THIÊN LONG BÁT BỘ

27. Kim qua đãng khấu ao binh



Thiên quân vạn mã vào ra,

Trước là cứu chúa, sau là cứu thân.
Cuộc đời như giấc mộng lành,
Hôm nay khất cái mai thành đại vương.
¤
Tiêu Phong còn đang đứng xem bỗng nghe có người lớn tiếng gọi: -Bên kia có phải Tiêu đại gia đấy chăng?
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Ai mà lại nhận ra ta nhỉ?”. Ông quay lại thấy từ đội áo xanh một người phóng ngựa chạy thẳng tới, thì ra là gã đội trưởng Thất Lý, người mấy tháng trước Gia Luật Cơ sai đem lễ vật đến cho mình.
Y chạy đến còn cách Tiêu Phong hơn chục trượng đã vội vàng nhảy xuống ngựa, đi bộ lên, quì đầu gối phải xuống nói: -Chủ nhân chúng tôi đang ở đằng trước không xa là mấy. Chủ nhân thường vẫn nhớ mong nhắc đến Tiêu đại gia luôn. Hôm nay không biết ngọn gió lành nào thổi Tiêu đại gia đến đây? Xin mời đại gia đến gặp chủ nhân chúng tôi.

Tiêu Phong nghe nói Gia Luật Cơ cũng ở gần đây, thật là hoan hỉ nói: -Ta chỉ tùy ý ngao du, có ngờ đâu nghĩa huynh cũng ở quanh đây, thế thì hay lắm. Được rồi, nhờ ngươi dẫn đường đến gặp anh ta.
Thất Lý chúm môi huýt một tiếng, hai tên kỵ binh cưỡi ngựa chạy đến. Y dặn dò: -Các ngươi mau đi bẩm báo nói là Tiêu đại gia ở núi Trường Bạch qua thăm.
Hai tên kỵ binh khom lưng nhận lệnh, phóng ngựa chạy đi ngay.

Những người còn lại tiếp tục cuộc săn hươu, riêng Thất Lý tất lãnh một đội kỵ binh áo xanh, hộ tống Tiêu Phong và A Tử đi về hướng tây.
Khi Gia Luật Cơ gửi cho Tiêu Phong vàng bạc bò cừu, ông đã biết y ắt phải là một đại quí nhân người Khất Đan, bây giờ lại thấy thanh thế như vậy xem chừng vị nghĩa huynh này phải là tướng quân, đại quan chi đó.
Trên thảo nguyên ngựa chạy đi chạy lại như mắc cửi, người nào cũng y giáp mới tinh. Thất Lý nói: -Tiêu đại gia hôm nay đến chơi quả là đúng lúc, sáng sớm mai ở đây có một buổi hội thật là vui nhộn.
Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy nàng mặt tươi hẳn lên liền hỏi: -Cái gì mà vui nhộn?
Thất Lý đáp: -Ngày mai là ngày hội diễn võ. Hai đội vệ quân Vĩnh Xương, Thái Hòa đều khiếm khuyết chức vụ thống lãnh. Người Khất Đan chúng tôi ai nấy sẽ ra sức biểu diễn võ nghệ để xem ai là người vận may, được giữ hai chức vụ này.

Tiêu Phong nghe nói đến tỉ võ, tự nhiên thấy hào khí bừng bừng nổi lên, hết sức cao hứng, cười nói: -Thế thì đúng là khéo thật, được dịp xem võ nghệ người Khất Đan như thế nào.

A Tử cười nói: -Đội trưởng ơi, vậy ông ra đại hiển thân thủ, chúc mừng ông đoạt được một chức thống lãnh.
Thất Lý lè lưỡi nói: -Tiểu nhân nào có cái gan đó?
A Tử lại cười: -Đoạt được chức thống lãnh thì đã sao? Chỉ cần tỉ phu ta dạy cho ông dăm ba miếng võ là ông đoạt được chức đó ngay chứ gì.
Thất Lý vui mừng nói: -Tiêu đại gia nếu bằng lòng chỉ cho tiểu nhân thì quả là cầu còn không được. Còn chức thống lãnh gì kia, tiểu nhân không có phúc phận chẳng dám mơ tưởng tới.
Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, đi độ mươi dặm đã thấy trước mặt một đoàn kỵ binh gấp rút chạy tới. Thất Lý nói: -Đây là đội Phi Hùng trong bì thất quân của đại trướng.1
Những người đó đều mặc áo, đội mũ làm bằng da gấu, áo ngoài bằng lông gấu đen, mũ cao làm bằng lông gấu trắng, hình dáng thật là uy võ. Đội binh đó chạy đến gần, cùng lên tiếng reo hò, đồng thời hạ mã, chia ra đứng hai bên nói: -Cung nghinh Tiêu đại gia.
Tiêu Phong đáp: -Không dám! Không dám!

Ông giơ tay chào, giục ngựa chạy lên trước, đội Phi Hùng cũng lục tục theo sau. Đi được hơn chục dặm, lại có một đội binh khác, mặc áo da hổ, mũ da hổ là đội Phi Hổ Binh chạy đến nghinh tiếp. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Không biết Gia Luật ca ca làm chức quan gì lớn thế mà sao nghi vệ rầm rộ thế này”. Có điều Thất Lý không nói, mà lần gặp trước Gia Luật Cơ nhất định không thổ lộ thân thế mình, Tiêu Phong đành chịu không hỏi nữa.

Đi đến xế chiều tới một nơi đóng quân thật lớn thì người trong đội Phi Báo, tất cả đều mặc áo đội mũ da báo chạy ra nghinh tiếp, đón Tiêu Phong và A Tử vào trong căn lều lớn ở chính giữa. Tiêu Phong vẫn tưởng vào trong lều này ắt sẽ được gặp Gia Luật Cơ, ngờ đâu trong trướng giường nệm khí mãnh đều là đồ sang trọng, trên bàn nhỏ để đầy đồ ăn, hoa quả nhưng không thấy chủ nhân đâu. Đột trưởng đội Phi Báo nói: -Chủ nhân mời Tiêu đại gia ở đây nghỉ lại một đêm, ngày mai sẽ tương kiến.

Tiêu Phong cũng không hỏi thêm, đến bên bàn cầm bát rượu lên uống. Bốn tên quân sĩ, kẻ rót rượu, người cắt thịt, hầu hạ rất cung kính.
Sáng hôm sau trở dậy lại tiếp tục đi, ngày hôm dó đi về hướng tây phải đến hai trăm dặm, đến tới lại ngủ lại một nơi đóng quân lớn.
Đến trưa ngày thứ ba, Thất Lý nói: -Đi qua khỏi triền núi phía trước mặt thì mình sẽ tới.

Tiêu Phong thấy ngọn núi đó thật là hùng vĩ, một con sông lượn dưới chân núi chảy cuồn cuộn về hướng nam. Cả đoàn người vòng qua sườn núi, trước mắt cờ sí rợp trời, trên đại thảo nguyên chỗ nào cũng đầy doanh trướng, có đến hàng vạn kỵ binh, bộ tốt, bao chung quanh một khoảng đất trống ngay chính giữa. Các đội Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo hộ tống Tiêu Phong liền lấy kèn ra, thổi lên nghe u u u.

Đột nhiên tiếng trống đánh tùng tùng vang lên dữ dội, thêm tiếng pháo hiệu nổ ầm ầm, trên bãi đất trống quan binh rẽ ra hai bên, một con ngựa vàng cao to từ trong chạy ra, trên lưng là một đại hán râu xồm, chính thị Gia Luật Cơ. Y giục ngựa thẳng đến chỗ Tiêu Phong kêu lớn: -Tiêu huynh đệ, có nhớ ca ca chăng?

Tiêu Phong cũng phóng ngựa chạy lên, hai người cùng nhảy xuống, bốn tay nắm chặt, mừng rỡ không sao kể xiết. Chỉ nghe bốn bề chung quanh quân sĩ reo hò vang dội: -Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!
Tiêu Phong giật mình tự hỏi: “Binh sĩ lại kêu vạn tuế là sao?”. Ông đưa mắt nhìn khắp nơi, thấy quân quan sĩ tốt ai nấy khom lưng, cầm đao chống xuống đất, Gia Luật Cơ cầm tay ông đứng ngay chính giữa, nhìn ngang nhìn ngửa, vẻ mặt cực kỳ đắc ý. Tiêu Phong hiểu ra lắp bắp: -Ca ca, thì ra ca ca … là … là …
Gia Luật Cơ cười ha hả nói: -Nếu như ngươi biết ta là đương kim hoàng đế nước Đại Liêu, e rằng sẽ chẳng cùng ta kết nghĩa đệ huynh đâu. Tiêu huynh đệ, tên thực của ta là Gia Luật Hồng Cơ. Cái ơn cứu mạng của ngươi ta vĩnh viễn không bao giờ quên.

Tiêu Phong tuy khoáng đạt hào sảng nhưng trong đời chưa từng diện kiến hoàng đế bao giờ, hôm nay thấy nghi vệ như thế, không khỏi bối rối, ấp úng: – Tiểu nhân không biết bệ hạ, mạo phạm đã nhiều, quả là tội đáng muôn thác.
Nói xong quì xuống. Ông là thần dân nước Khất Đan, gặp bản quốc hoàng đế dĩ nhiên phải quì xuống.
Gia Luật Hồng Cơ vội đỡ dậy, cười nói: -Không biết thì không có tội. Này huynh đệ, ngươi với ta là anh em kim lan, ngày hôm nay chỉ tính chuyện nghĩa khí, ngày mai hãy dùng lễ vua tôi cũng không muộn.
Ông ta giơ tay trái lên vẫy một cái, trong quân lập tức chiêng trống đánh lên để chào mừng khách quí. Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Tiêu Phong hai người cùng đi vào đại trướng.
Doanh trướng của hoàng đế Khất Đan dựng thành mấy tầng toàn bằng da bò, trang trí đủ loại màu sắc vàng bạc, cực kỳ rực rỡ, gọi là bì thất đại trướng. Gia Luật Hồng Cơ ngồi ngay chính giữa, bảo Tiêu Phong ngồi ngay bên cạnh, chẳng mấy chốc bách quan văn võ cũng lục tục vào tham kiến, Bắc Viện Đại Vương, Bắc Viện Khu Mật Sứ, Vu Việt, Nam Viện Khu Mật Sứ, Bì Thất Đại

Tướng Quân, Tiểu Tướng Quân, Mã Quân Chỉ Huy Sứ, Bộ Quân Chỉ Huy Sứ …

Tiêu Phong nhất thời không thể nào nhớ cho hết tên bao nhiêu người.
Tối hôm đó mở đại tiệc ăn mừng, người Khất Đan tôn trọng đàn bà con gái nên A Tử cũng được dự phần tại bì thất đại trướng. Quả đúng là rượu đổ thành ao, thịt chất thành núi, A Tử thấy thế cực kỳ hứng thú, mặt tươi như hoa. Rượu đã mềm môi, hơn chục tên võ sĩ Khất Đan ra trước mặt vua vật nhau làm trò, người nào cũng cởi trần, bắt nắm khoèo vật, thật là kịch liệt. Tiêu Phong thấy những võ sĩ Khất Đan ai nấy đều thân hình rắn chắc, cánh tay cuồn cuộn, đưa tay thò chân đều có dáng con nhà võ, biến hóa xảo diệu tuy không được bằng võ sĩ người Hán nhưng miếng nào miếng nấy đều sát phạt, thẳng thừng dùng trong chiến trận quần đấu xem chừng kiến hiệu hơn võ của Trung Nguyên.

Các quan viên văn võ nước Liêu tiến ra mời Tiêu Phong uống rượu. Tiêu Phong thì ai cũng không từ chối, đến đâu cạn bôi đến đó, trước sau phải đến hơn ba trăm chén, vậy mà sắc mặt vẫn như không, mọi người hết sức kinh ngạc.
Gia Luật Hồng Cơ xưa nay vẫn tự phụ là người dũng lực, lần này bị Tiêu Phong bắt, cả nước ai cũng biết nên cũng có ý muốn Tiêu Phong biểu lộ cái năng lực phi phàm để che giấu cái nỗi thẹn bị thất bại. Ngờ đâu chưa cần phải ngày hôm sau Tiêu Phong đại hiển tài nghệ võ công nơi tỉ võ đại hội, bây giờ chỉ lộ chút tửu lượng đã áp đảo quần hùng khiến ai nấy đều kính phục. Gia Luật Hồng Cơ cực kỳ sung sướng nói: -Huynh đệ, ngươi là đệ nhất anh hùng hảo hán của nước Liêu ta.
A Tử đột nhiên xen vào: -Không đâu, anh ấy chỉ mới thứ nhì.

Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi lại: -Tiểu cô nương, y mới chỉ thứ hai thôi sao? Thế thì vị đệ nhất đại anh hùng là ai?
A Tử đáp: -Vị anh hùng hảo hán số một ư, cái dó dĩ nhiên phải là bệ hạ rồi.
Tài nghệ của tỉ phu tiểu nữ tuy giỏi thật nhưng vẫn phải nghe lời bệ hạ, không dám trái lệnh, thế thì bệ hạ chẳng là đệ nhất anh hùng thì là gì?
Nàng là môn hạ của Tinh Tú lão nhân, nghệ thuật tâng bốc đã thuộc hàng siêu đẳng, nói ra câu đó thật chẳng khác gì dùng dao mổ trâu để giết gà. Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói: -Cô nói thế thật hay lắm! Tiêu huynh đệ, ta muốn phong cho ngươi một chức quan thật lớn, để ta nghĩ xem đã, phong ngươi làm gì cho xứng?

Khi đó y đã uống say đến bảy tám phần mười, đưa ngón tay gõ gõ lên trán. Tiêu Phong vội nói: -Không đâu! Không đâu! Tiển nhân tính tình giản phác, khó mà hưởng phú quí được, xưa nay vẫn lang thang bốn phương, vãng lai vô định, quả là không thích làm quan.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói: -Được rồi! Để ta phong ngươi một chức quan chỉ

uống rượu không phải làm gì cả …

Ông nói chưa dứt lời bỗng từ xa truyền lại một hồi tù và u u u inh ỏi, nghe thật gấp rút. Những người Liêu vốn dĩ đang ngồi bệt dưới đất, uống rượu ăn thịt, vừa nghe tiếng hiệu giác, ai nấy kêu toáng lên, cùng nhỏm dậy, mặt lộ vẻ kinh hoàng. Tiếng tù và truyền đến thật nhanh, lúc mới nghe còn cách khoảng hơn chục dặm, lần thứ hai đã gần thêm vài dặm, lầm thứ ba lại gần thêm vài dặm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Trên đời này làm gì có con ngựa nào chạy lẹ thế, dẫu có đệ nhất đẳng khinh công thì cũng không thể nhanh như vậy được. Đúng rồi, chắc là có những trạm truyền tin bố trí sẵn từ trước để cấp báo quân tình, một khi nghe tiếng tù và lập tức truyền ngay xuống trạm kế tiếp”. Chỉ thấy tiếng hiệu giác cứ
truyền tới, trong nháy mắt đến ngoài bì thất đại trướng thì ngừng lại.

Mấy trăm người ngồi trong trướng vốn dĩ đang ăn uống hò reo, ồn ào như chợ vỡ, lúc này đột nhiên lặng như tờ.
Gia Luật Hồng Cơ thần sắc trấn tĩnh, chầm chậm nâng kim bôi lên, uống cạn
chén rượu nói: -Có phản đồ làm loạn ở Thượng Kinh, thôi mình đành phải về
vậy.
Nhổ trại!

Hành quân đại tướng lập tức ra khỏi trướng truyền lệnh, hai tiếng “Nhổ trại” truyền ra một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn, thanh âm càng lúc càng lớn nhưng vẫn nghiêm chỉnh thứ tự không có vẻ gì náo loạn mất trật tự. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nước Đại Liêu ta lập quốc đã hơn hai trăm năm, quốc uy vang dậy thiên hạ, lúc này tuy có nội loạn nhưng không có vẻ gì bối rối, đủ biết Liêu chúa bình thời chỉ huy quân đội có phép tắc hẳn hòi”.

