Thoát Khỏi Ung Thư

LỜI TỰA



Một hôm tôi và Bill nói chuyện với nhau, ông ấy hỏi tôi một câu hỏi rất đơn giản là: “Triết lý của ông về y học là gì?” Khi cuộc đàm đạo của chúng tôi tiếp tục, thì càng rõ ràng thực chất câu hỏi mà ông ấy hỏi là:

“Làm thế nào chúng ta có thể giúp truyền cho mọi người sự tự tin ở bản thân để tự đặt câu hỏi cho vùng thoải mái của họ?” Vùng thoải mái của họ là lòng tin của họ vào y học truyền thống phương Tây hay y học đối chứng, là sự lựa chọn duy nhất của họ khi cần chăm sóc y tế.

Với ý nghĩ này trong tâm trí, cho phép tôi chia sẻ quá trình tiến triển của tôi từ bác sĩ đến bác sĩ điều trị phi phẫu thuật. Tôi được đào tạo ở Trường Y của Đại học Tổng hợp Massachusetts và sau đó tôi được huấn luyện tại Đại học Tổng hợp Hahnemann ở Philadelphia, Pennsyvalnia. Tôi có một giai đoạn hành nghề bác sĩ gây mê rất thành công cho đến lúc

gặp một tai nạn quái đản đã kết thúc sự nghiệp bác sĩ gây mê của tôi. Vài tháng sau tai nạn, một người bạn là bác sĩ gọi cho tôi và gợi ý tôi cân nhắc việc điều hành một phòng khám chữa bệnh bằng tác nhân chelat. Tôi hỏi ông ấy: “Chelat là cái gì?” Câu trả lời của ông ấy là: “Tôi cũng chả biết gì cả”. Thế là tôi đến phòng khám, tự giới thiệu bản thân và cuối cuộc trò chuyện là về vị trí của tôi. Tôi vẫn chẳng có ý tưởng nào về công việc tôi làm, nhưng tôi phụ trách phòng khám.

Vào ngày hôm sau thì tôi đã hiểu được bản chất của phòng khám. Tôi phụ trách một phòng khám theo phương pháp “thay thế”. Nói theo tín ngưỡng là gặp nghiệp chướng! Tôi từng biết “y học thay thế” chỉ là lang băm lừa bịp. Tôi lại bối rối vì các bệnh nhân của tôi đều có trình độ rất cao. Tại sao, tôi ngạc nhiên, sao họ chịu quy phục lang băm như thế? Tôi được trang bị tồi để điều hành cơ sở này. Một trong những khía cạnh cuốn hút trong quá trình học của tôi là trong phòng khám này, bệnh nhân thông thạo hơn tôi rất nhiều. Mặc dù tôi đã nghe những thuật ngữ như: chống ô-xy hóa, dinh dưỡng và khử độc, nhưng tôi chẳng có bất cứ kinh nghiệm lâm sàng nào về chúng.

Bù lại sự thiếu hụt kiến thức, tôi thấy mình buộc phải học. Lúc đầu tôi cố tìm chương trình y học thay thế nội trú. Đây là một ví dụ rõ ràng tất cả chúng ta được

truyền thụ theo một cách thức riêng biệt như thế nào vào suy nghĩ. Nó nhanh chóng trở nên rõ ràng, tự tôi có hai lựa chọn. Tôi có thể nghỉ hưu hoặc có thể tự học. Tôi đã chọn cái sau. Tôi tin vào khái niệm duy nhất tiếp sức cho tôi lành mạnh mà thu thập kho kiến thức cho mình, đó là thứ tôi đã học được trong thời gian học nội trú gây mê rằng cơ thể con người phục hồi khá nhanh, nhất là trẻ em.

Để tìm kiếm kiến thức mới, tôi sử dụng internet. Tôi liên lạc với nhiều bác sĩ trên thế giới, tích trữ thông tin họ chia sẻ và rồi tôi ngày càng trở nên mơ hồ. Nhưng sự mơ hồ đó bản thân tôi chẳng phiền toái gì vì tôi biết ánh sáng sẽ đến sau mớ hỗn độn ấy, chí ít là đối với tôi. Rồi chuỗi ngày lại tiếp tục; tôi đọc hết chủ đề này đến chủ đề khác với hi vọng rằng câu hỏi bệnh nhân đưa ra là những vấn đề tôi vừa mới đọc. Tôi nhớ câu chuyện cha tôi chia sẻ: Ông quyết định dạy tiếng Tây Ban Nha khi đầu tiên chúng tôi chuyển đến nước Mỹ, ông bảo ông cứ nghiên cứu và học phần sau trong khi dạy học sinh phần trước.

