THIÊN LONG BÁT BỘ

47. Vi thùy khai, trà hoa mãn lộ



Chạnh nhớ hương xưa hoa hé nụ,

Thầm thương chốn cũ nét vờn tranh.
¤
Cả bọn Đoàn Dự ngựa không dừng vó nhưng từ Linh Châu đi Cao Châu, Tần Châu qua phương đông về Hán Trung, ngang qua Quảng Nguyên, Kiếm Các rồi tới Thục Bắc đường đi nào chỉ một ngày.
Trên đường liên tiếp nhận được tin tức của quần nữ hai bộ Huyền Thiên, Chu Thiên cung Linh Thứu truyền tới cho biết Trấn Nam Vương đang đi về hướng nam. Có một lần tin tức nói là hai nữ quyến Trấn Nam Vương dẫn theo, ở Tử Đồng đánh nhau một trận không phân thắng bại.

Đoàn Dự biết là hai phu nhân, một người là mẫu thân của Mộc Uyển Thanh Tần Hồng Miên còn người kia là mẹ của A Châu, A Tử Nguyễn Tinh Trúc. Luận võ công thì Tần Hồng Miên có vẻ giỏi hơn, về mưu trí thì Nguyễn Tinh Trúc lại vượt trội nhưng nhờ có cha mình ở giữa hòa giải nên không thành lớn chuyện. Quả nhiên cách hai ngày sau lại có tin truyền đến, hai vị phu nhân đã làm lành với nhau, cùng Trấn Nam Vương uống rượu tại một tửu quán. Huyền Thiên Bộ cũng đã cáo tri với Trấn Nam Vương là có kẻ đối đầu đang tính đường gia hại.
Trên đường đi Đoàn Dự đã cùng Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần thương nghị mấy lần, ai cũng thấy kẻ thù trừ người số một trong Tứ Đại Ác Nhân là Đoàn Diên Khánh ra không còn ai khác. Đoàn Diên Khánh võ công cực cao, nước Đại Lý trừ chính Bảo Định Đế ra không ai có thể địch nổi, nếu y đuổi theo gây chuyện với Trấn Nam Vương thì quả thật đáng lo.

Trước mắt chỉ còn cách cố gắng đi thật nhanh để gặp được Trấn Nam Vương, cùng góp sức để có thể đấu với Đoàn Diên Khánh. Ba Thiên Thạch nói: -Chúng mình một khi gặp Đoàn Diên Khánh, thì một liều ba bảy cũng liều, tất cả cứ xông lên lấy đông đánh ít, đừng để lâm vào vết xe cũ nơi Tiểu Kính Hồ, để y đơn đả độc đấu với vương gia.

Chu Đan Thần nói: -Chính thế! Bọn mình ở đây có Đoàn thế tử, Mộc cô nương, Chung cô nương, Vương cô nương, hai chúng ta, thêm vương gia và hai vị phu nhân, lại còn Hoa tư đồ, Phạm tư mã, Cổ đại ca tất cả bấy nhiêu người, có thêm các cô nương trong Linh Thứu Cung tương trợ. Người nhiều thế mạnh, nếu không giết nổi Đoàn Diên Khánh thì cũng không thể để cho y hiếp đáp được.
Đoàn Dự gật đầu đáp: -Ta cũng nghĩ thế.

Đoàn người đến Cẩm Châu bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập từ phía trước, hai kỵ mã chạy đến. Hai người đàn bà từ trên lưng ngựa nhảy xuống

kêu lên: -Thuộc hạ Huyền Thiên Bộ cung Linh Thứu tham kiến Đại Lý Đoàn công tử.

Đoàn Dự vội vàng hạ mã đáp lễ: -Hai vị quả là gian khổ, không biết đã gặp gia phụ chưa?
Người đàn bà trung niên bên phải đáp: -Khải bẩm công tử, Trấn Nam Vương sau khi nhận được lời cảnh giác của chúng thuộc hạ thì đã đổi đường đi qua hướng đông, nói là sẽ vòng một vòng lớn trước khi về Đại Lý để khỏi gặp phải kẻ đối đầu.

Đoàn Dự nghe nói thế mới yên tâm, vui mừng nói: -Thế thì hay lắm. Thân thể vàng ngọc của gia gia, lẽ nào lại đi tranh hơi với bọn hung đồ? Tránh voi chẳng xấu mặt nào, thứ hùm beo rắn rết mình kiềng mặt chúng là hơn chứ có phải sợ gì đâu. Thế hai vị có biết đối đầu là ai không? Tin tức từ đâu mà có?
Người đàn bà đáp: -Đầu tiên là Cúc Kiếm cô nương nghe một cô nương khác cho hay. Vị cô nương đó tên gọi A Bích …
Vương Ngữ Yên vui mừng ngắt lời: -Thì ra là A Bích. Đã lâu nay ta không gặp cô ấy.
Đoàn Dự tiếp lời: -À, thì ra A Bích cô nương, ta biết cô đó. Cô ta vốn dĩ là thị tì của Mộ Dung công tử.
Người đàn bà nói: -Quả đúng như thế. Cúc Kiếm cô nương nói rằng, A Bích cô nương và cô ta tuổi tác chẳng chênh lệch bao nhiêu, mặt mũi xinh xắn thật dễ thương, có điều giọng Giang Nam nên nói chuyện nghe chẳng hiểu rõ cho lắm. A Bích cô nương là đệ tử của Khang Quảng Lăng, sư điệt của chủ nhân chúng tôi, nói đúng ra với cung Linh Thứu cũng là người một nhà. Cúc Kiếm cô nương nói là chủ nhân cùng đi với công tử đến hoàng cung để cầu thân, A Bích cô nương cũng định đi Tây Hạ gặp Mộ Dung công tử. Trên đường nghe được tin có một nhân vật cực lợi hại muốn gây sự với Trấn Nam Vương, cô ta bảo Đoàn công tử đãi cô rất tốt nên nhờ chúng tôi tìm cách đưa tin đến công tử.

Đoàn Dự nhớ lại lần mới gặp A Bích ở Cô Tô, cũng nhờ cô ta và A Châu dẫn đường nên mới biết đến Vương Ngữ Yên, lần này lại chính nàng truyền tin, trong lòng hết sức cảm kích bèn hỏi: -Vị A Bích cô nương đó bây giờ đang ở đâu?

Người đàn bà trung niên đáp: -Thuộc hạ không biết. Đoàn công tử, cứ như lời của Mai Kiếm cô nương, kẻ gây chuyện với Đoàn vương gia thật là lợi hại. Chính vì thế Mai Kiếm cô nương không đợi chủ nhân ra lệnh đã sai Huyền Thiên, Chu Thiên hai bộ ra tay, công tử cũng nên cẩn thận.

Đoàn Dự nói: -Đa tạ đại tẩu phí tâm tận lực, quí tính đại tẩu là chi, lần sau nếu ta có gặp nhị ca sẽ nhắc tới.

Người đàn ba kia cực kỳ hoan hỉ, cười nói: -Bọn thuộc hạ Huyền Thiên, Chu Thiên tất cả mọi người trong hai bộ đều cùng làm, công tử chẳng cần phải đề cập tiện danh làm gì. Công tử gia có hảo tâm như thế, tiểu phụ nhân xin đa tạ.

Nói rồi cùng người đàn bà kia kéo vạt áo lên hành lễ, cất tiếng chào những người khác rồi lên ngựa ra đi. Đoàn Dự hỏi Ba Thiên Thạch: -Ba thúc thúc nghĩ chuyện này ra sao?
Ba Thiên Thạch đáp: -Vương gia nếu đã đi vòng qua hướng đông thì mình cứ tiếp tục xuôi nam, có lẽ sẽ gặp vương gia ở Thành Đô. Đoàn Dự gật đầu đáp: -Chính thế.
Cả đoàn đi qua Cẩm Châu, đến Thành Đô. Thành Cẩm Quan phồn hoa trù phú

ở phía tây nam. Bọn Đoàn Dự ở trong thành du ngoạn mấy ngày vẫn không thấy Đoàn Chính Thuần đến nơi, ai nấy thầm nghĩ: “Trấn Nam Vương có hai vị phu nhân bầu bạn, trên đường du sơn ngoạn thủy hưởng cái thú ôn nhu diễm phúc nên có đi chậm một chút cũng không sao. Về đến Đại Lý thì đâu còn có thể tiêu dao khoái lạc được nữa”.
Cả đoàn lại tiếp tục đi về hướng nam, mỗi một bước lại gần Đại Lý thêm một bước, trong lòng cũng cảm thấy thư thái hơn. Trên đường đi qua nhiều thành thị hoa lệ nhưng Đoàn Dự không dám thân mật với Vương Ngữ Yên sợ Mộc Uyển Thanh và Chung Linh khó chịu, cũng không dám nhạt nhẽo với hai cô em gái. Mộc Uyển Thanh trên đường đi đã cho Chung Linh hay Đoàn Dự chính là huynh trưởng của hai người, Chung Linh đích thực là con Đoàn Chính Thuần nên hai nàng đổi sang chị chị em em, thấy Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên hai người nói nói cười cười, thần thái thân mật chỉ đành ngậm đắng nuốt cay chứ biết làm sao bây giờ.

Đến chiều hôm đó lúc sắp đến Dương Liễu Trường thì tiết trời thay đổi, mưa từng giọt to bằng hạt đậu rơi ào xuống. Mọi người vội vàng giục ngựa chạy cho nhanh tìm chỗ trú mưa, qua một rặng liễu thấy bên bờ sông có bảy tám căn nhà tường trắng ngói đen, ai nấy mừng rỡ vội đánh ngựa chạy đến. Đến nơi thấy một ông già chắp tay sau lưng đang nhìn mây đen ùn ùn dâng lên ở cuối chân trời.
Chu Đan Thần nhảy xuống ngựa, tiến lên chắp tay nói: -Chào lão trượng, tại hạ một đoàn người đi đường xa, mong được vào bảo trang đụt mưa một lát. Ông lão đáp: -Không dám! Không dám! Ai chả có lúc cơ nhỡ có người nào đi đường mà vác theo cả cái nhà mình bao giờ? Mời liệt vị quan nhân, cô nương vào.
Chu Đan Thần nghe ông ta ăn nói rõ ràng, không phải giọng miền nam, hai mắt lấp lánh hữu thần, trong bụng không khỏi dè dặt, chắp tay nói: -Vậy xin

đa tạ.

Mọi người vào cửa rồi, Chu Đan Thần chỉ Đoàn Dự nói: -Vị này là Dư công tử chủ nhân chúng tôi đi lên Thành Đô thăm song thân trở về. Vị này là Thạch lão ca, còn tại hạ họ Trần. Không dám lão trượng quí tính là chi?
Lão hán kia cười ha hả nói: -Lão hủ họ Giả. Dư công tử, Thạch đại ca, Trần đại ca, mấy vị cô nương, xin mời vào nội đường uống chén trà. Cứ xem điệu này chắc mưa sắp đổ xuống rồi đây.
Bọn Đoàn Dự thấy Chu Đan Thần xưng tên họ giả biết ngay có chuyện gì đáng ngờ thành thử ai nấy đều lưu tâm. Ông già họ Giả dẫn mọi người đến một căn phòng. Trong phòng trên tường treo mấy bức tự họa, trần thiết có chiều nhã khiết, xem ra không phải là nhà của một dân quê, Chu Đan Thần và Ba Thiên Thạch hai người vừa thoáng thấy, lại càng giữ ý.

Đoàn Dự thấy những bức họa đều do tay tầm thường vẽ nên cũng chẳng xem kỹ làm gì. Ông già họ Giả nói: -Để lão đi ra bảo người đun trà. Chu Đan Thần đáp: -Không dám làm phiền lão trượng.
Giả lão cười nói: -Chỉ e tiếp đãi quí nhân không chu đáo thôi.

Nói xong quay mình đi ra, khép cửa phòng lại. Cửa vừa đóng rồi, đằng sau cánh cửa lộ ra một bức tranh, trên vẽ mấy đóa sơn trà thật lớn, một đóa màu đỏ tươi mơn mởn, một đóa màu trắng cành tuy gầy guộc nhưng mạnh mẽ xanh tươi.