Bỗng nghe tiếng chân ngựa dồn dập, đội tiền phong xích hậu quân2 ra trước, tiếp theo là hai đội tả hữu tiên phong cũng lên đường, rồi tiền quân, tả quân, hữu quân từng đội từng đội đi về hướng nam hồi kinh.
Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói: -Mình ra xem thế nào!
Hai người ra khỏi trướng, chỉ thấy trong đêm đen mỗi lá quân kỳ đều có gắn một chiếc đèn lồng, đỏ, vàng, xanh, trắng màu sắc lấp lánh, hơn một chục vạn quân xuôi nam nhưng chỉ nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, không một tiếng người. Tiêu Phong hết sức thán phục nghĩ thầm: “Trị quân như thế này thì trong thiên hạ còn ai địch nổi? Hôm đó hoàng thượng cậy mạnh đi săn một mình nên ta mới bắt được. Ví như đại quân cùng đi, người Nữ Chân tuy dũng mãnh thật nhưng ít cũng không chống nổi với số đông.

Hai người vừa ra khỏi trướng, các vệ sĩ lập tức rỡ lều, chỉ một thoáng đã đâu đó gọn gàng sạch sẽ, hành lý tùy theo nặng nhẹ mà chất lên xe ngựa, xe lạc đà. Trung quân nguyên soái liền ra lệnh, mọi người lập tức khởi hành. Bắc Viện

Đại Vương, Vu Việt, Thái Sư, Thái Phó bách quan theo hầu đằng trước đằng sau Gia Luật Hồng Cơ, mặt mày ai nấy nghiêm trọng nhưng cũng không nói lời nào. Tin tức về vụ nổi loạn trong kinh tuy đã truyền ra nhưng nội vụ thế nào, tình huống ra sao hiện giờ vẫn chưa rõ rệt.

Đại đội nhân mã theo đường về nam được ba ngày, tối hôm đó vừa đóng quân xong thì một tên thám tử phóng ngựa chạy đến bẩm với Gia Luật Hồng Cơ: – Nam Viện Đại Vương nổi loạn, chiếm cứ hoàng cung, từ hoàng thái hậu, hoàng hậu trở xuống đến các vương tử, công chúa cùng gia quyến bách quan đều đã bị chúng bắt giữ cả rồi.
Gia Luật Hồng Cơ hoảng hốt, vẻ mặt lập tức biến sắc.

Việc quân quốc trọng sự nước Liêu do hai viện Nam Bắc chia ra cáng đáng. Lần này Bắc Viện Đại Vương tùy giá đi săn để Nam Viện Đại Vương ở lại trấn thủ kinh thành. Nam Viện Đại Vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ, tước phong Sở Vương, bản thân y không nói làm gì nhưng cha y Gia Luật Trọng Nguyên, đương kim Hoàng thái thúc, quan phong Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên Soái, ấy mới thực là đáng ngại.

Ông nội của Gia Luật Hồng Cơ là Gia Luật Long Tự, Liêu sử gọi là Thánh Tông. Con trai trưởng của Thánh Tông là Tông Chân, con trai thứ là Trọng Nguyên. Tông Chân tính nết hiền lành, bụng dạ rộng rãi còn Trọng Nguyên lại rất võ dũng, có tài thao lược. Khi Thánh Tông băng hà có di mệnh truyền ngôi cho con trưởng Tông Chân. Thế nhưng hoàng hậu lại thương con trai thứ hơn nên âm mưu lập Trọng Nguyên lên ngôi.

Nước Liêu từ xưa tới nay, hoàng thái hậu quyền thế rất lớn thành thử ngôi vua của Tông Chân xem ra không vững, ngay cả tính mạng cũng khó bảo toàn. Thế nhưng Trọng Nguyên đem mật mưu của mẫu hậu báo cho huynh trưởng khiến cho bao nhiêu tính toán của hoàng thái hậu đều không thành. Tông Chân vì chuyện đó nên đối với em cực kỳ cảm kích, lập Trọng Nguyên lên làm Hoàng thái đệ, có nghĩa là sau này sẽ truyền ngôi cho ông ta để báo đền ân đức.

Liêu sử gọi Gia Luật Tông Chân là Hưng Tông, nhưng khi ông ta qua đời, hoàng vị lại không truyền cho Hoàng thái đệ Trọng Nguyên, mà lại truyền cho con ruột là Hồng Cơ.
sau khi Gia Luật Hồng Cơ tiếp vị, trong bụng cũng thấy bất an, nên phong cho Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc, để minh định rằng chú mình sẽ kế thừa ngôi vua của nước Liêu, lại phong thêm chức Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên Soái, lúc lâm triều miễn lạy, miễn xưng tên, ban cho kim khoán thệ thư, mũ bốn chỏm, áo bào hai màu trong triều phải nói là người được tôn sủng bậc nhất. Con ông ta là Niết Lỗ Cổ được phong Sở Vương, chấp chưởng mọi việc

quân chính yếu vụ Nam Viện nên được gọi là Nam Viện Đại Vương.

Năm xưa Gia Luật Trọng Nguyên rõ ràng là được ngôi vua nhưng nhường cho huynh trưởng đủ biết ông ta là người trọng nghĩa khí, lại tốt nhịn. Mỗi khi Gia Luật Hồng Cơ ra ngoài đi săn, bao nhiêu việc quân quốc trọng vụ ở kinh thành đều giao cho Hoàng thái thúc, không nghi ngại chút nào. Bây giờ nghe tin truyền đến kẻ mưu phản là Nam Viện Đại Vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ, Gia Luật Hồng Cơ vừa lo lắng vừa kinh hoàng, vốn biết tính tình Niết Lỗ Cổ hung ác bạo ngược, xử sự rất là tàn nhẫn, nếu y mưu phản thì cha y ắt không đứng ngoài.
Bắc Viện Đại Vương tâu rằng: -Bệ hạ đừng lo vội, Hoàng thái thúc ắt nhìn vấn đề rõ ràng, không thể nào tha cho tên nghịch tử phạm thượng tạo phản, không chừng lúc này đã đem quân bình loạn rồi. Gia Luật Hồng Cơ đáp: -Cũng mong là thế.

Mọi người ăn cơm tối xong, tên thám tử thứ hai lại đến bẩm báo: -Nam Viện Đại Vương lập Hoàng thái thúc lên làm vua, đã ra chiếu cáo tri thiên hạ.
Y không dám tâu tiếp phần bên dưới, chỉ hai tay dâng lên chiếu của tân hoàng đế. Hồng Cơ cầm lấy xem qua thấy chiếu thư tố cáo đích danh Gia Luật Hồng Cơ là soán vị ngụy đế, nói là tiên đế đã lập Gia Luật Trọng Nguyên làm Hoàng thái đệ, trong hai mươi bốn năm ai ai cũng biết, nhưng khi băng hà, Gia Luật Hồng Cơ sửa di chiếu, ăn trộm ngôi đại bảo, người người ai ai cũng phẫn nộ, hiện Hoàng thái đệ đã chính vị lên làm vua, đốc suất binh mã thiên hạ đi trừ nghịch ngụy …

Gia Luật Hồng Cơ trong cơn cuồng nộ, cầm chiếu thư vứt luôn vào đống lửa, nhưng trong bụng cực kỳ lo lắng nghĩ thầm: “Đạo ngụy chiếu này lời đanh thép đâu ra đấy, quân dân Liêu quốc xem chỉ e lòng người hoang mang. Hoàng thái thúc ở địa vị Thiên Hạ Binh Mã Đại Nguyên Soái, trong tay cầm binh phù, có thể điều động hơn tám mươi vạn binh mã, chưa kể thêm quân dưới tay con ông ta là Nam Viện Đại Vương. Ở đây tùy giá ta chỉ có chưa đầy mười vạn, quả bất địch chúng, làm thế nào bây giờ đây?”. Tối hôm đó ông trằn trọc cả đêm, không sao ngủ được.3

Tiêu Phong nghe thấy Liêu đế định phong cho ông một chức quan đã toan nhân lúc đêm khuya dẫn theo A Tử không từ biệt lẻn đi, thế nhưng lúc này thấy nghĩa huynh gặp cảnh nguy nan, chẳng nỡ bỏ rơi ông ta, bằng giá nào cũng phải ra tay giúp nhau một chuyến cho khỏi phụ tấm lòng anh em kết nghĩa. Đêm hôm đó ông ra ngoài doanh dạo chơi, nghe thấy các quan binh thì thầm to nhỏ, đều nói cha mẹ vợ con đang ở Thượng Kinh bị Hoàng thái thúc bắt giữ cả, e rằng tính mạng không còn. Có kẻ nghĩ đến gia đình, đột nhiên khóc rống lên. Tiếng khóc dao động lòng người, quan binh khác trong doanh đồng cảnh ngộ cũng không ít kẻ sụt sùi. Quan tướng thống binh tuy cực lực

ngăn trở, chém đầu mấy kẻ khóc to hơn cả làm gương nhưng cũng không sao dứt hết được. Gia Luật Hồng Cơ nghe thấy tiếng khóc vang động biết rằng lòng quân có chiều ly tán, lại càng lo lắng.

Sáng sớm hôm sau, thám tử lại đến báo rằng Hoàng thái thúc và Sở Vương dẫn binh năm mươi vạn, đang tiến lên phía bắc mưu toan phạm giá. Hồng Cơ nghĩ thầm: “Việc đến nước này chỉ có tiến chứ không còn đường lui, nếu như bại trận thì cũng đành một phen tử chiến cho xong”.
Ông lập tức chiêu tập bách quan để thương nghị. Quần thần ai nấy một lòng

trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, nguyện cùng chết với chủ nhưng chỉ lo lòng
quân không còn vững chãi.
Hồng Cơ truyền lệnh xuống:

Tất cả các quan binh hãy ra sức bình nghịch thảo tặc, khi dẹp yên được giặc rồi, ngoài việc thăng quan còn được trọng thưởng.
Ông mặc giáp trụ bằng vàng, tự mình đốc suất ba quân nghinh chiến với quân của Hoàng thái thúc. Các quan binh thấy hoàng thượng tự mình cầm quân ra chống địch lập tức dũng khí bùng lên, hô vạn tuế ba lần quyết lấy cái chết báo đền ơn chúa. Mười vạn quân chia thành bốn bộ phận tiền quân, tả quân, hữu quân, trung quân, binh giáp sáng choang tiến về phía nam, thêm những tiểu đội du kỵ đi tuần ở hai bên.

Tiêu Phong cũng đeo cung cầm mâu đi sau Gia Luật Hồng Cơ đóng vai hộ vệ tùy giá. Thất Lý dẫn một đội Phi Hùng binh bảo hộ cho A Tử ở hậu quân. Tiêu Phong thấy Gia Luật Hồng Cơ lông mày nhăn tít lại, biết ông chưa có được kế hoạch gì trong trận chiến này.

Quân đi đến giữa trưa bỗng nghe đằng trước tiếng tù và nổi lên. Tướng chỉ huy trung quân ra lệnh: -Xuống ngựa!
Các kỵ binh ai nấy nhảy xuống, tay cầm cương dẫn ngựa đi, chỉ còn Gia Luật Hồng Cơ và các đại thần là còn ngồi trên yên. Tiêu Phong không hiểu sao các kỵ binh lại hạ mã, còn đang thắc mắc, Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi: -Huynh đệ ở tại Trung Nguyên lâu ngày nên không biết phương pháp hành quân của người Khất Đan, phải không? Tiêu Phong đáp: -Thần đang mong được bệ hạ chỉ điểm.

Hồng Cơ cười đáp: -Ha ha, cái hai chữ bệ hạ kia không biết có còn được tới lúc mặt trời lặn ngày hôm nay nữa hay không? Ta với ngươi dùng tình anh em mà xưng hô, việc gì phải gọi là bệ hạ?
Tiêu Phong nghe tiếng cười của ông nhuốm vẻ cay đắng bèn nói: -Hai bên chưa giao tranh, bệ hạ hà tất phải lo lắng quá như vậy.
Hồng Cơ nói: -Giao phong trên đất bằng, quan trọng nhất là sức ngựa, sức người chỉ đứng hàng thứ hai.

Tiêu Phong bấy giờ mới hiểu nói: -À, thì ra thế! Kỵ binh xuống ngựa để cho tọa kỵ khỏi mệt mỏi.

Hồng Cơ gật đầu nói: -Dưỡng sức cho ngựa khi lâm địch xung phong hãm trận vẫn còn khỏe như lúc đầu. Người Khất Đan đông chinh tây thảo, đánh đâu thắng đó chính là nhờ cái bí quyết quan trọng này.
Ông ta nói tới đây, từ xa xa đằng trước bụi bay mù mịt, bốc lên cao đến mươi trượng, chẳng khác gì một đám mây vàng cuồn cuộn kéo tới.
Hồng Cơ chỉ roi về phía đó nói: -Hoàng thái thúc và Sở Vương đều chinh chiến lâu năm, là những tướng tài của nước Liêu ta sao lại xua binh kéo đến ầm ầm, không dưỡng sức cho ngựa là sao? Hừ, thì ra bọn chúng hữu thị vô khủng4 cho rằng thể nào cũng thắng nên không úy kỵ gì cả.

Ông còn đang trù trừ đã nghe tù và tả quân và hữu quân cùng trổi lên. Tiêu Phong đưa mắt nhìn thấy phía đông cũng có hai cánh quân, phía tây cũng có hai cánh quân, địch từ năm phía công tới. Gia Luật Hồng Cơ mặt liền biến sắc quay sang vị tướng chỉ huy trung quân ra lệnh: -Kết trận lập trại mau! Trung quân tướng quân đáp lời: -Tuân lệnh!

Y giục ngựa chạy ra truyền lệnh, lập tức tiền quân, tả quân, hữu quân cùng quay đầu lại đồng thời một toán quân dùng búa đóng các cột dùng để dựng bì thất đại trướng xuống, căng da lên, bốn bề dựng chông, chỉ chốc lát đã ghép gỗ thành một bức tường cực lớn giữa thảo nguyên, tiền hậu tả hữu chỗ nào cũng có kỵ binh trấn thủ, mấy vạn cung thủ ẩn sau thành, cung trong tay sẵn sàng, đợi giờ buông tên.

Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Trận đại chiến này dù cho ai thắng ai bại thì người Khất Đan đồng tộc của ta cũng thây đầy đồng nội.
Hay hơn hết vẫn là nghĩa huynh đắc thắng, nếu như chẳng may thua trận thì ta cũng cố tìm cách cứu cho được nghĩa huynh và A Tử đến được nơi an toàn, còn chuyện có còn làm hoàng đế hay không cũng chẳng sao”.
Doanh trại của Liêu đế kết xong chưa bao lâu thì đội tiền phong của loạn quân đã tới nhưng không tiến lên khiêu chiến mà dừng lại xa xa nơi cung nỏ bắn không tới được. Thế nhưng vẫn nghe tiếng trống tiếng kèn liên miên bất tuyệt, từng đội, từng đội loạn quân tiến đến vây quanh, bốn phương tám hướng chỗ nào cũng kết thành trận thế. Tiêu Phong đưa mắt nhìn ra thấy đầy mặt đất chỗ nào cũng là quân địch không biết đâu là cùng nghĩ thầm: “Binh thế nghĩa huynh kém xa, quả bất địch chúng, xem chừng thua mất thôi. Trời sáng không tiện xung đột trùng vây đào tẩu, chỉ còn nước cố giữ cho đến tối lúc đó ta tìm cách cứu y”. Thế nhưng bóng nắng những cây gỗ đóng trại chiếu xuống đất còn ngắn ngủn, mặt trời đang chói chang chỉ mới xế trưa một chút.
Chỉ nghe tiếng cạp cạp cạp mấy tiếng, một đàn vịt nước bay thành đội giữa

lưng trời. Gia Luật Hồng Cơ ngửng đầu nhìn ngơ ngẩn, cười gượng nói: -Chỉ có nước biến thành con nhạn chứ có chắp cánh cũng không bay khỏi nơi đây được.

