Titanic - Trong Vũ Trụ

CHƯƠNG 7



Ngày 25 tháng 7
Beatty, Nevada
Sullivan Obie choàng tỉnh do tiếng chuông điện thoại. Anh cảm thấy đầu mình như có búa bổ và môi có vị như tàn thuốc lá. Anh lấy điện thoại nhưng bất cẩn làm rơi xuống giá để ống nghe. Tiếng đập mạnh khiến anh nhăn mặt khó chịu. Ôi, kệ nó! Anh nghĩ rồi quay đi và úp mặt vào mớ tóc rối.
Một phụ nữ à?
Anh nheo mắt vì ánh sáng ban ngày và cố kiểm tra lại có thật là có một phụ nữ đang nằm cùng giường với anh không. Mớ tóc vàng. Cô ta đang ngáy. Anh nhắm mắt, hy vọng rằng nếu ngủ tiếp cô ta sẽ đi rồi khi anh thức dậy.
Nhưng giờ anh không ngủ được, không phải vì tiếng điện thoại rơi khỏi chỗ gác máy.
Anh đi vòng qua bên kia giường và thấy điện thoại.
– Gì vậy, Bridget? – Anh hỏi. – Có chuyện gì?
– Sao anh chưa đến? – Bridget yêu cầu.
– Vì tôi đang ngủ.
– Mười rưỡi rồi! Xin chào anh! Cuộc họp với các nhà đầu tư mới thì sao? Tôi nên cảnh cáo anh là Casper đang bị mắc kẹt giữa hai lựa chọn, hoặc là bị đóng đinh, hoặc là bị bóp chết.
Các nhà đầu tư. Chết tiệt thật!
Sullivan ngồi dậy, ôm đầu đợi cơn chóng mặt qua đi.
– Nghe này, hãy mặc kệ ả đó rồi đến đây. – Bridget nói. – Casper đã đưa họ đến nhà chứa máy bay rồi.
– Mười phút nữa. – Anh gác điện thoại và bị trượt chân. Cô ả trên giường không cựa quậy. Anh không biết ả là ai nhưng đã để cô ta ngủ trên giường mình. Dù sao thì anh cũng nghĩ rằng anh chẳng có gì để người ta đánh cắp.
Không có thời gian cạo râu hay tắm rửa. Anh uống ba viên thuốc đau đầu, một tách cà phê, rồi nổ máy xe Harley.
Bridget đang đợi anh trước nhà chứa máy bay. Cô có vẻ ngoài đúng kiểu Bridget, sung sức với mái tóc đỏ thành ra có vẻ lúc nào cũng giận dữ. Nhưng thật không may là đôi khi vẻ ngoài lại có vẻ đúng với bản chất.
– Họ sắp bỏ đi rồi. – cô rít lên. – Lê mông đến đây đi!
– Rốt cuộc thì họ là ai?
– Một người tên Lucas, người kia là Rashad. Họ đại diện cho một tập đoàn gồm mười hai nhà đầu tư. Anh đã phá hỏng việc này, Sully ạ và chúng tôi hoàn toàn phụ thuộc vào anh. – cô dừng lại, nhìn anh vẻ khinh bỉ. – À, chết tiệt thật, chúng tôi đã bị dắt mũi rồi. Nhìn anh xem! Ít ra thì anh cũng phải cạo râu chứ?
– Cô muốn tôi về nhà nữa hả? Tôi có thể thuê cả một bộ quần áo lễ phục trên đường về đấy.
– Thôi, anh quên chuyện đó đi. – cô ấn một tờ báo gập đôi vào tay anh.
– Gì đây?
– Casper muốn cái này. Hãy đưa cho ông ấy. Giờ thì vào đó rồi thuyết phục họ ghi cho một tấm séc đi. Một tấm séc lớn ấy.
Anh thở dài, bước vào kho chứa máy bay. Sau khi phải chịu ánh nắng chói chang của sa mạc, bóng tối trong kho khiến mắt anh cảm thấy dễ chịu. Anh mất một lúc mới nhìn thấy ba người đàn ông đang đứng bên cạnh các tấm lót cách nhiệt của tàu con thoi Apogee II. Hai vị khách đều mặc âu phục đang nhìn nơi để các dụng cụ và thiết bị sửa chữa.
– Xin chào các vị! – Anh nói to. – Xin lỗi tôi đến muộn nhưng tôi phải nhận một cuộc gọi thông báo họp. Các vị biết cuộc nói chuyện có thể kéo dài lê thê thế nào đấy…. – Anh bắt gặp ánh mắt cảnh cáo của ông Casper Mulholland như muốn nói Đừng quá đà, đồ chết tiệt nên anh phải nuốt khan. – Tôi là Sullivan Obie. – Anh nói. – Đồng nghiệp của ông Mulholland.
– Anh Obie đây biết từng đường tơ kẽ tóc của Thiết bị phóng tái sử dụng này. – Casper nói. – Anh ấy đã từng làm việc với một cây gạo cội là ông Bob Truax tại California. Thực ra, anh ấy có thể giải thích hệ thống này rõ hơn tôi. Ở đây, chúng tôi đều gọi anh ấy là Obie-Wan.