Đoàn Dự nhìn đóa hoa trong lòng tự nhiên vui vẻ, thấy bên cạnh bức tranh có đề một hàng chữ: Trà hoa tối giáp hải nội, chủng loại thất thập hữu nhất, đại ư mẫu đơn, nhất vọng nhược hỏa vân, thước nhật chưng.
Cả câu viết để trống mấy chỗ, chính là một câu trích trong Điền Trung Trà Hoa Ký, Đoàn Dự vốn đã thuộc lòng, rõ ràng “hoa trà có bảy mươi loại, trong đó có hai” thì lại viết là “bảy mươi loại, trong đó có một”. Chàng liếc mắt thấy trên bàn có sẵn văn phòng tứ bảo, nhịn không nổi giơ bút chấm mực ngay chữ “nhất” vạch thêm một nét ngang thành chữ “nhị”, dưới chữ “hỏa” thêm một chữ “tề”, dưới chữ “vân” thêm một chữ “cẩm”, dưới chữ “chưng” thêm một chữ “hà”.
Thêm vào mấy chữ rồi, câu đề biến thành:

Đại Lý trà hoa tối giáp hải nội, chủng loại thất thập hữu nhị, đại ư mẫu đơn, nhất vọng nhược hỏa tề vân cẩm, thước nhật chưng hà.2
Những chữ đó viết theo lối của Chử Toại Lương, Đoàn Dự cũng theo đúng kiểu đó thêm vào, không dấu vết gì để người khác biết được là đã sửa đổi. Chung Linh vỗ tay reo lên: -Dự ca thêm vào như thế, bức tranh mới hoàn toàn không còn khuyết điểm gì nữa.
Đoàn Dự bỏ bút xuống chưa lâu thì Giả lão đã đẩy cửa bước vào, thuận tay

đóng lại, thấy bức họa đã điền vào đầy đủ, mặt mày tươi rói, cười nói: -Thật quí hóa quá! Tiểu lão nhi quả là thất kính. Bức tranh này do một người bạn cũ vẽ nhưng trí nhớ lại không tốt, lúc đề tự quên mất mấy chữ bảo là về nhà tra lại sách vở, lần sau đến sẽ viết thêm vào. Ôi, ngờ đâu y về nhà chưa lâu, bị bệnh không trở dậy được nữa, từ đó không ai điền vào được. Đâu có ngờ Dư công tử thông kim bác cổ, giúp cho lão hủ và người bạn quá cố hoàn thành tâm nguyện, dọn rượu, dọn rượu mau.

Y vừa nói vừa đi ra quát người nhà làm cơm. Chẳng mấy chốc, ông già họ Giả đã thay một trường bào mới ra mời bọn Đoàn Dự vào trong sảnh uống rượu. Mọi người nhìn ra ngoài cửa sổ thấy trời mưa như trút, làm thành hàng trăm dòng suối nhỏ chảy về phía đông, biết không thể nào ra đi được lại thấy Giả lão ý thành, không thể nào từ chối được đành phải vào trong nhà thấy trên mâm đã bày cá tươi, thịt heo, gà vịt, rau cỏ xếp đầy hàng chục bát. Đoàn Dự cả bọn cám ơn rồi ngồi vào bàn.

Ông già rót rượu ra cười nói: -Chỉ có cây nhà lá vườn, ăn chẳng vừa miệng. Dư công tử, tiểu lão nhi vốn người đất Giang Nam, khi còn trẻ cũng có học qua một chút võ công thô thiển, đánh nhau với người ta lỡ tay giết chết hai kẻ thù, không thể ở cố hương được nữa đành phải trốn đến Tứ Xuyên. Ôi, thấm thoát mấy chục năm rồi, bụng nhớ nhà lắm, rượu vùng quê lão so với loại rượu ủ bằng men này thì không mạnh bằng.

Ông ta vừa nói vừa rót rượu. Mọi người nghe ông già kể chuyện thân thế, tuy không tin hẳn nhưng thấy ông ta tự xưng là biết võ công cũng bớt hẳn nghi kỵ, sau khi rót xong lại nói: -Xin uống trước để tỏ lòng kính trọng.
Nói xong uống một hơi cạn chén, mọi người lúc ấy yên tâm tận tình ăn uống. Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần uống rất ít, đến món ăn cũng đợi Giả lão gắp trước rồi mới đụng đũa gắp theo. Ăn uống xong trời vẫn chưa dứt hạt, ông già lại hết sức giữ khách lại, bọn Đoàn Dự đành ngủ qua đêm.

Trước khi ngủ, Ba Thiên Thạch nói khẽ với Mộc Uyển Thanh: -Mộc cô nương, tối nay mình nên đề phòng, ta xem nơi này có điều gì tà môn.
Mộc Uyển Thanh gật đầu, để nguyên quần áo ngủ trên giường, trong tay áo giấu sẵn độc tiễn, nghe thấy bên ngoài vẫn mưa tí tách, chập chờn cho đến khi trời sáng nhưng không thấy chuyện gì khác lạ.
Mọi người rửa mặt xong thấy mưa đã ngớt nên lập tức cáo từ. Giả lão tiễn ra đến mấy chục trượng, cử chỉ hết sức cung kính. Mọi người đi một quãng xa vẫn còn tấm tắc lấy làm lạ. Ba Thiên Thạch nói: -Giả lão đây không biết lai lịch thế nào mà sao cổ quái đến thế? Lần này ta quả đoán không ra!

Chu Đan Thần đáp: -Ba huynh, đệ đoán lão già họ Giả này có bụng bất lương thế nhưng sau khi thấy công tử điền thêm mấy chữ khuyết trên bức họa, tự

nhiên đổi hẳn thái độ. Công tử thử nghĩ bức tranh đó với mấy hàng chữ đề có liên can thế nào?

Đoàn Dự lắc đầu nói: -Hai đóa sơn trà đó thật bình thường. Một đóa Phấn Hầu, một đóa Tuyết Tháp, tuy nói là danh chủng thật nhưng đâu phải là loại hiếm có.
Mọi người đoán mãi không ra nên đành bỏ mặc không lý tới nữa. Chung Linh cười nói: -Tốt nhất là trên đường đi gặp thêm vài bức vẽ thiếu chữ nữa, Đoàn công tử nhà ta cứ tiếp tục điền thêm vào, vung bút một cái là mình có ngay hai bữa rượu thịt, ngủ qua một đêm mà chẳng tốn xu teng nào cả.

Mọi người nghe thế cười rộ cả lên. Thế nhưng lạ làm sao, câu nói đùa của Chung Linh trên đường đi lại mấy lần xảy ra thật. Trên bức tranh nào cũng vẽ hoa trà, có khi đề từ bị khuyết, có khi viết chữ sai, có khi lại có cành mà chẳng có hoa, có hoa mà chẳng có lá. Đoàn Dự vừa gặp phải liền cầm bút thêm vào ngay. Mỗi khi đề xong, chủ nhân lập tức bước ra ân cần khoản đãi, rượu thịt ê hề mà không hề lấy đồng tiền nào cả.

Chu Đan Thần và Ba Thiên Thạch mấy lần gặng hỏi, đối phương người nào cũng có cùng một câu trả lời, ấy là người vẽ còn thiếu sót, khuyết chữ, may nhờ Đoàn Dự giúp cho nên thực là cảm kích.
Đoàn Dự và Chung Linh tính còn trẻ con, thấy vậy vui lắm nên chỉ mong càng nhiều tự họa thiếu nét, thiếu chữ càng tốt. Vương Ngữ Yên thấy Đoàn Dự vui vẻ nên cũng thấy vui theo. Còn Mộc Uyển Thanh trước nay trời không sợ, đất không kiêng nên đối phương có ý tốt cũng được, mà có ý xấu nàng cũng chẳng coi vào đâu. Chỉ riêng Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần càng lúc càng lo âu, thấy bên địch bố trí rất chặt chẽ, bên trong hẳn có ý đồ trọng đại nhưng không nhìn ra được chút manh mối gì.

Ba Chu hai người mỗi khi được tiếp đãi ân cần đều hết sức quan sát từng ly từng tí, xem rượu thịt có chất độc gì không. Thế nhưng loại mạn tính độc dược thật khó mà biết được, bị phục độc đến cả chục lần mới phát ra. Ba Thiên Thạch hiểu nhiều biết rộng, nếu như đối phương hạ độc thì cũng khó mà qua mắt được y nhưng trước sau cơm rượu không thấy có gì khác lạ mà chủ nhân bao giờ cũng ăn uống trước để khỏi ai nghi ngại.

Càng đi càng về hướng nam nên tuy đã thượng tuần tháng mười mà khí trời cũng chưa đến nỗi lạnh. Đường càng lúc càng nhiều rừng rậm, núi sâu, cỏ cao so với khung cảnh của Tây Hạ ở phương bắc thật khác xa. Buổi chiều hôm đó cả bọn đến một cánh đồng cỏ thật lớn, màu xanh tít mù đến tận cuối trời, bên trái là một khu rừng, xem ra cả chục dặm đường không người ở. Ba Thiên Thạch nói: -Công tử, nơi đây địa thế hiểm ác, mình nên tìm chỗ nào trú chân là hơn.

Đoàn Dự gật đầu: -Đúng thế! Hôm nay mình chắc không thể nào vượt qua được cánh đồng này, không biết kiếm chỗ nào mà nghỉ đây?

Chu Đan Thần nói: -Trong đồng cỏ muỗi mòng rắn rết nhiều lắm, lại thêm chướng khí. Xem ra quế hoa chướng sắp qua, phù dung chướng đang tới, hai loại chướng khí trộn với nhau càng thêm độc địa. Nếu mình không tìm ra chỗ nghỉ thì chỉ còn nước trèo lên cây cao ngủ tạm, chướng khí không xông tới, trùng độc muỗi độc cũng ít đi.

Thế là cả đoàn rẽ qua bên trái nhắm hướng rừng già mà tới. Vương Ngữ Yên nghe Chu Đan Thần nói chướng khí ghê gớm lắm mới hỏi quế hoa chướng, phù dung chướng là thế nào? Chu Đan Thần đáp: -Chướng khí là hơi độc từ núi non đầm lầy bốc lên, tháng ba thì có đào hoa chướng, tháng năm thì có lựu hoa chướng là lợi hại nhất. Thực ra chướng khí nào cũng như nhau nhưng thời tiết không giống nên cứ theo nguyệt lệnh mùa hoa nào thì đặt tên thế. Từ tháng ba đến tháng năm trời nóng, độc trùng muỗi mòng sinh sản nhiều nên ghê gớm nhất. Sở dĩ lúc đó đáng ngại vì chưng khí hậu ẩm thấp hơn cả nên cỏ mục tích chứa nhiều, chướng khí vì vậy rất mạnh mẽ. Vương Ngữ Yên hỏi: -Ồ, thế thì có trà hoa chướng không?

Bọn Đoàn Dự, Ba Thiên Thạch đều cười ồ. Chu Đan Thần đáp: -Người Đại Lý chúng tôi rất thích hoa trà nên không đem chướng khí đáng ghét kia gộp chung với hoa trà.
Vừa đi vừa nói đã đến bìa rừng. Chân ngựa đạp vào bùn lầy, phọp phẹp khó đi thật là bất tiện. Ba Thiên Thạch nói: -Xem chừng mình chẳng nên vào sâu thêm nữa, tối nay làm tổ trên cây ngủ qua đêm vậy. Đợi sáng mai mặt trời lên, chướng khí tan hết lúc đó lại lên đường.
Vương Ngữ Yên hỏi: -Mặt trời mọc thì chướng khí không độc nữa hay sao?
Ba Thiên Thạch đáp: -Đúng thế!

Chung Linh đột nhiên chỉ về phía đông bắc, thất thanh kêu lên: -Trời ơi, hỏng rồi! Bên kia chướng khí bốc lên cao quá, đó là chướng gì đây?
Mọi người nhìn theo hướng cô ta chỉ quả nhiên thấy một đám mây cuồn cuộn bốc lên. Ba Thiên Thạch đáp: -Cô nương, đây là thiêu phạn chướng.
Chung Linh thấp thỏm hỏi: -Thiêu phạn chướng là chướng gì? Có ghê gớm lắm không?
Ba Thiên Thạch cười nói: -Cái này không phải chướng khí, mà là khói người ta nấu cơm bốc lên.
Quả nhiên trong khói xanh có lẫn màu đen, lại tỏa màu trắng đúng là do củi đốt. Mọi người ai nấy cười ồ, cảm thấy lên tinh thần cùng nói: -Mình đi kiếm chỗ thiêu phạn chướng xem sao.
Chung Linh bị mọi người chế riễu, bẽn lẽn đỏ mặt. Vương Ngữ Yên liền an ủi: –

Linh muội, cũng may muội muội nhìn thấy … nhìn thấy khói nấu cơm nên mình khỏi phải trèo lên cây ngủ.