Bắc Viện Đại Vương và Trung quân tướng quân nhìn nhau biến sắc, biết là hoàng đế thấy binh thế loạn quân trong lòng khiếp sợ. Quân địch đánh trống vang rền, mấy trăm chiếc trống da cùng gõ một lượt. Tướng chỉ huy trung quân hét lớn: -Đánh trống!

Mấy trăm chiếc trống trong ngự doanh cũng tùng tùng vang lên. Phía bên kia tiếng trống bỗng ngưng bặt, mấy vạn kỵ binh gầm thét vang trời dậy đất, cầm mâu xông thẳng qua. Khi thấy tiền phong quân của địch sắp tới nơi, lệnh kỳ của Trung quân tướng quân phất xuống, tiếng trống của ngự doanh lập tức ngừng, mấy vạn mũi tên đồng thời bắn ra, quân tiền phong của địch lả tả ngã xuống. Thế nhưng quân địch kẻ trước ngã người sau tiến lên, quân mã đi trước biến thành tấm mộc chắn cho kẻ đi sau. Bộ binh cung tiễn của địch có thuẫn bài hộ thân xông được tới nơi bắn tên vào ngự doanh.

Gia Luật Hồng Cơ lúc đầu quả có hơi khiếp sợ nhưng khi tiếp chiến rồi, dũng khí lập tức tăng gia gấp bội, đứng trên cao tay cầm trường đao, ra lệnh chỉ huy. Tướng sĩ ngự doanh thấy hoàng thượng đích thân đốc chiến đều hô lớn: – Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Bên địch nghe thấy “Vạn tuế!” ngẩng đầu lên thấy Gia Luật Hồng Cơ hoàng bào kim giáp, đứng ngay tại đài cao trong ngự doanh, nhất thời sợ uy của ông nên ngần ngừ không dám tiến. Hồng Cơ thấy có dịp may liền quát lớn: -Kỵ binh tả quân xông ra vây lại.

Tả quân do Bắc Viện Khu Mật Sứ chỉ huy, nghe thấy hoàng thượng ra lệnh, ba vạn kỵ binh liền từ ngang hông đánh ra vây quân địch. Loạn quân còn đang do dự, ngự doanh quân đã tới nơi, trận thế lập tức đại loạn. Trống của ngự doanh quân đánh liên hồi như sấm, quân địch chỉ tiếp chiến được một lát phải rút về, ngự doanh quân liền xông lên truy sát, khí thế cực kỳ hung tợn. Tiêu Phong mừng lắm kêu lên: -Đại ca, trận này mình đại thắng rồi.

Gia Luật Hồng Cơ xuống đài, nhảy lên ngựa đích thân đem quân tiếp viện. Đột nhiên nghe tiếng tù và nổi lên, chủ lực của quân phản loạn xông tới, tiền phong quân liền quay lại đánh, chỉ trong một thoáng vũ tiễn trường mâu phóng tới vèo vèo, tiếng hò hét vang động cả bầu trời, máu me vung vãi. Tiêu Phong xem mà trong bụng hãi thầm: “Cảnh ác đấu như thế này ta bình sinh chưa từng thấy bao giờ. Một người dù võ công thiên hạ vô địch, vào trong chốn thiên quân vạn mã thì cũng chẳng dùng được vào việc gì, cùng lắm cũng chỉ tự bảo vệ được mình là may.
Cảnh đại quân giao chiến với cảnh tỉ đấu trong võ lâm, không thể nào có thể

so sánh với nhau được”.

Bỗng nghe tiếng phèng la từ phía sau phản quân vang lên ra hiệu thu binh. Kỵ binh của đối phương rút lui rồi, tên chặn đường liền bắn ra như mưa, Trung Quân tướng quân và Bắc Viện Khu Mật Sứ ba lần xung phong nhưng không qua khỏi được trận thế của địch, ngược lại còn bị bắn chết mấy ngàn binh sĩ. Gia Luật Hồng Cơ nói: -Sĩ tốt chết nhiều quá, tạm thời thu binh.

Lập tức ngự doanh quân cũng gióng chiêng thu binh. Phản quân thấy thế bèn phái hai đội kỵ binh xông đến tập kích nhưng trung quân đã phòng bị trước, giả như thua chạy, hai cánh quân liền đánh ập vào vây luôn ba nghìn quan quân vào giữa, còn mấy trăm người khác xuống ngựa đầu hàng. Hồng Cơ vẫy tay một cái, ngự doanh quân liền đâm trường mâu ra, giết sạch mấy trăm người. Trận ác đấu đó chưa đầy một giờ nhưng chém giết nhau cực kỳ thảm khốc.

Chủ lực hai bên đều lui lại vài chục trượng, khoảng đất trống giữa hai bên đầy xác người, những người bị thương rên rỉ kêu la thật là thê thảm. Lại thấy hai bên mỗi bên xông ra một đội áo đen khoảng ba trăm người, ngự doanh quân đầu đội mũ vàng còn bên địch đầu đội mũ trắng kiểm tra những người bị thương. Tiêu Phong tưởng những người này ra tìm người bị thương để cứu chữa, nào ngờ những quan binh áo đen kia rút phắt trường đao, giết sạch thương binh của đối phương. Những người bị thương chết cả rồi, sáu trăm người đó rống lên một tiếng hai bên liền đấu với nhau.

Sáu trăm hắc y quân võ công ai nấy không phải dở, trường đao lấp loáng, ra sức ác đấu, chẳng mấy chốc đã có hai trăm người bị chém chết lăn ra. Những người áo đen đội mũ vàng thuộc đội ngự doanh võ công tương đối cao hơn, số bị giết chỉ độ vài chục người khiến cục thế biến thành hai ba người đánh một và như thế việc thắng phụ đã rõ ràng. Đấu thêm một lúc nữa, biến thành ba bốn người hợp đấu một người. Thế nhưng quan binh hai bên chỉ hò hét trợ oai, mấy chục vạn quân phản loạn tụ thủ bàng quan chứ không cho thêm người ra tăng viện. Cuối cùng ba trăm phản quân áo đen mũ trắng đều bị giết sạch, ngự doanh quân còn sống sót khoảng hai trăm kéo về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là người Liêu có cái phép tắc như thế”.

Lần ác đấu dọn dẹp chiến trường này tuy qui mô không lớn như lần trước nhưng lại kinh tâm động phách hơn nhiều. Hồng Cơ giơ cao trường đao, lớn tiếng nói: -Quân phản loạn tuy đông nhưng không có chí chiến đấu. Đánh thêm một trận nữa, bọn chúng ắt phải thua chạy mà thôi. Quân ngự doanh cùng la to: -Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!

Bỗng từ phía trong phản quân có tiếng tù và, năm người cưỡi ngựa chầm chậm đi ra, người đi giữa hai tay bưng một mảnh da cừu, lớn tiếng đọc bản

chiếu thư của Hoàng thái thúc ban bố:

Gia Luật Hồng Cơ soán vị, là một ngụy quân, hiện nay Hoàng thái thúc đã lên ngôi chính thống. Phàm là quan binh trung thành của nước Liêu ta thì ngay hôm nay phải về kinh qui phục, ai nấy được thăng ba cấp …
Quân ngự doanh lập tức có hơn một chục binh sĩ bắn tên ra, nghe kêu vút vút. Bốn gã đứng bên liền giơ thuẫn lên bảo vệ. Gã kia vẫn tiếp tục đọc, đột nhiên năm con ngựa cùng bị bắn ngã, nhưng năm người vẫn đứng nấp sau thuẫn bài đọc cho hết “chiếu thư” của Hoàng thái thúc, lúc đó mới quay về.

Bắc Viện Đại Vương thấy thuộc hạ nghe ngụy chiếu xong có vẻ động lòng liền quát lớn: -Ra chửi lại đi!
Ba chục tên lính liền bước ra hơn chục trượng, hai chục người cầm thuẫn bài bảo hộ, còn lại là mười tên “thợ chửi”, đứa nào cũng mồm to giọng lớn, tên thứ nhất liền bắt đầu, nào là “phản quốc gian tặc, chết không có đất mà chôn”
… tên thứ hai lại tiếp, đến sau toàn những câu hết sức thô tục. Tiếng Khất Đan Tiêu Phong biết chẳng bao nhiêu, ngôn từ của những tay “thợ chửi” này ông phần lớn không hiểu nhưng thấy Gia Luật Hồng Cơ luôn luôn gật gù, có vẻ thích thú, ắt là những “mạ thủ” này chửi cũng có đầu có đuôi.

Tiêu Phong nhìn qua phía trận thế bên địch, thấy xa xa dưới lọng vàng tiết mao rực rỡ có hai người cưỡi ngựa, tay cầm roi chỉ trỏ. Một người toàn thân hoàng bào, đầu đội mũ xung thiên, râu hoa râm dài, còn người kia mặc hoàng kim giáp trụ, gương mặt gầy choắt, dáng điệu tinh anh. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Xem ra hai người này hẳn là cha con Hoàng thái thúc và Sở Vương rồi”. Đột nhiên mười tên “thợ chửi” kia hạ giọng thì thầm bàn tán một hồi, rồi cùng cất cao giọng vạch trần những chuyện xấu xa của Hoàng thái thúc và Sở Vương. Hoàng thái thúc dường như là người đứng đắn, không có chuyện gì có thể bới móc thành ra cả mười tên chỉ lôi toàn chuyện Sở Vương, nói y gian dâm phi tử của phụ thân, cậy quyền thế cha làm điều càn rỡ. Những lời đó hiển nhiên cốt để đâm thọc, ly gián cha con. Cả mười người cùng cao giọng, luận điệu cũng na ná như nhau truyền ra xa đến mấy dặm nên trong đám mấy chục vạn quân không ít người nghe rõ ràng.

Sở Vương giơ roi vẫy một cái, phản quân cùng gào lên một lượt, người nào cũng a a ầm ỹ, ồn ào rức lác lập tức át hết giọng mười tên “thợ chửi” kia.
Hai bên loạn lên một hồi, bên địch bỗng tẽ thành hai, đẩy ra mấy chục chiếc xe đến trước quân ngự doanh thì ngừng lại. Những quân lính đẩy xe lôi từ trong xa ra mấy chục người đàn bà, có người thì tóc trắng như bông, có người tuổi còn non choẹt, quần áo ai nấy cực kỳ sang trọng.
Những người đó vừa ra khỏi xe, tiếng chửi hai bên lập tức ngừng bặt.
Gia Luật Hồng Cơ kêu lên: -Mẹ ơi! Mẹ ơi! Thể nào con cũng sẽ bắt bọn phản

đồ, băm chúng ra thành vạn mảnh để cho mẹ vui lòng hả dạ.

Bà lão tóc bạc kia chính là Tiêu thái hậu, mẹ của Gia Luật Hồng Cơ tức đương kim Hoàng Thái Hậu, ngoài ra là Tiêu hoàng hậu và các phi tần, công chúa. Hoàng thái thúc và Sở Vương thừa cơ Hồng Cơ ra ngoài đi săn nổi loạn, vây chặt cung cấm bắt Hoàng thái hậu và tất cả những người kia.

Hoàng thái hậu lớn tiếng nói: -Bệ hạ đừng nghĩ gì đến mẹ già vợ con, cứ ra sức trừ loạn giết giặc đi.
Mấy chục tên quân sĩ liền rút trường đao nhứ vào cổ các hậu phi, những phi tần tuổi trẻ ai nấy kinh hãi khóc òa lên. Gia Luật Hồng Cơ nổi giận, quát lên: – Bắn chết bọn đàn bà đang khóc cho ta!
Chỉ nghe vèo vèo, hơn chục mũi vũ tiễn bắn ra, những phi tần đang khóc bị trúng tên ngã xuống chết ngay. Hoàng hậu reo lên: -Bệ hạ bắn giỏi lắm, giỏi lắm! Cơ nghiệp tổ tông không thể nào để hủy diệt trong tay gian tặc được.
Sở Vương thấy Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều cứng cổ như thế, không thể bức bách được Hồng Cơ, ngược lại còn làm dao động quân tâm bên mình bèn ra lệnh: -Đẩy bọn đàn bà lên xe, lui lại.
Các binh sĩ liền áp giải Hoàng thái hậu, Hoàng hậu mọi người lên xe đẩy về phía sau. Sở Vương lại hạ lệnh: -Đem gia quyến quân địch ra.
Chỉ nghe tu tu tu tiếng còi tre thổi lên nghe thật thê lương, quân mã lại giạt sang hai bên, rồi tiếng xích kêu loảng xoảng không ngớt, một đoàn người già trẻ lớn bé từ phía sau được đưa ra. Chỉ giây lát tiếng khóc hai bên vang dậy. Thì ra đây là gia quyến của ngự doanh quân.

Ngự doanh quân vốn là quân sĩ thân tín của Liêu đế, Gia Luật Hồng Cơ đặc biệt ưu đãi nên cho gia đình của họ ở trong kinh thành, một là để cho binh lính cảm kích, khi có việc ra sức liều thân, thứ nữa cũng để canh chừng khiến đội quân tinh nhuệ này xuất chinh không dám hai lòng, ngờ đâu lần này đi săn mầm họa lại ở ngay sát nách. Gia nhân quyến thuộc của ngự doanh quân phải đến hơn hai chục vạn người, giải đến trận tiền bất quá chỉ chừng ba vạn, trong đó vô khối người bị bắt oan nhưng chưa phân biện được thành thử bồng con bế cháu, người nọ níu người kia loạn cả lên.

Một tên tướng của Sở Vương giục ngựa chạy ra lớn tiếng nói: -Chúng quan binh ngự doanh quân nghe đây: Người nhà các ngươi lớn nhỏ đã bị bắt cả rồi, ai đầu hàng thì được xum họp với gia đình, thăng quan ba cấp lại có thưởng. Còn như không đầu hàng thì tân hoàng đế đã có chỉ dụ sẽ giết sạch hết gia quyến chúng bay.

Người Khất Đan xưa nay tàn nhẫn hiếu sát, nay nói đến “giết sạch” thì không phải là chuyện dọa xuông. Trong đám ngự doanh quân có người nhận ra thân thuộc mình “Cha ơi, mẹ ơi, con ơi, mình ơi, em ơi …” hai bên gọi nhau ơi ới

rầm rĩ.

Trong đám phản quân trống đánh vang lừng, hai nghìn đao phủ thủ hung hăng bước ra, tay cầm đao sáng quắc. Tiếng trống vừa ngừng lại, hai nghìn thanh đao cùng giơ lên, nhắm ngay đầu gia thuộc của ngự doanh quân. Gã tướng quân kia lại quát lên: -Kẻ nào đầu hàng tân hoàng đế thì có trọng thưởng, bằng không, bao nhiêu người thân bị giết sạch.

Y giơ tay lên, tiếng trống lại đánh inh ỏi. Ngự doanh quân biết rằng một khi y phất tay, tiếng trống sẽ ngừng, hai nghìn thanh đao sáng quắc kia sẽ chém xuống. Đám thân binh kia xưa nay trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, dẫu Hoàng thái thúc và Sở Vương có đem “thăng quan” “trọng thưởng” ra dụ, cũng không ăn thua, nhưng lúc này thấy cha mẹ vợ con vươn cổ chờ chém, làm gì mà không hoảng sợ?

