Kiều Phong nghĩ bụng: “Việc này lại có liên quan đến họ Mộ Dung đất Cô Tô.
Nghe nói Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm tại cảnh giới nước Đại Lý bị
người ta ám toán, không lẽ họ nghi là Mộ Dung công tử hạ độc thủ hay sao?”.
Chỉ nghe Huyền Khổ đại sư nói: -Phương trượng sư huynh, tiểu đệ không dám
để sư huynh cùng các sư huynh đệ phải lo lắng cho mình để phải tăng thêm
nghiệp báo. Người kia nếu như biết bỏ con dao đồ tể xuống, quay đầu lại là
thấy bến ngay, còn như chấp mê không tỉnh, ôi, thì y chỉ tự mình làm khổ mình
thôi. Người đó hình dáng ra sao cũng chẳng cần phải nói đến nữa.
Huyền Từ phương trượng nói: -Được rồi! Sư đệ đại giác cao kiến, sư huynh
này còn quá chấp nê, xem ra không bằng được.
Huyền Khổ nói: -Tiểu đệ muốn được tĩnh tọa một chút để mặc tưởng sám hối.
Huyền Từ đáp: -Thôi được! Sư đệ cố gắng giữ gìn.
Chỉ nghe tiếng cửa mở ra, một nhà sư cao gầy chầm chậm đi trước. Ông đi
được chừng một trượng, đằng sau là một đoàn người đi theo, tổng cộng mười
bảy nhà sư. Cả mười tám người ai nấy đều chắp tay, cúi đầu mặc niệm, thần
tình thật là trang nghiêm. Đợi các nhà sư đi xa rồi, trong nhà lặng yên không
một tiếng động nhưng Kiều Phong bị tình hình làm cho khuất phục nhất thời
không dán hiện thân gõ cửa. Bỗng nghe Huyền Khổ đại sư nói: -Giai khách từ
xa đến sao còn chần chừ chưa vào?
Kiều Phong giật mình kinh hãi, nhủ thầm: “Ta nín thở ngưng khí, người khác
dẫu có ở cách ta một vài thước cũng chưa chắc đã phát giác ta nằm phục nơi
đây. Tai của sư phụ thính như thế, nội công tu tập quả là cao cường”. Nghĩ thế
ông bèn cung kính đi đến trước cửa phòng nói: -Sư phụ an hảo, đệ tử Kiều
Phong khấu đầu bái kiến sư phụ.
Huyền Khổ “A” lên một tiếng: -Phong nhi đấy ư? Ta lúc này đang nghĩ đến con
đây, chỉ mong được gặp con một lần, mau vào đi.
Trong giọng nói đầy vẻ vui mừng. Kiều Phong mừng lắm, vội rảo bước tiến vào,
lập tức quì xuống khấu đầu nói: -Đệ tử bình thời ít khi được hầu hạ khiến cho
sư phụ phải nhớ mong. Sư phụ khỏe mạnh hài nhi thật mừng không để đâu
cho hết.
Nói xong ông ngẩng đầu lên, đăm đăm nhìn vào Huyền Khổ. Huyền Khổ đại sư
khuôn mặt vốn dĩ mỉm cười, dưới ánh đèn đầu nhìn thấy khuôn mặt Kiều
Phong đột nhiên sắc mặt đại biến, đứng phắt dậy, run run nói: -Ngươi … ngươi
… thì ra là ngươi, ngươi là Kiều Phong đấy sao, chính tay ta … ta dạy được
đứa học trò giỏi thật?
Vẻ mặt ông vừa kinh ngạc lại vừa thống khổ, lại dường như chen lẫn thương
xót và tiếc nuối. Kiều Phong thấy sư phụ thần sắc lạ lùng, trong lòng hết sức
khủng khiếp nói: -Sư phụ, hài nhi chính là Kiều Phong đây.
Huyền Khổ đại sư nói: -Hay lắm! Hay lắm! Hay lắm!
Ông liên tiếp nói ba câu “Hay lắm” mà không nói gì thêm nữa. Kiều Phong
không dám hỏi thêm, lặng yên đợi ông giáo huấn sai bảo thêm điều gì, ngờ
đâu đợi một hồi lâu, Huyền Khổ đại sư thủy chung không nói thêm lời nào nữa.
Kiều Phong nhìn lại khuôn mặt sư phụ, thấy các bắp thịt ông đã cứng đờ
không chuyển động, vẻ mặt trước sau vẫn nguyên như thế không đổi chút
nào, không khỏi kinh hoảng nhảy dựng lên, giơ tay sờ vào bàn tay ông cảm
thấy hơi lạnh, vội vàng thăm lại hơi thở, hóa ra khí đã tuyệt từ bao giờ.
Biến cố đó khiến Kiều Phong há hốc mồm, mắt mở trừng trừng, trong đầu hết
sức hỗn loạn: “Sư phụ vừa trông thấy ta liền sợ hãi đến chết là sao? Không thể
như thế được, ta có điều gì đáng sợ đâu? Có lẽ ông sớm đã bị thương rồi”. Thế
nhưng ông không dám tra xét thân thể nhà sư.
Ông cố gắng định thần, trong bụng đã quyết: “Nếu như lúc này ta lẳng lặng
trốn đi thì đâu có phải là bản sắc của một Kiều Phong hảo hán hiên ngang
này? Việc ngày hôm nay dẫu có nguy hiểm vạn phần cũng phải tra xét cho ra
nguồn cội mới xong”. Ông đi ra khỏi nhà, lớn tiếng kêu lên: -Phương trượng
đại sư, Huyền Khổ sư phụ viên tịch rồi, Huyền Khổ sư phụ viên tịch rồi.
Hai câu đó truyền đi thật xa, sơn cốc vang vang tất cả chùa ai cũng nghe thấy.
Tiếng kêu tuy hùng hồn nhưng cũng thật là thống khổ. Huyền Từ phương
trượng cùng cả bọn chưa về đến nơi ở của mình, bỗng nghe tiếng gọi của Kiều
Phong vội vàng quay lại, rảo bước chạy đến Chứng Đạo Viện. Chỉ thấy một hán
tử cao to đứng sừng sững bên cạnh cửa, giơ tay chùi nước mắt, chúng tăng ai
nấy đều ngạc nhiên. Huyền Từ chắp tay hỏi: -Thí chủ là ai?
Ông quan tâm đến an nguy của Huyền Khổ, không đợi Kiều Phong trả lời, vội
vàng xông thẳng vào phòng, thấy Huyền Khổ vẫn còn sừng sững không ngã,
lại càng ngạc nhiên. Các nhà sư cùng chạy vào, cúi đầu nhắm mắt tụng niệm
kinh văn.
Kiều Phong là người sau cùng đi vào, quì xuống trong lòng khấn thầm: “Sư
phụ, đệ tử đến báo tin quá muộn khiến lão nhân gia đã bị độc thủ của người
ta rồi. Đệ tử và kẻ gian kia cừu hận lại thêm một tầng nữa. Đệ tử dù phải gian
nan đến đâu cũng nhất quyết đi kiếm kẻ kia băm vằm y ra trăm nghìn mảnh
để báo thù cho ân sư”.
Huyền Từ phương trượng tụng kinh xong, quan sát Kiều Phong rồi hỏi: -Thí
chủ là ai? Người vừa lên tiếng gọi có phải là thí chủ đấy chăng?
Kiều Phong nói: -Đệ tử Kiều Phong thấy sư phụ viên tịch không dằn nổi bi
thương làm kinh động phương trượng.
Huyền Từ nghe đến tên của Kiều Phong, hoảng hốt run bắn lên, trên mặt lộ vẻ
lạ lùng, chăm chăm nhìn ông một hồi mới nói: -Thí chủ có phải … có phải … là
tiền nhiệm bang chủ của Cái Bang đấy ư?
Kiều Phong nghe ông hỏi “tiền nhiệm bang chủ Cái Bang” nghĩ thầm: “Tin tức
trên giang hồ truyền đi thật nhanh, đã biết ta không còn làm bang chủ Cái
Bang nữa rồi, ắt hẳn biết nguyên do vì sao ta bị trục xuất khỏi Cái Bang”. Ông
bèn đáp: -Đúng thế!
Huyền Từ nói: -Thí chủ vì sao đang đêm lại xông vào tệ tự? Làm sao thấy
Huyền Khổ sư đệ viên tịch?
Kiều Phong trong lòng có trăm ngàn điều muốn nói nhưng nhất thời không
biết phải nói gì, đành đáp: -Huyền Khổ đại sư là thụ nghiệp ân sư của đệ tử,
không biết ân sư bị thương ra sao, bị kẻ nào ra tay hạ thủ?
Huyền Từ phương trượng nghẹn ngào đáp: -Huyền Khổ sư đệ bị người ta
đánh trộm, trên ngực trúng trọng thủ một chưởng, gân cốt đứt hết rồi, ngũ
tạng cũng nát bấy, chỉ nhờ nội công thâm hậu nên mới gượng được đến bây
giờ. Chúng ta hỏi y địch nhân là ai, y bảo hoàn toàn không quen biết, lại hỏi
hung thủ hình dáng tuổi tác ra sao, y nói đến thất khổ của nhà Phật, trong đó
“oán tăng hội” là một trong những điều khổ nên gặp phải oan gia đối đầu
thành ra có dịp giải thoát nên hình dáng hung thủ nhất định không nói ra.
Kiều Phong chợt hiểu ra: “Thì ra chúng tăng đã biết sư phụ bị trọng thương
rồi, niệm Phật tụng kinh chính là để tiễn người về cõi Tây phương”. Ông nghẹn
ngào nói: -Các vị cao tăng bụng dạ từ bi không nhớ đến oán thù. Đệ tử là kẻ
tục gia, thể nào cũng bắt kẻ gian kia chặt y ra muôn ngàn nhát để báo thù cho
ân sư. Quí tự cửa ngỏ thâm nghiêm, không biết hung thủ lẻn vào lối nào?
Huyền Từ trầm ngâm chưa trả lời thì một lão tăng thân thể bé nhỏ đột nhiên
cười khẩy nói: -Thí chủ lẻn vào chùa Thiếu Lâm, chúng ta cũng chẳng ngăn trở
phát giác được, hung thủ kia dĩ nhiên cũng muốn đến thì đến, muốn đi thì đi
khác nào vào chỗ không người.
Kiều Phong khom lưng vòng tay nói: -Đệ tử vì việc khẩn bách, không kịp ở
ngoài sơn môn thông tri cầu kiến, quả là thất lễ, khẩn khoản xin chư vị sư phụ
tha thứ cho. Đệ tử và phái Thiếu Lâm uyên nguyên thực sâu xa, quyết không
dám khinh hốt mạo phạm chút nào.
Câu sau cùng của ông có ý muốn nói nếu như phái Thiếu Lâm bị mất mặt thì
chính mình cũng xấu lây, trong bụng biết rằng việc mình lẻn vào hậu viện chùa
Thiếu Lâm đến khi hô hoán người khác mới biết, nếu như việc này truyền ra
ngoài thì tiếng tăm phái Thiếu Lâm bị tổn thương rất lớn.
Ngay lúc đó, một chú tiểu bưng một bát thuốc còn bốc hơi nghi ngút đi vào
phòng, nói với thi thể Huyền Khổ: -Sư phụ, xin dùng thuốc.
Y chính là sa di phục thị Huyền Khổ vừa ở Dược Vương Viện sắc một thang
thuốc trị thương Cửu Chuyển Hồi Xuân Thang đem đến cho sư phụ. Y thấy
Huyền Khổ đứng sừng sững không ngã nên không biết ông đã chết rồi. Kiều
Phong trong lòng buồn khổ, nghẹn ngào nói: -Sư phụ đã …
Chú tiểu kia quay lại nhìn ông, đột nhiên rú lên: -Chính ngươi! Ngươi … ngươi
lại đến!
Chỉ nghe choang một tiếng, bát thuốc trong tay rơi xuống đất vỡ tung tóe,
thuốc lẫn mảnh bát văng ra tứ tung. Chú tiểu nhảy lùi về sau hai bước, nép
vào một góc tường, la hoảng: -Chính y, đả thương sư phụ chính là y.
Y vừa kêu lên thế mọi người ai nấy đều kinh hoàng. Kiều Phong lại càng kinh
sợ, lốn tiếng nói: -Ngươi nói gì?
Chú tiểu kia chỉ chừng mười hai mười ba tuổi, trông thấy Kiều Phong cực kỳ sợ
hãi, trốn ở sau lưng phương trượng Huyền Từ, bíu lấy tay áo ông, kêu lên: –
Phương trượng, phương trượng!