Thời gian trôi đi, tôi để ý thấy sức khỏe các bệnh nhân của tôi tiến triển mà chẳng dùng đến thuốc. Vào một ngày thứ Năm khi tôi đang trong văn phòng thì có ba bệnh nhân đến khám. Họ chả liên quan gì đến nhau, nhưng cả ba phàn nàn giống nhau. Khi đứng dậy họ cảm thấy đầu lâng lâng. Giờ thì tôi biết điều đó là gì. Tôi nhanh chóng lấy ra bản đơn thuốc và giảm thuốc cao huyết áp (bị huyết áp cao) cho họ. Lần đầu tôi làm cho bệnh nhân thứ nhất, tôi thấy bình thường. Tuy nhiên, đến bệnh nhân thứ ba, tôi thấy nóng ruột rất kỳ lạ mà tôi không sao xác định được.

Tôi tiếp tục vật lộn với sự nóng ruột đó cho đến khi tôi nhận ra được vấn đề. Giáo điều Đại học Y khoa đã dạy tôi và vẫn đang dạy hôm nay rằng khi bệnh nhân đang dùng thuốc, đặc biệt là thuốc cao huyết áp, thì bác sĩ có thể thay đổi thuốc hoặc cho thêm thuốc. Tuy nhiên, một khi bệnh nhân đang dùng thuốc thì ông hay bà ấy sẽ luôn duy trì nhu cầu về thuốc. Song, ba bệnh nhân này đã chứng tỏ giáo điều đó không đúng! Tương tác của tôi với ba bệnh nhân đó không được may mắn. Xem lại biểu đồ của họ, tôi nhận ra những bệnh nhân này được chẩn đoán đúng và được điều trị bằng thuốc cao huyết áp. Hơn nữa, cả ba bệnh nhân đều ổn định với thuốc. Chỉ có một biến đổi đã thay đổi cho họ là trị liệu tác nhân chelat tĩnh mạch làm tại phòng khám của tôi.

Sự chấp nhận của y học phương Tây đối với liệu pháp tác nhân chelat giới hạn chỉ với độc tố kim loại nặng và mức canxi tăng cao nghiêm trọng. Y học đối chứng chế giễu việc sử dụng liệu pháp tác nhân chelat đối với bất kỳ mục đích nào khác kể cả huyết áp cao. Vẫn còn chưa biết nhiều hơn. Làm sao tôi có thể dung hòa sự thực mới phát hiện này, nói cách khác thì giảng dạy ở Trường Y của tôi không đầy đủ? Với tính cách của mình, tôi bắt đầu đặt nghi vấn về mọi thứ tôi đã được dạy. Tôi để sự quyết tâm dẫn dắt con đường học hành của tôi. Trước lúc có sự việc này, tôi đã làm một việc

hợp lý là thu thập kiến thức, nay tôi trở thành con người của một sứ mệnh. Tôi bắt đầu đọc và học về y học thay thế và các tổ chức chuyên nghiệp của họ. Tôi đã đọc mọi thứ có thể cho đến khi bị rối loạn. Khi biết có thể liên kết các vấn đề khó xử lại với nhau, thế là tôi bắt đầu và cứ thế tiếp tục.

Bài học đầu tiên của tôi là chúng ta cần thường xuyên làm những gì chúng ta đặt ra hơn là chỉ lên kế hoạch. Tôi học được phải bỏ qua những cái thừa thãi. Bỏ qua kể cả những người có tước hiệu đứng trước hoặc sau cái tên của họ. Vậy là tôi bắt đầu đọc công trình nghiên cứu thực hiện bởi người không danh tiếng, một số có tước vị và số khác thì không có như: Hoxsey, Rife, Kelley, Geerson, Koch, Một trong những điều thú vị mà tôi học được là những nghiên cứu thực hiện trong giai đoạn những năm 1910 và 1930 là rất nổi bật và còn giá trị đến hôm nay. Tuy nhiên, giáo dục y học hiện đại, vì những lý do tôi không rõ, cứ tiếp tục xem khối kiến thức phi thường này là không xứng đáng để công bố. Nghiên cứu cũ không có nghĩa là không có giá trị hay nghèo nàn.

Tôi tự hỏi tôi muốn cuộc sống của mình như thế nào? Lựa chọn thứ nhất là nhắm mắt lại, làm việc như thường lệ, về hưu và cứ thế tiến lên. Lựa chọn thứ hai của tôi là học càng nhiều càng tốt và cố gắng tạo nên sự khác biệt, giống như rất nhiều người khác đã phấn đấu trong quá khứ. Vào năm 2005, tôi là Giám đốc phòng khám tác nhân chelat lớn nhất thế giới. Chúng tôi quản lý khoảng 20.000 ca điều trị một năm và đang tăng trưởng 20%/năm.