Tiếng trống vẫn tùng tùng không ngớt, tim trong lồng ngực đám ngự doanh quân cũng thình thình đập theo. Đột nhiên trong đám quân có kẻ kêu lên: -Mẹ ơi! Mẹ ơi! Đừng giết mẹ tôi!
Y quăng trường mâu xuống, chạy bổ nhào về một bà lão trong đám địch quân. Vút một tiếng, một mũi tên từ phía ngự doanh quân bắn ra, trúng ngay giữa lưng người nọ. Người đó chưa chết ngay vẫn còn tiếp tục lao về phía người mẹ. Chỉ nghe thấy tiếng “Mẹ ơi! Con ơi!” ồn ào vang dậy, mấy trăm người trong ngự doanh quân cùng chạy ùa lên. Những tướng lãnh thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém loạn xạ nhưng làm sao ngăn nổi? Mấy trăm người đó chạy qua rồi, chẳng mấy chốc thành mấy nghìn người. sau mấy nghìn người đó trận thế liền hỗn loạn, trong số mười lăm vạn thân quân của nhà vua có đến sáu bảy vạn người qua bên kia.

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng biết rằng đại thế đã hỏng, thừa cơ thân quân gặp gỡ gia quyến tình hình đang náo loạn chặn lối đối phương lập tức ra lệnh: -Lui quân về phía đất bằng trên núi cao mạn tây bắc.
Các tướng trong quân lập tức truyền lệnh ra, số chưa chịu hàng cũng còn khoảng hơn tám vạn người, hậu quân đổi thành tiền quân, rút lui về hướng tây bắc. Sở Vương vội vàng sai kỵ binh đuổi theo nhưng trên chiến trường toàn là đàn bà trẻ con và người già yếu, ngựa chạy không nhanh được, đến khi dẹp được bọn họ ra thì Gia Luật Hồng Cơ cùng ngự doanh quân đã đi xa rồi.

Tám vạn thân quân khi đến được chân núi thì đã về chiều, quân sĩ vừa đói vừa mệt, đóng trại ở ngang sườn núi, từ cao trông xuống để làm thế phòng ngự. sau khi doanh trại đã xong, chưa kịp nấu cơm thì Sở Vương đã dẫn quân tinh nhuệ đến chặn dưới chân núi, lập tức đánh lên.
Quân ngự doanh bắn tên lăn đá xuống như mưa, đẩy lùi quân phản loạn. Sở

Vương thấy từ dưới công lên không có lợi nên đành thu binh, an doanh ở chân núi.

Tối hôm đó, Gia Luật Hồng Cơ đứng cạnh mỏm núi nhìn về phía nam thấy lửa trong trại phản quân đầy như đom đóm, xa xa lại có ba con rồng lửa ngoằn ngoèo, đó là ba đạo quân kéo đến tiếp viện vi công. Hồng Cơ trong lòng buồn bã, đang định vào trướng thì Bắc Viện Khu Mật Sứ đến bẩm: -Một vạn năm nghìn quân của thần đã chạy xuống dưới núi đầu hàng quân phản nghịch. Thần trị quân không ra gì, thật đáng chết.

Gia Luật Hồng Cơ xua tay, lắc đầu nói: -Cái dó không phải lỗi nhà ngươi, thôi xuống đi nghỉ.
Ông quay đầu lại thấy Tiêu Phong đang xuất thần nhìn về phía xa xa bèn nói: – Khi trời sáng, phản quân sẽ đem toàn lực đánh lên, chúng mình sẽ bị bắt cả. Ta là vua một nước, không thể nào chịu nhục với bọn phản đồ, đành tự vẫn báo đền xã tắc. Huynh đệ nhân lúc trời tối xông ra đi, ngươi võ nghệ cao cường, phản quân không ngăn nổi đâu.

Ông nói tới đây vẻ mặt cực kỳ buồn bã, lại tiếp: -Ta vốn định phong cho ngươi một chức quan thật lớn để hưởng phú quí, có ngờ đâu người anh này cái thân cũng chẳng bảo toàn được, lại làm lụy đến cả ngươi.
Tiêu Phong đáp: -Đại ca, đại trượng phu lúc co lúc duỗi, hôm nay chiến trận không lợi, để tiểu đệ bảo vệ đại ca ra khỏi nơi đây, chiêu tập bộ thuộc cũ rồi lại tính sau.
Hồng Cơ lắc đầu: -Đến mẹ già vợ con ta còn không bảo vệ nổi, nói gì đến đại trượng phu? Dưới mắt người Khất Đan, kẻ thắng là kẻ anh hùng, kẻ thua là kẻ phản nghịch. Ta đã thua sạch rồi còn cách gì ngoi lên nổi nữa? Ngươi hãy một mình đi thôi.

Tiêu Phong biết ông ta thực tình liền khẳng khái đáp: -Nếu đã thế thì tiểu đệ nguyện cùng với ca ca, ngày mai một trận tử chiến với bọn phản khấu. Ca ca và đệ nghĩa kết kim lan, ca ca là hoàng đế cũng vậy, là dân thường cũng vậy, đối với Tiêu mỗ cũng đều là nghĩa huynh. Huynh trưởng có nạn thì người em này nguyện cùng anh đồng sinh cộng tử chứ lẽ nào lại bỏ chạy bao giờ?
Gia Luật Hồng Cơ nước mắt rưng rưng, nắm chặt hai tay ông nói: -Hảo huynh đệ, cám ơn em.
Tiêu Phong quay trở vào trong trướng thấy A Tử nằm co tại một góc, mở tròn đôi mắt to, hóa ra vẫn chưa ngủ. A Tử hỏi: -Tỉ phu có giận em không? Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại: -Giận ngươi chuyện gì?
A Tử đáp: -Cũng tại em chẳng ra đâu, nếu như em không đòi ra đại thảo nguyên du ngoạn thì anh đâu có bị khốn khổ ở nơi đây. Tỉ phu, chúng mình sẽ chết ở đây có phải không?

Ánh lửa từ bên ngoài lều chiếu lên mặt nàng, trong vẻ xanh xao có thoáng một chút hồng đầy vẻ ngây thơ trẻ con. Tiêu Phong trong lòng cực kỳ thương xót dịu dàng đáp: -Ta lẽ nào lại trách em? Nếu như ta không đả thương cô thì chúng mình đâu có đến chỗ này.

A Tử mỉm cười nói: -Nếu không vì em bắn kim độc vào anh thì anh đâu có đả thương em.
Tiêu Phong giơ bàn tay thô kệch vuốt tóc nàng. A Tử bị trọng thương rồi, tóc rụng đến quá nửa, vừa vàng vừa thưa. Tiêu Phong thở dài một tiếng nói: -Em còn nhỏ quá vậy mà theo ta chi cho khổ.
A Tử nói: -Tỉ phu ơi, trước kia em không hiểu vì lẽ gì tỉ tỉ lại thích anh, bây giờ thì em hiểu rồi.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chị cô đối với ta tình nghĩa thật sâu nặng, một đứa bé con như cô thì biết gì. Thực ra, vì cớ gì A Châu lại yêu một kẻ thô lỗ như ta, chính ta cũng còn chưa rõ thì ngươi làm sao mà hiểu được đây?”. Ông nghĩ tới đây buồn bã lắc đầu.

A Tử nghiêng ngó nhìn ông rồi nói: -Tỉ phu có đoán được vì sao hôm đó em lại bắn độc châm vào anh chưa? Em thực chẳng muốn bắn chết anh mà chỉ cốt anh không còn cử động được để em được hầu hạ anh thôi. Tiêu Phong lạ lùng: -Thế để làm gì?

A Tử mỉm cười đáp: -Anh không cử động được thì mãi mãi không bao giờ xa em. Nếu không anh đâu có coi em vào đâu, lúc nào cũng bỏ em mà đi được, không ngó ngàng gì đến em nữa.
Tiêu Phong nghe nàng nói thật rặt giọng trẻ con nhưng biết không phải bạ đâu nói đấy, cảm thấy chột dạ nghĩ thầm: “Thôi thì đằng nào sáng mai cũng chết hết, an ủi cô ta vài câu cũng chẳng sao”. Ông bèn nói: -Em thật đúng là trẻ con. Nếu quả như cô muốn theo ta thì cứ nói thẳng lẽ nào ta lại không bằng lòng.

Đôi mắt A Tử đột nhiên sáng bừng lên, vui mừng nói: -Tỉ phu ơi, sau khi em khỏi bệnh rồi, em muốn đi theo anh, mãi mãi không quay lại với sư phụ và phái Tinh Tú nữa. Anh đừng bỏ rơi em nhé!
Tiêu Phong biết cô ta đã gây đại họa tại phái Tinh Tú, quả thực chẳng dám quay lại đâu nên cười nói: -Cô là truyền nhân đại sư tỉ của môn phái, nếu không quay về thì quần long vô thủ biết làm sao bây giờ?
A Tử cười khanh khách đáp: -Để cho bọn chúng loạn bát nháo lên cũng hay.
Em mặc kệ họ.

Tiêu Phong cầm chiếc mền kéo lên đắp tới cổ cho cô gái, xong xuôi rồi mới kiếm một góc trướng trải chăn da nằm ngủ. Lửa bên ngoài lúc mờ lúc tỏ, lấp loáng bất định nghe có tiếng khóc văng vẳng, biết là ngự doanh quân nhớ

người thân. Ai cũng biết một trận sáng mai tính mạng sẽ chẳng còn, có điều trung với hoàng thượng nên không phản bội.

Mới sớm hôm sau Tiêu Phong đã dậy rồi, dặn Thất Lý chuẩn bị ngựa sẵn sàng lo cho A Tử, còn mình cũng xong xuôi, ăn một cân thịt cừu, uống ba cân rượu rồi đi ra ngoài sườn núi. Khi đó chung quanh trời còn tối mịt, nhưng chẳng bao lâu phương đông đã ửng hồng, ngự doanh quân thổi tù và u u, tiếng leng keng của binh giáp võ khí chạm nhau không dứt. Trong doanh từng đội binh mã đi ra, thủ ngự những nơi xung yếu. Tiêu Phong từ cao nhìn xuống thấy phía đông, phía nam và phía đông nam ba mặt chỗ nào cũng đầy người, đều là phản quân cả. Ở phía xa xa một làn sương trải dài, thành thử loạn quân không biết đâu là cuối.

Ngay khi đó vầng thái dương từ chân trời nhô lên như một vòng cung tỏa ra thành muôn ngàn tia nắng chiếu thẳng vào màn bạch lộ, sương tan dần thấy ẩn dưới đám mây mù đâu đâu cũng là quân mã. Khắp nơi tiếng trống đánh vang rền, từ trong quân địch hai đội cầm cờ

vàng chạy ra, sau đó là Hoàng thái thúc và Sở Vương cưỡi ngựa đến dưới chân núi, cầm roi ngựa chỉ trỏ lên trên cao bàn tán. Gia Luật Hồng Cơ dẫn thị vệ đứng ngay sườn núi, thấy tình hình đó cơn giận dâng lên, cầm ngay cung tiễn trong tay lính hầu giương thẳng cánh nhắm vào Sở Vương bắn ra một mũi tên. Từ trên cao nhìn xuống tưởng chừng như hai bên không xa, thực ra còn cách đến mấy đường tên mới tới, mũi tên chưa được nửa đường thì đã hết sức, rơi xuống rồi.

Sở Vương cười ha hả lớn tiếng nói: -Hồng Cơ, ngươi soán đoạt ngôi vua của cha ta, làm ngụy quân bao nhiêu lâu rồi, bây giờ phải nhượng vị thôi. Ngươi mau mau đầu hàng cha ta sẽ tha cho khỏi chết, còn giả nhân giả nghĩa phong cho ngươi làm Hoàng thái điệt nữa đấy! Ha ha ha!

Mấy câu đó hiển nhiên mỉa mai Hồng Cơ phong Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc chỉ là giả nhân giả nghĩa. Hồng Cơ cơn giận xung thiên, chửi lại: -Đồ phản tặc vô liêm sỉ, còn bẻo mép nữa ư?
Bắc Viện Khu Mật Sứ kêu lên: -Chúa bị nhục thì bầy tôi đành phải chết! Chúa thượng đối với thần ơn nặng tày non, hôm nay chính là lúc bọn thần báo đền ơn nghĩa.
Y liền dẫn ba nghìn thân binh, cùng gầm lên từ trên cao xông xuống. Ba nghìn người đó đều là dũng sĩ trong bộ tộc Khất Đan, lần này có ý quyết tử thành thử một có thể đánh mười, chỉ nghe tiếng gào thét vang trời động đất, máu chảy thịt rơi. Ba nghìn người càng đánh càng ít dần, đến sau đều chết cả. Bắc Viện Khu Mật Sứ giết được vài người, rồi tự cắt cổ mà chết. Hồng Cơ, Tiêu Phong cùng các đại thần từ trên cao nhìn xuống thấy rõ ràng nhưng không

làm sao cứu được nghĩ đến lòng trung nghĩa của Bắc Viện Khu Mật Sứ, ai nấy đều nhỏ lệ.

Sở Vương lại giục ngựa đến chân núi cười nói: -Hồng Cơ, ngươi có chịu hàng hay không thì bảo? Cái đám quân lưa thưa của ngươi thì làm được gì? Thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ Đại Liêu, sao nỡ để họ phải chết theo ngươi? Là nam nhi đại trượng phu, hãy cho đâu ra đấy, hàng thì hàng, chiến thì chiến, còn như biết rằng khí số hết rồi, sao chưa tự vẫn để tạ thiên hạ, khỏi làm chết thêm sĩ tốt.

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hổ nhãn rưng rưng, rút đao cầm tay nói: – Giang sơn gấm vóc này thôi đành nhường cho cha con chúng bay vậy. Ngươi nói quả không sai, chúng ta chú cháu anh em, cốt nhục tương tàn, việc gì phải làm chết thêm dũng sĩ Khất Đan.

Nói xong ông giơ đao lên đâm vào cổ mình. Tiêu Phong vươn tay ra, đoạt ngay con dao nói: -Đại ca, kẻ anh hùng hảo hán có chết cũng chết nơi chiến trường, lẽ nào lại tự tận bao giờ?
Hồng Cơ thở dài: -Huynh đệ, bao nhiêu tướng sĩ đây theo ta đã lâu, ta đành chết còn hơn là để cho họ phải vì ta mà bỏ mạng.
Sở Vương lại lớn tiếng giục: -Hồng Cơ, ngươi còn chờ đến bao giờ mới tự vẫn? Ngọn roi trong tay y chỉ thảng vào mặt, thái độ cực kỳ phách lối.
Tiêu Phong thấy y càng đến càng gần, trong lòng chợt động, nói nhỏ: -Đại ca nói chuyện cầm chừng với y, tiểu đệ lẻn tới gần, bắn y một mũi.
Hồng Cơ biết ông tài nghệ cao cường, mừng rỡ nói: -Thế thì hay lắm, nếu bắn chết được y rồi ta có chết cũng nhắm mắt.
Nói rồi cao giọng kêu lên: -Sở Vương, ta đãi cha con ngươi không bạc, nếu cha ngươi quả muốn làm vua thì có gì là không được, việc gì phải làm chết bao nhiêu dũng sĩ, dân đen bản quốc, làm tổn thương nguyên khí cho nước Đại Liêu?

Tiêu Phong cầm một bộ cung cứng, lấy mười mũi lang nha trường tiễn, dẫn một con tuấn mã len lén qua bên núi, rùn người xuống chui dưới bụng ngựa, hai chân quặp vào yên, lấy gót chân dậm một cái, con vật liền chạy thẳng xuống.

Phản quân dưới núi thấy một con ngựa trên lưng không có người, lại tưởng bị sút dây cương đi lạc là chuyện cực kỳ tầm thường nên chẳng ai để ý. Thế nhưng chẳng mấy chốc quân sĩ đã thấy dưới bụng ngựa có người lập tức hô hoán rầm rĩ.

Tiêu Phong dùng đầu ngón chân thúc ngựa, xông thẳng vào Sở Vương, thấy chỉ còn cách y chừng hai trăm bước, nằm dưới bụng ngựa giương cung lên, nghe vút một tiếng bắn y một mũi. Vệ sĩ đứng bên cạnh Sở Vương liền giơ

thuẫn bài lên đỡ được mũi tên. Tiêu Phong giục ngựa chạy tới, tên bắn liên tiếp, giết ngay tên vệ sĩ kia, mũi tên thứ hai lại nhắm vào ngực Sở Vương.