Huyền Từ nói: -Thanh Tùng, không việc gì phải sợ, cứ nói ra đi, có phải y là
người đả thương sư phụ không?
Chú tiểu Thanh Tùng đáp: -Chính y, y dùng chưởng đánh vào ngực sư phụ,
con ở ngoài cửa sổ trông rõ ràng. Sư phụ, sao sư phụ không đánh trả y đi.
Cho đền giờ phút này, y vẫn chưa biết Huyền Khổ đã viên tịch rồi. Huyền Từ
phương trượng nói: -Ngươi nhìn cho kỹ, đừng nhận lầm người khác.
Thanh Tùng đáp: -Con nhìn thấy thật rõ ràng, y mặc áo màu tro, mặt vuông,
lông mày xếch lên, miệng to tai lớn, chính là y. Sư phụ đánh lại y đi.
Một luồng hơi lạnh chạy dọc theo xương sống Kiều Phong, nghĩ thầm: “Đúng
rồi, hung thủ đã cải trang giống hệt ta để giá họa cho mình. Sư phụ nghe nói
ta trở về, vốn dĩ cực kỳ hoan hỉ, thế nhưng vừa thấy mặt ta, thấy ta giống hệt
kẻ đã đả thương mình thành ra mới nói:”… thì ra là ngươi, ngươi là Kiều
Phong đấy sao, chính tay ta … ta dạy được đứa học trò giỏi thật”. Sư phụ
cùng ta hơn mười năm qua không gặp lại, ta từ một đứa trẻ đã thành người
lớn rồi, tướng mạo không còn như xưa nữa. Ông nghĩ đến Huyền Khổ đại sư
trước khi chết liên tiếp ba lần nói câu “Hay lắm!”, lòng đau như dao cắt: “Sư
phụ trúng phải trọng thủ của người rồi nhưng cũng không biết kẻ địch là ai,
đến khi gặp ta, nhận ra hung thủ và ta tướng mạo tương đồng, cực kỳ buồn
thảm nên đau lòng mà chết. Sư phụ bị trọng thương đáng ra chưa chết đâu có
nghĩ được rằng nếu đúng là ta ra tay hạ thủ sao lại còn đến gặp ông làm gì”.
Bỗng nghe tiếng người lao xao rồi một đám người rảo bước chạy đến trước
Chứng Đạo Viện thì ngừng lại. Hai nhà sư khom lưng cung kính tiến vào, chính
là nhị tăng trì giới, thủ luật đã từng giao chiến với Kiều Phong ở chân núi
Thiếu Thất. Trì giới tăng chỉ mới nói được một câu: -Bẩm cáo phương trượng

Y trông thấy Kiều Phong, vẻ mặt tỏ ra phẫn nộ và kinh ngạc, không hiểu sao
ông đã tới đây từ bao giờ. Tất cả những nhà sư khác cũng hầm hầm, chăm
chăm nhìn Kiều Phong. Huyền Từ phương trượng thần sắc trang nghiêm,
chậm rãi nói: -Thí chủ tuy không còn ở trong Cái Bang nữa nhưng cũng là một
nhân vật thành danh trong võ lâm. Hôm nay giá lâm tệ tự, không hiểu vì cớ gì
ra tay đánh chết Huyền Khổ sư đệ, mong được chỉ giáo.
Kiều Phong thở dài một tiếng, phục xuống vái lạy thi thể Huyền Khổ nói: -Sư
phụ, lúc sư phụ lâm chung cũng còn bảo rằng đệ tử ra tay hại thầy để phải
nuốt hận mà viên tịch. Đệ tử tuy vạn vạn lần không dám mạo phạm sư phụ
nhưng gian nhân gia hại thầy cũng vì đệ tử mà ra. Hôm nay đệ tử dẫu có chết
để ta ân sư cũng không có gì ân hận thế nhưng từ nay đại cừu của sư phụ
không ai trả thù. Đệ tử phạm vào tôn nghiêm của chùa Thiếu Lâm, xin sư phụ
tha thứ cho.
Chỉ nghe hù hù hai tiếng, ông thổi ra hai hơi thật dài. Hai chén đèn dầu trong
điện lập tức tắt ngúm, căn phòng tối đen như mực. Kiều Phong khi khấn
nguyện đã tính toán kế sách thoát thân. Ông vừa thổi tắt đèn, tay trái liền
tung chưởng đánh vào sau lưng thủ luật tăng, chưởng đó toàn dùng lực âm
nhu không làm tổn thương nội tạng của y nhưng lại đẩy thân hình cao to của y
bay tung ra khỏi cửa.
Trong bóng đêm các nhà sư thấy có tiếng gió, đều nghĩ rằng Kiều Phong chạy
ra khỏi cửa nên liền dùng cầm nã thủ pháp, chộp luôn vào người thủ luật
tăng. Các nhà sư ai nấy đều định bụng không muốn dùng trọng thủ giết chết
Kiều Phong, chỉ định bắt ông lại tra hỏi thêm ông giết chết Huyền Khổ đại sư
là cớ gì. Hơn chục cao tăng đó đều là nhất lưu hảo thủ của chùa Thiếu Lâm,
mà đã là hạng nhất của chùa Thiếu Lâm thì cũng là hạng nhất trong võ lâm.
Cầm nã thủ của mỗi người không giống nhau, người nào cũng có chỗ độc đáo.
Chỉ trong cùng một lúc, Cầm Long Thủ, Ưng Trảo Thủ, Hổ Trảo Công, Kim
Cương Chỉ, Ác Thạch Chưởng … các loại cầm nã tối cao minh của phái Thiếu
Lâm đều chộp lên người thủ luật tăng.
Các nhà sư võ công quả là cao cường, trong đêm tối chỉ nghe tiếng gió mà vẫn
không sai một li. Gã thủ luật tăng phen này chịu đủ mọi loại khổ sở, chỉ trong
phút chốc các yếu huyệt toàn thân đều trúng cầm nã thủ pháp, thân thể lơ
lửng trên không mà miệng không nói ra được lời nào, kinh lịch đó từ cổ tới nay
chắc chưa ai từng phải chịu bao giờ.
Những cao tăng đó lịch duyệt rất nhiều, phương cách ứng biến cực kỳ chính
xác, lập tức có mấy người nhảy lên, đứng chặn giữ trên mái nhà. Các cửa
trước cửa sau của Chứng Đạo Viện luôn các ngõ ngách, các nơi hiểm yếu
trong giây lát đều có cao thủ án ngữ. Không nói gì Kiều Phong thân thể cao to,
dẫu ông có biến thành con chồn con cáo cũng chẳng làm sao thoát nổi.
Chú tiểu Thanh Tùng vội lấy hỏa đao, hỏa thạch châm mấy ngọn đèn dầu
trong phòng, mọi người mới hay mình đã bắt nhầm thủ luật tăng. Thủ tọa Đạt
Ma Viện_ là Huyền Nạn đại sư liền truyền hiệu lệnh, tất cả các tăng lữ ai nấy ở
nguyên vị trí không được loạn động. Quần tăng đều nghĩ thầm, Kiều Phong
dẫu có lớn mật cũng không dám một thân một mình xông vào một nơi đầm
rồng hang hổ như chùa Thiếu Lâm để giết người, thể nào cũng có cường viện,
ắt hẳn sẽ thừa cơ thi hành âm mưu khiến có thể trúng kế điệu hổ ly sơn.
Hơn chục cao tăng trong Chứng Đạo Viện cùng số tăng chúng do trì giới tăng
dẫn đến liền chia ra tra xét những khu lân cận Chứng Đạo Viện, tưởng như
mọi tảng đá cũng đều lật lên, tàn cây bụi cỏ nào cũng có người dùng côn đập
vào. Tuy các nhà sư ai nấy bụng dạ từ bi, lại có đức hiếu sinh nhưng việc đó
cũng khiến vô khối cóc nhái, chuột chù, châu chấu, kiến ong bị chết oan rất
nhiều.
Lục soát hơn một giờ sau, chỉ còn thiếu cuốc cả đất lên tìm nhưng nào có thấy
Kiều Phong đâu? Mọi người ai nấy tặc lưỡi luôn mồm, thật là kỳ quái, có người
buột mồm chửi rủa mấy câu, khiến cho điều “ác ngữ” trong mười điều giới của
nhà Phật không sao giữ được. Lúc đó mới khiêng di thể Huyền Khổ đại sư vào
Xá Lợi Viện để thiêu, còn thủ luật tăng thì đưa xuống Dược Vương Viện điều
trị. Quần tăng ủ rũ lặng thinh ai nấy đều cảm thấy kỳ này chùa Thiếu Lâm quả
là mất mặt. Chùa Thiếu Lâm cao thủ đông như kiến, lại có cả mươi vị cao tăng
võ công thanh vọng hơn người, người nào trong võ lâm tên tuổi cũng đều
vang dội, vậy mà để cho Kiều Phong tay không vào ra như chỗ không người,
chẳng nói gì việc giết hay bắt được ông ta, đến đào tẩu cách nào cũng chẳng
ai đoán ra được.
Thì ra Kiều Phong đã liệu rằng một khi biến cố xảy ra, các nhà sư sẽ chạy ra
truy tìm tứ phía, còn ngay ở trong nhà thì lại lơ là. Do đó khi ông vừa đánh bật
thủ luật tăng đi rồi, lập tức co người lại, chui tọt xuống dưới gầm giường nơi
Huyền Khổ đại sư vẫn thường nằm, mười ngón tay bấu lên các thang giường,
thân hình ép sát vào dưới đáy. Mặc dầu cũng có người cúi xuống xét qua dưới
gầm giường nhưng làm sao thấy ông ta được. Đến khi pháp thể của Huyền
Khổ đưa đi rồi, chấp sự tăng liền đóng cửa Chứng Đạo Viện lại không cho ai
vào nữa.
Kiều Phong nằm dưới gầm giường tai nghe tiếng các nhà sư xục xạo một hồi
lâu rồi tiếng người lặng dần, nghĩ thầm: “Đợi đến khi trời sáng thì thoát thân
không phải là dễ, lúc này không chạy đi thì còn lúc nào?”. Từ dưới gầm giường
ông len lén chui ra, đẩy cửa phòng, chuyển thân nấp đằng sau gốc cây.
Ông nghĩ bụng mặc dù tiếng người đã yên nhưng tăng chúng chùa Thiếu Lâm
chưa thể nào bỏ cuộc mà lơ là phòng bị. Chứng Đạo Viện ở tại phía cực tây
của chùa Thiếu Lâm, nếu chạy về hướng tây sẽ vào ngay trong núi. Một khi đã
ra khỏi chùa Thiếu Lâm rồi, các nhà sư sẽ phải trải rộng ra, dẫu có gặp nhau
thì cũng không thể nào ngăn chặn ông được. Thế nhưng ông không muốn
động thủ với các nhà sư Thiếu Lâm, chỉ mong sau này bắt được hung thủ, dẫn
đến chùa nói cho rõ đầu đuôi. Hôm nay nếu như giao đấu với thêm một nhà
sư, thì lại kết thêm một mối oán thù, giả sử như mình lỡ tay đánh người bị
thương hoặc chết thì lại thêm một mối lo.
Ông mất tăm mất tích ở phía tây chùa, quần tăng ắt sẽ canh chừng nghiêm
mật các đường nẻo thông qua núi về hướng tây. Ông suy tính một chút, nghĩ
bụng cách ổn thỏa nhất là đi ngược lại về hướng đông xuyên qua chùa mà ra.
Nghĩ vậy ông bèn khom người lần theo các gốc cây che cho mình, qua bốn tòa
viện xá, nấp dưới gốc một cây bồ đề, bỗng thấy đằng sau một cái cây ở trước
mặt có hai nhà sư nằm phục nơi đó. Hai nhà sư đó không nhúc nhích chút
nào, trong bóng đêm thật khó mà phát giác, có điều ông nhãn quang sắc bén
nên nhìn thấy ánh sáng lấp lánh của thanh giới đao một nhà sư cầm trong tay,
nghĩ thầm: “Nguy hiểm thực! Nếu như ta cốt chạy cho nhanh, hành tàng thể
nào cũng bại lộ”. Ông ngồi chờ ở phía sau gốc cây thêm một lát, hai nhà sư kia
vẫn không động đậy, cái kế “ôm cây đợi thỏ, há miệng chờ sung” kia quả là
ghê gớm, nếu như mình chỉ hơi cử động là bị hai người đó nhìn thấy ngay
nhưng cũng không thể nào cứ ngồi đó mãi.