Trong giai đoạn 1995 và 2005, tôi tập trung vào chứng xơ cứng động mạch và biến chứng của nó. Vào thời gian đó nó là bệnh và nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong

ở Mỹ. Hơn nữa, tôi cũng bắt đầu khảo sát những phương pháp điều trị một loạt bệnh gọi là “nan y” như bệnh viêm đường ruột (Crohn), viêm ruột kết gây loét, viêm gan, mụn rộp, AIDS, HIV và các bệnh tự miễn dịch. Tôi cũng bắt đầu khảo sát mối quan hệ giữa những liệu pháp y học không được đánh giá cao như nắn khớp bằng tay, rửa ruột, giải độc và liệu pháp xoa bóp. Tủ công cụ y học của tôi đã khá lên. Cái khó nhất đối với tôi là thay đổi chế độ ăn và dinh dưỡng nói chung. Bệnh nhân đưa ra quá nhiều trở ngại khi nói đến dinh dưỡng. Viên ngọc vương miện đã đến vào năm 2006 khi cuối cùng tôi nhận ra nó qua lớp sọ dày của tôi rằng ý nghĩ nằm trong não ở tất cả bệnh nhân cũng cần được giải quyết nếu bệnh nhân có cơ hội “khỏi bệnh”. Sau 2005, tôi tập trung chú ý vào căn bệnh ung thư “kinh sợ nhất” mới nổi lên ở Mỹ. Càng nghiên cứu tôi càng nhận ra phép chữa đối chứng là con đường sai lầm. Vì vậy, tôi tiến tới một việc mới. Tôi thành lập Trung tâm Sức khỏe Lý tưởng (Utopia Wellness Center).

Tại trung tâm, chúng tôi nhận tất cả mọi người, chúng tôi không “sàng lọc” bệnh nhân. Có một số chúng tôi khuyên đừng đến dựa vào tư vấn qua điện thoại. Tuy

nhiên, bất cứ lúc nào bệnh nhân muốn đến, tôi thấy mình bắt buộc phải nhận người ấy. Tôi không có quyền từ chối bất cứ ai trong tuyệt vọng, vì thế mọi người đều có thể đến.

Tóm lại là, tôi đã tuyên thệ cố sức làm người lương thiện và giúp đỡ đồng loại. Tôi cố làm điều đó với khả năng tốt nhất của mình. Tôi không biện hộ cho những gì tôi làm. Nó có tác dụng cho một số. Nhưng sau cùng, y học là một nghệ thuật, không phải khoa học.

Khi tôi nói với những người còn say mê bởi giáo điều rằng y học đối chứng là y học “duy nhất thực” và y học thay thế là lang băm, thì họ biện hộ cho vị trí của mình bằng nhu cầu thành đạt. Tuy nhiên, cái mà hầu hết các bạn không hiểu là phần lớn bệnh nhân của tôi thất bại với phép chữa đối chứng và họ được khuyên hãy về sắp xếp công việc của mình. Xuất hiện sự lựa chọn giữa chối bỏ và chết, thì thay thế dễ dàng được nắm bắt. Tuy nhiên khi tôi hỏi những người đó nếu họ từ trước đến giờ có dám hỏi cùng câu hỏi đó với bác sĩ ung thư như họ hỏi tôi thì họ thường tránh trả lời. Giáo điều không hỏi “chính thể” truyền thống đang chiếm ưu thế.

Nào, để tôi thử xếp hạng sân chơi. Nước Mỹ đang trở nên là một dân tộc yếu ớt hơn mỗi năm. Mọi người đều đồng ý rằng chúng ta không có chăm sóc sức khỏe, mà chủ yếu chấp nhận chăm sóc ốm đau, điều này chỉ là y học xoàng xĩnh. Vì tôi tin rằng ung thư là căn bệnh số một ở Mỹ hiện nay, hãy cho phép chúng tôi cơ hội hướng dẫn bạn. Hầu hết người Mỹ chưa bao giờ được tiếp xúc với chăm sóc sức khỏe. Giáo điều không dựa vào thực tế đã bôi nhọ y học “thay thế”. Y học đối chứng hầu như được làm sẵn cho những người chạy theo, chứ không dành cho những người dẫn dắt. Tuy nhiên, sự thật vẫn là sự thật. Sau đây là những sự thật mà y học đối chứng phải che dấu.

Hóa trị là một lựa chọn để điều trị và chữa ung thư có tỉ lệ thất bại 97%. Thuyên giảm tự phát có thể mang lại một tỉ lệ thành công cao hơn. Điều này có thể là một cú sốc đối với bạn và khiến bạn phải hỏi: “Nếu như vậy, tại sao các bác sĩ ung thư không nói với chúng ta điều đó?” Điều mà tôi có thể làm là khuyên bạn tìm lời giải đáp từ bác sĩ ung thư của bạn.