Sở Vương mắt tinh tay lẹ, roi ngựa vung ra gạt mũi tên. Thuật dùng roi gạt tên vốn dĩ là bản lãnh của Sở Vương, nhưng có ngờ đâu người bắn tên không những sức cánh tay đã mạnh, lại thêm nội kình đưa vào đầu tên, roi ngựa tuy đánh trúng đuôi nhưng chỉ làm cho đầu tên lệch đi một chút, nghe soẹt một tiếng đã cắm ngay vào vai y. Sở Vương kêu lên “Chao ôi!” một tiếng, đau đến gục xuống yên ngựa.

Vũ tiễn của Tiêu Phong lại tiếp theo, lần này khoảng cách thật gần, mũi tên trúng vào hông, xuyên thẳng qua ngực. Sở Vương chỉ dãy được một cái, từ trên ngựa ngã xuống ngay.
Tiêu Phong vừa ra tay đã thành công, nghĩ thầm: “sao mình không thừa cơ bắn chết luôn Hoàng thái thúc”.
Sở Vương trúng tên ngã ngựa, quân địch ai nấy kêu la, mấy trăm mũi tên nhắm ngay Tiêu Phong mà bắn, chỉ nháy mắt con ngựa đã trúng đầy tên thật chẳng khác gì một con nhím. Tiêu Phong lăn dưới đất mấy vòng, lòn ngay dưới bụng ngựa một tên quân, thi triển công phu tiểu xảo, cứ lăn một vòng lại luồn từ bụng con ngựa này sang bụng con ngựa khác.
Quan binh không sao bắn tên được, lập tức dùng trường mâu mà chọc.

Tiêu Phong lẻn qua trái, lách qua phải, toàn là ẩn dưới bụng ngựa. Quân địch loạn cả lên, mấy nghìn quân người nọ xô người kia tưởng chừng như dẫm phải nhau nhưng không làm sao đâm trúng ông được.
Tiêu Phong sử dụng chẳng qua chỉ là địa đường công phu thật tầm thường của võ lâm Trung Nguyên. Dù là địa đường quyền, địa đường đao, hay địa đường kiếm cũng đều là lăn lộn dưới đất, tấn công vào hạ bàn bên địch. Bây giờ ông dùng vào trong chiến trận, mắt sáng tay nhanh, tránh khỏi không bị ngựa giày. Ông nhắm kỹ nơi Hoàng thái thúc đang đứng, lăn về hướng đó, nhắm thẳng vào y vút vút vút bắn ra ba mũi tên.

Vệ sĩ của Hoàng thái thúc đã nhìn thấy Sở Vương bị trúng tên rồi nên đã phòng bị, hơn ba chục người cùng giơ mộc lên chặn trước Hoàng thái thúc kín mít, nghe keng keng keng ba mũi tên đều đụng phải thuẫn bài rơi xuống đất. Mười mũi tên Tiêu Phong đem theo đã bắn hết bảy mũi rồi, chỉ còn lại ba, thấy ba chục tên quân dùng thuẫn bảo vệ chủ, ba mũi tên bắn chết ba tên vệ sĩ đã khó, huống hồ lại bắn được Hoàng thái thúc.

Lúc này Tiêu Phong đã vào sâu trong trận của địch, phía sau mấy nghìn người cầm mâu đuổi tới, trước mặt là thiên quân vạn mã quả đúng là rơi vào tuyệt cảnh. Hôm xưa ông một mình chống lại quần hùng Trung Nguyên đối phương chẳng qua chỉ vài trăm người, cũng đã cực kỳ hung hiểm, may có người khác

cứu còn hôm nay bi mấy vạn người vây khốn làm sao chạy thoát được đây? Trong tình hình nguy ngập đó, ông hú lên thật to, tung mình nhảy lên, nghe vù một tiếng đã nhảy vọt qua ba chục người cầm thuẫn, rơi xuống ngay trước đầu ngựa Hoàng thái thúc. Hoàng thái thúc hoảng hốt, giơ roi ngựa lên đánh luôn vào mặt ông. Tiêu Phong nghiêng người rơi xuống đúng ngay yên ngựa Hoàng thái thúc đang cưỡi, giơ tay chộp luôn sau lưng y, giơ lên cao kêu lớn: – Ngươi muốn sống hay muốn chết? Mau mau bảo mọi người bỏ binh khí xuống. Hoàng thái thúc sợ đến cứng đơ người, những gì ông nói y không nghe thấy gì cả. Lúc đó tiếng xôn xao của loạn quân inh ỏi điếc cả tai, hàng nghìn vạn người ai cũng lắp tên giương cung nhắm ngay Tiêu Phong nhưng Hoàng thái thúc bị ông bắt giữ rồi ai mà dám vọng động khinh suất?

Tiêu Phong vận khí vào đan điền kêu lớn: -Hoàng thái thúc có lệnh, ba quân mau bỏ binh khí xuống để nghe tuyên đọc thánh chỉ. Hoàng đế khoan hồng đại lượng, xá tội cho tất cả quan binh, không truy cứu bất cứ ai.
Mấy câu đó át hết tất cả tiếng người đang ồn ào, qua đến mấy dặm còn nghe thấy, đến quá nửa trong số mấy chục vạn người trước núi sau núi nghe được rõ ràng. Tiêu Phong đã trải qua kinh nghiệm người trong Cái Bang nổi loạn chống lại mình, biết rõ tâm tư loạn quân, sau khi thoát khỏi nghịch cảnh rồi, việc đáng quan tâm nhất là làm sao được miễn tội, nếu như được bảo đảm không truy cứu lỗi lầm thì ý chí chiến đấu lập tức tiêu tan. Hiện giờ phản quân thế mạnh, bên cạnh Gia Luật Hồng Cơ chẳng qua chỉ bảy tám vạn người, bên ít bên nhiều làm sao địch lại, trong lúc cục diện khẩn cấp không kịp thỉnh thị ý kiến Hồng Cơ nên nói liều mấy câu cho bên phản loạn yên tâm.
Mấy câu đó vang vang truyền ra, bao nhiêu tiếng huyên náo của quân phản loạn liền lắng xuống, người nọ nhìn người kia, không ai định được chủ ý ra thế nào. Tiêu Phong biết rằng tình thế hiện nay cực kỳ nguy hiểm, trong đám quân địch chỉ cần một người kêu lên không phục, mấy chục vạn quân như rắn mất đầu kia sẽ đại biến, thành thử không thể diên trì một giờ khắc nào, lại lớn tiếng nói: -Hoàng thượng có chỉ dụ, trong đám phản quân bất luận quan chức lớn bé thế nào chăng nữa, tất cả đều vô tội, hoàng đế khai ân quyết không truy cứu. Quan quân binh lính ai giữ nguyên chức ấy, tất cả hãy mau mau bỏ binh khí xuống.

Tất cả lặng như tờ, đột nhiên loảng xoảng, loảng xoảng, có mấy người liệng bỏ trường mâu. Tiếng vứt bỏ binh khí kia dường như lây qua người khác, chỉ trong giây lát, loảng xoảng vang dậy, có đến một nửa số người vứt binh khí, phần còn lại trù trừ chưa quyết định.

Tiêu Phong tay trái cầm Hoàng thái thúc giơ lên cao, giục ngựa chạy lên núi, quân phản loạn nào ai dám ngăn trở, ngựa ông đến đâu lập tức tránh ra

nhường đường đến đó. Tiêu Phong cưỡi ngựa đến lưng chừng núi rồi, hai toán ngự doanh quân liền chạy xuống nghinh tiếp, trên núi trống chiêng đồng thời nổi lên. Tiêu Phong nói: -Hoàng thái thúc, ông mau mau ra lệnh, bảo bộ thuộc bỏ binh khí xuống đầu hàng thì sẽ được tha mạng.
Hoàng thái thúc run run hỏi lại: -Ngươi đảm bảo tha mạng cho ta chứ?

Tiêu Phong nhìn xuống chân núi, thấy vô số phản quân vẫn còn cung tên trường mâu trong tay, lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa hết nghĩ thầm: “Bây giờ an lòng quân là việc quan trọng nhất. Hoàng thái thúc một người sống chết có đáng gì đâu, chỉ cần cho người canh gác kỹ càng, để từ rày y không còn làm điều càn rỡ được nữa”. Ông liền nói: -Đây là cơ hội duy nhất để ông đái tội lập công. Bệ hạ biết rằng chỉ tại con ông tệ hại, nhất định sẽ tha chết cho ông.

Hoàng thái thúc vốn không có lòng tranh đoạt ngôi vua, chỉ vì con ông ta Sở Vương có dã tâm mà gây họa, lúc này rơi vào tay người ta rồi, chỉ mong sao khỏi chết bèn đáp: -Được, ta sẽ làm theo lời ngươi.
Tiêu Phong để ông ta an tọa trên yên ngựa rồi mới sang sảng nói: -Ba quân nghe đây, Hoàng thái thúc có lời nhắn nhủ.
Hoàng thái thúc lớn tiếng nói: -Sở Vương gây nên họa loạn hiện đã đền tội rồi. Hoàng thượng khoan hồng đại lượng tha cho tất cả mọi người. Các ngươi mau mau bỏ binh khí xuống, quay về phía hoàng thượng mà cầu xin.
Hoàng thái thúc đã nói như thế, đám loạn quân trở thành như rắn mất đầu, tuy cũng có kẻ hung hăng ngoan cố nhưng không người nào dám chống lại, lập tức nghe thấy loảng xoảng liên hồi, bao nhiêu loạn quân đều vứt binh khí xuống đất.

Tiêu Phong áp giải Hoàng thái thúc lên tới khu núi trống trải, Gia Luật Hồng Cơ mừng không để đâu cho hết, chẳng khác gì đang nằm mơ, tiến đến bên cạnh Tiêu Phong cầm hai tay ông nói: -Huynh đệ, huynh đệ, giang sơn này của ca ca từ nay cùng ngươi chung hưởng.
Ông nói đến đây tâm thần khích động, tự nhiên nước mắt ròng ròng.

Hoàng thái thúc quì gục dưới đất nói: -Kẻ loạn thần này cầu xin bệ hạ thứ tội, xin bề trên nhủ lòng thương xót.
Gia Luật Hồng Cơ trong lòng hết sức vui sướng quay sang hỏi Tiêu Phong: – Huynh đệ nghĩ mình phải làm sao đây?
Tiêu Phong đáp: -Phản quân người nhiều thế mạnh đang cần an định quân tâm, cầu xin bệ hạ tha tội chết cho Hoàng thái thúc để cho mọi người yên lòng.
Gia Luật Hồng Cơ cười nói: -Hay lắm! Hay lắm! Ngươi nói sao thì làm vậy!

Ông quay lại nói với Bắc Viện Đại Vương: -Ngươi truyền thánh chỉ, phong Tiêu

Phong làm Sở Vương, giữ chức Nam Viện Đại Vương đốc suất phản quân trở về Thượng Kinh.5 Tiêu Phong hoảng hốt, ông giết Sở Vương, bắt Hoàng thái thúc chẳng qua chỉ mong cứu mạng nghĩa huynh đâu phải có lòng ham muốn tước lộc, Gia Luật Hồng Cơ phong cho chức quan lớn như thế khiến cho chân tay luống cuống, sững sờ không biết phải nói sao. Bắc Viện Đại Vương quay sang chắp tay chào Tiêu Phong: -Chúc mừng! Chúc mừng! Tước vị Sở Vương xưa nay không phong cho người ngoài hoàng tộc, Tiêu đại vương mau mau tạ ơn hoàng thượng đi.

Tiêu Phong nói với Gia Luật Hồng Cơ: -Mọi việc hôm nay toàn nhờ hồng phúc của ca ca, lòng quân hướng về bệ hạ nên bình định được quân phản loạn, tiểu đệ chỉ bỏ chút hơi sức nhỏ nhoi, đâu có gì gọi là công lao. Huống chi tiểu đệ không biết làm quan, lại cũng chẳng muốn làm quan, xin ca ca thu hồi thành mệnh.

Gia Luật Hồng Cơ cười vang, giơ tay nắm vai Tiêu Phong nói: -Chức Sở Vương, Nam Viện Đại Vương ở nước Liêu ta là tước lộc cao quí nhất rồi, nếu như huynh đệ hiềm là chưa đủ không chịu thần phục thì người anh này ngoài việc nhường ngôi cho ngươi không còn cách nào khác nữa.

Tiêu Phong lại càng kinh hãi, nghĩ thầm: “Ca ca vui quá, nói năng chẳng giữ gìn gì nữa, xem ra có chiều lung tung, mọi việc lúc này cần quả quyết gấp rút, không thể chần chờ gì nữa để khỏi sinh họa”. Ông đành quì xuống nói: -Thần Tiêu Phong lãnh chỉ, đa tạ ân điển vạn tuế.

Gia Luật Hồng Cơ vui vẻ đưa tay đỡ dậy. Tiêu Phong nói: -Thần không dám vi chỉ nên phải lãnh nhận quan tước. Có điều là kẻ thô bỉ thảo dã, không hiểu pháp độ triều đình, nếu có điều gì sai sẩy xin bệ hạ rộng lòng tha thứ.
Gia Luật Hồng Cơ giơ tay vỗ lên vai ông mấy cái cười nói: -Quyết không sao cả. Ông quay sang nói với Tả quân tướng quân Gia Luật Mạc Ca: -Gia Luật Mạc Ca, ta phong ngươi làm Nam Viện Khu Mật Sứ, phò tá Tiêu đại vương trông coi quân quốc trọng sự.

Gia Luật Mạc Ca mừng rỡ vội vàng quì xuống tạ ơn, sau đó quay sang Tiêu Phong tham bái nói: -Tham kiến đại vương! Hồng Cơ nói: -Mạc Ca, ngươi theo lệnh Tiêu đại vương, đốc suất quân phản loạn quay trở về Thượng Kinh. Chúng ta đi thăm Hoàng thái hậu nào.

Trên núi liền chiêng trống nổi lên, Gia Luật Hồng Cơ cùng đoàn người đi xuống. Lãnh binh tướng quân phe phản loạn lập tức mời Hoàng thái hậu, Hoàng hậu các người ra, cung kính an trí trong doanh. Gia Luật Hồng Cơ vào trong trướng rồi, mẹ con vợ chồng gặp nhau, quả là chết đi sống lại, tưởng chừng như từ một kiếp khác quay về, ai nấy tấm tắc khen ngợi công lao vĩ đại của Tiêu Phong.

Gia Luật Mạc Ca lại đưa Tiêu Phong đi gặp tất cả các bộ thuộc Nam Viện. Mới đây Tiêu Phong trong chốn thiên quân vạn mã vào ra, thần dũng không ai địch nổi, ai nấy đã thấy cả rồi. Các quan quân Nam Viện tuy đều là cựu bộ thuộc của Sở Vương nhưng một là Tiêu Phong thần uy lẫm lẫm, mọi người sợ ông là kẻ anh hùng không dám không phục, thứ nữa Sở Vương bình thời tính tình nóng nảy, không có ân huệ gì với kẻ dưới, thứ ba mình là kẻ làm loạn phạm thượng, trong bụng đang nơm nớp lo lắng thành thử Tiêu Phong vừa đến ai ai cũng nhất tề nghe lệnh của ông.

Tiêu Phong nói: -Hoàng thượng đã tha tội theo kẻ nghịch mưu phản cho các ngươi, từ nay tất cả phải ăn năn sám hối, không người nào được có dạ phản trắc.
Một viên tướng đầu râu tóc bạc tiến lên bẩm: -Bẩm cáo đại vương, Hoàng thái thúc và thế tử bắt giữ gia quyến chúng tôi, ép chúng tôi phải theo, nếu như chống lại, thế tử sẽ chém đầu tất cả, thành thử không biết làm sao, xin đại vương tâu cho vạn tuế rõ.