Ông hơi trầm ngâm, nhặt một viên đá nhỏ, giơ ngón tay búng ra. Kình lực ông
sử dụng thật khéo, lúc đầu thì chậm nhưng sau thì nhanh, lúc mới bắn ra
không có chút thanh âm nào nhưng được bảy tám trượng rồi mới rít lên thật
mạnh, lao thẳng vào gốc cây nghe cạch một tiếng gây ra một tiếng động lạ.
Hai nhà sư kia vội khom lưng chạy tới. Kiều Phong đợi cho hai nhà sư đó qua
khỏi mình rồi mới tung mình nhảy lên, lẻn luôn vào căn nhà ở bên cạnh, dưới
ánh trăng nhìn rõ biển ngạch viết ba chữ Bồ Đề Viện. Ông biết rằng hai nhà sư
kia không thấy gì khác lạ thể nào cũng quay trở về, thành thử không ngừng
mà lại chạy thẳng ra phía sau, xuyên qua tiền đường chạy vào hậu điện.
Chỉ trong chớp mắt đã thấy một bóng người cao lớn nhanh nhẹn dị thường ở
phía sau chạy vụt qua, thân pháp trên đời ít gặp. Kiều Phong kinh hãi nghĩ
thầm: “Hảo thân thủ, người đó là ai đây?’. Ông thu chưởng về hộ vệ thân thể,
quay đầu nhìn lại, không khỏi bật cười, thấy trước mặt là một đại hán giơ một
tay lên thủ thế, khom người nép mình, giữ miếng đằng trước mặt, khí thế trịnh
trọng như hòn núi. Thì ra trước mặt pho tượng trong hậu điện là một chiếc
bình phong, trên tấm bình phong có gắn một chiếc gương đồng cực lớn, chùi
sáng bóng lộn, tấm kính chiếu rõ thân mình, trên tấm gương có khắc bốn
hàng kinh, trước tượng Phật là hai ngọn đèn dầu, dưới ánh sáng lờ mờ vẫn
còn đọc được:
Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng huyễn bào ảnh.
Như lộ diệc như điện,
Đương tác như thị quan.
Những gì có tướng có hình,
Khác gì bóng nước phập phồng chơi vơi.
Mong manh hạt móc giữa trời,
Thấy kia thoắt đó đã rời thế gian.
Kiều Phong mỉm cười quay đầu lại, đang toan cất bước, bỗng dưng tưởng như
bị ai đánh mạnh vào đầu, lập tức ngẩn ngơ, chỉ trong một chớp mắt ông
dường như nghĩ đến một việc cực kỳ trọng yếu nhưng việc đó là việc gì thì mơ
mơ hồ hồ không tìm ra.
Ngẩn người ra một lát, vô ý lại nhìn vào trong chiếc gương đồng, thấy bóng
sau lưng của mình mới chợt tỉnh ngộ: “Mới rồi ta vừa nhìn thấy bóng sau lưng
mình vậy là ở đâu ra? Ta cũng chưa từng thấy chiếc gương nào lớn đến thế
này thì cách nào mà lại nhìn thấy bóng sau lưng mình được?”. Ông còn đang
xuất thần bỗng nghe bên ngoài có tiếng chân người, vài người đi vào trong
điện.
Còn đang hoang mang chưa biết trốn chỗ nào, thấy trên bàn thờ có ba pho
tượng Phật, vội vàng lẻn lên nép vào sau lưng pho tượng thứ ba. Nghe tiếng
chân cả thảy sáu người, chia thành hai hàng, song song đi vào hậu điện mỗi
người ngồi trên một chiếc bồ đoàn. Kiều Phong từ sau pho tượng nhìn ra, thấy
cả sáu nhà sư đều tuổi trung niên, nghĩ thầm: “Nếu như lúc này mình lẻn ra
ngoài hậu điện, sáu nhà sư võ công chỉ bình thường thì không thể nào biết
được, thế nhưng nếu chỉ có một người nội công cao thâm, mắt tinh tai thính
thì sẽ phát giác ngay. Chi bằng chờ đây thêm một chút nữa rồi hãy tính”.
Bỗng nghe nhà sư đầu tiên mé phải nói: -Sư huynh, Bồ Đề Viện trống không
như thế sao lại có kinh thư là thế nào? sao sư phụ lại sai chúng ta đến trông
chừng đề phòng địch nhân đến ăn trộm?
Nhà sư bên trái mỉm cười nói: -Đây là chỗ bí mật của Bồ Đề Viện, không nên
nói nhiều.
Nhà sư bên phải lại tiếp: -Hừ, tiểu đệ xem chừng sư huynh cũng không biết
nốt.
Nhà sư phía bên phải bị khích chịu không nổi bèn nói: -Ta không biết thật
chăng? “Nhất mộng như thị” …
Y mới nói nửa chừng chợt nhớ phải cảnh giác lập tức ngưng bặt. Nhà sư bên
phải lại hỏi: -Cái gì mà lại “nhất mộng như thị”?
Nhà sư ngồi hàng thứ hai liền nói: -Chỉ Thanh sư đệ, bình thời ngươi đâu có
lắm mồm lắm miệng, sao hôm nay lại cứ nhì nhằng hỏi mãi thế? Nếu ngươi
muốn biết bí mật của Bồ Đề Viện sao không đi hỏi sư phụ của ngươi đi?
Nhà sư tên Chỉ Thanh kia không dám hỏi thêm nữa, một lát sau mới nói: -Để
tôi ra sau đi giải một chút.
Y nói xong liền đứng lên. Y từ phía phải đi về phía cửa hông bên trái, vừa đến
sau lưng người thứ năm, đột nhiên giơ chân phải lên, đá trúng ngay huyệt
Huyền Khu ở sau lưng. Huyệt Huyền Khu ở vào vị trí bên dưới đốt xương sống
thứ mười ba. Nhà sư đó đang ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, huyệt Huyền Khu
nằm ngay sát mép chiếu, bị đầu ngón chân của Chỉ Thanh đá trúng, thân hình
liền từ từ ngã xuống bên phải. Gã Chỉ Thanh kia ra tay thật nhanh, lại nhẹ
nhàng không có chút động tịnh gì, tiếp theo liền đá vào huyệt Huyền Khu của
nhà sư thứ tư, rồi kế đó nhà sư thứ ba, chỉ trong nháy mắt đã đánh ngã liền
ba người.
Kiều Phong ngồi đằng sau tượng Phật nhìn thấy rõ ràng, trong bụng kỳ lạ,
không hiểu vì lý do gì mà nhà sư kia lại giở trò tấn công đồng bọn. Lại thấy gã
Chỉ Thanh giơ chân lên đá vào nhà sư thứ hai ở bên trái, đầu mũi chân vừa
đụng vào huyệt đạo y thì hai trong số ba nhà sư bị điểm huyệt liền từ bồ đoàn
ngã lăn ra, đầu đụng vào gạch lát trên điện nghe lịch bịch. Nhà sư bên trái
giật mình, vội đứng bật dậy xem thế nào, vừa kịp thấy Chỉ Thanh giơ chân đá
ngã người ngồi bên hữu, lại càng kinh hãi quát lên: -Chỉ Thanh, ngươi làm gì
thế?
Chỉ Thanh giơ tay chỉ ra ngoài nói: -Xem kìa, ai đến thế kia?
Nhà sư kia quay đầu nhìn ra, Chỉ Thanh liền tung chân bên phải, đá mạnh vào
sau lưng y. Cú đá đó cực kỳ nhanh, thể nào cũng trúng mới phải, thế nhưng
chiếc gương đồng ở phía trước chiếu rõ ràng ngón đòn đánh lén kia, nhà sư
liền nghiêng người tránh qua, đánh trả lại một chưởng, kêu lên: -Ngươi có
điên không?
Chỉ Thanh xuất chưởng nhanh như gió, đấu đến chiêu thứ tám thì nhà sư kia
bị trúng một quyền vào bụng dưới, tiếp theo lại bị bồi thêm một cú đá. Kiều
Phong thấy Chỉ Thanh ra chiêu âm nhu độc địa, xem chừng không phải gia số
của phái Thiếu Lâm, trong lòng càng thêm lạ lùng.
Nhà sư kia biết mình không địch lại, vội kêu lên: -Có gian tế, có gian tế …
Chỉ Thanh nhảy vụt tới, tả quyền đấm luôn vào ngực y, nhà sư đó lập tức lăn
ra bất tỉnh. Chỉ Thanh vội chạy tới trước chiếc gương đồng, giơ ngón tay trỏ
bên phải, vặn vào chữ “nhất” ở hàng kinh văn đầu tiên một cái. Kiều Phong lại
thấy y mò xuống xoay chữ “mộng” ở hàng thứ hai, nghĩ thầm: “Nhà sư kia nói
bí mật là “nhất mộng như thị”, nhưng trên tấm gương có đến bốn chữ như,
không biết y xoay chữ như nào?”.
Chỉ thấy Chỉ Thanh giơ ngón tay vặn chữ “như” đầu tiên ở hàng thứ ba, rồi
tiếp theo vặn chữ “thị” ở hàng thứ tư. Tay y chưa rời khỏi tấm gương đã nghe
tiếng kẹt kẹt, tấm gương đồng chầm chậm ngả ra.
Nếu như lúc này Kiều Phong muốn trốn đi thì quả là dịp bằng vàng nhưng ông
nổi dạ hiếu kỳ, muốn biết vì lý do gì mà nhà sư Thiếu Lâm kia lại làm hại đồng
môn, sau tấm gương đồng có cái gì không chừng có thể liên quan đến việc
Huyền Khổ đại sư bị hại.
Nhà sư phía bên trái khi bị Chỉ Thanh đánh ngã đã kêu toáng lên, chùa Thiếu
Lâm vốn dĩ có hơn một trăm nhà sư đang đi tuần ở phía tây núi, vừa nghe
tiếng vội vàng lục tục chạy đến, bốn bề đông tây nam bắc của Bồ Đề Viện chỗ
nào cũng có tiếng chân rầm rập.
Kiều Phong trong bụng chần chừ: “Không thể để cho bọn họ thấy được tung
tích của ta”. Thế nhưng các nhà sư đã kéo đến rồi, mọi người ai ai cũng chăm
chăm nhìn Chỉ Thanh, cơ hội thoát thân vẫn còn rất nhiều, chẳng việc gì phải
vội vàng đào tẩu. Ông thấy Chỉ Thanh giơ tay mò mò trong một cái lỗ hổng
phía sau tấm gương nhưng không lấy được gì cả. Vừa ngay lúc đó, tiếng chân
người từ phương bắc chạy đến đã ngừng ngay trước cửa Bồ Đề Viện.
Chỉ Thanh dậm chân, xem ra cực kỳ thất vọng, đang định xoay mình bỏ đi, đột
nhiên khom mình thò đầu vào phía sau chiếc gương, vui mừng nói: -Ở đây rồi!
Y giơ tay cầm lấy một chiếc bao nhỏ bỏ vào túi rồi toan tìm đường chạy, thế
nhưng khi đó bốn phía đã có rất đông sư sãi bao vây, không còn đường nào
nữa. Chỉ Thanh nhìn quanh quất rồi chạy ra lối cửa trước của Bồ Đề Viện. Kiều
Phong nghĩ thầm: “Gã này bỏ chạy ra thể nào cũng bị bắt ngay”. Ngay lúc đó,
bỗng thấy có hơi gió ập tới, có người đã xông vào chỗ ông đang ẩn mình. Kiều
Phong nghe gió biện hình, tay trái vươn ra đã chộp ngay được cổ tay địch
nhân, tay phải liền thò ra đè luôn vào huyệt Thần Đạo trên lưng y, nội lực nhả
ra gã kia liền toàn thân mềm nhũn không còn động đậy gì được nữa.
Kiều Phong bắt được kẻ địch rồi, chăm chú nhìn kỹ tướng mạo y, tưởng ai hóa
ra Chỉ Thanh. Ông ngạc nhiên một chút lập tức hiểu ra: “Thì ra là thế! Gã này
cũng tính toán như ta, chui vào đằng sau tượng Phật để trốn, khéo làm sao lại
đúng ngay pho tượng thứ ba, chắc là vì pho tượng này to hơn cả. Vì cớ gì lúc
đầu y chạy ra cửa trước, rồi lại len lén quay trở vào đây? Ồ, dưới đất có năm
nhà sư nằm đó, nếu người khác chạy vào hỏi, cả năm người đều nói là y đã
chạy ra cửa trước rồi, mọi người sẽ không ai tra xét gì Bồ Đề Viện nữa. Ôi,
người này quả là lắm mưu mẹo”.