Cả đoàn người đi về hướng khói bốc lên, đến gần mới thấy trong rừng có bảy tám căn nhà, bên cạnh nhà chất đầy gỗ súc, hiển nhiên là nơi ở của thợ mộc. Chu Đan Thần giục ngựa lên trước, lớn tiếng gọi: -Các đại ca thợ mộc ơi, chúng tôi đi đường xa muốn ngủ nhờ một đêm có được không?

Đợi một hồi không thấy tiếng ai trả lời, Chu Đan Thần lại gọi thêm lần nữa nhưng cũng không ai đáp lại. Khói từ trên mái nhà vẫn tiếp tục bốc lên, hẳn là trong nhà phải có người. Chu Đan Thần lấy trong bọc ra chiếc quạt nan thép dùng làm binh khí cầm trong tay, nhè nhẹ đẩy cửa đi vào nhà.

Trong nhà không một bóng người nhưng vẫn nghe tiếng củi nổ lép bép. Chu Đan Thần đi xuống nhà sau vào trong bếp thấy bên cạnh lò có một bà lão đang đun nấu. Chu Đan Thần nói: -Lão bà bà, ở đây còn ai khác nữa không?
Bà lão giương mắt nhìn làm như nghe mà không hề hay biết. Chu Đan Thần hỏi tiếp: -Chỉ có mình bà ở đây hay sao?
Bà già chỉ vào tai, rồi chỉ vào mồm ú ớ mấy tiếng biểu thị mình vừa câm vừa điếc. Chu Đan Thần quay trở vào thì bọn Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh đã đi tra xét một vòng những căn nhà khác, trong bảy tám căn ngoài bà lão ra không còn một ai khác. Trong gian nhà nào cũng có ván gỗ nhưng chẳng thấy chăn mền gì xem ra lúc này thợ thuyền chưa khai công. Ba Thiên Thạch ra ngoài đi vòng vòng hai lượt, xem xét các nơi không thấy gì khác lạ.

Chu Đan Thần nói: -Bà lão này vừa câm vừa điếc, không có cách nào hỏi chuyện bà ta được. Vương cô nương kiên nhẫn hơn hết, cô thử vào ra hiệu hỏi xem sao?
Vương Ngữ Yên mỉm cười gật đầu nói: -Được, để ta thử xem.

Nàng đi vào trong bếp, giơ tay giơ chân ra hiệu cho bà lão, lấy ra một đĩnh bạc cho bà ta cho đến khi hiểu rõ mọi chuyện. Mọi người chờ cho bà ta nấu cơm xong mới hỏi gạo đun cơm, trong đây không rượu không thịt, tất cả chỉ đành ăn cơm trắng cho qua bữa.
Ba Thiên Thạch nói: -Chúng mình ngủ trong nhà này đừng phân tán.

Thế là đàn ông qua bên cánh đông, con gái ngủ bên cánh tây, bà lão thắp ở phòng giữa một ngọn đèn dầu. Mọi người vừa định ngủ bỗng có tiếng cạch cạch ở phòng giữa, có ai đó đang dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh lửa nhưng đánh tới đánh lui mãi vẫn không xong. Ba Thiên Thạch lấy đồ đánh lửa trong túi mình ra, cạch một tiếng đánh lửa lên đi qua châm vào ngọn đèn. Bà lão vẻ mặt mừng rỡ, ra hiệu muốn mượn hỏa đao, hỏa thạch chỉ xuống bếp làm như muốn dóm lửa. Ba Thiên Thạch đưa cho bà ta rồi quay về phòng nằm ngủ. Một hồi sau, lại nghe có tiếng cạch cạch cạch nữa, bọn Đoàn Dự nhắm mắt

đang định ngủ lại bị tiếng động khiến mở choàng mắt ra nhìn qua khe cửa không thấy ánh sáng chiếu ra, thì ra chiếc đèn dầu đã tắt rồi. Chu Đan Thần cười nói: -Bà lão này già cả lẩm cẩm mất rồi.

Y định mặc kệ bà ta nhưng tiếng đánh lửa cạch cạch cạch mãi, tưởng chừng suốt cả buổi chưa xong, vẫn tiếp tục thêm một buổi nữa. Chu Đan Thần nghe thế khó chịu trở dậy đi vào phòng, thấy mờ mờ trong bóng đêm bà già đang lịch kịch đưa lên đưa xuống, cạch cạch đánh lửa.

Chu Đan Thần lấy hỏa đao hỏa thạch của mình ra, đánh lửa châm vào ngọn đèn dầu. Bà lão nhe răng cười, giơ tay làm hiệu muốn mượn đồ đánh lửa đem xuống bếp dùng. Chu Đan Thần liền đưa cho bà lão rồi quay về phòng.
Ngờ đâu chỉ một lúc sau, phòng giữa lại có tiếng cạch cạch vọng ra. Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần đều bực tức cất tiếng chửi: -Mụ già này không biết làm trò quái quỉ gì đây!
Thế nhưng cứ nghe tiếng cạch cạch mãi không thôi, Ba Thiên Thạch nhỏm dậy, đi ra giựt bộ đánh lửa trên tay bà ta đánh thử, cạch cạch mấy cái không thấy đốm lửa nào bắn ra, mò mò thử thấy không phải bộ đồ đánh lửa của mình, lớn tiếng hỏi: -Hỏa đao, hỏa thạch của ta đâu?

Y vừa mở miệng không khỏi bật cười: “Sao mình lại nổi giận với một bà lão vừa câm vừa điếc làm gì?”. Khi đó Mộc Uyển Thanh cũng đã dậy, lấy đồ đánh lửa ra nói: -Ba thúc thúc muốn đốt đèn ư?
Ba Thiên Thạch đáp: -Bà lão này thật là cổ quái, có một ngọn đèn mà cứ châm rồi lại tắt, tắt rồi lại châm tới tận nửa đêm.
Y cầm lấy hỏa đao, hỏa thạch đánh một cái châm vào ngọn đèn. Bà già coi bộ mãn nguyện, cười khì khì chăm chăm nhìn ngọn lửa. Ba Thiên Thạch nói với Mộc Uyển Thanh: -Cô nương đi đường cũng mệt, thôi đi ngủ cho khỏe.
Nói xong liền quay trở về phòng. Ngờ đâu chỉ chừng thời gian uống một chén trà, lại nghe cạch cạch cạch tiếng đánh lửa vọng vào. Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần cùng đứng lên, định chạy ra nhưng chợt nghĩ ra: “Trên đời này làm gì có bà già nào quái lạ đến vậy? Hẳn là có ngụy kế gì đây!”. Hai người nhẹ nhàng nắm tay nhau, rón rén ra khỏi phòng, chia ra hai bên ập vào vừa định xông lên, đột nhiên mũi ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, thì ra người đang đánh lửa kia chính là Mộc Uyển Thanh. Hai người lập tức rụt về, Ba Thiên Thạch nói: -Cô nương đấy ư?

Mộc Uyển Thanh đáp: -Đúng thế! Tôi thấy ở nơi đây có vẻ không bình thường, định đốt đèn lên soi xem có chuyện gì.
Ba Thiên Thạch đáp: -Để tôi châm lửa cho.
Nào ngờ đánh cạch cạch mấy cái không thấy có lửa tóe ra. Ba Thiên Thạch kinh ngạc kêu lên: -Hỏa thạch này không phải, bị bà lão kia tráo mất rồi.

Chu Đan Thần nói: -Mau đi kiếm, không để cho mụ ta chạy mất.

Mộc Uyển Thanh chạy xuống bếp còn Ba Chu hai người chạy ra ngoài nhưng chỉ mới một thoáng mà bà lão kia đã biến đâu mất rồi. Ba Thiên Thạch nói: – Đừng đuổi xa, bảo hộ công tử quan trọng hơn.
Hai người trở vào nhà, Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên, Chung Linh cũng nghe tiếng động tỉnh dậy rồi. Ba Thiên Thạch nói: -Ai có hỏa đao, hỏa thạch? Đốt đèn lên rồi tính sau.
Chỉ nghe Vương Ngữ Yên và Chung Linh cùng kêu lên: -Hỏa đao hỏa thạch của tôi bà lão kia mượn mất rồi.
Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần cùng kêu khổ ngầm: “Mình đề phòng từng li từng tí, đâu có ngờ ở nơi đây lại trúng ngụy kế của địch nhân”. Đoàn Dự lấy trong túi đồ đánh lửa ra, đánh cạch cạch mấy tiếng nhưng cũng nào có cháy lên đâu? Chu Đan Thần nói: -Mụ già kia cũng mượn của công tử để dùng rồi chứ gì?

Đoàn Dự đáp: -Đúng thế! Ngay lúc trước khi ăn cơm, bà ta đánh lửa xong liền trả lại cho ta.
Chu Đan Thần nói: -Thế thì đá lửa cũng bị tráo mất rồi.
Trong nhất thời mọi người ai nấy lặng thinh, nghe tiếng côn trùng kêu trong đêm. Hôm ấy đúng ngày đầu tháng nên không có bóng trăng, sáu người tụm lại một chỗ, chỉ thấy lờ mờ bóng những người kia, ai nấy đều cảm thấy ở vào một tình cảnh cực kỳ nguy hiểm. Từ khi Đoàn Dự điền chữ lên những bức tranh được ông già họ Giả tiếp đãi ân cần đến giờ, sáu người tưởng như bị ai bịt mắt, không chủ định được tự đi vào tròng, biết rằng kẻ địch bày mưu tín khế thế nhưng độc địa đến chừng nào thì không hề hay biết. Ai nấy nghĩ thầm: “Nếu kẻ địch xông ùa lên thì đã không sợ, còn đằng này lấp ló thập thò, khiến cho không sao đề phòng được”.

Mộc Uyển Thanh nói: -Mụ già kia lấy hết hỏa đao hỏa thạch của mình cốt để mình không sao đốt lửa được, bọn chúng trong đêm tối thi hành ngụy kế. Chung Linh đột nhiên rú lên: -Tiểu muội sợ nhất là bọn chúng sẽ thả rết hay kiến ra đốt mình.

Ba Thiên Thạch chột dạ nói: -Trong đêm tối mà những vật bé nhỏ như thế đến tấn công thì thật khó đề phòng.
Đoàn Dự đáp: -Hay là mình đi ra ngoài ngủ trên cây?
Chu Đan Thần đáp: -E rằng trên cây cũng đã gài sẵn độc vật rồi.

Chung Linh lại “A” lên một tiếng, níu chặt lấy tay Mộc Uyển Thanh. Ba Thiên Thạch nói: -Cô nương không việc gì phải sợ, mình đốt đèn lên rồi tính sau. Chung Linh hỏi lại: -Không có đá lửa lấy gì mà đốt đèn?
Ba Thiên Thạch đáp: -Địch nhân có dụng ý gì đến lúc này thật chưa biết được.

Thế nhưng họ không muốn mình đốt lửa nếu mình cứ đốt đèn thì hẳn cũng không phải là sai.

Y nói xong quay mình đi xuống bếp, lấy hai khúc củi lên đưa cho Chu Đan Thần: -Chu huynh đệ cắt vụn cây củi này ra càng nhỏ càng tốt.
Chu Đan Thần nghe thế hiểu ngay đáp: -Đúng vậy, mình đâu để bó tay chờ họ đến tấn công.
Y lấy trong túi ra một con dao nhỏ, cắt khúc củi thành từng miếng. Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên, Chung Linh cũng tiếp tay lấy chủy thủ tiểu đao ra cắt gỗ, kẻ băm người nghiền thành một đống mạt nhỏ. Đoàn Dự than: -Tiếc rằng ta không có thần công như Khô Vinh sư tổ ở chùa Thiên Long truyền nội công vào là bén lửa lên ngay, hiện giờ chỉ có Cưu Ma Trí mới có tài ba như thế.

Thực ra nội lực súc tích trong người chàng lúc này còn cao hơn Khô Vinh đại sư và Cưu Ma Trí nhiều, có điều không biết vận dụng mà thôi. Mấy người luôn tay băm gỗ ra thật nhuyễn nhưng trong lòng ai nấy thấp thỏm không an, chẳng một ai nói năng gì, chỉ lắng tai nghe xem bên ngoài có động tĩnh gì không, nghĩ thầm: “Mụ già kia đánh lừa lấy được hỏa đao hỏa thạch của mình rồi, chắc không để lâu, e rằng lập tức phát động”.