Tiêu Phong gật đầu: -Nếu thế, những chuyện đã qua từ nay không nhắc đến nữa.
Ông quay lại nói với Gia Luật Mạc Ca: -Cho ba quân ai đâu ở đó, nghỉ ngơi ăn uống xong thì nhổ trại hồi kinh. Sau đó các quan chức Nam Viện từ lớn xuống nhỏ tiến lên tham kiến. Tiêu Phong tuy chưa làm quan bao giờ nhưng đã từng là bang chủ Cái Bang lâu năm, thống lãnh quần hào nên cũng có uy. Thống lãnh hào kiệt Cái Bang với chỉ huy quân Khất Đan không khác nhau nhiều lắm, nhưng Liêu binh có qui củ riêng mà Tiêu Phong phải để ý còn ngoài ra mọi sự do Gia Luật Mạc Ca điều động giải quyết cho nên cũng đâu vào đấy.
Tiêu Phong dẫn đại quân xuất phát chưa bao lâu thì Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đã sai sứ tới trung quân ban tặng áo đai vàng bạc. Tiêu Phong tạ ơn xong, Thất Lý cũng đưa A Tử đến. Nàng mặc áo gấm ngồi trên tuấn mã, nói là những thứ đó đều do Hoàng thái hậu ban cho. Tiêu Phong thấy thân hình mảnh mai của nàng lọt thỏm vào trong cẩm bào rộng thùng thình, khuôn mặt thon thon dường như bị cổ áo che khuất đến một nửa không khỏi tức cười.
A Tử không chính mắt trông thấy Tiêu Phong bắn chết Sở Vương, bắt sống Hoàng thái thúc chỉ nghe Thất Lý kể lại mà thôi. Hễ ai kể lại chuyện gì, không khỏi thêm mắm thêm muối nên công lao của Tiêu Phong lại càng tăng thêm vài phần thần bí.

A Tử vừa gặp ông đã cằn nhằn: -Tỉ phu lập đại công như thế, sao không nói trước để tiểu muội đứng ở sườn núi xem đại ca xông ra rồi lại trở về có phải vui không? Làm em lo ơi là lo.
Tiêu Phong đáp: -Cái đó là nhờ may mà lập được chút công lao chứ ta nào có

định trước đâu? Cô nói nghe thật trẻ con quá.

A Tử nói: -Tỉ phu qua đây.
Tiêu Phong đi đến bên cạnh nàng, thấy khuôn mặt xanh xao của nàng hơi ửng hồng ra chiều phấn khởi, súng sính trong bộ áo váy hoa gấm kia, trông thật chẳng khác gì một con rối nhỏ, vừa kháu khỉnh lại vừa dễ thương, khiến ông bật cười ha hả.

A Tử vẻ mặt phụng phịu nói dỗi: -Em nói chuyện đứng đắn sao anh lại cười, có gì khôi hài đâu?
Tiêu Phong đáp: -Ta thấy cô mặc y phục này, trông thật chẳng khác gì một hình nhân, thú vị quá.
A Tử bực bội đáp: -Anh lúc nào cũng chỉ coi em là một đứa trẻ con, cứ trêu em hoài.
Tiêu Phong vẫn cười: -Đâu có phải vậy! A Tử ơi, lần này ta tưởng hai anh em mình chắc chết mười mươi, ai ngờ chết đi sống lại nên mới vui đùa một chút đấy thôi. Chứ còn cái gì Nam Viện Đại Vương, Sở Vương những tước vị đó ta nào có ham gì, được khỏi chết là mừng lắm rồi. A Tử nói: -Tỉ phu cũng sợ chết sao?

Tiêu Phong chưng hửng rồi gật đầu: -Gặp lúc hiểm nguy ai mà chẳng sợ chết. A Tử nói: -Em lại tưởng anh là anh hùng hảo hán, không sợ chết chứ. Nếu quả là anh sợ chết, sao trong đám phản quân hàng nghìn hàng vạn lại dám xông vào?

Tiêu Phong đáp: -Cái đó gọi là vào chỗ chết để tìm đường sống. Nếu ta không xông vào thì cầm chắc cái chết, thành thử chẳng có gì là dũng cảm hay không dũng cảm mà là vào nước đường cùng. Nếu mình vây một con gấu hay một con cọp, nó chạy không được thể nào cũng liều mạng quay đầu lại cắn thôi. A Tử bật cười: -Anh so sánh mình với loài súc vật.

Lúc đó hai người đang ngồi trên lưng ngựa đi song hàng, đưa mắt nhìn ra thấy cả một vùng thảo nguyên cờ sí rợp trời, những đội ngũ dài như rắn bò tới tận cuối trời không biết đâu mới hết, trước sau trái phải chỗ nào cũng là vệ sĩ bộ thuộc.

A Tử hết sức vui lòng nói: -Hôm trước anh giúp em đoạt được chức truyền nhân của phái Tinh Tú, em nghĩ bũng trong phái Tinh Tú từ nhị đại đệ tử, tam đại đệ tử tất cả mấy trăm người, ngoài sư phụ ra thì em là lớn nhất, đã hết sức đắc ý. Thế nhưng so với anh chỉ huy thiên quân vạn mã thật chẳng thấm gì. Tỉ phu ơi, bọn Cái Bang không chịu để anh làm bang chủ, hứ, một cái bang hội nhỏ xíu, có làm cái quái gì đâu? Anh đem binh mã tới giết sạch bọn chúng cho được việc.
Tiêu Phong liên tiếp lắc đầu nói: -Chỉ trẻ con thôi! Ta là người Khất Đan, Cái

Bang không chịu cho ta làm bang chủ là phải rồi. Trong Cái Bang toàn là cựu bộ thuộc, bạn bè ta, sao lại giết họ?

A Tử đáp: -Bọn chúng trục xuất anh ra khỏi bang rồi, đối xử tệ bạc nên giết chúng đi là phải. Tỉ phu, không lẽ giờ này mà họ còn là bằng hữu của anh nữa hay sao?
Tiêu Phong không biết trả lời thế nào, chỉ lắc đầu, nghĩ đến việc mình đoạn nghĩa tuyệt giao với bạn bè cũ nơi Tụ Hiền Trang, bao nhiêu hào khí đều tiêu ma. A Tử lại hỏi tiếp: -Nếu như bọn chúng nghe tin anh làm Nam Viện Đại Vương nước Liêu đâm ra hối hận, lại mời anh về làm bang chủ Cái Bang, anh về hay không về?

Tiêu Phong mủm mỉm cười: -Trên đời này làm gì có chuyện đó bao giờ? Anh hùng hảo hán nước Đại Tống coi người Khất Đan là gian đồ chuyện ác gì cũng chẳng từ, ta ở nước Liêu làm quan càng lớn thì họ lại càng hận ta.
A Tử nói: -Hứ, thế thì đã sao? Bọn chúng ghét mình thì mình cũng ghét lại. Tiêu Phong đưa mắt nhìn về hướng nam thấy nơi đất trời giao tiếp ở xa xa núi non trùng điệp nghĩ bụng: “Qua khỏi dãy núi kia là Trung Nguyên”. Ông tuy là người Khất Đan nhưng từ nhỏ lớn lên tại phương nam, trong lòng quả là yêu Đại Tống rất nhiều mà yêu Đại Liêu chẳng bao nhiêu, nếu như Cái Bang cho ông làm một bang chúng vô danh không chức phận, không túi nào, e rằng còn sung sướng hơn là chức Nam Viện Đại Vương.

A Tử nói tiếp: -Tỉ phu, em thấy hoàng thượng thật là thông minh nên mới phong anh làm Nam Viện Đại Vương. Từ nay về sau mỗi khi nước Liêu đánh với nước nào, anh đem quân xuất chinh thì thể nào cũng bách chiến bách thắng. Chỉ cần anh xông vào quân địch, đánh chết nguyên soái bên kia, đại đa số quân địch sẽ vứt đao thương, quì xuống đầu hàng, thế là mình chẳng thắng thì là gì?

Tiêu Phong mỉm cười nói: -Bộ hạ của Hoàng thái thúc đều là quan binh người Liêu, xưa nay quen nghe lệnh hoàng thượng rồi thành thử một khi Sở Vương chết đi, Hoàng thái thúc bị bắt tất cả mới đầu hàng. Còn như hai nước giao tranh thì chuyện lại khác hẳn. Giết được nguyên soái thì có phó nguyên soái, giết được tướng này thì còn tướng kia, ai nấy hết sức tử chiến. Ta đơn thương độc mã xông vào chẳng đi đến đâu.

A Tử gật đầu nói: -Ồ, thì ra là thế! Tỉ phu ơi, anh bảo là xông vào bên địch, bắn chết Sở Vương, bắt sống Hoàng thái thúc cũng chưa phải là dũng cảm, thế thì trong đời anh việc gì mới gọi là dũng cảm thực sự? Nói cho em nghe có được không?

Tiêu Phong xưa nay không thích kể lại cho người ta nghe những sự tích võ dũng của mình. Khi xưa còn ở trong Cái Bang ra tay tiêu diệt đại gian đại ác,

dù cho kịch chiến ác đấu cỡ nào, quay trở về bang cũng chi? nói gọn một câu: “Đã giết được những ai những ai …” còn như bao nhiêu gian hiểm từng trải qua, dù cho người khác vặn hỏi thế nào chăng nữa ông cũng không chịu nói. Lúc này nghe A Tử hỏi thế, nghĩ mình trong đởi trải qua hàng trăm trận, khi lâm địch chẳng lúc nào tính chuyện tháo lui, chuyện dũng cảm quả là chẳng cần nhắc nữa, bèn nói: -Ta phải đấu với người phần lớn là bị người ta ép, không đấu không được chứ chẳng có gì gọi là dũng cảm.

A Tử nói: -Thôi em biết rồi, trong đời anh dũng cảm nhất là trận ác đấu tại Tụ Hiền Trang.
Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại: -Làm sao cô biết?
A Tử đáp: -Hôm trước nơi bờ hồ Tiểu Kính, anh đi một lúc rồi, cha em, mẹ em cùng các thủ hạ của cha em nói chuyện về anh, ai cũng bội phục võ công ghê gớm, một thân một mình dám đến đại hội ở Tụ Hiền Trang độc đấu quần hùng, chỉ cốt để trị thương cho một thiếu nữ. Thiếu nữ đó dĩ nhiên là chị em rồi. Lúc đó mọi người chưa biết A Châu chính là con ruột của cha mẹ em, nói anh đối với nghĩa phụ, nghĩa mẫu và thụ nghiệp ân sư cực kỳ tàn độc nhưng với đàn bà lại một mối tình trường; vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc quả là một kẻ tệ hại xấu xa bất cận nhân tình.

Nói tới đây cô gái bật cười khanh khách. Tiêu Phong lẩm bẩm nhắc lại: -Ôi, “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc”, anh hùng hảo hán Trung Nguyên đã bình phẩm Tiêu Phong này tám chữ đó sao? A Tử an ủi ông: -Tỉ phu đừng tức tối làm chi. Riêng mẹ em hết lời ca tụng anh, nói là đàn ông miễn sao si tình đã đủ tốt rồi, còn ngoài ra không có gì quan trọng cả. Mẹ em bảo cha em cũng là loại “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc”, nhưng đối với tình nhân thì lại cũng “phụ nghĩa hiếu sắc”, đối với con cái thì “tàn nhẫn vô tình” chẳng sao bì kịp với đại ca. Tiểu muội đứng một bên vỗ tay tán thành. Tiêu Phong gượng gạo cười lắc đầu.

Đại quân đi mấy ngày thì đến Thượng Kinh. Bách quan và dân chúng đã nghe tin rồi, đi ra tận xa nghinh tiếp. Lá cờ soái của Tiêu Phong đến đâu, bách tính thắp hương lạy phục xuống, ca tụng không ngớt lời. Ông ra tay bình được đại biến loạn khiến cho vô số quân sĩ nước Liêu bảo toàn tính mạng, tại Thượng Kinh gần nửa dân số là gia quyến của ngự doanh quân nên đối với ông xiết bao cảm kích. Ngựa Tiêu Phong đến đâu dân chúng tung hô đến đấy: -Đa tạ Nam Viện Đại Vương cứu mạng.

-Cầu trời phù hộ cho Nam Viện Đại Vương sống lâu trăm tuổi, đại phú đại quí! Tiêu Phong nghe những lời chúc tụng đó thấy dân chúng người nào người nấy mắt rưng rưng, quả thực thành tâm thành ý nghĩ thầm: “Kẻ ở trên ngôi cao, nhất cử nhất động đều liên quan đến họa phúc của muôn vạn người. Khi ta

bắn chết Sở Vương, chẳng qua chỉ là sính cái dũng nhất thời, trước là cứu nghĩa huynh, sau là cứu mình, có ngờ đâu đối với bách tính lại tốt lành đến thế. Ôi, ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều tốt, vậy mà người ta lại thù oán sàm báng biết bao nhiêu, thành kẻ đệ nhất đại gian đại ác trên giang hồ. Qua đến Bắc quốc, vô ý lại thành cứu tinh của muôn dân. Thị phi thiện ác quả là khó nói”.

Ông lại nghĩ: “Nơi đây là đất nước cha mẹ ta, năm xưa cha mẹ chắc thường qua lại con đường này. Ôi, ta nào có biết hình dáng tướng mạo cha mẹ ta ra sao, hai ông bà cưỡi ngựa cùng nhau rong ruổi thế nào lại càng khó tưởng ra nổi”.

Thượng Kinh là kinh đô của nước Liêu. Khi đó Liêu quốc là nước lớn nhất trong thiên hạ, so với Đại Tống cường thịnh hơn nhiều. Thế nhưng người Khất Đan du mục là chính, sống rày đây mai đó, tại Thượng Kinh dân cư, quán xá thật giản lậu thô sơ, so với Trung Nguyên còn kém xa.

Quan chức thuộc Nam Viện liền ra nghinh đón Tiêu Phong vào Sở Vương phủ, phủ đệ to lớn, bên trong trần thiết cực kỳ hoa lệ giàu sang. Tiêu Phong một đời nghèo khổ đã từng ở nơi sang trọng như thế bao giờ? Ông vào đi rảo một hồi bỗng thấy không quen liền sai quân sĩ thiết lập hai tòa doanh trướng ở ngay trong quân, ông và A Tử mỗi người ở một cái, sống thật giản phác chẳng khác gì khi trước.

Đến ngày thứ ba, Gia Luật Hồng Cơ và Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, tần phi, công chúa mọi người mới về đến Thượng Kinh, Tiêu Phong tất lãnh bách quan tiếp giá. Trong triều liên tiếp bận rộn luôn mấy ngày. Đầu tiên là lễ mừng bình được đại nạn, luận công thăng thưởng, phủ tuất các gia đình Bắc Viện Khu Mật Sứ và quan binh mới tử trận. Hoàng thái thúc tự thấy mình không còn mặt mũi nào nên trên đường về tự tử chết rồi.

Hồng Cơ tuy vậy vẫn giữ lời, đối với quan binh phản nghịch không hề truy cứu, chỉ tru sát hai mươi tên thuộc hạ của Sở Vương đầu sỏ mưu việc phản loạn. Trong hoàng cung mở tiệc khao thưởng công lao binh sĩ, đại yến liên tiếp ba ngày. Tiêu Phong trở nên anh hùng đệ nhất nơi bàn tiệc. Các món thưởng của Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, hoàng hậu, các phi tần, công chúa kể cả tặng phẩm của văn võ bách quan, quả thật chất cao như núi.