Kiều Phong trong bụng nghĩ thầm không thể nào thả Chỉ Thanh ra, bèn ghé
vào tai y nói nhỏ: “Nếu ngươi há mồm kêu, ta sẽ một chưởng đánh chết ngươi
ngay, có biết không?”. Chỉ Thanh gật đầu.
Ngay lúc đó từ cửa cái bảy tám nhà sư chạy vào, trong đó có ba người cầm
đuốc, đại điên liền sáng bừng lên. Chúng tăng nhìn thấy trong đại điện có năm
nhà sư ngã lăn nơi đó, lập tức xôn xao lên: -Gã ác tặc Kiều Phong kia lại hạ
độc thủ rồi!
-Ồ, Chỉ Trầm, Chỉ Uyên sư huynh đây mà!
-Ôi chao! Không xong rồi! Chiếc gương đồng này sao bị đẩy ra? Kiều Phong ăn
cắp kinh thư ở Bồ Đề Viện rồi!
-Mau mau bẩm báo phương trượng.
Kiều Phong nghe mấy người đó lao xao bàn tán, chỉ đành gượng cười: “Cái
món nợ này lại đổ lên đầu ta”. Chỉ trong giây lát, số nhà sư chạy vào điện mỗi
lúc một đông. Kiều Phong thấy Chỉ Thanh giãy giụa toan đào tẩu thoát thân
liền rõ ngay ý định: “Lúc này quần tăng tụ tập ở trên điện, Chỉ Trầm, Chỉ Uyên
cả bọn chưa tỉnh, chính là cơ hội tốt để Chỉ Thanh bỏ đi, y cứ việc tự nhiên
chạy ra ngoài không ai nghi ngờ vì người nào cũng đổ riệt cho ta là hung thủ”.
Ông lại lập tức nghĩ ngay: “Gã Chỉ Thanh này cũng chưa phải là tinh khôn cho
lắm chứ lúc nãy y việc gì phải trốn vào đây? Y từ trong điện đi ra, đâu có ai hỏi
han gì mà sợ?”.
Đột nhiên trong điện tất cả mọi người đều im bặt, không còn ai mở miệng nói
một lời nào, kế đó chúng tăng đồng thanh nói: -Tham kiến phương trượng,
tham kiến thủ tọa Đạt Ma Viện, tham kiến thủ tọa Long Thụ Viện.
Chỉ nghe lốp bốp mấy tiếng nhẹ, ai đó đã xuất chưởng vỗ bọn năm nhà sư Chỉ
Trầm, Chỉ Uyên tỉnh lại, rồi có người hỏi: -Lại do Kiều Phong ra tay hay sao?
Làm sao y biết được bí mật của tấm gương đồng?
Chỉ Trầm đáp: -Không phải Kiều Phong mà là Chỉ Thanh …
Đột nhiên y tung mình nhảy lên chửi: -Giỏi nhỉ, vì cớ gì ngươi ra tay ám toán
đồng môn?
Kiều Phong nấp ở sau lưng pho tượng không thể đoán được y đang chửi ai.
Chỉ nghe tiếng một người kinh hãi kêu lên: -Chỉ Trầm sư huynh, sao sư huynh
lại nắm tôi?
Chỉ Trầm giận dữ đáp: -Ngươi đá ngã năm người chúng ta, ăn trộm kinh thư,
thật là lớn mật. Bẩm cáo phương trượng, phản tặc Chỉ Thanh lén mở đồng
kính trong Bồ Đề Viện ăn trộm kinh thư giấu trong đó.
Người kia kêu lên: -Cái gì? Cái gì? Tôi từ nãy vẫn ở bên cạnh phương trượng,
làm sao có thể ăn trộm kinh được?
Một giọng nói già nua khàn khàn nói: -Hãy đóng chiếc gương đồng lại đã rồi kể
lại tình hình xem ra thế nào?
Chỉ Uyên đến đóng chiếc gương lại như cũ. Nhờ thế tình hình quần tăng trên
điện thế nào Kiều Phong đều nhìn trong tấm đồng kính thật rõ ràng thấy một
nhà sư hoa chân múa tay, cực kỳ khích động. Kiều Phong đưa mắt nhìn y
không khỏi hoảng hốt giật mình, thì ra người đó chính là Chỉ Thanh. Kiều
Phong ngạc nhiên quay đầu nhìn lại nhà sư bị ông bắt được ngồi bên cạnh
thấy tướng mạo so với người ở dưới kia không khác một mảy, nhìn kỹ lắm cũng
chỉ thấy khác đôi chút, thế nhưng chỉ thoạt nhìn qua thì không thể nào phân
biệt được. Kiều Phong nghĩ thầm: “Trên đời này người có hình dáng giống
nhau như thế quả là hiếm có. Đúng rồi, chắc hai người là anh em sinh đôi.
Mẹo này thật hay, một người xuất gia ở chùa Thiếu Lâm, một người ở ngoài
chờ đợi, đợi đúng thời cơ liền ăn mặc giả làm sư vào ăn trộm kinh. Gã Chỉ
Thanh kia nếu như một bước không rời phương trượng thì không ai có thể
nghi y được”.
Chỉ nghe Chỉ Trầm kể lại Chỉ Thanh làm cách nào thám thính được bí mật của
chiếc gương đồng, mình vô ý nói hớ bốn chữ ra sao, Chỉ Thanh giả bộ ra ngoài
đi tiểu rồi lén tấn công bốn người, sau đó động thủ đánh ngã mình. Trong khi
Chỉ Trầm kể chuyện, bọn bốn người Chỉ Uyên liên tiếp phụ họa, chứng thực lời
của y không sai chút nào.
Huyền Từ phương trượng từ đầu chí cuối thần sắc vẫn thản nhiên, đợi cho Chỉ
Trầm nói xong mới chậm rãi hỏi lại: -Ngươi nhìn rõ chứ? Quả đúng là Chỉ
Thanh chăng?
Chỉ Trầm và cả bọn Chỉ Uyên cùng đáp: -Bẩm cáo phương trượng, chúng đệ tử
và Chỉ Thanh không thù không oán lẽ nào lại vu hãm cho y?
Huyền Từ thở dài: -Chuyện này xem ra có gì khác lạ, Chỉ Thanh vốn dĩ ở bên
cạnh ta không hề rời xa, cà thủ tọa Đạt Ma Viện cũng có mặt.
Phương trượng nói ra như thế, quần tăng trên điện còn ai dám nói gì hơn. Thủ
tọa Đạt Ma Viện là Huyền Nạn đại sư cũng nói: -Chính thị, ta cũng thấy Chỉ
Thanh hầu hạ phương trượng sư huynh, làm sao y có thể đến Bồ Đề Viện để
trộm kinh được?
Thủ tọa Long Thụ Viện Huyền Tịch liền hỏi: -Chỉ Trầm, gã Chỉ Thanh kia khi
động thủ quá chiêu với ngươi, quyền cước có điểm gì khác lạ chăng?
Giọng ông ta đúng là người già nua khàn khàn khi nãy. Chỉ Trầm kêu lên một
tiếng đáp: -Đúng rồi! sao đệ tử lại không nghĩ ra? Gã Chỉ Thanh kia động thủ
cùng đệ tử, sử dụng không phải võ công bản môn.
Huyền Tịch nói: -Thế thì công phu của môn nào phái nào, ngươi có nhìn ra
chăng?
Ông thấy Chỉ Trầm nét mặt hoang mang, không sao trả lời được, bèn hỏi
thêm: -Có phải trường quyền chăng? Hay là đánh nhập nội? Cầm nã thủ? Hay
là Địa Đường, Lục Hợp, Thông Tí?
Chỉ Trầm đáp: -Y … y sử dụng công phu cực kỳ âm độc, mấy lần đệ tử bị trúng
đòn của y.
Huyền Tịch, Huyền Nạn cùng mấy vị lão tăng vai vế cực cao đưa mắt nhìn
phương trượng, ai nấy nghĩ thầm trong chùa hôm nay gặp phải những đối thủ
bản lãnh cực kỳ cao siêu, giở trò đùa cợt, khiến cho ai nấy như chìm vào trong
đám sương mù, kế sách trước mắt là cố làm sao tra xét cho ra, đồng thời gặp
đâu hay đó thấy chuyện quái lạ đừng hoảng hốt nếu không tăng chúng trong
chùa sẽ lo sợ kinh hoàng, e rằng họa hoạn không thể nào giải quyết được.
Huyền Từ chắp hai tay nói: -Kinh thư cất giấu trong Bồ Đề Viện, là Đại Thừa
kinh luận do cao tăng tiền bối viết ra để xiển dương Phật pháp, độ hóa thế
nhân, nếu là đệ tử Phật môn lấy được, niệm tụng nghiên cứu dĩ nhiên có ích
rất nhiều. Còn như kẻ thế tục lấy được không tôn trọng thì tội họa không phải
là nhỏ. Các vị sư đệ, sư điệt, mọi người trở về bản viện nghỉ ngơi đi, những
người có chức vụ thì ai làm việc nấy.
Quần tăng nghe lời đi ra, chỉ còn bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên vẫn cùng Chỉ Thanh
cãi lẫy ỏm tỏi. Huyền Tịch trừng mắt nhìn họ khiến ai nấy hoảng hồn, không
còn dám hó hé gì nữa, cùng Chỉ Thanh đi ra.
Tất cả đi hết rồi, trong điện chỉ còn lại Huyền Từ, Huyền Nạn, Huyền Tịch ba
người ngồi ở trên bồ đoàn ngay trước tượng Phật. Huyền Từ đột nhiên cất lên:
-A Di Đà Phật, tội nghiệp thay, tội nghiệp thay!
Mấy tiếng đó vừa xong, ba nhà sư phi thân nhảy lên, lòn ra phía sau tượng
Phật, từ ba phương vị khác nhau xuất chưởng đánh vào Kiều Phong. Kiều
Phong không ngờ ba nhà sư đã nhìn vào tấm gương đồng phát hiện tung tích
của mình, lại càng không nghĩ đến ba lão tăng già cả lụ khụ chưa nói gì đã
xông lên đánh liền, xuất chưởng uy mãnh nhanh nhẹn đến thế. Chỉ chớp mắt
ông thấy khó thở, ngực như bị đè, ba vị cao tăng Thiếu Lâm hợp kích quả là
ghê gớm. Ông không còn phân biệt được phương hướng của chưởng lực từ
đâu tới, chỉ thấy trái phải trên dưới trước sau chỗ nào cũng bị chưởng lực của
ba nhà sư bao trùm, muốn xông ra chỉ còn một cách là dùng ngạnh công, nếu
không đả thương được đối phương ắt là mình sẽ bị thương. Ông không kịp suy
nghĩ, đành vận sức vào song chưởng đẩy ra đằng trước, nghe lách cách một
tiếng lớn, pho tượng Phật đã bị đẩy ngã. Kiều Phong thuận tay xách luôn Chỉ
Thanh, tung mình nhảy tới, bỗng cẩm thấy sau lưng kình phong lợi hại,
chưởng lực chưa đến thì hơi gió đã tới rồi.
Kiều Phong không muốn đối chưởng đấu sức với các nhà sư Thiếu Lâm, tay
phải liền chộp lấy tấm bình phong trên có gắn tấm gương đồng, xoay tay lật
ngược lại, dùng chiếc bình phong như lá chắn che sau lưng, chỉ nghe choang
một tiếng lớn, một chưởng của Huyền Nạn đã đánh trúng tấm đồng kính, chấn
động khiến cánh tay Kiều Phong ngâm ngẩm tê, bình phong chung quanh tấm
gương vỡ thành mấy mảnh.
Kiều Phong mượn luôn sức chưởng của Huyền Nạn nhảy vọt đến hơn một
trượng về phía trước, bỗng thấy sau lưng có người hít một hơi dài, thanh âm
không phải tầm thường. Kiều Phong biết ngay một nhà sư Thiếu Lâm sắp sử
dụng một loại võ công giống như Phách Không Thần Quyền, tuy không có gì
phải sợ nhưng không muốn đấu công lực với ông ta thành thử cầm chiếc
gương đồng chặn sau lưng, nội lực dẫn lên cánh tay bên phải.