Ba Thiên Thạch mò thấy mạt gỗ đã được khoảng một bát ăn cơm rồi liền vun lại thành một đống, hai tay cầm hai thanh đao đập vào nhau nghe keng một tiếng, sống đao chạm nhau, lửa tóe ra bén vào mạt gỗ. Có điều vừa lửa bùng lên lại tắt ngay không cháy vào bùi nhùi được, mọi người còn đang tiếc rẻ thì Ba Thiên Thạch đã liên tiếp cọ đao vào nhau, leng keng không dứt, đến độ mươi cái thì mới cháy được miếng giấy dầu.

Cả bọn vui mừng reo lên, lấy lửa châm vào đèn. Chu Đan Thần sợ một ngọn đèn có thể bị gió thổi tắt nên bao nhiêu đèn đóm dưới bếp và các phòng bên lấy cả về đốt lên. Ngọn lửa yếu ớt nhợt nhạt chiếu lên mặt người, khói lại dầy xông vào mũi thật khó ngửi. Thế nhưng có được ngọn lửa rồi ai nấy tinh thần phấn chấn như vừa thắng một trận lớn.

Căn nhà gỗ cực kỳ giản lậu, gió theo khe cửa thổi vào. Sáu người nhìn nhau, ai nấy tay cầm sẵn binh khí, lắng tai nghe. Thế nhưng chỉ thấy tiếng gió thổi vào cây xào xạc, trộn lẫn với tiếng giun dế kêu vang bên ngoài không có gì khác.
Ba Thiên Thạch thấy một hồi lâu không động tĩnh gì, tra xét kỹ càng mọi nơi trong căn nhà gỗ, thấy mấy cây cột có bao bằng đệm rơm, bên ngoài dùng cỏ buộc lại, nhớ lại khi mới vào nhà không như thế, bèn chặt đứt những dây bện, đệm cỏ rơi xuống. Đoàn Dự thấy hai bên cột có khắc hai hàng câu đối, câu trên là:
Xuân câu thủy động trà hoa

Câu dưới là: Hạ cốc sinh lệ chi hồng.

Mỗi bên đều thiếu mất một chữ. Chàng quay lại thấy Chu Đan Thần đã gỡ bỏ những đệm cỏ bao quanh hai cây cột khác để lộ trên cột khắc một đôi câu đối khác:
Thanh quần ngọc như tương thức
Cửu trà hoa mãn lộ khai.

Đoàn Dự nói: -Ta đi trên đường điền thêm chữ cho tới nay là họa hay phúc cũng chưa biết được. Bọn chúng lấy đệm cỏ bao quanh cột cốt là để ta không nhìn thấy những câu đối này, vậy mình cứ làm ngược lại, để xem đối phương có kế gì.

Chàng nói xong đưa tay ra, nghe soẹt soẹt, bên dưới chữ “hoa” viết thêm một chữ “bạch”, bên dưới chữ “cốc” viết thêm một chữ “vân” biến thành một câu đối toàn vẹn:
Xuân câu thủy động trà hoa bạch
Hạ cốc vân sinh lệ chi hồng
(Khe xuân nước động hoa trà trắng
Cốc hạ mây đùn vải đỏ tươi)

Chàng nội lực thâm hậu, chỉ lực đến đâu mạt gỗ bay lả tả đến đó. Chung Linh vỗ tay reo lên: -Nếu biết sớm, ca ca lấy ngón tay vạch vào gỗ mấy cái là có mạt vụn ngay, việc gì mình phải mất công như thế.
Chỉ thấy chàng lại tiếp tục điền vào câu đối còn lại, miệng ngâm nga:
Thanh quần ngọc diện như tương thức
Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai.

(Quần xanh mặt ngọc dường quen thuộc Tháng chín hoa trà nở khắp nơi)
Chàng vừa nghiêng đầu ngâm nga, vừa liếc Vương Ngữ Yên. Vương Ngữ Yên hai má ửng hồng, quay đầu sang chỗ khác. Chung Linh nói: -Không biết cột này làm bằng gỗ gì mà thơm quá!
Mọi người hít mấy cái, quả nhiên thấy những ngấn tay Đoàn Dự khắc lên gỗ xông mùi thơm lừng, tưởng như hoa quế mà không phải hoa quế, tựa như hoa hồng mà không phải hoa hồng. Đoàn Dự nói: -Thơm thật!
Chỉ thấy mùi thơm càng lúc càng nồng, ngửi vào thật khoan khoái, tinh thần sảng lãng. Chu Đan Thần mặt biến sắc nói: -Hỏng rồi, mùi hương này coi chừng có độc, tất cả bịt mũi lại.
Mọi người được y nhắc nhở, vội vàng lấy khăn tay hoặc tay áo bịt chặt mũi miệng nhưng lúc đó đã hít khá nhiều hương khí rồi, nếu quả là hơi độc thì phải đầu váng mắt hoa, tức ngực khó chịu chứ có lý đâu lại thoải mái.
Qua một hồi sau, ai nấy ngộp thở, nhịn không nổi đành phải há mồm ra thở

mấy hơi nhưng không thấy gì khác. Mọi người từ từ bỏ tay bịt mũi ra, lao xao bàn bạc, không đoán ra được kẻ địch có dụng ý gì.

Thêm một lúc nữa, bỗng nghe có tiếng ù ù. Mộc Uyển Thanh kinh hãi kêu lên:
-Trời ơi! Chất độc phát tác rồi, tai tôi có tiếng gì lạ quá.
Chung Linh đáp: -Em cũng thế!

Ba Thiên Thạch nói: -Không phải trong tai có tiếng gì lạ đâu mà dường như một đàn ong đang bay tới.
Quả nhiên tiếng ù ù mỗi lúc một lớn, dường như hàng ngàn hàng vạn con ong từ bốn phương tám hướng đang bao vây. Ong mật vốn không có gì đáng sợ nhưng bay nhiều đến thành tiếng động lớn như thế thì chưa từng nghe bao giờ, cũng không biết có phải là ong hay không. Trong phút chốc ai nấy đều sững sờ không biết phải làm sao. Tiếng u u càng lúc càng gần, tưởng chừng như vô số yêu ma quỉ quái kêu gào gầm thét, nhảy múa toan đến cắn người ta. Chung Linh nắm chặt tay Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên nắm chặt tay Đoàn Dự. Mọi người tim đập thình thình, tuy biết có kẻ địch phục sẵn nhưng không sao tưởng tượng được trước khi tấn công lại có tiếng quái đản như thế này.

Đột nhiên nghe bạch một tiếng, một vật gì bé nhỏ đập vào vách căn nhà gỗ, rồi tiếp theo bạch bạch bạch bạch liên tiếp, không biết bao nhiêu vật gì đập vào, Mộc Uyển Thanh và Chung Linh cùng kêu lên: -Ong đó!
Ba Thiên Thạch chạy ra đóng chặt cửa sổ lại, bỗng nghe bên ngoài tiếng ngựa hí lên thảm thiết, rồi tiếng rống lên lao xao. Chung Linh kêu: -Ong đốt ngựa. Chu Đan Thần nói: -Để ta ra ngoài cắt dây cương.
Y cởi trường bào trùm lên đầu, tay trái vừa đẩy cánh cửa bên ngoài đã có một trận gió ập tới, hàng nghìn hàng vạn con ong bay vào trong nhà. Chung Linh và Vương Ngữ Yên cả hai cùng rú lên.
Ba Thiên Thạch vội vàng kéo Chu Đan Thần trở vào, đưa đầu gối chặn lấy cánh cửa, thế nhưng trong nhà đã đầy ong rồi. Những con ong đó vừa vào được trong nhà lập tức túa ra đốt mọi người, chỉ trong nháy mắt trên đầu, trên tay, trên mặt người nào cũng bị ong đốt bảy tám chỗ. Chu Đan Thần xòe quạt ra đập lấy đập để còn Ba Thiên Thạch thì cởi áo ra quật túi bụi, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngữ Yên, Chung Linh bốn người cũng phải cố nhịn đau xông ra đập.

Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần, Đoàn Dự, Mộc Uyển Thanh khi ra tay ai nấy vận hết kình lực, chẳng bao lâu trong nhà chỉ còn hai ba chục con ong, nhưng thật lạ lùng những con ong đó thật chẳng khác gì thiêu thân thấy đèn, cứ xông vào chích bất kể sống chết nhưng chỉ một lát sau bao nhiêu ong đều bị đập chết cả.

Chung Linh và Vương Ngữ Yên đau đến ứa nước mắt, tai vẫn nghe tiếng ong đập vào cửa rào rào như mưa rào, không biết bao nhiêu ngàn vạn con ong vẫn tiếp tục tấn công căn nhà gỗ. Mọi người sợ hãi mặt nhợt nhạt, quên cả đau, vội vàng xé vạt áo, tay áo chèn các khe cửa.

Cả sáu người trên mặt, trên tay, chỗ thì đỏ chỗ thì sưng, trông thật thảm hại. Đoàn Dự nói: -Cũng may ở đây có căn nhà gỗ dung thân, nếu như ở nơi đồng trống, hàng nghìn hàng vạn con ong đến đốt mình thì chắc chết đứ đừ.
Mộc Uyển Thanh nói: -Những con ong này do kẻ địch xua tới, bọn chúng đâu đã để cho mình yên? Không lẽ họ không biết phá nhà ra hay sao? Chung Linh kinh hãi kêu lên: -Tỉ tỉ.. tỉ tỉ nói họ sẽ phá nhà ư?
Mộc Uyển Thanh chưa kịp trả lời đã nghe trên đầu bình một tiếng, một tảng đá rơi xuống nóc nhà, rui mè rung rinh nhưng may chưa gãy. Thế nhưng lại nghe cách cách, hai khối đá đã chọc thủng mái rơi xuống khiến ngọn đèn tắt phụp.

Đoàn Dự vội vàng ôm Vương Ngữ Yên vào lòng để che chở khuôn mặt nàng. Thế nhưng nghe tiếng vù vù muốn điếc cả tai, ai nấy đều biết mình có xua đuổi chúng cũng vô ích, chỉ còn nước kéo áo lên trùm đầu trùm mặt. Trong nháy mắt bàn chân, bàn tay, cánh tay, đùi đều bị châm hàng vạn chỗ, trong phút chốc cả sáu người đã hôn mê không còn biết gì nữa.

Đoàn Dự đã ăn được con mãng cổ chu cáp vốn dĩ bách độc bất xâm, nhưng những con ong này là do người nuôi, cái kim của nó ngoài chất độc ra còn có thuốc tê, ai bị mấy trăm con ong chích cũng đều mê man cả. Chàng nội lực thâm hậu hơn cả nên trong sáu người thì là người tỉnh lại trước tiên. Đoàn Dự vừa hồi phục tri giác đã đưa tay ra nắm lấy Vương Ngữ Yên nhưng tay không sao cử động được mà Vương Ngữ Yên cũng không còn ở trong lòng mình nữa. Chàng mở mắt ra thấy tối đen như mực. Thì ra hai chân hai tay đã bị trói chặt còn mắt thì bị người ta dùng vải đen che lại, miệng cũng bị nhét một hạt dẻ hô hấp cũng đã khó khăn huống hồ nói năng. Chàng thấy khắp mình mẩy hàng trăm hàng nghìn chỗ đau nhói, đó là những chỗ bị ong đốt, lại thấy mình đang ngồi dưới đất nhưng ở nơi nào, ngất đi bao lâu thì không sao biết được.
Còn đang hoang mang bỗng nghe tiếng đàn bà gay gắt hỏi: -Ta mất bao nhiêu công lao cốt để bắt con chó già họ Đoàn nước Đại Lý, sao chúng bay lại bắt thằng chó con là sao?
Đoàn Dự nghe giọng nói quen lắm nhưng nhất thời không nghĩ ra là ai. Tiếng một người đàn bà già nua đáp: -Tì tử nhất nhất theo đúng lời tiểu thư sai bảo mà làm, không sai một mảy.
Người đàn bà kia nói: -Hừ, ta xem bên trong phải có gì khác thường. Con chó già kia từ Tây Hạ xuôi nam phải theo đường cái ngang qua Tây Xuyên mới

phải, sao lại đột nhiên chuyển qua hướng đông là sao? Bao nhiêu rượu thuốc ta sắp đặt trên đường hóa ra thằng chó con này uống sạch.