Khao thưởng xong rồi, Tiêu Phong mới đến Nam Viện xem xét công việc. Mấy chục tộc trưởng trong các bộ tộc nước Liêu đều đến tham kiến, nào là Ô Ngỗi, Bá Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vi, Mai Cổ Tất, Ngũ Quốc, Ô Cổ Lạp …
nhất thời không nhớ hết được. sau đó là quan quân bì thất đại trướng của hoàng đế, san quân thuộc hoàng hậu, rồi các cấp Hoằng Ninh Cung, Trường Ninh Cung, Vĩnh Hưng Cung, Tích Khánh Cung, Diên Xương Cung lần lượt đến

chào. Thuộc quốc của nước Liêu tổng cộng năm mươi chín nước, bao gồm Thổ Cốc Hỗn, Đột Quyết, Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Lương, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương, Cao Ly, Vu Khuých, Đôn Hoàng … Những nước đó đều có sứ thần tại Thượng Kinh, nghe tin Tiêu Phong nắm giữ quân quốc trọng quyền, đều đến tặng những món quí giá lạ lùng để lấy lòng làm quen.

Tiêu Phong ngày ngày khi thì tiếp khách, khi gặp bộ thuộc, mắt thấy toàn là vàng bạc châu báu, tai nghe những điều xưng tụng tán dương, không khỏi chán chường. Cứ như thế đến hơn một tháng Gia Luật Hồng Cơ mới vời vào điện, bảo: -Huynh đệ, chức phận ngươi là Nam Viện Đại Vương nên tọa trấn Nam Kinh6, chờ thời tiến đánh Trung Nguyên. Người anh này tuy không muốn xa cách ngươi, nhưng để lập kỳ công thiên thu vạn thế, ngươi mau sớm đem binh xuống phía nam.

Tiêu Phong nghe hoàng thượng sai mình đem quân nam chinh, trong bụng kinh hoảng nói: -Tâu bệ hạ, nam chinh là chuyện đại sự, cực kỳ quan trọng, thần Tiêu Phong chỉ là một võ dũng thất phu, quân lược quả không phải là sở trường.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói: -Nước ta vừa trải qua một cơn họa loạn, cần cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Ở Đại Tống hiện nay Thái hậu đang nắm quyền, trọng dụng Tư Mã Quang, cải cách triều chính không có sơ hở nào để khai thác, chúng ta chưa thể tính chuyện nam chinh được. Này huynh đệ, ngươi đến Nam Kinh, trong đầu lúc nào cũng phải nghĩ đến việc thôn tính Nam triều. Chúng ta cần phải lựa gió phất cờ, hễ Nam triều có nội biến là lập tức đưa binh xuống phương nam. Còn như nội bộ họ tốt lành không có gì, nước Liêu đem binh đến đánh có phải là dùng sức nhiều mà thành công ít hay sao? Tiêu Phong đáp: -Vâng! Quả là như thế!

Hồng Cơ nói: -Thế nhưng sao ta lại biết được Nam triều nội chính khéo léo, trăm họ nhân tâm qui phục?
Tiêu Phong đáp: -Thần mong được bệ hạ chỉ điểm.
Hồng Cơ cười sằng sặc nói: -Từ xưa đến nay cũng đều thế cả, cốt sao đem nhiều tiền bạc tài bạch mua kẻ gian tế gián điệp. Người nam tham tiền, bọn hèn hạ xấu xa đông lắm, ngươi hãy ra lệnh cho Nam Bộ Khu Mật Sứ đừng tiếc tài bảo, cố mua được càng nhiều càng tốt.

Tiêu Phong vâng lệnh từ biệt ra về, trong lòng buồn bã. Ông xưa nay chỉ kết giao anh hùng hào kiệt, tuy những chuyện lén hãm hại nhau, mai phục hạ độc chứng kiến đã nhiều, nhưng toàn là những việc giết người đốt nhà một cách sảng khoái chứ chưa từng đem tiền bạc đi mua chuộc người ngoài bao giờ. Hơn nữa tuy ông là người Liêu nhưng từ nhỏ lớn lên ở Nam triều, hoàng đế sai ông tính toán tiêu diệt nhà Đại Tống, trong lòng quả hết sức miễn cưỡng nghĩ

thầm: “Ca ca có lòng tốt phong ta làm Nam Viện Đại Vương, nếu ta chỉ vì chuyện này từ quan, không khỏi phụ thịnh tình của anh ta, thương tổn nghĩa khí huynh đệ. Đợi ta xuống Nam Kinh, làm quan sáu tháng một năm, hãy xin từ chức cũng kịp. Khi đó nếu nghĩa huynh không chịu thì ta mới treo áo, buộc ấn bỏ đi anh ta không trách gì được”. Nghĩ thế ông tất lãnh bộ thuộc, dắt A Tử xuống Nam Kinh.

Nam Kinh thời nhà Liêu tức là Bắc Kinh ngày nay, khi đó gọi là Yên Kinh, còn gọi là U Đô, là kinh đô của U Châu. Thạch Kính Đường nhà Hậu Tấn tự lập xưng đế được nước Liêu hết sức phù trì nên cắt Yên Vân mười sáu châu để đền ơn. Yên Vân mười sáu châu bao gồm U, Kế, Trác, Thuận, Đàn, Doanh, Mạc, Tân, Quy, Nho, Võ, Úy, Vân, Ứng, Hoàn, Sóc đều là những nơi quan trọng ở Ký Bắc, Tấn Bắc.

Từ khi cắt đất cho nước Liêu rồi, các đời Hậu Tấn, Hậu Chu, Đại Tống ba triều đại nhiều năm tranh đoạt nhưng vẫn không sao lấy lại được. Mười sáu châu Yên Vân địa thế hiểm yếu, nước Liêu trú đóng trọng binh, mỗi lần đem binh xuống đánh phương nam chạy thẳng một mạch, toàn là bình nguyên khiến Đại Tống không có cách gì thủ ngự. Tống Liêu giao binh hơn trăm năm qua, nhà Tống không thắng trận nào, dĩ nhiên chủ yếu là vì binh giáp không bằng nhưng người Liêu từ cao đánh xuống khống chế được chiến trường quả là đã chiếm được tiện nghi thật lớn.

Tiêu Phong vào thành rồi, thấy đường sá ở Nam Kinh rộng rãi, thị tứ phồn hoa hơn xa Thượng Kinh, người qua kẻ lại đều là dân chúng Nam triều, nghe toàn là tiếng nói Trung Nguyên, thật chẳng khác gì đã quay về Trung Thổ. Tiêu Phong và A Tử đều rất vui mừng, hôm sau liền ăn mặc giản dị, đi du ngoạn khắp các nơi.

Thành Yên Kinh vuông vức ba mươi sáu dặm, bao gồm tám cửa. Phía đông là cửa An Đông, cửa Nghinh Xuân; phía nam là cửa Khai Dương, cửa Đan Phượng; phía tây là cửa Hiển Tây, cửa Thanh Tấn; còn phía bắc là cửa Thông Thiên, cửa Củng Thần. Hai cửa phía bắc sở dĩ gọi là Thông Thiên, Củng Thần7
ý nói thần phục, tuân theo thánh chỉ của hoàng đế. Vương phủ của Nam Viện Đại Vương ở phía tây nam. Tiêu Phong và A Tử du ngoạn hồi lâu, thấy phố chợ, công thự, chùa chiền, đạo quan san sát khắp nơi đi xem một lúc không hết được.
Khi đó Tiêu Phong giữ chức Nam Viện Đại Vương, Yên Vân mười sáu châu đều dưới quyền ông cai quản, cả phủ Đại Đồng ở Tây Kinh, phủ Đại Định ở Trung Kinh cũng đều phải nghe hiệu lệnh. Uy vọng lớn như thế không thể nào ở một chỗ doanh trướng bé nhỏ nên đành phải dọn vào vương phủ.
Ông coi việc mấy ngày đầu váng mắt hoa, thật là khổ sở thấy Nam Viện Khu

Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca tinh minh mẫn cán, quen thuộc chính vụ nên bao nhiêu việc giao cho y cả.

Thế nhưng làm quan to cũng có chỗ hay, trong vương phủ những dược phẩm quí giá nhiều không biết bao nhiêu mà kể, A Tử dùng làm thức ăn hàng ngày. Nhờ bổ dưỡng như thế, nội thương của nàng mỗi ngày một đỡ, đến đầu mùa đông đã có thể đi lại một mình. Nàng du ngoạn trong thành Yên Kinh đã nhiều, về sau lại bảo Thất Lý theo hầu, đưa đi chơi khắp các nơi chung quanh thành mười dặm.

Hôm đó tuyết đổ vừa ráo hạt, A Tử mặc điêu cừu, đến Tuyên Giáo Điện nơi Tiêu Phong cư ngụ nói: -Tỉ phu ơi, em ở trong thành này chán muốn chết, anh đưa em đi săn nhé.
Tiêu Phong ở trong cung điện đã lâu, cũng thấy phiền muộn, nghe nàng nói thế, trong bụng cũng mừng bèn sai thuộc hạ chuẩn bị ngựa để ra ngoài săn bắn. Ông không muốn rềnh rang, chỉ đem theo vài tùy tòng phục thị A Tử, lại ngại bách tính dòm ngó nên thay áo lông cừu quân sĩ thường mặc, đem theo một cánh cung, một túi tên, nhảy lên ngựa cùng A Tử đi ra cửa Thanh Tấn ở phía tây.
Đoàn người ra khỏi thành hơn chục dặm, chỉ săn được vài con thỏ.
Tiêu Phong nói: -Bọn mình đến biên giới phía nam xem thế nào.

Ông chuyển đầu ngựa, quay sang hướng nam, lại đi hơn hai chục dặm, thấy một con cheo8 từ trong bụi chạy ra. A Tử cầm mũi tên trên tay để vào dây, ngờ đâu cánh tay hoàn toàn không có chút hơi sức nào, cánh cung không giương lên được. Tiêu Phong đưa cánh tay trái từ phía sau nàng thò qua nắm thân cung, tay phải cầm tay nàng kéo dây, buông tay nghe vút một tiếng, vũ tiễn phóng ra, con cheo liền ngã ngay xuống. Những người đi theo reo ầm cả lên.

Tiêu Phong bỏ tay ra nhìn A Tử mỉm cười, thấy nàng mắt rưng rưng, lạ lùng hỏi: -sao thế? Không thích ta giúp em bắn dã thú ư?
A Tử nước mắt chảy dài xuống má thổn thức: -Em … em thành phế nhân rồi, đến giương cung … mà cũng chẳng xong.
Tiêu Phong dỗ dành: -Đừng có nóng ruột, từ từ rồi sẽ hồi phục lực khí. Nếu như quả là tương lai không khỏi, ta sẽ truyền cho cô cách tập nội công, thể nào cũng tăng gia sức khỏe.
A Tử đang khóc bật cười nói: -Tỉ phu đã nói thế thì phải giữ lời, thể nào cũng dạy em nội công đấy nhé.
Tiêu Phong đáp: -Được mà! Thể nào ta cũng dạy cho cô.
Trong khi đang nói chuyện, bỗng nghe từ phương nam có tiếng chân ngựa rầm rập, một đại đội nhân mã từ trên mặt tuyết chạy tới. Tiêu Phong đưa mắt

nhìn về phía đó thấy đội này toàn là quan binh người Liêu nhưng không giương cờ. Bọn quan quân vừa đi vừa nói chuyện xôn xao, ca hát cực kỳ khoái trá, sau ngựa buộc khá nhiều tù binh, tưởng chừng như vừa thắng trận trở về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mình làm gì có giao chiến với ai, những người này đánh trận ở đâu trở về thế này?”.

Ông thấy đoàn quan binh chuyển qua phía đông trở về thành liền quay sang nói với kẻ tùy tòng: -Ngươi ra hỏi xem đội lính kia làm gì về thế? Gã tùy tòng liền đáp: “Vâng” rồi hỏi: -Có phải các anh em “đi gặt” về đấy chăng?
Y giục ngựa chạy thẳng đến chỗ bọn kia. Khi tới gần y nói mấy câu, bọn quan binh nghe thấy có Nam Viện Đại Vương đang ở tại đây liền lớn tiếng reo hò, lập tức nhảy xuống ngựa, dây cương cầm tay rảo bước đi tới trước Tiêu Phong, khom lưng hành lễ cùng nói: -Đại vương thiên tuế! Tiêu Phong giơ tay chào lại đáp: -Miễn lễ!

Ông thấy đội binh này chừng hơn tám trăm người, trên lưng ngựa chất đầy quần áo khí vật, số người bị bắt cũng phải đếm bảy tám trăm, phần lớn là đàn bà còn trẻ nhưng cũng có một số thanh niên, ăn mặc đều theo lối người Tống, người nào người nấy khóc khóc mếu mếu.

Gã đội trưởng nói: -Hôm nay đến lượt đội Hắc Lạp Đốc chúng tôi “đi gặt”, nhờ phúc đại vương nên thu được cũng kha khá.
Y quay lại quát: -Các ngươi đem những thiếu nữ xinh đẹp nhất, vàng bạc châu báu quí giá nhất tất cả dâng lên, xin đại vương thiên tuế thu dụng. Các quan binh cùng reo lên: -Tuân lệnh!
Đem ra hơn hai chục cô gái đẩy đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, lại lấy ra rất nhiều kim ngân trang sức bỏ đầy một tấm chăn da. Các quan binh chăm chú nhìn Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ sùng kính trọng vọng, hiển nhiên nếu được Nam Viện Đại Vương thu dụng đám con gái và những món ngọc ngà này thì quả là vinh hạnh.

Hôm xưa Tiêu Phong ở ngoài Nhạn Môn Quan đã thấy quan binh nhà Đại Tống bắt người Khất Đan, lần này lại thấy người Khất Đan đi bắt người Đại Tống, những người bị giải đi ai nấy thê thảm khốn khổ chẳng khác gì nhau. Ông ở nước Liêu đã lâu, hiểu biết quân tình Liêu quốc. Triều đình nước Liêu không cấp lương cho lính, cũng chẳng trả tiền, quan binh cần gì đều phải sang đoạt của bên địch, mỗi ngày sai lính qua cướp của dân bên Đại Tống, Tây Hạ, Nữ Chân, Cao Ly các nước lân cận, gọi là “gặt hái”, thực ra so với cường đạo cũng chẳng khác gì. Quan binh Tống triều cũng lại đi qua “gặt hái” của người Liêu để trả thù.

Thành thử dân chúng ở vùng biên giới khốn khổ vô cùng, ngày nào cũng nơm nớp, sáng lo chiều lo. Tiêu Phong thấy phương thức đó tàn nhẫn vô đạo, có

điều mình không tính chuyện lâu dài nên định bụng sẽ chỉ vờ vịt làm việc một thời gian rồi xin từ quan ẩn cư, thành thử các việc quân quốc đại sự không đưa ra chủ trương gì, bây giờ chính mắt thấy thảm trạng những người bị bắt, không khỏi chạnh lòng thương hại bèn hỏi gã đội trưởng: -Các ngươi ở đâu …”gặt hái” ở đâu về thế?

Gã đội trưởng cung kính đáp: -Bẩm cáo đại vương, chúng tôi “đi gặt” tại bên ngoài cảnh giới Trác Châu, phía bên Đại Tống. Từ khi đại vương tới đây, thuộc hạ không dám đi kiếm lương thực gần quanh bản châu nữa.
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nghe y nói, trước đây bọn họ đi cướp của người Tống ngay tại bản châu”. Ông dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ đang đứng trước đầu ngựa: -Cô là người ở đâu?
Người con gái kia lập tức quì xuống, khóc nói: -Tiểu nữ là người ở Trương gia thôn, cầu đại vương khai ân, thả cho tiểu nữ trở về đoàn tụ với cha mẹ.
Tiêu Phong quay đầu nhìn những người kia. Tất cả mấy trăm người bị bắt đều quì xuống nhưng trong đám người có một thanh niên đứng sừng sững không chịu quì.
Thanh niên đó trạc độ mười sáu, mười bảy, mặt dài mà gầy, cằm nhọn, đôi mắt láo liên bất định. Tiêu Phong liền hỏi: -Cậu bé kia, nhà ngươi ở đâu?
Thanh niên kia đáp: -Tiểu nhân có một bí mật đại sự, muốn bẩm riêng lên đại vương.
Tiêu Phong đáp: -Được, ngươi lại đây!
Thanh niên đó hai tay bị dây thừng trói chặt, nói: -Xin đại vương đứng xa bộ thuộc, việc này không thể để người khác nghe thấy được.
Tiêu Phong nổi bụng hiếu kỳ nghĩ thầm: “Một đứa bé thế này làm gì mà biết được chuyện cơ mật đại sự? Phải rồi, ngươi từ biên giới phía nam qua đây, chắc là biết chuyện gì về quân tình Đại Tống chăng?”. Y là người Tống, đem chuyện cơ mật bẩm báo cho người Khất Đan, là loại Hán gian vô liêm sỉ nên ông đã có bụng khinh khi, nhưng y nói là có chuyện trọng đại, có nghe cũng không mất mát gì, bèn phóng ngựa ra cách khoảng chục trượng, giơ tay vẫy: – Lại đây!