Ngay lúc đó, ông cảm thấy chưởng lực của đối phương xeo xéo đánh tới,
phương vị có vẻ hơi quái dị. Kiều Phong ngạc nhiên, lập tức tỉnh ngộ, nhà sư
kia không đánh thẳng vào lưng ông ta, mà đánh vào hậu tâm Chỉ Thanh. Kiều
Phong và Chỉ Thanh không hề quen biết, cũng chẳng có ý muốn cứu y, nhưng
đã nắm y trong tay, tự nhiên nẩy ra ý muốn chiếu cố nên đẩy chiếc đồng kính
ra bảo vệ cho Chỉ Thanh. Chỉ nghe bộp một tiếng, thanh âm tắt ngúm thì ra
chiếc gương đồng đã bị chưởng lực của Huyền Nạn đánh nứt từ trước, bây giờ
bị thêm Phách Không Chưởng của Huyền Từ thành ra vỡ nát.
Kiều Phong khi giơ chiếc gương ra sau lưng đã kịp nắm Chỉ Thanh nhảy lên
mái nhà, thấy thân thể y nhẹ bỗng, so với tướng tá cao to của y không xứng
chút nào nhưng tiếng vỡ vừa vang lên, ông đang đứng trên mái nhà bỗng thấy
chân không vững, ngã vật trở lại. Từ khi hành tẩu giang hồ, ông chưa từng
gặp phải đối thủ nào lợi hại đến thế, không khỏi hoảng hồn, lập tức quay mình
nhẹ nhàng nhưng vững chãi như một hòn núi đứng xuống đất, khí độ trầm
hùng tưởng chừng như không coi cường địch vây quanh vào đâu.
Huyền Từ liền nói: -A Di Đà Phật, Kiều thí chủ, sao ông đến chùa Thiếu Lâm
giết người chưa đủ lại còn làm hư hại cả tượng Phật là sao?
Huyền Tịch quát lớn: -Nếm một chưởng của ta xem nào!
Song chưởng của ông ta từ bên ngoài đánh vòng vào, rồi từ từ đẩy vào phía
Kiều Phong. Chưởng lực chưa đến, Kiều Phong đã thấy khó thở, chỉ trong
khoảnh khắc chưởng lực của Huyền Tịch chẳng khác nào sóng cả ào ào đổ tới.
Kiều Phong vứt chiếc gương đồng xuống, hữu chưởng đánh trả lại một chiêu
Kháng Long Hữu Hối_ trong Hàng Long Thập Bát Chưởng. Hai luồng chưởng
lực chạm nhau, nghe ầm một tiếng, cả Huyền Tịch lẫn Kiều Phong đều phải lùi
lại ba bước. Kiều Phong chấn động toàn thân thấy như không còn hơi sức, Chỉ
Thanh trong tay tuột ra rơi xuống, nhưng vừa đề chân khí, lập tức tinh thần
sung mãn trở lại, nên không đợi cho Huyền Tịch đánh tiếp chưởng thứ hai,
kêu lên: -Không đấu nữa!
Ông nhắc Chỉ Thanh lên, phi thân trở lên mái nhà. Huyền Nạn, Huyền Tịch
cùng kêu lên một tiếng, lạ lùng vô cùng. Chưởng của Huyền Tịch vừa mới
đánh ra đã tập trung hết công lực bình sinh có tên là Nhất Phách Lưỡng Tán.
Sở dĩ gọi là lưỡng tán là nói về đánh vào đá, đá sẽ vỡ tan văng cả lên người,
còn chính mình cũng hồn phi phách tán. Lộ chưởng pháp đó chỉ có một chiêu,
chỉ vì chưởng lực quá ư hùng hồn nên khi đối địch không cần sử dụng lần thứ
hai kẻ địch đã toi mạng rồi. Chưởng đó sử dụng nội lực bài sơn đảo hải làm cơ
sở, dẫu có muốn biến chiêu hay thay đổi thế đánh cũng không ai làm nổi. Ngờ
đâu Kiều Phong tiếp chiêu đó rồi, đã chẳng chết ngay tại đương trường mà chỉ
trong một thời gian rất ngắn đã hồi sức, cầm người nhảy lên mái nhà chạy
mất.
Huyền Nạn than thở: -Võ công người này quả là giỏi thật.
Huyền Tịch nói: -Nếu như không sớm trừ khử đi, e rằng hậu hoạn không biết
đến đâu mà kể.
Huyền Nạn liên tiếp gật đầu, còn Huyền Từ nhìn theo phía Kiều Phong vừa bỏ
đi, ngẩn người ra không nói năng gì.
Khi Kiều Phong bỏ đi, ông quay đầu lại nhìn tấm gương đồng bị Huyền Từ
phương trượng đánh một quyền nát vụn ra thành mấy chục mảnh tứ tán dưới
đất, mảnh nào cũng có bóng sau lưng ông. Kiều Phong đột nhiên thấy lòng
bàng hoàng: “Vì sao mỗi lần ta nhìn thấy bóng sau lưng mình, trong bụng có
điều gì bất ổn? Không biết có chuyên gì khác thường?”. Khi đó ông đang gấp
gáp chuyện rời khỏi chùa Thiếu Lâm, trong đầu tuy nổi một mối nghi hoặc
nhưng đang vội vã nên cũng liền quên ngay.
Đường trong núi Thiếu Thất ông rất quen thuộc, luồn xuống sau núi rồi liền
kiếm những đường mòn cheo leo mà đi, chạy luôn mấy dặm không nghe tiếng
các nhà sư đuổi theo, nên cũng yên dạ, bèn bỏ Chỉ Thanh xuống đất quát lớn:
-Thôi ngươi tự mình đi đi nhưng đừng nghĩ tới chuyện đào tẩu.
Ngờ đâu Chỉ Thanh chân vừa chạm đất đã nhũn ra, thân hình co quắp, tưởng
chừng đã chết rồi. Kiều Phong ngạc nhiên, vội đưa tay sờ mũi y, thấy hơi thở
lúc có lúc không, rất là yếu ớt liền cầm tay xem mạch thấy nhảy cũng rất
chậm, xem chừng sắp chết đến nơi.
Kiều Phong nghĩ thầm: “Ta trong bụng còn bao nhiêu chuyện ngờ vực đang
tính hỏi ngươi, không thể để cho mi chết dễ dàng như thế được. Gã hòa
thượng này lọt vào tay mình, e rằng sợ âm mưu bại lộ nên uống một loại thuốc
độc cực mạnh để tự sát”.
Ông vội vàng sờ lên ngực y để xem tim còn đập hay không, bỗng thấy như sờ
vào vật gì mềm mại, dường như nhà sư đó là một người đàn bà. Kiều Phong
vội vàng rụt tay về, càng thấy lạ lùng hơn: “Y … y là đàn bà giả trang ư?”.
Trong đêm tối không cách nào nhìn kỹ mặt mũi y ra sao. Ông là một con người
hào phóng khoát đạt, không nề tiểu tiết, không phải như Đoàn Dự mê sách
giữ kẽ, có rất nhiều cố kỵ nên nắm lưng Chỉ Thanh nhắc lên, quát hỏi: -Ngươi
là đàn ông hay là đàn bà? Ngươi nếu không nói thực, ta sẽ lột hết quần áo
ngươi ra xem cho rõ.
Môi Chỉ Thanh mấp máy dường như định nói gì nhưng không phát xuất được
lời nào, đủ biết tính mạng đang lâm nguy chỉ còn treo trên sợi tóc. Kiều Phong
nghĩ bụng: “Bất luận người này là nam hay nữ, kẻ tốt hay người xấu cũng
không thể để y chết như thế này được”. Ông bèn giơ chưởng phải ra đè vào
sau lưng y, dưa chân khí từ đan điền ra từ bụng lên cánh tay, từ cánh tay
xuống lòng bàn tay truyền vào thân thể Chỉ Thanh, dẫu không cứu được tính
mạng y thì cũng có thể hỏi y được vài điều manh mối. Một lúc sau, mạch Chỉ
Thanh dần dần mạnh lên, hô hấp cũng đều trở lại. Kiều Phong thấy y nhất thời
không chết nữa, trong bụng cũng đỡ lo nghĩ thầm: “Nơi đây cách chùa Thiếu
Lâm chưa xa không nên ở lâu”. Ông liền bồng Chỉ Thanh ngang trên hai tay,
rảo bước đi về phía hướng tây bắc.
Khi đó ông mới thấy thân hình Chỉ Thanh cực kỳ nhẹ nhàng, không tương
xứng với dáng dấp cao to của y chút nào, nghĩ bụng: “Ta lột quần áo y ra thì
không ổn nhưng chẳng lẽ đến giày vớ y mình cũng không cởi được hay sao?”.
Ông giơ tay kéo tăng hài bên phải của y, nắm vào thấy cứng ngắc không phải
thịt da người, hơi kéo mạnh một cái, một vật gì đó theo tay tuột ra, hóa ra là
một chiếc chân giả làm bằng gỗ. Ông thò tay mò chân Chỉ Thanh gặp ngay
một bàn chân nhỏ nhắn mềm mại. Kiều Phong kêu lên một tiếng, nghĩ thầm:
“Quả nhiên là một người đàn bà”.
Ông lập tức thi triển khinh công, chạy mỗi lúc một nhanh, đến khi trời tờ mờ
sáng, tính ra phải cách chùa Thiếu Lâm đến hơn năm chục dặm, bèn ôm Chỉ
Thanh đến một khu rừng nhỏ ở gần bên, gặp một khe suối chảy ngang liền đi
đến bên dòng nước, vốc nước vỗ lên mặt Chỉ Thanh, lại dùng tay áo cà sa lau
mấy cái, đột nhiên từng mảng từng mảng thịt da lả tả rơi xuống. Kiều Phong
sợ đến nhảy dựng lên: “sao da thịt cô ta lại rã nát ra thế này?”. Ông chăm chú
nhìn, thấy bên dưới những mảng da lở loét, là làn da mịn màng nhẵn nhụi
trắng ngần.
Chỉ Thanh được Kiều Phong ôm chạy đi vốn dĩ nửa tỉnh nửa mê, lúc này mặt bị
vã nước lạnh liền mở mắt ra, nhìn thấy Kiều Phong, gượng nở một nụ cười, nói
nhỏ: -Kiều bang chủ!
Thế nhưng vì quá yếu đuối, chỉ gọi được một tiếng rồi lại nhắm mắt thiếp đi.
Kiều Phong thấy khuôn mặt nàng loang loang lổ lổ, chỗ lồi chỗ lõm nhìn không
ra tướng mạo thế nào, liền lấy tay áo cô ta đem nhúng xuống nước, lau mạnh
lên mặt mấy cái, bao nhiêu phấn đóng trên mặt trôi đi, lộ ra khuôn mặt xinh
tươi của một thiếu nữ. Kiều Phong thất thanh kêu lên: -Hóa ra là A Châu cô
nương!
Kẻ giả trang làm Chỉ Thanh lẻn vào Bồ Đề Viện chùa Thiếu Lâm chính là A
Châu, thị tì của Mộ Dung Phục. Thuật dị dung cải trang của nàng quả là siêu
tuyệt, dùng chân gỗ nâng cao người lên, lấy bông độn vai độn bụng, lại dùng
bột mì trộn hồ đắp cho mặt phồng lên, đội tăng mạo, mặc tăng bào khiến cho
những người thường ngày vẫn gặp Chỉ Thanh như bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên
cũng không nhận ra nổi.
Nàng còn đang mơ mơ hồ hồ nghe Kiều Phong gọi “A Châu cô nương” đã toan
đáp lời, lại muốn giải thích vì sao mình lẻn vào chùa Thiếu Lâm nhưng không
còn chút lực khí nào nữa, ngay cả lưỡi cũng không còn sử dụng được nên một
tiếng “Ừ” cũng nói không ra.
Lúc đầu Kiều Phong cho rằng Chỉ Thanh là kẻ gian trá hiểm độc, cái chết của
cha mẹ và sư phụ mình chắc có liên quan mật thiết đến y nên đành hao phí
khí lực cứu y cốt để tra xét cho rõ ngọn nguồn, trong lòng đã định bụng nếu y
không nói thì sẽ dùng những độc hình khảo đả bức bách cho ra.