Đoàn Dự biết ngay kẻ mà mụ ta gọi “con chó già” chính là để chỉ phụ thân Đoàn Chính Thuần, còn “thằng chó con” chẳng phải chính mình thì còn ai vào đây nữa. Tiếng người đàn bà nói chuyện với mụ lão bộc dường như còn cách một bức tường, có lẽ ở căn phòng bên cạnh.

Người lão phụ nói: -Đoàn vương gia lần này đến Trung Nguyên thời giờ ở lại cũng không phải ít, nửa đường quay sang hướng đông …
Người đàn bà kia giận dữ nói: -Ngươi còn gọi y là Đoàn vương gia được sao? Bà lão đáp: -Vâng, trước kia … tiểu thư bảo gọi là Đoàn công tử, nhưng bây giờ y tuổi cũng cao rồi …
N gười đàn bà quát lên: -Thôi đừng nói nữa.
Bà lão đáp: -Vâng!

Người đàn bà thở dài một tiếng, nhắc lại: -Y … y bây giờ tuổi đã cao rồi … Giọng nói đầy vẻ thê lương. Đoàn Dự bấy giờ cũng yên tâm, nghĩ thầm: “Ta cứ tưởng ai? Thì ra lại là một người tình cũ của gia gia. Bà ta đi tìm gia gia chẳng qua vì nổi cơn ghen lồng ghen lộn. Đúng rồi, bà ta sắp đặt ong mật cốt để bắt cho bằng được cha ta, ngờ đâu bị ta thay cha làm hỏng hết mọi việc. Nếu quả như thế thì chắc không đến nỗi hạ độc thủ với bọn mình. Thế nhưng bà dì này là ai mới được chứ? Ta nhất định đã từng nghe giọng bà ta rồi”.
Chỉ nghe người đàn bà nói tiếp: -Chúng ta ở các nơi khách điếm, sơn trang đều treo những tự họa thiếu chữ, thiếu nét, ngươi bảo tên “chó con” này điền vào được cả ư? Ta không tin nổi, sao những câu “con chó già” kia thuộc lòng, “thằng chó con” cũng lại nhớ trong bụng? Sao lại có chuyện lạ lùng đến thế?
Người lão phụ đáp: -Thơ phú ông bố thuộc lòng, con nghe cũng nhớ được thì có gì là lạ đâu?
Người đàn bà giận dữ nói: -Con tiện tì Đao Bạch Phượng là giống man di, làm sao sinh được đứa con thông minh thế? Ta không thể nào tin được.
Đoàn Dự nghe bà ta nhục mạ mẫu thân không khỏi nổi cơn thịnh nộ, toan lên tiếng cãi lại nhưng miệng vừa mấp máy đã nhận ra trong miệng có nhét hạt dẻ làm sao nói năng gì được?
Chỉ nghe bà già lên tiếng khuyên nhủ: -Tiểu thư, chuyện xảy ra cũng đã lâu, sao tiểu thư còn để bụng làm gì? Huống chi người không phải với tiểu thư là Đoàn công tử chứ có phải con y đâu? Cô … cô … cũng nên tha cho y trẻ người non dạ, “túy nhân phong” của mình đốt đau lắm rồi, xem ra cũng đủ.

Người đàn bà rít lên: -Ngươi bảo ta tha cho tên tiểu tử họ Đoàn ư? Chậc chậc, ta băm vằm nó ra thành nghìn vạn mảnh rồi mới tha được.
Đoàn Dự nghĩ thầm: ‘Cha ta đắc tội với bà chứ ta có làm gì đâu, sao lại hận ta

đến thế? Thì ra giống ong này tên gọi “túy nhân phong”, không biết bà ta làm sao kiếm được nhiều đến thế để xua ra chích bọn mình? Người đàn bà này là ai vậy? Đây đâu phải Chung phu nhân, hai người khẩu âm khác nhau xa”. Bỗng có tiếng đàn ông nói: -Thưa mợ, sanh nhi xin khấu đầu bái kiến.

Đoàn Dự giật mình, bao nhiêu nghi vấn trong đầu đều vỡ lẽ, giọng nam nhân kia chính là Mộ Dung Phục. Y gọi bà ta là mợ, dĩ nhiên đây là Vương phu nhân của Mạn Đà Sơn Trang ở Cô Tô, mẹ ruột của Vương Ngữ Yên, nhạc mẫu tương lai của mình.

Trong nháy mắt, Đoàn Dự cảm thấy mình như bị dội mười lăm mười sáu thùng nước lạnh lên đầu, đầu quay mòng mòng rối như tơ vò, bao nhiên hình ảnh của Mạn Đà Sơn Trang cùng hiện ra trước mắt:
Hoa trà còn gọi là hoa Mạn Đà La, nổi tiếng nhất là những chủng loại trồng nơi Đại Lý. Hoa trà vùng Cô Tô không lấy gì làm đẹp, trong Mạn Đà Sơn Trang trồng nhiều hoa trà nhưng danh chủng thì chẳng có bao nhiêu, lại trồng không đúng cách nên ra hoa rất nhỏ, cây thì còi cọc. Thế nhưng sao tòa trang viện đó lại lấy tên là Mạn Đà Sơn Trang? Trong sơn trang đó ngoài hoa trà ra không trồng một loại hoa nào khác là vì cớ gì? Mạn Đà Sơn Trang lại có luật hễ nam nhân vào trong trang thì sẽ bị chặt hai chân. Vương phu nhân còn bảo: -Hễ cứ người Đại Lý hoặc họ Đoàn mà vào đây thì sẽ bị chôn sống.
Gã đệ tử Vô Lượng Kiếm bị Vương phu nhân bắt đâu có phải người Đại Lý, chỉ có tội là nhà ở cách Đại Lý chưa quá bốn trăm dặm nên cũng bị chôn sống. Vương phu nhân còn bắt một gã công tử ép y phải về giết ngay người vợ kết tóc se tơ, lấy cô gái y đang trăng hoa về làm vợ chính, gã kia không chịu bà ta toan giết khiến y đành phải nghe theo. Đoàn Dự cũng nhớ khi đó Vương phu nhân căn dặn đầy tớ: -Ngươi áp tống y trở lại thành Tô Châu, chính mắt thấy y giết vợ, bái đường thành thân với Miêu cô nương, sau đó hãy trở lại.
Gã công tử kia van xin: -Chuyết kinh với bà không thù không oán, bà cũng không biết Miêu cô nương là ai, sao lại bênh cô ấy, ép tôi giết vợ lấy người khác làm chi?
Khi đó Vương phu nhân trả lời: -Ngươi đã có vợ rồi, sao lại còn lân la ngon ngọt tán tỉnh con gái nhà người ta. Đã chim chuột thì không thể không lấy.
Cứ như lời bà ta thì chỉ riêng con tì nữ Tiểu Thúy ở các vùng Thường Thục, Đan Dương, Vô Tích, Gia Hưng đã thực hiện bảy vụ án như thế. Chàng là người Đại Lý, lại họ Đoàn chỉ vì biết trồng hoa trà nên Vương phu nhân mới không xử tử lại còn thiết yến khoản đãi ở Vân Cẩm Lâu. Có điều khi Đoàn Dự và bà ta đàm luận, đề cập đến một loại sơn trà cánh trắng có sợi chỉ màu đỏ tên gọi “Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm”. Khi đó chàng nói: -Cánh hoa trắng nhưng có lẩn sắc đỏ tên gọi là Hồng Trang Tố Lý. Còn cánh trắng nhưng có quầng mầu

xanh, thêm vạch mờ mờ màu đỏ thì gọi là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm. Thế nhưng nếu những vạch đỏ đó có nhiều thì lại không còn là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm nữa mà là Ỷ Lan Kiều.

Phu nhân thử nghĩ xem, đã là mỹ nhân thì phải ôn tĩnh nhàn nhã, trên mặt thỉnh thoảng bị sước một đường hẳn là khi chải đầu soi gương vô tình cào phải mặt, hoặc giả không phải do mình thì cũng chỉ chơi đùa với con anh vũ, bị chim quẹt trúng âu cũng là chuyện thường.

Thành thử vết chàm trên cánh hoa kia không thể không có, đó là lông chim vương phải. Còn như nếu đầy mặt chỗ nào cũng tươm máu thì nàng con gái đẹp kia hẳn đã đánh nhau với ai, như thế còn gọi là đẹp nỗi gì?
Câu đó khiến Vương phu nhân nổi cơn thịnh nộ, mắng chàng: -Ngươi nghe đứa nào xúi bẩy mà đến gặp ta ăn nói những lời nhăng cuội như thế? Ai bảo đàn bà con gái học võ công thì không còn đẹp nữa? Nhàn nhã ôn tĩnh thì có gì là hay?

Chỉ vì thế mà bà ta đuổi chàng ra khỏi tiệc rượu, suýt nữa thì bị giết chết. Bao nhiêu chuyện đó, lúc đó chàng chỉ nghĩ rằng vị phu nhân này hành sự không theo tình người ngoài mấy chữ “có lý nào như thế được” không còn gì khác để mà hình dung. Đến bây giờ thấy người đàn bà kia là Vương phu nhân, chàng bỗng hiểu ngay:

Thì ra bà ta là người tình cũ của gia gia, thảo nào đối với hoa trà thì yêu như tính mạng còn đối với họ Đoàn Đại Lý lại thù hận tận xương. Vương phu nhân thích hoa trà, hẳn là khi gia gia cùng bà ta qua lại có liên quan gì đến loại hoa này. Còn bà ta bắt được người họ Đoàn Đại Lý là chôn sống ngay, chỉ vì cha ta người Đại Lý, họ Đoàn ruồng rẫy bà ta nên tức tối, bao nhiêu thù hận trút lên người họ Đoàn.

Bà ta bức bách những ai có tính trăng hoa giết vợ cả lấy tình nhân, chính là nói lên cái nguyện vọng thầm kín trong tâm khảm, chỉ mong gia gia giết chính thất để lấy bà ta. Mình trong câu chuyện nói là đàn bà thích đánh nhau thì không còn đẹp nữa đã khiến bà ta nổi trận lôi đình, có lẽ năm xưa khi cùng cha ta tư tình đã từng đánh nhau một trận nhưng hẳn là cha mình nhường nhịn đấy thôi.

Đoàn Dự suy nghĩ thấy bao nhiêu chuyện hoài nghi đều trở thành rõ ràng minh bạch nhưng không phải vì thế mà trút được mối lo, trái lại càng lúc càng nặng như chì. Vì lý do gì, nhất thời chàng không nói ra được chỉ thấy việc mẹ Vương Ngữ Yên và cha mình có tình ý với nhau trước đây thật không ổn chút nào, trong tâm khảm sâu xa dâng lên một nỗi sợ khủng khiếp nhưng không dám nói lên cái điều ám ảnh mình mà chỉ thấy tâm thần càng lúc càng bực bội, âu lo.

Lại nghe Vương phu nhân nói: -Phục quan đấy chăng, gớm nhỉ! Ngươi mong ước được làm hoàng đế Đại Yên, thế đã đăng cơ chưa vậy?

Nghe giọng có vẻ mỉa mai chế riễu. Thế nhưng Mộ Dung Phục vẫn trang nghiêm đáp lại: -Đó là di chí của tổ tông, sanh nhi không có khả năng, bôn ba giang hồ đến bây giờ vẫn chưa nên cơm cháo gì, đang muốn xin mợ chỉ điểm.
Vương phu nhân cười nhạt nói: -Ta có gì mà chỉ điểm được? Nhà ta là họ Vương, nhà ngươi là họ Mộ Dung, họ Vương có liên can gì đến mộng làm hoàng đế của họ Mộ Dung đâu? Ta không cho ngươi đến Mạn Đà Sơn Trang, không cho Ngữ Yên gặp mặt ngươi cũng vì sợ nó bị vướng mắc liên lụy với nhà Mộ Dung. Còn Ngữ Yên? Ngươi dẫn nó đi tới chốn nào rồi?

“Còn Ngữ Yên?” Ba tiếng đó chẳng khác gì sấm động bên tai, Đoàn Dự nãy giờ vẫn lo về chuyện này. Khi ong độc đến chích thì chàng đang ôm Vương Ngữ Yên ở trong lòng, vậy lúc này nàng ở đâu? Nghe giọng nói của Vương phu nhân xem chừng bà ta không biết thật. Chỉ nghe Mộ Dung Phục đáp: -Biểu muội đi đâu, cháu làm sao biết được? Nàng vẫn đi cùng Đoàn công tử nước Đại Lý, không chừng hai người đã bái đường thành vợ chồng rồi. Vương phu nhân run run nói: -Ngươi … ngươi chỉ nói tầm xàm.