Đối với những người cho rằng điều này hoàn toàn vô nghĩa, hãy ghé trang web của tôi: http://www.utopiawellness.com. Và gõ “chemotherapy cure.”

Nó cho bạn tiếp cận nghiên cứu gốc năm 1985 đưa ra tuyên bố về “tỉ lệ thất bại 97%”. Tôi cũng nói: “Vâng, đó là hồi 1985. Tôi đảm bảo tỉ lệ chữa khỏi bây giờ, sau

26 năm, phải cao hơn.” Tôi đã sai. Vào năm 2004, một nghiên cứu được các bác sĩ ung thư ở Úc công bố trong xuất bản phẩm Ung thư lâm sàng (Clinical Oncologgy), quyển 16, từ trang 449 đến 560. Kết luận của nghiên cứu năm 2004 là về tỉ lệ sống

được 5-năm nữa chứ không phải tỉ lệ chữa khỏi, chỉ giúp 2,3% bệnh nhân ung thư Úc chọn hóa trị, trong khi chỉ giúp 2,1% bệnh nhân ung thư Mỹ chọn hóa trị. Lần đầu tiên bạn nghe thấy điều này phải không?

Cá nhân tôi bị sốc bởi phát hiện của họ khẳng định hóa trị chỉ hiệu quả trong 1,4% phụ nữ Mỹ bị ung thư vú. Bạn và người thân của bạn có được biết điều này không? Các tổ chức nghiên cứu ung thư đã tiêu tiền của họ như thế nào? Thật kinh hoàng là trong 20 năm chúng ta thụt lùi từ chỉ 3% thành công xuống còn ít hơn thế! Tuy nhiên một số ít bác sĩ nhận biết được những nghiên cứu này. Những người biết lại hiếm khi chia sẻ thông tin này với các bệnh nhân ung thư tin tưởng và dễ dãi, thật đáng tiếc là họ phải chịu đựng hậu quả của lời nói dối bởi thiếu sót.

Tôi đang nỗ lực mang chăm sóc sức khỏe đến nước Mỹ, vì hình như rất ít người trong ngành y có đủ can đảm thử làm như vậy. Tôi hiểu sự bối rối của họ. Tôi hiểu được trực tiếp cái gì có thể xảy ra. Tôi có động lực huấn luyện bạn để giúp tất cả chúng ta nhận được cái chúng ta đã giao ước: chăm sóc SỨC KHỎE và chấm dứt chăm sóc ốm đau của chúng ta.

Một định nghĩa của sự điên rồ là lặp lại một quá trình hết lần này đến lần khác sự lường trước một kết quả khác. Hóa trị, xạ trị và phẫu thuật là những phương pháp cứu chữa ung thư đã thất bại từ 70 năm qua. Chúng thất bại thảm hại thậm chí khi đã hạ thấp mức độ xuống đến sống chỉ được 5-năm nữa với cái chết kinh hoàng theo sau và không quan tâm đến chất lượng sống trong thời gian điều trị. Tuy nhiên, tôi tin rằng ảo tưởng đó là nguồn cứu chữa duy nhất cho ung thư đã làm tăng áp lực thuyết phục bệnh nhân chọn tình trạng tồi tệ này.

Nếu được đúc kết triết lý của tôi về y học thì nó sẽ như sau: bác sĩ và bệnh nhân phải cùng nhau làm việc. Là một bác sĩ, công việc của tôi là huấn luyện bệnh nhân và hướng người bệnh thoát ra khỏi hiểm nghèo. Tôi cần phải càng minh bạch càng tốt trong khi vẫn thừa nhận những thiếu sót của mình.

Các bệnh nhân dạy tôi rằng chỉ có bệnh nhân mới có thể tự chữa bệnh cho họ. Tất cả chúng ta phải nuôi dưỡng, hỗ trợ và tôn trọng hệ miễn dịch. Dù là bác sĩ thì tôi cũng chỉ là một con người. Trái với y học giáo điều, ung thư không phải là điềm báo trước cái chết. Chúng ta hãy nắm lấy cuộc sống và sống trọn vẹn nhất.

Tôi hi vọng cuốn sách này sẽ giúp nhiều người trong các bạn mở rộng tầm nhìn và truyền cho bạn sự tự tin để chất vấn. Nó sẽ hỗ trợ bạn đạt được phương pháp cứu chữa mà bạn hoàn toàn xứng đáng.

Xin nhớ, đây là cuộc sống của bạn; là sức khỏe của bạn và là chọn lựa của bạn. Hãy lựa chọn sáng suốt!

Hãy để sự khai sáng bắt đầu…

Bác sĩ Carlos M. Garcia


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.