Ngờ đâu khi bộ mặt thật lộ ra rồi, hóa ra lại là cô nàng A Châu hình dáng ẻo lả,
xinh đẹp dễ thương, quả thật dẫu nằm mơ cũng không tin nổi. Kiều Phong tuy
đã từng gặp mặt A Châu, A Bích vài lần, lại cứu hai nàng từ tay các võ sĩ Tây
Hạ nhưng nào có biết A Châu giỏi tài hóa trang, giá như Đoàn Dự thì chắc
chàng đã đoán ra rồi.
Kiều Phong lúc này đã biết nàng không phải trúng độc, mà chỉ vì bị thương bởi
chưởng lực, hơi suy nghĩ một chút đã biết được lý do, lúc trước Huyền Từ
phương trượng dùng Phách Không Chưởng đánh tới, mình dùng tấm gương
đồng che chở nên không trúng phải A Châu nhưng vì tay trái giơ nàng lên,
chưởng lực kinh người kia cũng truyền tới cô gái. Ông nghĩ ra được chuyện đó
rồi không khỏi hối hận: “Nếu ta không xen vào chuyện người khác cứ để nàng
muốn đến thì đến, muốn đi thì đi thì nàng đã thoát thân rồi, không đến nỗi
mắc đại nạn hôm nay”.
Ông trong bụng vốn đã coi trọng Mộ Dung Phục, nể thần nể cả cây đa, đối với
người thị tì cũng lấy mắt xanh mà đãi nên nghĩ thầm: “Nàng ta sở dĩ bị trọng
thương như thế này cũng chỉ vì mình mà ra. Nói gì thì nói, thể nào cũng phải
tìm đến thị trấn, kiếm thầy lang chữa trị cho khỏi mới xong”. Ông bèn nói: -A
Châu cô nương, để ta bồng cô đến thị trấn trị thương.
A Châu đáp: -Trong túi tôi có thuốc đó.
Nói xong nàng giơ tay lên nhưng không có hơi sức nào thò vào bọc. Kiều
Phong lấy các đồ trong túi nàng ra, ngoại trừ một số bạc vụn, thấy có một sợi
xích vàng đúc thật tinh xảo, trên sợi xích có khắc hai hàng chữ nhỏ:
Thiên thượng tinh,
Lượng tinh tinh,
Vĩnh xán lạn,
Trường an ninh.
sao trên trời,
Sáng lấp lánh.
Vĩnh chiếu tỏa,
Mãi an ninh.
Ngoài ra còn có một hộp ngọc nhỏ màu trắng, chính là chiếc hộp Đàm công
tặng nàng nơi rừng hạnh. Kiều Phong mừng thầm, biết rằng thương dược này
cực kỳ linh nghiệm bèn nói: -Cứu tính mạng cho cô là quan trọng, xin đừng
trách cứ.
Ông bèn đưa tay cởi áo nàng ra lấy Băng Thiềm Cao xoa lên trên ngực. A Châu
thẹn đến chín người nhưng không sao tránh né được, vết thương đau nhói lên
lại ngất đi.
Kiều Phong mặc áo lại cho cô gái, bỏ chiếc hộp bạch ngọc và chiếc dây xích
vàng vào túi nàng, còn số bạc vụn thì bỏ vào túi mình, đưa tay bồng cô ta lên,
rảo bước đi về hướng bắc. Đi được độ hơn hai chục dặm, đến một thị trấn lớn
nhà cửa sầm uất tên là Hứa Gia Tập. Kiều Phong tìm đến khách điếm lớn nhất,
thuê hai phòng, lo liệu cho A Châu nằm yên rồi mới đi mời một thầy thuốc đến
khám bệnh.
Thầy lang đó bắt mạch A Châu xong, liên tiếp lắc đầu nói: -Bệnh của cô nương
không có thuốc nào chữa nổi, thang thuốc này tôi cắt chỉ là làm hết sức đấy
thôi.
Kiều Phong thấy toa thuốc có các vị cam thảo, bạc hà, cát cánh, ngưu hạ đều
là những loại thuốc ôn hòa, đến trị đau bụng cũng không xong. Ông không đi
cắt thuốc nghĩ thầm: “Nếu như linh dược của Đàm công ở Xung Tiêu Động trị
cũng không được thì thuốc của một lang băm ở thị trấn này có ích lợi gì”. Nói
rồi lại vận chân khí, dùng nội lực chuyển vào thân thể nàng. Chỉ trong khoảnh
khắc, gò má A Châu lại hồng lên nói: -Kiều bang chủ, may mà được ông cứu,
nếu như rơi vào tay bọn giặc trọc kia thì tính mạng thiếp chắc chẳng còn.
Kiều Phong nghe nàng nói thấy trung khí sung túc rất lấy làm vui mừng: -A
Châu cô nương, ta cứ lo là cô không khỏi được.
A Châu đáp: -Ông đừng gọi tôi là cô nương chi chi nữa, cứ gọi A Châu không
cũng được rồi. Kiều bang chủ, ông tới chùa Thiếu Lâm làm gì vậy?
Kiều Phong đáp: -Ta nào có còn làm bang chủ nữa đâu, từ rày đừng gọi là
bang chủ nữa nhé.
A Châu đáp: -Ồ, xin lỗi ông. Thôi thiếp gọi ông là Kiều đại gia.
Kiều Phong nói: -Để ta hỏi cô trước, cô đến chùa Thiếu Lâm để làm gì?
A Châu cười đáp: -Ồ, nói ra ông đừng cười là tiểu nữ phá quấy, thiếp nghe nói
công tử chúng tôi đến chùa Thiếu Lâm nên định đi tìm, nói cho công tử biết
chuyện Vương cô nương. Ngờ đâu khi vừa bước chân vào cửa, gã hòa thượng
Chỉ Thanh kia đã hầm hầm hung tợn nói là đàn bà con gái không được vào
chùa Thiếu Lâm. Thiếp tranh cãi với y một hồi, y lại còn mắng thiếp. Thành thử
muốn vào chùa đành phải giả làm y, để xem y làm gì được nào?
Kiều Phong mỉm cười nói: -Cô cải trang vào được chùa Thiếu Lâm mà các nhà
sư không biết cô là đàn bà. sao cô lúc vào được chùa rồi không lộ bộ mặt thật
ra cho những hòa thượng đó coi, bọn họ tức đến vỡ bụng mà chết cũng không
làm gì cô được.
Ông vốn đối với các nhà sư Thiếu Lâm cực kỳ tôn kính, nhưng vì nay Huyền
Khổ đại sư đã chết rồi thứ nữa quần tăng không hỏi cho ra ngô ra khoai đã vu
cho ông ba cái đại tội giết cha, giết mẹ, giết thầy, trong lòng không khỏi hậm
hực.
A Châu ngồi thẳng lên, vỗ tay cười nói: -Kiều đại gia, cái ý đó của ông hay lắm.
Để khi nào tiểu nữ khỏi rồi sẽ giả làm đàn ông đi vào chùa, sau đó sẽ mặc lại
thành đàn bà, nghênh ngang ngồi giữa Đại Hùng Bảo Điện, chọc cho những
nhà sư kia giận đến lăn lộn dưới đất, thế mới thật là thích! A …
Nàng hơi không đủ, thân hình nhũn ra nằm gục xuống giường, không cử động
gì được. Kiều Phong kinh hãi, đưa ngón tay thăm hơi thở, thấy nàng dường
như hô hấp hoàn toàn ngừng hẳn. Ông hốt hoảng, vội vàng đưa bàn tay đè
vào huyệt Linh Đài ở sau lưng cô gái, đem chân khí truyền vào trong người
nàng. Chưa đầy thời gian uống một chén trà, A Châu chầm chậm ngửng đầu
lên, cười mủm mỉm nói: -Chao ôi, sao đang nói chuyện tự nhiên thiếp lại gục
xuống ngủ là thế nào? Kiều đại gia, thiếp thật là không phải.
Kiều Phong biết tình hình xem ra không xong bèn nói: -Cô chưa được khỏe
hẳn, thôi ngủ một chút dưỡng thần.
A Châu đáp: -Thiếp cũng không thấy mệt, có điều ông cực nhọc đêm khuya,
xin đi nghỉ một chút cho lại sức.
Kiều Phong đáp: -Hay lắm, để chốc nữa ta sẽ qua thăm cô.
Ông quay trở lại phòng khách, gọi năm cân rượu và hai cân thịt bò nóng, ngồi
ăn uống một mình. Lúc này trong lòng phiền não, uống rượu vào càng dễ say
nên khi uống hết chỗ rượu đó đã thấy hơi ngà ngà. Ông cầm hai chiếc bánh
bao đem đến phòng A Châu cho cô ta ăn, vào đến phòng gọi luôn hai tiếng
không nghe đáp lại liền đến trước giường thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, gò
má lõm xuống, dường như đã chết rồi.
Ông đưa tay sờ trán cô gái, cũng may vẫn còn âm ấm vội vàng dùng chân khí
cứu chữa. A Châu từ từ tỉnh lại, cầm lấy chiếc bánh, vui vẻ ăn ngay. Đến lúc
này, Kiều Phong biết rằng nàng sở dĩ sống được toàn là nhờ mình dùng chân
khí tục mệnh, nếu không có chân khí truyền vào người thì chỉ chưa đầy một
giờ đã kiệt lực mà chết, nên không biết phải tính sao?
A Châu thấy ông trầm ngâm, mặt lộ vẻ lo lắng bèn nói: -Kiều đại gia, thiếp bị
thương thật là nặng, đến như linh dược của Đàm lão tiên sinh cũng chữa
không được, phải không nào?
Kiều Phong vội nói: -Không, không đâu! Đâu có đến nỗi gì, chỉ nghỉ ngơi vài
ngày là khỏe lại ngay.
A Châu đáp: -Ông đừng nói dối tiện thiếp làm chi. Tự thiếp cũng thấy mình
trong người dường như trống không chẳng có chút hơi sức nào cả.
Kiều Phong đáp: -Cô cứ yên tâm dưỡng bệnh, ta thể nào cũng có cách chữa
được cho cô.
A Châu nghe lời nói của ông biết rằng mình bị thương rất nặng, trong lòng
không khỏi sợ hãi, tay run lẩy bẩy, chiếc bánh bao ăn dở trong tay rơi bịch
xuống đất. Kiều Phong lại tưởng nội lực của nàng hết rồi nên để tay lên trên
huyệt Linh Đài.
A Châu lúc này thần trí đã tỉnh táo, thấy một luồng khí ấm áp từ lòng bàn tay
ông ta cuồn cuộn truyền vào người mình, lập tức chân tay khớp xương thấy
thật dễ chịu. Nàng hơi suy nghĩ liền hiểu ngay mình đã chết đi sống lại mấy
lần, đều nhờ được Kiều Phong cứu tỉnh, trong lòng vừa cảm kích lại vừa kinh
hoàng. Nàng tuy lanh lợi thật nhưng dẫu sao tuổi cũng còn nhỏ, nước mắt lã
chã rơi xuống, nói: -Kiều đại gia, thiếp không muốn chết, ông đừng bỏ rơi
thiếp ở đây.
Kiều Phong nghe nàng nói thật đáng thương, vội vàng an ủi: -Không thể nào
như thế được, cô cứ yên tâm. Kiều Phong này là người thế nào mà lại bỏ rơi
một người bạn đang lúc nguy nan?
A Châu đáp: -Tiểu nữ đâu có xứng đáng làm bạn của ông. Kiều đại gia, liệu
thiếp có chết hay chăng? Người chết đi rồi có thành ma quỉ hay không?
Kiều Phong đáp: -Cô đừng có lo lắng. Cô tuổi còn nhỏ như thế, bị thương nhẹ
như thế này làm gì mà chết được?
A Châu đáp: -Ông không đánh lừa thiếp đấy chứ?
Kiều Phong đáp: -Không đâu!
A Châu nói: -Đại gia là nhân vật anh hùng nổi danh trong võ lâm, ai ai cũng
nói: Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung. Ông và công tử chúng tôi kẻ nam người
bắc ngang ngửa nhau, đã có bao giờ nói mà không làm chưa?
Kiều Phong mỉm cười nói: -Hồi còn bé, ta cũng hay nói láo. Về sau khi hành
tẩu trên giang hồ rồi thì không đánh lừa ai nữa.
A Châu hỏi: -Ông bảo thương thế của tiểu nữ không nặng, thế chẳng là nói láo
là gì?
Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu như cô biết mình bị thương nặng thì trong lòng
thể nào cũng bồn chồn, chữa bệnh lại càng khó khăn thêm. Vì cô nàng nên nói
gì thì nói, cũng đành phải nói láo vậy”. Ông bèn nói: -Ta không nói láo cô đâu.