Gã thanh niên kia liền đi theo, giơ hai tay lên nói: -Xin đại vương cắt dây trói, tiểu nhân có vật để trong túi muốn trình lên.
Tiêu Phong rút phắt yêu đao, giơ lên chém xuống, thế đao tưởng chừng chặt y ra làm đôi, nhưng lại thật chuẩn xác, chỉ cắt đúng sợi dây thừng trói hai tay. Gã thanh niên hoảng hốt, lùi lại hai bước, nhìn Tiêu Phong xuất thần. Tiêu Phong mỉm cười, tra đao vào vỏ hỏi: -Ngươi có cái gì?

Gã thanh niên đưa tay vào túi, lấy một vật gì đó ra cầm trên tay nói: -Đại vương xem thì biết.

Nói xong y đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, ông liền đưa tay ra đón lấy. Đột nhiên, gã thanh niên cầm vật ở trong tay ném thẳng vào mặt Tiêu Phong, Tiêu Phong liền vung roi lên đánh văng vật đó ra ngoài, thì ra đó là một cái túi nhỏ. Cái túi đó rơi xuống đất, phấn trắng tung tóe khắp nơi, là một túi bột vôi sống, nếu trúng mặt vào mắt thì sẽ mù ngay. Đây là một vật thấp hèn mà bọn giang hồ hạng ba, trộm gà bắt chó thường dùng.

Tiêu Phong hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Thằng bé này lớn mật, thì ra không phải

là Hán gian”. Ông gật đầu hỏi: -Ngươi tên chi? Cớ sao lại có bụng hại ta? Thanh niên đó mím chặt môi, không trả lời. Tiêu Phong dịu mặt nói: -Ngươi mau nói ta nghe, ta sẽ tha mạng cho.
Thanh niên đáp: -Ta báo thù cho cha mẹ không xong, còn gì để nói nữa.
Tiêu Phong hỏi: -Cha mẹ ngươi là ai? Không lẽ bị ta giết sao?

Gã thanh niên bước tới hai bước, mặt đầy vẻ bi phẫn, chỉ vào mặt Tiêu Phong lớn tiếng nói: -Kiều Phong, ngươi giết chết cha ta, mẹ ta, cả bác ta, ta … ta giận không được ăn thịt, rút gân lột da, băm vằm ngươi thành vạn mảnh.
Tiêu Phong nghe y gọi cái tên cũ ngày xưa của mình, lại bảo mình giết cha mẹ và bá phụ, ắt hẳn là kẻ thù ngày trước ở Trung Nguyên, bèn hỏi: -Bá phụ ngươi là ai? Phụ thân là ai?
Thanh niên đáp: -Ta chẳng muốn sống làm gì nên cũng cần cho ngươi biết, nam nhi họ Du ở Tụ Hiền Trang có phải là phường tham sống sợ chết đâu! Tiêu Phong “À” lên một tiếng nói: -Thì ra ngươi là con cháu của Du thị song hùng, lệnh tôn có phải là Du Câu Du nhị gia không?

Ông ngừng lại một chút nói tiếp: -Hôm đó ta bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh ở quí trang, bắt buộc phải ứng chiến, không thể làm cách nào khác hơn. Lệnh tôn và lệnh bá phụ đều tự vẫn mà chết.
Ông nói tới đây lắc đầu tiếp: -Ôi, tự vẫn hay bị giết thì cũng vậy. Hôm đó ta đoạt binh khí của bá phụ và gia gia ngươi để đến nỗi ép họ phải tự vẫn. Tên ngươi là gì?
Gã thanh niên ưỡn ngực, lớn tiếng đáp: -Ta tên là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi phải giết, ta học được cái gương sáng của bá phụ và gia gia rồi.
Nói xong y thò tay vào ống quần, lấy ra một thanh đoản đao, giơ lên đâm luôn vào ngực. Roi ngựa của Tiêu Phong lại vung ra, cuốn lấy con dao, đoạt luôn. Du Thản Chi giận dữ, chửi liền: -Ta muốn tự vẫn cũng không cho hay sao? Tên Liêu cẩu đáng chết kia, bụng dạ ngươi độc ác thật.

Lúc này A Tử đã giục ngựa chạy đến bên Tiêu Phong, quát lên: -Thằng tiểu quỉ kia, sao dám mở miệng nhục mạ người khác? Ngươi muốn chết ư, ha ha, đâu có dễ thế.
Du Thản Chi đột nhiên nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thanh tú, ngơ ngẩn nhìn,

không nói ra lời. A Tử hỏi: -Tiểu quỉ, cái cảnh mù lòa thật thích thú, rồi đây ngươi sẽ được nếm mùi.

Nàng quay lại nói với Tiêu Phong: -Tỉ phu, tên tiểu tử này tàn độc quá, dám dùng vôi sống để hại anh, vậy mình lấy ngay vôi đó phế đôi mắt nó cho biết. Tiêu Phong lắc đầu, quay sang nói với tên lãnh binh đội trưởng: -Bọn người Tống đi gặt bắt được hôm nay, giao lại cho ta có được chăng?

Gã đội trưởng mừng rỡ không để đâu cho hết vội đáp: -Được đại vương để mắt tới thì còn gì hơn, xin đa tạ ân điển đại vương.
Tiêu Phong nói: -Những quan binh nào hiến tù binh bắt được cho ta, trở về nhớ đến vương phủ lãnh thưởng.
Các quan binh vui vẻ đáp: -Chúng bộ thuộc thành tâm dâng lên đại vương, không cần phải thưởng.
Tiêu Phong nói: -Các ngươi để những kẻ bắt được lại đây, về thành trước đi, nhớ đến lãnh thưởng.
Bọn quan binh khom lưng tạ ơn. Gã đội trưởng hỏi: -Nơi đây dã thú không có bao nhiêu, chắc đại vương muốn dùng bọn Tống chư làm bia sống chứ gì? Trước đây Sở Vương vẫn thích trò này lắm. Chỉ tiếc hôm nay chúng tôi bắt được phần lớn là đàn bà, chạy không nhanh. Lần sau chúng tôi sẽ cố bắt những con lợn Tống khỏe mạnh.

Nói xong hành lễ dẫn binh đi. “Muốn dùng bọn Tống chư làm bia sống chứ gì”, câu đó lọt vào tai, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, trước mắt như hình dung ra cái cảnh tàn bạo của Sở Vương năm xưa: mấy trăm người Tống chạy thục mạng trên mặt tuyết chẳng khác gì dã thú, trong khi quí nhân người Khất Đan cười sằng sặc, giương cung lắp tên bắn chết từng người một. Nếu như có người Tống nào chạy được xa, người Khất Đan cưỡi ngựa rượt theo, chẳng khác gì săn nai, đuổi chồn, rồi thì ai ai cũng chết cả. Cái thảm cảnh đó, người Khất Đan thuận mồm nói ra, chẳng có gì là lạ, hẳn là trước đây đã quen. Ông đưa mắt nhìn qua bọn người bị bắt, thấy ai nấy mặt tái mét, run lẩy bẩy trong gió lạnh. Những người dân nơi biên tái này có kẻ biết tiếng Khất Đan, đã từng nghe chuyện “bắn bia sống”, bây giờ sợ đến mất vía.

Tiêu Phong thở dài nhìn xuống núi non trùng điệp ở phương Nam nghĩ thầm: “Nếu như không có người tiết lộ thân thế thì đến giờ này ta vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng bọn người này nói chung một thứ tiếng, ăn cùng một thứ cơm, có khác gì đâu? Vì sao ai cũng là người, lại phải gượng gạo chia ra nào là Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly làm chi? Ngươi sang đất ta ngươi “gặt lúa”, ta sang đất ngươi ta đốt nhà? Ngươi chủi ta là chó Liêu, ta mắng ngươi là lợn Tống?”. Trong nhất thời, lòng ông cảm khái dạt dào như sóng biển.

Ông nhìn lại thấy đám quan binh đi kiếm lương kia đã khuất nẻo không còn đâu nữa bèn quay qua nói với đám nạn dân: -Hôm nay ta thả các ngươi về, mau mau chạy đi thôi.

Bọn người bị bắt vẫn tưởng Tiêu Phong thả cho họ chạy, sau đó sẽ bắn chết nên vẫn chần chờ không chịu đi. Tiêu Phong lại tiếp: -Các ngươi về rồi, tốt nhất rời xa biên giới, để khỏi bị người ta đi “gặt lúa” bắt lần nữa. Ta chỉ cứu các ngươi được một lần, không cứu được lần thứ hai đâu.

Những nạn nhân bây giờ mới tin là thật, vui mừng reo hò, tất cả cùng quì xuống khấu đầu nói: -Đại vương ân đức tày non, tiểu dân về nhà khấn vái cầu cho đại vương sống lâu giầu bền, ngôi cao mãi mãi.
Bọn họ sớm biết người dân Tống bị bọn Liêu binh “gặt lúa” bắt được rồi, trừ người thật giàu có có tiền bạc gấm vóc đem ra chuộc mạng, còn không đều bỏ thân xứ người đến nắm xương cũng không mang được về nhà. Tống Liêu hai bên giao tranh lâu năm, người có tiền sớm chạy vào sâu nội địa rồi, còn lại sống nơi biên cảnh chỉ toàn là dân nghèo khổ, làm gì có ai giàu có mà đem tiền chuộc mạng? Ai cũng biết mình thật không bằng con cừu con ngựa, được vị đại vương nước Liêu tha cho về thật mừng rỡ không đâu kể xiết.

Tiêu Phong thấy những nạn dân mặt tươi rói, người nọ dìu người kia đi về hướng nam nghĩ thầm: “Người Khất Đan ta bắt họ tới đây, rồi lại thả cho về, trên đường đi kinh hoàng một phen, lại chịu biết bao khổ sở, ta nào có gì gọi là ân đức đối với họ?”.

Ông thấy những người khốn khổ kia đi đã xa, còn Du Thản Chi vẫn đứng sừng sững tại chỗ, bèn nói: -sao ngươi không chạy đi? Ngươi trở về Trung Nguyên có tiền bạc gì không?
Ông vừa nói vừa thò tay vào túi, định cho y ít kim ngân, nhưng trong mình không mang theo tiền tài, mò vào chỉ thấy một cái bao giấy dầu nhỏ. Ông trong lòng chua xót, trong chiếc bao chỉ có một bộ Dịch Cân Kinh viết bằng chữ Phạn mà hôm trước A Châu ăn trộm được ở chùa Thiếu Lâm, ép mình phải cầm lấy, mà nay người mất kinh còn, làm sao không buồn bã? Ông tiện tay bỏ chiếc bao trở lại vào túi nói: -Ta hôm nay đi săn, không mang theo tiền, nếu ngươi không có gì tiêu thì theo ta vào thành mà lấy.

Du Thản Chi lớn tiếng nói: -Họ Kiều kia, ngươi muốn giết thì cứ giết, muốn lóc da xẻ thịt thì cứ việc chứ đừng dùng ngụy kế làm nhục ta? Họ Du này dù có chết đói cũng không thèm nhận một văn tiền của ngươi đâu!
Tiêu Phong nghĩ lại y nói không sai, mình là kẻ thù giết cha, mối thâm cừu bất cộng đái thiên kia làm sao hóa giải, có nói thêm cũng vô ích bèn bảo: -Ta không giết ngươi đâu! Ngươi muốn báo thù thì lúc nào đến kiếm ta cũng được. A Tử vội nói: -Tỉ phu, thả y không được. Tên tiểu tử này báo thù không dùng

cách thức đàng hoàng chân chính, chỉ dùng thủ đoạn hạ lưu hèn hạ. Chi bằng nhổ cỏ nhổ tận rễ để khỏi di họa về sau.

Tiêu Phong lắc đầu: -Trên giang hồ đâu đâu cũng đầy chông gai, chỗ nào cũng toàn hung hiểm, ta đều đi qua cả rồi. Cỡ người như y không làm gì nổi ta đâu. Hôm xưa ta khiến cho bá phụ và cha y phải tự vẫn, quả thực không phải chủ mưu, nhưng món nợ máu đó ta thiếu đã lâu rồi, việc gì phải giết cả con cháu Du thị song hùng nữa làm chi?

Ông nói tới đây, thấy lòng nguội lạnh bèn bảo: -Thôi mình đi về, hôm nay chẳng có gì mà săn nữa.
A Tử bĩu môi nói: -Em thấy nếu như được bắt gã này về hành hạ một phen cho bõ ghét thì cũng thú vị! Anh thả y rồi, về thành còn có gì để vui đâu?
Thế nhưng nàng không dám cãi lời Tiêu Phong, đành quay đầu ngựa, cùng Tiêu Phong sóng cương trở về, đi được mấy trượng quay đầu nói: -Tiểu tử kia, ngươi về luyện thêm một trăm năm nữa, lúc đó hãy kiếm tỉ phu ta báo thù. Nói xong nàng cười khẩy, giơ roi quất ngựa chạy đi.
Chú Thích:
1. Trướng của nhà vua (xem ở dưới)
2. Quân đi dò thám, tiền sát viên
3. Điểm này Kim Dung không biết căn cứ vào đâu. Theo sử sách, ngay trong giai đoạn thịnh trị nhất, nước Liêu cũng chỉ độ hơn ba triệu người, trong đó người Khất Đan chừng non một triệu, còn lại là người Hán dưới quyền cai trị của họ (do việc đánh chiếm và nhường đất của Tống triều). Tuy dân số không đông, họ rất thiện chiến. Trong thời kỳ này, người Nữ Chân chỉ mới là một bộ tộc, cũng dưới quyền kiểm soát của người Khất Đan chứ chưa tách riêng thành một nước riêng biệt. Với dân số như thế thật khó mà có được một đội quân non một triệu người. Hơn nữa, số binh lính điều động trong một chiến dịch thường chỉ một phần nào trong toàn bộ binh lính trong nước chứ không phải muốn đem bao nhiêu thì đem. Đi săn mà mang theo 10 vạn quân là điều khó tin.

4. ỷ mình không kiêng nể gì cả
5. Chính sử chép như sau: Vua Khất Đan Đạo Tông Gia Luật Hồng Cơ đi săn ở Loan Hà Thái Tử Sơn, Hoàng thái thúc Gia Luật Trọng Nguyên khởi binh tấn công hành cung (nơi vua đang ở), Nam Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Nhân Tiên đánh trả, Gia Luật Trọng Nguyên thua chạy, tự sát (Bá Dương: Trung Quốc Lịch Sử niên biểu – tập hạ [in lần thứ sáu] Tinh Quang Đài Bắc 2001 tr. 963-964)
6. tức Bắc Kinh ngày nay
7. Củng Thần là tinh tú chầu về ý nói nhà vua như sao Bắc Thần (Bắc Cực) ở

giữa,

các ngôi sao đều chạy theo.
8. Tức con chương, một loại hươu nhưng nhỏ hơn (moschus chinloo)


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.