Bình một tiếng, bà ta vỗ mạnh xuống bàn giận dữ nói: -Sao ngươi không chăm sóc nó? Để cho một đứa con gái nhỏ hành tẩu giang hồ? Ngươi không nghĩ gì đến chút tình anh em cô cậu nữa hay sao?
Mộ Dung Phục đáp: -Sao mợ lại nổi giận như thế? Mợ sợ cháu lấy biểu muội, sợ nàng sẽ thành con dâu nhà Mộ Dung để đi theo cháu mơ tưởng thành hoàng đế. Bây giờ thế là ổn rồi, biểu muội lấy Đoàn công tử, tương lai đường đường chính chính làm hoàng hậu Đại Lý, không phải là duyên trời khéo se ư? Vương phu nhân lại giơ tay đánh xuống mặt bàn lần nữa, quát lên: -Chỉ láo! Cái gì mà duyên trời khéo se? Nhất quyết không được.

Đoàn Dự ở bên này đang lo, nghe thấy “nhất quyết không được” trong bụng kêu trời luôn mồm: “Khổ quá, khổ quá! Ta với Vương Ngữ Yên phải trải qua trăm cay nghìn đắng mới được thế này, bây giờ mẹ nàng lại nhất định không chịu thì làm sao”.

Bỗng nghe ngoài song có tiếng người: -Sai bét rồi! Không phải vậy! Vương cô nương và Đoàn công tử là một cặp trời sinh, một đôi đất khiến, phu nhân nói nhất quyết không được là trật lất rồi.
Vương phu nhân giận dữ nói: -Bao Bất Đồng! Ai cho ngươi vô phép vô tắc dám cãi lại ta? Ngươi không nghe ta sai người giết con gái ngươi lập tức.
Bao Bất Đồng vốn dĩ là kẻ không sợ trời, sợ đất gì cả nhưng khi nghe Vương phu nhân gay gắt trách mắng thì im bặt không còn dám lèm bèm nữa. Đoàn Dự trong bụng khấn thầm: “Bao tam ca, Bao tam thúc, Bao tam gia, Bao tam

thái gia, lạy ngài xin ngài cãi với phu nhân vài câu nữa. Bà ta nói năng chẳng đâu vào đâu, chỉ có ngài mới anh hùng hảo hán, dám đấu lý với bà ta thôi”. Ngờ đâu bên ngoài không một tiếng động, Bao Bất Đồng không còn mở miệng thêm câu nào. Thực ra Bao Bất Đồng không phải là sợ gì Vương phu nhân giết đứa con gái Bao Bất Tịnh, có điều gia đình y mấy đời theo họ Mộ Dung, là bộ thuộc một lòng son sắt, Vương phu nhân là trưởng bối chí thân của Mộ Dung Phục, cũng không khác gì chủ nhân, nếu như đứng ra cãi tay đôi thì không khỏi bất phân thượng hạ.

Vương phu nhân thấy Bao Bất Đồng đã im, cơn giận cũng hạ bớt, hỏi Mộ Dung Phục: -Phục quan, ngươi đến tìm ta là có ý chàng màng chuyện gì? Hẳn lại có mưu đồ chi chăng?
Mộ Dung Phục cười đáp: -Thưa mợ, sanh nhi là kẻ chí thân nên trong bụng cũng khắc khoải nhớ đến mợ, không lẽ đến thăm cũng không được hay sao? Hà tất cứ phải có mưu đồ gì mới được?
Vương phu nhân cười khẩy đáp: -Ha ha, ngươi quả là tốt bụng quá, lại còn nhớ đến cả bà mợ. Nếu ngươi quả là thương nhớ ta như thế thì đời ta đâu đến nỗi thê lương như thế này.
Mộ Dung Phục cười: -Mợ có chuyện không vui sao không nói cho sanh nhi nghe, thể nào cháu cũng làm cho mợ vừa lòng.
Vương phu nhân nói: -Chậc, chậc, chậc! Mới có mấy năm không gặp mà ngươi học đâu được cái thói miệng trơn như mỡ thế?
Mộ Dung Phục hỏi lại: -Sao lại bảo là miệng trơn như mỡ? Người khác có tâm sự gì thì còn khó đoán chứ mợ trong bụng nghĩ đến ai, sanh nhi đoán chẳng đủ mười phần thì cũng được tám. Muốn cho mợ xứng tâm toại ý, cháu chẳng nói ngoa chứ cũng hiểu được bảy tám phần.

Vương phu nhân nói: -Thế ngươi đoán thử xem, nếu nói năng tầm bậy tầm bạ, xem ta có nắm tai đánh cho một trận không nào. Mộ Dung Phục dài giọng ra ngâm:
Thanh quần ngọc diện như tương thức,
Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai.

Vương phu nhân giật nảy người ấp úng: -Ngươi … ngươi sao lại biết? Ngươi đã vào trong mấy căn nhà gỗ ở đồng cỏ rồi chăng?
Mộ Dung Phục đáp: -Việc gì mợ phải hỏi cháu tại sao lại biết mà chỉ nên hỏi làm thế nào để gặp người kia thôi?
Vương phu nhân lắp bắp: -Gặp … gặp người đó ư?
Giọng bà ta trở nên hết sức nhu mì, xem ra có vẻ cầu khẩn, so với thanh âm uy nghiêm, lãnh đạm mới rồi thật khác xa. Mộ Dung Phục nói: -Người mà sanh nhi nói là người mà mợ vẫn hằng thương nhớ đó.

Xuân câu thủy động trà hoa bạch

Hạ cốc vân sinh lệ chi hồng
Vương phu nhân run run hỏi: -Ngươi bảo là ta có thể gặp được y ư?
Mộ Dung Phục đáp: -Mợ tốn biết bao nhiêu công lao định bắt cho bằng được người này, có ngờ đâu cờ đi sai một nước khiến y tránh được. Sanh nhi nghĩ rằng gặp được y nào có khó chi đâu nhưng để mà làm gì. Chi bằng bắt y phải ngoan ngoãn nghe lời của mợ, ấy mới là hơn cả. Mợ bảo sang đằng đông y không dám đi đằng tây, mợ bảo vẽ lông mày, y không được dồi phấn.

Hai câu sau cùng y nói cực kỳ khinh bạc nhưng Vương phu nhân tâm tình khích động không hề để tâm, chỉ thở dài một tiếng nói: -Cái bẫy ta dương ra sắp đặt cực kỳ khít khao, vậy mà y vẫn chạy thoát, ta không còn nghĩ được cách nào tốt hơn được nữa.

Mộ Dung Phục nói: -Sanh nhi biết được chỗ ở của người này, nếu như mợ tin cháu, đem bao nhiêu chuyện sắp đặt nói rõ cho cháu nghe, không chừng cháu có thể làm cho kiến hiệu.
Vương phu nhân đáp: -Mình nói gì thì cũng là người nhà, có gì mà bảo không tin nhau nữa? Lần này ta sử dụng ấy là kế “túy nhân phong”. Ở Mạn Đà Sơn Trang ta có nuôi mấy trăm tổ ong, trong trang ngoài hoa trà ra không còn một loại hoa nào khác. Sơn trang cách xa đất liền, ong không thể nào bay vào đâu để kiếm mật.

Mộ Dung Phục reo lên: -Phải rồi, túy nhân phong ngoài hoa trà ra không thích những loại hương nào khác.
Vương phu nhân nói: -Nuôi cho được những tổ ong này làm ta hao tốn mười năm tâm huyết. Trong mật dùng để nuôi ong ta có trộn thêm thuốc mê, lại thêm một loại dược vật khiến cho ong này chích rồi sẽ làm cho mê man, bất tỉnh nhân sự bốn năm ngày liền.

Đoàn Dự nghe nói giật mình: “Không lẽ ta đã ngất đi bốn năm ngày rồi hay sao?”. Mộ Dung Phục nói: -Mợ quả là thần cơ diệu toán, người ngoài quả thực không sao bì kịp, có điều làm thế nào mà xua chúng đi chích người ta được? Vương phu nhân đáp: -Cái đó là ở đồ ăn ta có bỏ thêm một loại dược vật, loại thuốc đó không có chất độc, không mùi không vị chỉ hơi đắng nên không dám cho ăn nhiều một lần. Ngươi cũng biết gã đó tinh linh như quỉ, bọn đầy tớ thủ hạ của y lại thông minh tài trí, nếu dùng thuốc mê, thuốc độc gì chăng nữa để đối phó với y thì không cách nào làm được. Thành thử ta mới nghĩ cách sai người trên đường cung ứng rượu thịt, bên trong có ngầm rải thuốc.
Đoàn Dự bấy giờ mới vỡ lẽ: “Thì ra trên đường bao nhiêu tự họa thiếu nét, thiết chữ là do Vương phu nhân dụ cho gia gia điền vào, nếu điền đúng thì người mà bà ta bố trí sẵn biết ngay đây là Đại Lý Đoàn vương gia, liền dâng

lên đồ ăn thức uống có bỏ dược vật”. Vương phu nhân lại tiếp: -Ai ngờ trời xui đất khiến, gã đó đi đường khác, thằng con hắn lại xông vào. Tên tiểu quỉ đó bao nhiêu thơ phú của cha y thuộc nằm lòng, quả đúng là một lãng tử phong lưu hiếu sắc, phóng đãng vô hạnh. Bao nhiêu tự họa thiếu nét, thiếu chữ trên đường tên tiểu quỉ đó đều điền đúng cả, tham ăn thích uống, nốc hết sạch dược tửu dành cho ông già nó, mò được đến mấy căn nhà gỗ nơi đồng cỏ.

Trong nhà đó những đèn dầu đã có sẵn dược liệu, các cột nhà cũng để sẵn dược liệu, đến khi tên tiểu quỉ đó làm thủng mấy cây cột, mấy loại hương khí liền trộn với nhau dụ cho túy nhân phong bay đến. Ôi, kế của ta thì không sai, chỉ có người đến là sai thôi. Tên tiểu quỉ đó làm hỏng hết việc của ta! Hừ, nếu không đem chặt y ra làm mười bảy mười tám mảnh thì làm sao mà phát tiết được nỗi hận trong lòng?

Đoàn Dự nghe giọng điệu oán độc như thế, không khỏi rợn người, nghĩ thầm: “Cái bẫy của bà ta bố trí cực kỳ chặt chẽ, bên trong cột cũng để sẵn dược phấn để dụ cho ta điền thêm những chữ còn khuyết, làm vỡ cây cột để cho bột bay ra. Ôi, Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi từng bước từng bước rơi vào tròng của người ta, vậy mà không hề biết chút gì, quả thật hồ đồ đến cực điểm”.

Thế nhưng chàng liền nghĩ lại: “Ta trên đường điền vào những tự họa thiếu nét thiếu chữ khiến cho nha trảo của Vương phu nhân tưởng ta là gia gia, bao nhiêu tinh thần đều nhằm vào ta cả, vì thế mà gia gia mới thoát hiểm. Ta thay mặt cho cha để chịu đại họa thì có gì mà phải oán trách nữa đâu? Chuyện đó đúng là cầu còn chưa được nữa kìa”.

Chàng nghĩ như thế thấy lòng dịu xuống nhưng lại không khỏi nghĩ thêm: “Vương phu nhân bắt được ta rồi thì muốn băm chém ta thành mười bảy mười tám mảnh, còn như bắt được cha ta thì lại hết sức ngoan ngoãn chiều chuộng ông. Hai cha con mà sao đối đãi khác nhau một trời một vực”.

Chỉ nghe Vương phu nhân hậm hực hỏi: -Ta đã bảo đứa tì tử này giả làm một bà già câm điếc để chủ trì đại cuộc, mụ cũng không phải là không nhận ra được y, vậy mà sao còn để xảy ra cái chuyện trớ trêu như thế này?
Người lão phụ biện bạch: -Tiểu thư, tì tử đã bẩm cáo với tiểu thư là trong số những người này không có Đoàn công tử trong đó, thành thử mới đánh tráo hết hỏa đao hỏa thạch của họ để họ không đốt đèn dầu lên được, lại cũng dùng đệm cỏ che đi các câu đối trên cột nhà để khỏi dụ túy nhân phong bay đến. Ai bảo bọn chúng tự mua cái họa vào thân, cố tìm cách đốt lửa để đọc thấy đôi câu đối.
Vương phu nhân hừ một tiếng nói: -Nói gì thì nói ngươi cũng là đồ vô tích sự.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lão bà bà này đánh lừa lấy hết đồ đánh lửa lại dùng

đệm cỏ bao các cột lại, là do lòng tốt với mình, nào có biết đâu”.