A Châu thở dài một tiếng nói: -Được rồi, thiếp cũng an tâm. Kiều đại gia, tiểu
nữ cầu xin ông một việc nhé?
Kiều Phong hỏi: -Chuyện gì?
A Châu đáp: -Tối nay ông ở bên cạnh thiếp, đừng đi đâu.
Nàng cho rằng một khi Kiều Phong ra khỏi phòng rồi, liệu chừng mình không
sống được tới khi trời sáng. Kiều Phong đáp: -Được rồi, dẫu cô không nói ta
cũng sẽ ngồi bên cạnh đây với cô. Thôi cô đừng nói nữa, ngủ một giấc cho
ngon đi.
A Châu nhắm mắt lại, một lát sau lại mở mắt ra nói: -Kiều đại gia, thiếp không
ngủ được, lại xin ông một việc nữa, liệu có được chăng?
Kiều Phong hỏi: -Chuyện gì thế?
A Châu đáp: -Khi còn nhỏ mỗi khi thiếp không ngủ được thì mẹ thiếp lại đến
bên cạnh giường hát ru cho thiếp nghe. Chỉ cần hát ba bài là thiếp ngủ say
ngay.
Kiều Phong mỉm cười: -Bây giờ đi kiếm mẹ cô chẳng phải là chuyện dễ dàng.
A Châu thở dài một tiếng, buồn bã nói: -Cha thiếp, mẹ thiếp nào có biết ở đâu,
cũng không biết có còn sống hay đã chết. Kiều đại gia, ông hát cho thiếp nghe
vài khúc, liệu có được chăng?
Kiều Phong gượng cười, một người đàn ông hùng tráng như ông, nay hát ru
cho một cô gái nhỏ ngủ thật chẳng còn ra thể thống gì, bèn đáp: -Ca hát quả
thực ta không biết.
A Châu hỏi lại: -Thế khi còn nhỏ, mẹ ông không hát ru ông hay sao?
Kiều Phong gãi đầu nói: -Cái đó thì dường như là có nhưng ta quên hết rồi.
Dẫu có nhớ thì ta cũng không biết hát.
A Châu thở dài: -Nếu ông không chịu hát thì cũng đành vậy biết sao hơn.
Kiều Phong đấu dịu: -Không phải là ta không chịu hát mà là không biết hát
đấy thôi.
A Châu đột nhiên nghĩ ra một chuyện, vỗ tay reo lên: -À, được rồi, Kiều đại
gia, tiểu nữ lại xin ông một việc khác, lần này ông phải chịu đấy nhé.
Kiều Phong thấy cô gái nhỏ này tính tình thật ngây thơ hồn nhiên, làm chuyện
gì cũng thật ngoài dự liệu, nàng nói lại xin một chuyện khác thật không biết là
chuyện tinh nghịch quái lạ gì bèn hỏi lại: -Cô phải nói ra trước, nếu ta làm
được thì sẽ làm, còn không làm được thì thôi.
A Châu đáp: -Chuyện này ở trên đời chỉ cần bốn năm tuổi cũng đều làm được,
ông thử xem có dễ dàng không nào?
Kiều Phong không để mắc lừa nàng liền đáp: -Thế chuyện đó là chuyện gì cô
cứ nói rõ trước đi đã.
A Châu cười khúc khích nói: -Được rồi, vậy ông kể chuyện cho thiếp nghe đi,
anh em nhà thỏ cũng được mà mẹ con nhà sói cũng hay, thiếp đều ngủ được.
Kiều Phong nhíu mày, trên mặt lộ vẻ gượng gạo. Mới chẳng bao lâu, ông là
một nhân vật khí khái hiên ngang, lãnh tụ quần hùng, bang chủ một đại bang
lớn nhất giang hồ. Chỉ mới vài ngày qua, đã bị người ta bãi chức bang chủ trục
xuất ra khỏi Cái Bang, cha mẹ, sư phụ ba người thân thiết nhất đều qua đời
trong một buổi, đến ngay bản thân mình là Hồ hay là Hán, thân thế cũng chưa
minh bạch, lại mang tội phản nghịch giết ba người thân bao nhiêu việc cùng
đổ lên đầu, chẳng một ai chia xẻ vui buồn, âu cũng đành chịu. Ngờ đâu nơi
khách điếm này, lại bầu bạn một tiểu cô nương để cô đòi ca hát, kể chuyện,
những việc ỉ ôi ăn không ngồi rồi như thế, trước đây ông chỉ nghe nửa câu đã
bưng tai bỏ đi. Ông bình sinh chỉ thích cùng bạn bè uống rượu, đánh đố, nhậu
nhẹt rức lác, càng vui càng hăng, nếu không thì cũng đàm luận chuyện quân
quốc đại sự, nói chuyện thiên hạ anh hùng. Có bao giờ kể chuyện anh em nhà
thỏ mẹ con nhà sói cho người nghe, quả là nực cười.
Thế nhưng chỉ trong một chớp mắt, ông chợt nhìn thấy khuôn mặt A Châu
dung nhan tiều tụy đăm đăm trông đợi, nghĩ thầm: “Nàng bị thương nặng như
thế, xem chừng khó mà qua khỏi được, chỉ dứt một hơi thở là táng mạng
ngay. Nàng muốn nghe kể chuyện, thôi ta cứ thuận miệng kể cho nàng nghe”.
Ông liền nói: -Được rồi, để ta kể chuyện cho cô nghe, chỉ sợ chuyện không hay
thôi.
A Châu vui mừng ra mặt nói: -Thể nào cũng hay lắm, mau mau kể đi.
Kiều Phong tuy nhận lời nhưng bảo ông kể chuyện thì cũng chưa biết nói gì,
một lát sau mới nói: -Thôi, để ta kể chuyện con sói nhé. Ngày xửa ngày xưa có
một ông già đi chơi ở trong núi trông thấy một con chó sói bị người ta trói bỏ
trong một chiếc bao vải. Con chó sói mới khẩn khoản xin ông lão thả nó ra,
ông già liền cởi chiếc bao cho con chó sói ra. Con chó sói …
A Châu ngắt lời: -Con chó sói mới bảo là mình đang đói, đòi ăn thịt ông già,
phải không nào?
Kiều Phong đáp: -Ồ, thì ra truyện này cô nghe rồi.
A Châu đáp: -Đó là chuyện con sói ở trong rừng. Tiểu nữ không thích nghe
truyện trong sách, thiếp muốn nghe truyện ngoài đời kia.
Kiều Phong ngẫm nghĩ rồi nói: -Không phải truyện trong sách mà là truyện
ngoài đời. Được rồi, để ta kể một truyện cậu bé nhà quê cho cô nghe.
Ngày xưa, nơi chân núi có một gia đình rất nghèo, hai vợ chồng chỉ có một
đứa con trai. Khi đứa trẻ lên bảy, thân thể thật là cao lớn, đã đi theo cha lên
núi chặt củi được rồi. Một hôm, người cha bị bệnh mà nhà thì nghèo quá
không dám đi mời thầy lang, cũng không có tiền mua thuốc.
Thế nhưng người cha bệnh mỗi ngày một nặng thêm, không uống thuốc thì
không xong, người mẹ đành đem sáu con gà mái, một rổ trứng đem ra chợ
bán.
Bán tất cả gà lẫn trứng được bốn tiền, người mẹ mới đi mời thầy lang. Thế
nhưng thầy lang kia lại bảo rằng, đường vào trong núi xa quá không muốn đi
xem bệnh, người mẹ hết sức cầu khẩn nhưng gã thầy lang vẫn nhất mực lắc
đầu.
Người mẹ lại quì xuống van lạy, thầy lang mới nói: “Đến xem bệnh ở nơi thâm
sơn cùng cốc như thế, chẳng bõ cái công bị nhiểm lam sơn chướng khí. Có
bốn tiền thì chữa trị được bao nhiêu?”. Người mẹ mới níu vạt áo thầy lang, gã
liền giằng ra, ngờ đâu bà ta nắm chặt quá, nghe soẹt một tiếng chiếc áo rách
ngay một mảnh dài. Thầy lang đó giận quá, mới xô người mẹ ngã lăn ra, lại đá
bồi thêm một cái rõ mạnh, nhất định bắt đền nói là áo này mới may, đáng giá
hai lượng bạc.
A Châu nghe tới đây, nhỏ nhẹ nói: -Gã thầy lang đó quả là quá ư độc ác.
Kiều Phong ngẩng đầu nhìn ra cửa sổ đang tối dần, chậm rãi nói: -Thằng bé ở
bên cạnh mẹ, thấy mẹ nó bị người ta hiếp đáp, liền xông lên, vừa đánh vừa
cắn tên thầy lang. Thế nhưng y chỉ là một đứa bé, có bao nhiêu sức lực nên bị
thầy lang kia xách lên, vứt ra ngoài cửa. Người mẹ vội vàng chạy ra xem con
mình thế nào, gã thầy lang sợ người đàn bà tiếp tục rầy rà liền đóng chặt cổng
lại. Đứa bé trán bị đụng vào một tảng đá, chảy bao nhiêu là máu. Người mẹ sợ
rắc rối nào có dám gõ cửa nhà thầy lang bắt đền, chỉ vừa khóc mếu vừa dắt
con về nhà.
Đứa bé kia khi đi ngang một tiệm đồ sắt, thấy trên sạp bày đầy các loại dao
dùng để giết bò giết heo. Người thợ rèn khi đó đang lo việc mời chào khách
mua cày mua bừa, không để ý, đứa bé liền len lén ăn cắp một con dao nhọn,
giấu dưới áo, đến mẹ nó cũng không hay biết gì cả.
Về tới nhà rồi, người mẹ mới kể lại mọi chuyện cho người cha nghe, lại sợ
người cha bực mình bệnh sẽ nặng thêm, mới lấy bốn lượng bạc ra giao cho
ông ta, ngờ đâu khi thò vào túi thì không còn thấy tiền bạc đâu nữa.
Người mẹ vừa hoảng hốt vừa lạ lùng mới chạy ra hỏi con, thấy đứa bé tay cầm
một con dao sáng loáng, đang mài trên tảng đá liền hỏi: “Con dao đó ở đâu
mà có?”. Thằng bé đâu có dám thú nhận là mình ăn trộm nên nói dối là người
ta cho nó. Mẹ nó dĩ nhiên không tin, thứ dao mới như thế mua ở chợ cũng
phải tiền rưỡi, hai tiền, ai lại dại gì đem cho một đứa trẻ?
Hỏi y ai cho, thằng bé ấp úng không trả lời được. Bà mẹ mới thở dài nói: “Con
ơi! Ba mẹ nghèo khổ, bình thường chẳng bao giờ mua đồ chơi cho con, quả
thật tủi cho con quá. Con mua con dao đó để chơi, thân con trai cũng không
có gì không phải. Thế nhưng tiền còn dư con đưa lại cho mẹ, cha con bị bệnh
mình mua miếng thịt nấu canh cho cha con ăn”. Thằng bé nghe thế liền trợn
mắt hỏi lại: “Tiền dư nào?”. Người mẹ nói: “Thế bốn tiền của mình, con lấy đi
mua dao rồi, phải không nào?”. Đứa trẻ hốt hoảng kêu lên: “Con không có lấy
tiền, con không có lấy tiền”. Cha mẹ y trước nay chưa hề đánh mắng y, tuy chỉ
là một đứa trẻ mấy tuổi nhưng cũng coi y như một người khách, lúc nào cũng
thật nể nang …
Kiều Phong nói đến đây, chợt chột dạ: “Vì sao lại thế nhỉ? Trên đời này cha mẹ
đối với con cái đâu có ai như thế bao giờ, dẫu có thương yêu nuông chiều,
cũng chẳng hề nể nang khách sáo đến thế”. Ông lẩm bẩm nói một mình: -Vì
sao lại có chuyện lạ lùng như thế?
A Châu hỏi lại: -Có gì mà lạ lùng?
Nàng nói đến hai tiếng sau cùng hơi thở chỉ còn mong manh như tơ. Kiều
Phong biết chân khí trong người nàng đã kiệt, lập tức giơ chưởng đè lên lưng
cô gái, đem nội lực truyền vào. A Châu tinh thần tạm khôi phục, thở dài nói: –
Kiều đại gia, mỗi lần ông truyền khí cho thiếp, nội lực của mình lại tiêu hao
một phần. Người luyện võ chân khí nội lực là quan trọng hơn cả, ông đối với
tiểu nữ như thế, A Châu … làm sao đáp đền được?