Mộ Dung Phục nói: -Thưa mợ, loại ong này đốt người ta rồi không còn dùng được nữa hay sao?
Vương phu nhân đáp: -Ong chích người ta xong chẳng bao lâu sẽ chết. Thế nhưng ta nuôi ong hàng nghìn hàng vạn, mất vài trăm con thì thấm vào đâu? Mộ Dung Phục vỗ tay reo lên: -Thế thì được rồi. Trẻ bắt trước, già bắt sau thì đã sao? Sanh nhi nghĩ rằng nếu đem y quan bội ngọc hay binh khí đồ dùng của tiểu tử kia, đem đến cho … cho … người ấy của mợ coi, dụ cho y vào trong căn nhà gỗ trong đồng cỏ thì nào có khó gì?

Vương phu nhân “A” lên một tiếng, đứng phắt dậy nói: -Hảo sanh nhi, ngươi còn trẻ đầu óc quả là sáng suốt. Kế của mợ không xong đầu óc đâm ra lú lẫn, không còn nghĩ ra nước cờ nào khác. Đúng lắm! Đúng lắm! Y cha con nghĩa nặng nếu biết con mình rơi vào tay ta thể nào chẳng chạy đến cứu, lúc đó ta lại dùng túy nhân phong cũng đâu có muộn màng gì.

Mộ Dung Phục cười đáp: -Đến lúc đó e rằng chẳng cần đến túy nhân phong cũng xong. Mợ chỉ cần bỏ thuốc mê vào rượu, mời y ba chén lẽ nào y lại từ chối? Nói trắng ra, chỉ cần y trông thấy dung nhan hoa nhường nguyệt thẹn của mợ rồi thì cần gì ong, cần gì rượu? Lúc đó y mê man ngây ngất làm gì chẳng xong?

Vương phu nhân hứ một tiếng, mắng: -Chỉ láo nào, với mợ mà ăn nói cười cợt được sao?
Thế nhưng khi bà nghĩ đến lúc được gặp lại Đoàn Chính Thuần, chuốc rượu cho tình lang, không khỏi tâm hồn điên đảo, liền dịu dàng nói: -Phải đó! Ngươi nói không sai, cứ theo như thế mà làm.
Mộ Dung Phục nói: -Thưa mợ, cái chủ ý của cháu có dùng được chăng? Vương phu nhân cười: -Nếu như mọi việc êm xuôi, ta sẽ không quên lòng tốt của cháu đâu. Việc trước tiên là phải tra xét xem hiện nay gã vô lương tâm kia đang ở chỗ nào?

Mộ Dung Phục đáp: -Sanh nhi cũng nghe phong thanh nên việc này nếu có làm cũng còn hai điều khó.
Vương phu nhân cau mày nói: -Có cái gì mà khó? Sao ngươi cứ hay kín kín hở hở tính chuyện ra giá là sao?
Mộ Dung Phục đáp: -Người đó hiện nay đang bị bắt giữ, tính mạng chỉ trong sớm tối.
Loảng xoảng một tiếng, tay áo Vương phu nhân chạm phải chén trà rơi xuống đất vỡ tan tành. Đoàn Dự cũng giật mình kinh hãi, nếu trong miệng không bị nhét hạt dẻ thì đã kêu lên thành tiếng. Vương phu nhân lắp bắp: -Bị … bị người ta bắt giữ ư? Sao không nói sớm? Mình phải tìm cách cứu y ngay mới

được.

Mộ Dung Phục lắc đầu: -Thưa mợ, kẻ đối đầu võ công cực cao, sanh nhi không phải là địch thủ của y, mình chỉ nên dùng trí, không nên dùng sức.
Vương phu nhân nghe giọng y dường như cũng chưa có gì gấp gáp lắm, tuy hung hiểm thật nhưng cũng khoan tâm hỏi dồn: -Dùng trí là thế nào? Dùng mẹo nào đây?
Mộ Dung Phục đáp: -Cái kế dùng túy nhân phong của mợ vẫn còn dùng được. Chỉ cần thay mấy cái cột, khắc lại trên cột mấy chữ khác, chẳng hạn như vế trên là “Đại Lý quốc đương kim thiên tử Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh”, người kia trông thấy ắt hẳn nổi cơn thịnh nộ, xóa những chữ Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh đi, hương khí sẽ từ trong cột bay ra.

Vương phu nhân hỏi: -Thế ngươi nói người đang bắt giữ y là kẻ tranh ngôi vua Đại Lý với Đoàn Chính Minh, tên là Đoàn Diên Khánh gì đó phải không? Mộ Dung Phục đáp: -Chính hắn.
Vương phu nhân kinh hãi nói: -Y … y … y rơi vào tay Đoàn Diên Khánh, hẳn là dữ nhiều lành ít. Đoàn Diên Khánh lúc nào cũng chăm chăm giết chết y, không chừng … không chừng giờ này đã xử tử y rồi …
Mộ Dung Phục đáp: -Xin mợ chớ có quá lo, bên trong còn có một điểm cực quan trọng mà mợ chưa nghĩ đến.
Vương phu nhân hỏi: -Điểm quan trọng gì?
Mộ Dung Phục đáp: -Hiện nay hoàng đế nước Đại Lý là Đoàn Chính Minh. Đoàn công tử của mợ vốn được phong làm hoàng thái đệ, toàn dân Đại Lý ai ai cũng đều biết cả. Đoàn Chính Minh đánh thuế nhẹ, ít lao dịch, chăm lo chính sự, thương yêu trăm họ người người đều ca tụng ông ta là thánh minh thiên tử, Trấn Nam Vương cũng được nhân dân tin cậy, hoàng vị đó khó mà lay chuyển nổi. Đoàn Diên Khánh muốn giết ông ta thật chỉ cần nhắc tay là xong nhưng một đao chém xuống rồi, thế nước Đại Lý ắt loạn to, ngôi bảo tọa hoàng đế Đại Lý chắc đâu đã vào tay Đoàn Diên Khánh?

Vương phu nhân nói: -Ngươi nói vậy nghe cũng có lý, nhưng làm sao mà biết? Mộ Dung Phục đáp: -Có cái thì do sanh nhi nghe được mà cũng có chỗ thì suy đoán ra.
Vương phu nhân nói: -Ngươi cả đời chỉ mơ tưởng được làm hoàng đế, những chỗ lắt léo đó, ắt đã nghiền ngẫm cho thật tỏ tường.
Mộ Dung Phục đáp: -Cám ơn mợ đã quá khen. Thế nhưng sanh nhi liệu tưởng rằng Đoàn Diên Khánh bắt được Trấn Nam Vương, quyết không thể nào giết ngay mà thể nào cũng tìm cách cho y đăng cơ làm hoàng đế trước, sau đó mới nhường ngôi cho mình. Có thế mới danh chính ngôn thuận, quan dân Đại Lý mới không dị ngôn.

Vương phu nhân hỏi lại: -Thế nào mà danh chính ngôn thuận?

Mộ Dung Phục đáp: -Phụ thân Đoàn Diên Khánh vốn là hoàng đế Đại Lý, chỉ nhân gian thần soán vị, trong cơn hỗn loạn y không biết lạc đi đâu mất. Đoàn Chính Minh lên ngôi hoàng đế nhưng Đoàn Diên Khánh mới đích thực mười mươi “Diên Khánh thái tử”, nhân dân Đại Lý ai mà chẳng biết. Trấn Nam Vương lên ngôi hoàng đế rồi, y không có người nối dõi, lập Đoàn Diên Khánh làm hoàng thái đệ, thế thì thật là hợp tình hợp lý, danh chính ngôn thuận.
Vương phu nhân ngạc nhiên hỏi: -Y … y … rõ ràng có con trai, sao lại bảo là không người nối dõi?
Mộ Dung Phục cười đáp: -Mợ vừa mới nói sao thoáng cái đã quên rồi? Chẳng phải mợ bảo là sẽ đem tiểu tử họ Đoàn chặt ra thành mười bảy mười tám mảnh hay sao? Trên đời này làm gì có hoàng thái tử nào mười bảy mười tám mảnh bao giờ?

Vương phu nhân vui mừng nói: -Phải lắm! Đây là thứ dã tạp chủng do con tiện tì Đao Bạch Phượng sinh ra, để nó sống ta cứ nghĩ đến là lộn tiết lên rồi.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lần này đúng là hung đa cát thiểu, Ngữ Yên không biết
ở nơi đâu? Nếu không Vương phu nhân may ra thương con mà tha mạng cho mình”.
Vương phu nhân nói: -Nếu trước mắt mạng sống của y chưa có gì đáng lo thì ta cũng yên tâm. Ta cũng chẳng cần y phải đi làm hoàng đế Đại Lý gì cho cực nhọc, chỉ cần y ở cạnh ta nơi Mạn Đà Sơn Trang mà thôi.
Mộ Dung Phục đáp: -Trấn Nam Vương nhường ngôi xong, đương nhiên sẽ theo mợ về Mạn Đà Sơn Trang, lúc đó ông ta có ở lại Đại Lý cũng chẳng có gì hứng thú mà Đoàn Diên Khánh lẽ nào tha cho y sống để thành mầm họa sau này? Có điều Trấn Nam Vương thể nào cũng phải lên làm hoàng đế, dăm bữa cũng được, nửa tháng cũng hay, nhưng nhất định là phải qua sông thì mới chặt cầu, nếu không thì Đoàn Diên Khánh sẽ không khứng chịu.
Vương phu nhân nói: -Hứ, y khứng chịu hay không khứng chịu thì có liên quan gì đến ta? Mình bắt được Đoàn Diên Khánh rồi, cứu Đoàn công tử xong thì trước hết chém cho y một dao, y còn chịu hay không chịu gì nữa?
Mộ Dung Phục thở dài một tiếng nói: -Mợ vẫn còn quên một điều, chúng ta đã bắt được Đoàn Diên Khánh đâu, từ giờ tới lúc đó còn là một quãng dài.
Vương phu nhân hỏi: -Y đang ở đâu, ngươi chắc phải biết rồi. Hảo sanh nhi, bụng dạ cháu thế nào mợ chẳng lẽ không biết hay sao? Ngươi giúp ta làm chuyện đó muốn ta đáp lại những gì? Thôi mình cứ hai năm rõ mười, mất lòng trước được lòng sau, muốn gì cứ nói trắng ra đi.
Mộ Dung Phục đáp: -Mình là chỗ người nhà, cháu giúp mợ một chút đâu có dám đòi hỏi công lao gì? Sanh nhi cứ làm hết sức chẳng dám xin xỏ gì cả.

Vương phu nhân nói: -Bây giờ ngươi không nói, sau này nếu đề cập đến mà ta không bằng lòng thì đừng có trách đấy nhé!

Mộ Dung Phục cười đáp: -Cháu đã bảo không đòi hỏi công lao là không đòi hỏi gì cả. Nếu lúc đó nếu như mợ thấy vui lòng, thưởng cho vài vạn lạng vàng, hay cho vài bộ võ học bí điển trong Lang Hoàn Các, thế là quá đủ.
Vương phu nhân hừ một tiếng, nói: -Ngươi cần tiền tiêu thì cứ đến nói với ta, có bao giờ ta lại không cho? Ngươi muốn xem võ học bí yếu trong Lang Hoàn Các, ta lúc nào cũng hoan nghênh. Chỉ buồn ngươi không lo chuyện chính đáng, lêu lổng chẳng màng chuyện tiến thân, ta thật không biết trong bụng ngươi tính toán những gì? Thôi được, làm sao bắt được Đoàn Diên Khánh, làm sao cứu người, ngươi sắp xếp ra sao?

Mộ Dung Phục đáp: -Bước thứ nhất là dụ cho Đoàn Diên Khánh đem Trấn Nam Vương đến căn nhà gỗ trong đồng cỏ, có phải thế không?
Vương phu nhân hỏi: -Đúng thế! Ngươi có cách nào dụ được Đoàn Diên Khánh không?
Mộ Dung Phục đáp: -Chuyện này thật dễ dàng. Đoàn Diên Khánh muốn được làm hoàng đế Đại Lý, ắt phải làm được hai chuyện: Thứ nhất là bắt được Đoàn Chính Thuần ép cho ông ta phải nhường ngôi, thứ hai làgiết Đoàn Dự để cho Đoàn Chính Thuần trở thành “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”.