Kiều Phong cười nói: -Ta chỉ cần tĩnh tọa thổ nạp vài giờ thì nội lực chân khí lại
trở lại bình thường, có gì đâu mà nói chuyện báo đáp? Ta với chủ nhân các cô
Mộ Dung công tử thiên lý thần giao, tuy chưa từng gặp nhau nhưng lòng ta đã
coi y như bạn bè rồi. Cô là người nhà y, việc gì phải coi ta như người xa lạ?
A Châu u uẩn nói: -Cứ mỗi một giờ, chân khí của tiểu nữ lại từ từ cạn sạch, đại
gia chẳng thể nào … chẳng thể nào mãi mãi …
Kiều Phong nói: -Cô cứ yên tâm, thể nào mình cũng kiếm được một thầy lang
y đạo cao minh, trị lành thương thế cho cô.
A Châu mỉm cười: -Chỉ sợ thầy lang đó thấy thiếp nghèo khổ, lại sợ nhiễm lam
sơn chướng khí, không chịu chữa bệnh cho. Kiều đại gia, câu chuyện ông kể
còn dở dang, có cái gì gọi là kỳ quái?
Kiều Phong đáp: -Ồ, ta buột miệng lỡ lời đấy mà. Người mẹ thấy thằng bé
không nhận, cũng chẳng nói thêm, quay trở vào phòng. Một hồi sau, đứa trẻ
mài dao xong đi vào thấy người mẹ đang thì thầm với cha nói là y ăn cắp tiền
mua dao rồi nhưng lại không nhận. Cha y nói: “Đứa trẻ đó ở với chúng ta
trước nay chẳng có gì chơi, nếu nó thích gì thì cứ mặc kệ, mình chớ để nó
thêm tủi”. Hai người vừa nói tới đây thấy thằng bé đi vào, lập tức im bặt.
Người cha vui vẻ xoa đầu y nói: “Con ngoan, từ rày đi chơi nhớ cẩn thận, sao
để va vào đâu đau đến thế?”. Việc mất bốn lượng bạc và việc y mua con dao,
cha y không nhắc đến một câu, cũng không tỏ ra chút gì gọi là không vui cả.
Thằng bé tuy chỉ mới bảy tuổi đầu nhưng đã sớm biết, nghĩ thầm: “Cha mẹ ta
nghi mình ăn cắp tiền đi mua dao, thà rằng hai người hầm hầm đánh ta một
trận, chửi ta một chốc, ta cũng chẳng buồn. Quả thật hai người thương ta
thật”. Y trong lòng không an mới nói với cha: “Cha, con không lấy tiền, con
dao này không phải con mua đâu!”. Người cha nói: “Mẹ con nhiều chuyện,
không kiếm thấy tiền thì cũng đã sao? Việc gì mà phải tra hỏi ầm nhà ầm cửa,
đúng là đàn bà lòng dạ nhỏ nhen. Hảo hài tử, đầu con có đau lắm không?”.
Thằng bé đành trả lời: “Không sao cả!”. Y toan lên tiếng biện bạch nhưng
chẳng biết bắt đầu từ đâu thành thử trong bụng ấm ức, bỏ cả cơm chiều chui
vào giường ngủ.
Y nằm trên giường trăn trở qua lại, không cách nào ngủ được, lại nghe tiếng
mẹ khóc rấm rứt, chắc là lo cha bị bệnh nặng thêm, thêm bực tức chuyện ban
ngày bị gã thầy lang kia chửi mắng đánh đập. Thằng bé bèn len lén trở dậy,
nhảy cửa sổ ra ngoài, đi suốt đêm đến thị trấn tới trước nhà tên thầy lang. Căn
nhà đó cửa trước cổng sau đều đóng chặt không cách nào vào được. Thằng
bé thân hình nhỏ bèn theo lỗ chó chui vào, thấy một căn phòng ánh đèn chiếu
qua giấy dán cửa sổ, hóa ra gã thầy lang chưa ngủ còn đang sắc thuốc. Thằng
bé đẩy cửa …
A Châu lo cho đứa trẻ vội nói: -Thằng bé đó đang đêm lẻn vào nhà người ta, e
rằng sẽ bị lôi thôi.
Kiều Phong lắc đầu: -Không đâu. Gã thầy lang nghe tiếng người mở cửa,
chẳng thèm ngửng lên chỉ hỏi: “Ai đó?”. Thằng bé không trả lời, đi tới gần, rút
con dao nhọn đâm luôn một nhát. Người nó thấp, nhát dao trúng ngay bụng
thầy lang, y chỉ hự được một tiếng rồi ngã lăn ra.
A Châu rú lên một tiếng, kinh hãi hỏi: -Thằng bé đó đâm chết ông thầy thuốc
ư?
Kiều Phong gật đầu nói: -Đúng thế. Thằng nhỏ lại chui lỗ chó ra, quay trở về
nhà. Trong đêm tối đi về mấy chục dặm quả là mệt mỏi. Sáng sớm hôm sau,
người nhà thầy lang mới phát giác y đã chết, vỡ bụng lòi ruột thật là thảm
khốc. Thế nhưng cửa trước cửa sau vẫn đóng chặt, then cài bên trong, hung
thủ từ bên ngoài làm sao vào được? Ai cũng nghi người trong nhà làm chuyện
này, quan tri huyện liền sai bắt hết anh em, vợ con gã thầy thuốc đem ra tra
khảo thẩm vấn, náo loạn cả đến mấy năm, nhà tên thầy lang đó hóa ra tan
tành. Vụ đó trở thành một nghi án nơi Hứa Gia Tập.
A Châu hỏi: -Ông nói Hứa Gia Tập? Người thầy thuốc đó …ở ngay tại thị trấn
này ư?
Kiều Phong đáp: -Đúng thế! Gã thầy lang đó họ Đặng, vốn là y sinh nổi tiếng
nhất thị trấn này, mấy huyện quanh đây đều biết đến. Nhà y ở tại phía tây,
trước kia tường cao trắng toát, hiện nay tàn phá cả rồi. Lúc nãy ta đi mời thầy
lang lại xem bệnh cho cô, có đi ngang nhà đó coi nên biết thế.
A Châu hỏi thêm: -Thế còn người cha bị bệnh thì sao? Bệnh rồi có khỏi không?
Kiều Phong đáp: -Về sau một nhà sư chùa Thiếu Lâm mang thuốc đến, trị
bệnh cho ông ta.
A Châu nói: -Thế ra chùa Thiếu Lâm cũng có những nhà sư tốt.
Kiều Phong nói: -Dĩ nhiên là có. Chùa Thiếu Lâm có mấy nhà sư tâm địa nhân
hậu, cốt cách hiệp nghĩa, quả đáng cho người ta kính phục.
Ông nói đến đây trong lòng se lại, nghĩ đến thụ nghiệp ân sư Huyền Khổ đại
sư. A Châu “Ồ” lên một tiếng, trầm ngâm nói: -Gã thầy lang kia coi người
nghèo chẳng ra gì, không coi tính mệnh họ vào đâu, dĩ nhiên là đáng ghét thật
nhưng tội cũng chẳng đáng chết. Thằng bé kia cũng thật là ngang ngược.
Thiếp quả không sao tin nổi, một đứa bé mới bảy tuổi đầu đã dám ra tay giết
người hay sao? A, Kiều đại gia, đó là ông kể chuyện xưa chứ không phải thật,
đúng không?
Kiều Phong đáp: -Chuyện đó có thật đấy.
A Châu thở hắt ra một hơi, nhỏ nhẹ nói: -Thứ trẻ con hung dữ như thế, chắc
là ác nhân người Khất Đan.
Kiều Phong đột nhiên run bắn người, nhảy dựng lên nói: -Cô … cô nói cái gì?
A Châu thấy ông mặt mày biến sắc, trong lòng kinh hãi nhưng chợt hiểu ra,
bèn chữa: -Kiều đại gia, Kiều đại gia, xin lỗi ông, thiếp … thiếp không phải cố ý
nói chạm đến ông. Quả thật không cố ý …
Kiều Phong ngơ ngẩn một hồi rồi ngồi phịch xuống nói: -Chắc cô đoán được
rồi?
A Châu gật đầu. Kiều Phong nói: -Những điều vô tình nói ra mới là thực lòng.
Ta ra tay hạ thủ chẳng dung tình, có thực là vì thuộc giòng giống Khất Đan
chăng?
A Châu dịu dàng đáp: -Kiều đại gia, A Châu nói năng lăng nhăng, ông đừng để
bụng làm chi. Gã thầy lang kia đá mẹ ông, ông còn nhỏ đã anh hùng khí khái,
giết y đi là phải.
Kiều Phong hai tay ôm đầu nói: -Cũng chẳng phải chỉ vì y đá mẹ ta, mà là vì y
làm cho ta bị nghi oan. Bốn tiền của mẹ ta chắc là khi lôi lôi kéo kéo đã rơi
mất. Ta … ta trong đời ghét nhất là bị nghi oan.
Vậy mà trong mới một ngày, ông đã bị ba mối oan lớn. Chính mình có phải là
người Khất Đan không, cũng không còn cách nào biết được, còn vợ chồng
Kiều Tam Hòe và Huyền Khổ đại sư rõ ràng không phải ông ta giết nhưng ai
cũng đổ riệt cho ông cái ba đại tội giết cha, giết mẹ, giết thầy. Thế hung thủ
thật sự là ai? Người hãm hại ông là ai?
Ngay lúc đó ông lại nghĩ tới một chuyện: “Tại sao cả cha lẫn mẹ ta đều nói, ta
ở với hai người thật đáng tủi? Cha mẹ nghèo, làm con dĩ nhiên phải chịu, có gì
mà tủi hay không tủi? E rằng mình không phải là con ruột hai người, mà do
người ngoài gửi làm con nuôi, ắt người ủy thác việc này thân phận cực cao,
thành thử cha mẹ mới đối với ta nể nang như thế, không phải chỉ nể nang mà
còn kính trọng. Người nhờ cha mẹ ta nuôi ta đó là ai? Chắc hẳn là Uông bang
chủ rồi”.
Cha mẹ ông đối với ông thật khác xa người khác đối với con ruột mình, ông
bản tính tinh minh đáng ra phải thấy được rồi. Có điều từ bé đã vậy nên coi là
bình thường, dù có lanh lợi đến mấy cũng chẳng nghĩ đến, chỉ nghĩ rằng cha
mẹ mình tính tình hiền hậu ôn hòa mà thôi. Đến bây giờ nghĩ lại, xem ra mọi
việc đều chứng thực rằng mình là giòng giống Khất Đan.
A Châu cất tiếng an ủi: -Kiều đại gia, người ta bảo ông là người Khất Đan, tiểu
nữ xem ra toàn là điều vu oan giá họa. Không nói gì ông nhân nghĩa khẳng
khái, bốn bể nghe danh, chỉ riêng việc ông đối với một đứa tiểu a hoàn chẳng
vào đâu như thiếp mà cũng hết lòng hết dạ chăm lo, người Khất Đan tàn độc
như lang như hổ, so với ông một trời một vực, làm sao sánh được?
Kiều Phong nói: -A Châu, nếu như quả ta là người Khất Đan, cô có còn để cho
ta lo liệu nữa không?
Lúc đó người Hán ở Trung Thổ đối với người Khất Đan căm hận vô cùng, coi
chẳng khác gì độc xà mãnh thú. A Châu chưng hửng nói: -Ông đừng nghĩ ngợi
vẩn vơ, chuyện đó không thể nào xảy ra được. Nếu như bộ tộc Khất Đan có
được một người tốt như ông thì chúng ta còn thống hận họ làm gì?
Kiều Phong lặng thinh không nói, trong bụng nghĩ thầm: “Nếu như quả ta là
người Khất Đan, đến một đứa tiểu a hoàn như A Châu cũng chẳng thèm nhìn
nhõi nữa”. Chỉ trong một giây, ông thấy đất trời tuy rộng nhưng mình thật
không có chỗ dung thân. Trong đầu những điều suy nghĩ dạt dào dâng lên như
sóng biển, trong ngực khí huyết sục sôi, biết rằng vì mình tiếp khí cho A Châu
mấy bận nên nội lực tiêu hao không phải là ít, lập tức xếp bằng ngồi xuống
chiếc ghế bên cạnh giường, chậm rãi vận khí thổ nạp.
A Châu cũng nhắm mắt dưỡng thần.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.