Chuyện thứ nhất thì Đoàn Diên Khánh đã làm xong, bắt được Đoàn Chính Thuần rồi. Còn Đoàn Dự thì vẫn còn đây. Ta lấy một món gì của Đoàn Dự đem cho Đoàn Chính Thuần coi, Đoàn Chính Thuần thể nào cũng tìm cách cứu con, Đoàn Diên Khánh sẽ theo y đến. Việc mợ bắt được tên tiểu tử họ Đoàn kia đâu có gì là sai, chính là có việc dùng, không có mồi thơm làm sao bắt được con ba ba?
Vương phu nhân cười nói: -Ngươi bảo tên tiểu tử họ Đoàn là cái mồi thơm à?
Mộ Dung Phục cũng cười đáp: -Cháu xem chừng y nửa thơm nửa thối.
Vương phu nhân hỏi lại: -Thế là sao?

Mộ Dung Phục đáp: -Một nửa do Trấn Nam Vương sinh ra thì là thơm, còn một nửa do con tiện nhân Trấn Nam Vương phi thì là thối.
Vương phu nhân cười khanh khách nói: -Ngươi quả là một tiểu tử mồm trơn như mỡ, biết cách làm cho ta vui lòng.
Mộ Dung Phục cười đáp: -Thì chỉ mong sao ngựa đã hay lại ra roi mà chạy, làm xong sớm chừng nào thì mợ vui lòng chừng nấy. Xin mợ cho đem tiểu tử đó ra đây.
Vương phu nhân nói: -Y bị túy nhân phong chích rồi, tối thiểu cũng phải ba ngày mới tỉnh lại được. Nếu không tiểu tử đó nhốt ở ngay vách bên kia mình nói lớn như thế y nghe được cả hay sao? Ta còn một chuyện nữa muốn hỏi

ngươi, gã … gã Trấn Nam Vương kia tuy là kẻ vô lương tâm nhưng cũng là kẻ cứng cỏi, Đoàn Diên Khánh làm thế nào mà ép y nhường ngôi cho được? Không lẽ y lại hành hạ dày vò … khiến y phải khổ sở hay sao?

Bà ta nói tới đây giọng đầy vẻ lo lắng. Mộ Dung Phục thở dài một tiếng nói: – Thưa mợ, chuyện đó việc gì còn phải hỏi, có nói ra chỉ làm cho mợ thêm bực mình.
Vương phu nhân hỏi dồn: -Nói mau, nói mau, ngươi còn định trao đổi cái gì nữa đây?
Mộ Dung Phục thở dài: -Nếu bảo gã họ Đoàn Đại Lý vô lương tâm, ấy là đúng lắm. Một người dung nhan như mợ, văn võ song toàn, đốt đèn kiếm khắp thiên hạ liệu có tìm được người thứ hai chăng? Không biết kiếp trước y tu thế nào mà lại được người như mợ chiếu cố đến, vậy mà không biết chung thủy một lòng, lại đi … ôi, trên đời này với những thứ sâu bọ không biết phải quấy như thế, có phúc không biết hưởng, Hằng Nga nơi cung nguyệt không yêu, lại màng đến con lợn nái vũng bùn lầy …

Vương phu nhân tức tối hỏi lại: -Ngươi bảo là y … y … cái gã vô lương tâm kia, lại đèo bòng con đàn bà khác hay sao? Đứa nào thế? Đó là đứa nào?
Mộ Dung Phục đáp: -Ối, cái thứ đàn bà hạ tiện liễu ngõ hoa tường, không đáng xách dép cho mợ kia, chỉ đáng là vợ con những thằng cha căng chú kiết, việc gì phải hạ mình bực tức với những đồ như thế.
Vương phu nhân nổi cơn tam bành, giơ tay đập bàn thình thình, quát tháo: – Nói mau! Thằng khốn kiếp, nó bỏ ta về Đại Lý làm cái thứ vương gia gì gì thì ta không thèm trách. Y có sẵn vợ nhà, ta cũng không thèm trách, vì chưng lúc ta biết y thì hắn đã là chồng người khác rồi! Thế nhưng … thế nhưng … ngươi bảo y lại đi giăng dện với những con đàn bà khác, thế đó là đứa nào? Là đứa nào?

Đoàn Dự ở bên này thấy bà ta nổi cơn lôi đình, không khỏi phát sốt phát rét, nghĩ thầm: “Ngữ Yên ôn nhu hòa thuận bao nhiêu sao mà bà mẹ lại dữ dằn đến thế? Gia gia có thể chiều bà ta được, quả không phải dễ”. Chàng lại nghĩ ngay: “Sao những cựu tình nhân của cha ta người nào tính tình cũng kỳ quái, Tần a di sai con đến giết mẹ ta, Nguyễn a di thì sinh được A Tử muội muội, tính nết không chịu nổi, Cam a di đã lấy Chung Vạn Cừu rồi mà vẫn còn vương vấn gia gia. Bà vợ của Mã phó bang chủ Cái Bang thì khỏi nói. Ngay cả đến má má mình, bà nhất định không ở chung với cha ta, ra đạo quan bên ngoài thành làm đạo cô, dẫu Hoàng bá phụ, Hoàng bá mẫu khuyên lơn cũng không chịu. Ôi, sao cả mẹ mình mà cũng cá mè một lứa thế nhỉ?”.

Mộ Dung Phục nói: -Thưa mợ, làm gì mà phải nổi cơn tam bành lên thế? Mợ nghỉ một lát, sanh nhi sẽ từ từ kể hết đầu đuôi.

Vương phu nhân nói: -Ngươi chẳng nói thì ta cũng đoán ra rồi, có phải Đoàn Diên Khánh bắt được một con đàn bà đê tiện của tiểu tử họ Đoàn, ép y sau khi làm hoàng đế phải nhường ngôi, nếu không bằng lòng thì sẽ làm khó con tiện nhân, phải không nào?

Tính khí gã tiểu tử họ Đoàn ta đã biết thừa. Người khác bức bách y làm gì, dù có dao kề cổ, y thà chết cũng không hạ mình, thế nhưng ai đụng vào kẻ y thương yêu thì việc gì cũng làm, đến mạng mình cũng chẳng coi vào đâu.
Hừ, thế con tiện nhân đó mặt mũi thế nào? Cái thứ hồ li tinh đó không biết dùng thủ đoạn gì để rù quến y? Nói mau, con đàn bà hư đốn đó là ai?
Mộ Dung Phục đáp: -Thưa mợ, thôi cháu đành phải nói thôi, mong mợ bớt giận làm lành, thứ đàn bà đê tiện kia đâu phải chỉ một đứa mà thôi.
Vương phu nhân vừa ngạc nhiên vừa tức tối, bình một tiếng vỗ xuống bàn một cái thật mạnh nói: -Cái gì? Không lẽ lại những hai đứa hay sao? Mộ Dung Phục thở dài một tiếng u uẩn đáp: -Đâu phải chỉ có hai.
Vương phu nhân càng lồng lộn lên: -Cái gì? Chẳng lẽ y đi đường lại còn bạ đâu xâu đó, hoa hái đầy tay, một người chưa đủ lại phải hai ba hay sao?
Mộ Dung Phục lắc đầu ngán ngẩm: -Trước mắt là phải đến bốn người đàn bà đi cùng với y. Thưa mợ, mợ việc gì mà phải giận cho nhọc người? Sau này y lên ngôi hoàng đế, tam cung lục viện muốn bao nhiêu mà chẳng được? Dẫu rằng Đại Lý là nước nhỏ, chẳng thể sánh được với Đại Tống, Đại Liêu, “hậu cung giai lệ” chẳng được ba nghìn thì cũng phải đến ba trăm.

Vương phu nhân gắt: -Hừ hừ! Chính thế mà ta đâu có muốn y làm hoàng đế. Ngươi nói ta nghe bốn con tiện nữ đó là những đứa nào?
Đoàn Dự cũng thấy lạ lùng, chàng chỉ biết có Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc hai người đi theo phụ thân, sao nay lại có thêm hai bà nào nữa?
Chỉ nghe Mộ Dung Phục nói tiếp: -Một người họ Tần, một người họ Nguyễn … Vương phu nhân ngắt lời: -Hừ, Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc, hai con hồ li tinh đó lại quấn lấy y.
Mộ Dung Phục tiếp: -Còn một người đàn bà đã có chồng, nghe bọn họ gọi là Chung phu nhân, hình như là đi tìm con gái thì phải. Vị Chung phu nhân này giữ gìn khuôn phép lắm, không hề tỏ vẻ âu yếm Trấn Nam Vương, Trấn Nam Vương cũng lấy lễ đãi lại, có điều đầu mày cuối mắt mỗi khi gọi bà ta “Bảo Bảo, Bảo Bảo”, xem chừng cực kỳ thân mật.

Vương phu nhân lại bùng lên: -Đó là con tiện nhân Cam Bảo Bảo, cái gì mà “lấy lễ đãi lại”? Chỉ vờ vịt vải thưa che mắt thánh, nếu quả thực giữ gìn khuôn phép thì tránh cho xa có được không, việc gì mà phải sán lại? Thế con tiện nữ thứ tư là ai?
Mộ Dung Phục đáp: -Còn người thứ tư không phải tiện nữ tử, đó chính là

nguyên phối chính thất của Trấn Nam Vương, tức là Trấn Nam Vương phi.

Cả Đoàn Dự lẫn Vương phu nhân đều sửng sốt. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Sao má má lại đến đó?” còn Vương phu nhân thì kêu lên một tiếng, hiển nhiên thật ngoài dự liệu. Mộ Dung Phục cười đáp: -Mợ thấy lạ lắm chăng? Thực ra mợ thử nghĩ mà xem, chẳng có gì là lạ. Trấn Nam Vương rời Đại Lý hơn một năm nay chưa về, gái đẹp Trung Nguyên vô số, đã có những người xinh đẹp như mợ, lại thêm nào là Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc những con hồ li tinh, Trấn Nam Vương phi làm sao yên bụng được?

Vương phu nhân hừ một tiếng nói: -Sao ngươi dám xếp ta chung một bầy với những con hồ li tinh? Bốn mụ đàn bà hiện nay cùng ở cạnh y ư?
Mộ Dung Phục cười nói: -Xin mợ cứ yên tâm. Trên bãi Hồng Sa, bên bờ Song Phượng hai bên ác đấu một trận, Trấn Nam Vương hoàn toàn thất bại. Đoàn Diên Khánh một mẻ lưới vét sạch, cả nam lẫn nữ bị y điểm trúng huyệt đạo, bắt hết cả rồi. Đoàn Diên Khánh chỉ cốt đối phó với bọn Trấn Nam Vương, đâu có để ý đến sanh nhi náu ở một bên, nhìn thấy hết từ đầu chí cuối. Sanh nhi vội vàng hộc tốc chặn đầu trước một trăm dặm. Thưa mợ, việc không nên trì hoãn, một mặt mình bố trí mê dược và túy nhân phong, một mặt sai người đến dụ Đoàn Diên Khánh …

Chữ “Khánh” vừa nói xong, từ đằng xa có một giọng the thé cực kỳ khó nghe truyền đến: -Ta đã đến đây rồi, chẳng cần phải dụ nữa, túy nhân phong và mê dược cứ việc bố trí đi.
Chú thích:
1- Hoa trà vùng Vân Nam (Điền là tên gọi tắt vùng Vân Nam, tức Đại Lý). Về

mặt lịch sử thì đời Tống trở về trước, người Trung Hoa chưa biết nhiều về hoa
trà Đại Lý, chỉ có đôi ba thi nhân làm thơ ca tụng. Phải đến đời Minh mới có
sách vở viết về hoa trà (chúng tôi sẽ viết rõ về Hoa Trà Đại Lý trong một biên
khảo riêng)
Hoa trà Đại Lý có khắp nơi, trong bảy mươi loại có hai giống to như mẫu đơn, sắc đỏ như lửa 2-chẳng khác gì ráng mây như gấm bao quanh mặt trời.
3-Cháu gọi bằng cậu hay mợ (khác họ, ngược với điệt là cháu gọi bằng cô hay chú cùng họ với mình)
4-Ở đây Kim Dung lại viết là Mỹ Nhân Trảo Phá Kiểm, người dịch để lại giống như chương 12
5- tiếng để gọi người có chức phận ở đây hàm ý mỉa mai


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.