Hai vị khách chỉ chớp mắt. Khi ngôn ngữ chung trong phim “Chiến tranh giữa các vì sao” không thể tạo ra một nụ cười thì đó là một dấu hiệu xấu.
Sullivan bắt tay với ông Lucas trước, rồi sau đó là ông Rashad và nở một nụ cười rất tươi ngay cả khi những hy vọng của anh đã bị chìm nghỉm. Thậm chí trong lúc đó, anh còn cảm thấy ghét hai quý ông ăn mặc bảnh bao này, những người mà cả anh và ông Casper đang rất khao khát tiền của họ. Các công nghệ của con tàu Apogee, đứa con tinh thần và cũng là giấc mơ họ ấp ủ trong suốt mười ba năm qua sắp tan thành mây khói. Chỉ cần được rót tiền từ một nhóm các nhà đầu tư mới thì dự án sẽ được cứu sống. Anh và ông Casper phải chiến đấu cả đời vì vụ mua bán này. Nếu không thành công thì tốt nhất là họ nên đóng gói mớ dụng cụ và bán tàu con thoi như bán một chiếc xe lưu động.
Sullivan vung tay lên chỉ con tàu Apogee II. Giờ trông nó giống một ống lắp vòi phun nước khổng lồ trên đường phố với nhiều cửa sổ hơn là giống một máy bay tên lửa.
– Tôi biết trông nó không giống lắm. – Anh nói. – Nhưng thứ mà chúng tôi chế tạo ra ở đây là một phương tiện phóng có thể tái tạo được với giá thành thấp nhất và hiệu quả nhất từng có tính tới thời điểm này. Con tàu sử dụng hệ thống phóng tàu bằng tên lửa đẩy được hỗ trợ sau khi rời khỏi bệ phóng theo chiều thẳng đứng và lên tới độ cao mười hai kilômét, các tên lửa được bơm đầy áp lực sẽ đẩy tàu lên tới nút số bốn trong khi áp lực khí động học chỉ còn rất thấp. Con tàu này hoàn toàn có thể tái chế được và chỉ nặng tám phẩy năm tấn. Nó đáp ứng toàn bộ các quy tắc mà chúng tôi tin sẽ trở thành tương lai của ngành thương mại du lịch vũ trụ. Nhỏ hơn. Nhanh hơn. Rẻ hơn.
– Vậy nó sử dụng loại động cơ nâng gì? – Rashad hỏi.
– Các động cơ thổi hơi có tên là Rybinsk RD-38 được nhập khẩu từ Nga.
– Tại sao lại của Nga?
– Vì thưa ông Rashad, giữa ông, tôi và những bức tường này thì người Nga hiểu biết về kỹ thuật tên lửa hơn bất kỳ ai trên thế giới. Họ đã chế tạo ra hàng chục động cơ tên lửa hoạt động bằng nhiên liệu lỏng, sử dụng các nguyên liệu tân tiến có thể hoạt động ở áp lực cao. Tôi rất tiếc phải nói rằng nước ta chỉ sản xuất được một động cơ tên lửa chạy bằng nhiên liệu chất lỏng mới từ khi có tàu Apollo. Giờ đây là một ngành công nghiệp quốc tế. Chúng tôi tin là đã lựa chọn các bộ phận tốt nhất cho sản phẩm của chúng tôi, cho dù các bộ phận đó xuất xứ từ đâu đi chăng nữa.
– Vậy vật này hạ cánh như thế nào? – ông Lucas nhìn trân trân con tàu giống ống cắm vòi rồng.
– Ồ, đó mới chính là vẻ đẹp thực sự của con tàuApogee II. Như các vị có thể thấy nó không có cánh. Nó không cần đường băng. Thay vào đó, nó rơi thẳng xuống, sử dụng dù để làm chậm quá trình hạ cánh và các túi khí để làm đệm cho quá trình tiếp đất. Nó có thể hạ cánh ở bất cứ đâu, thậm chí trên biển. Một lần nữa chúng ta lại phải cúi đầu trước người Nga vì chúng tôi đã mượn các đặc tính từ tàu con thoi Soyuz cũ của họ. Nó là một trong những con ngựa kéo đáng tin cậy nhất của họ trong mấy chục năm liền.
– Có vẻ như anh thích mấy kỹ thuật cũ kỹ của Nga quá nhỉ? – Lucas mỉa mai.
Sullivan cứng họng.
– Tôi yêu thích những kỹ thuật nào có tác dụng. Ông hãy thử nói ông biết gì về người Nga? Họ luôn hiểu rõ điều họ đang làm.
– Vậy thứ anh có ở đây là một loại hỗn hợp. – Lucas nói. – Tàu Soyuz được kết hợp vào trong một chiếc tàu con thoi.
– Một chiếc tàu con thoi vũ trụ cực nhỏ. Chúng tôi đã mất mười ba năm chế tạo nó và chỉ mất sáu mươi lăm triệu đô la để có con tàu này… như vậy là rẻ một cách đáng kinh ngạc nếu ông so sánh nó với chi phí tàu con thoi thông thường. Với chiếc tàu đa cấp này chúng tôi tin chắc các vị sẽ nhận được một khoản lời từ việc đầu tư hàng năm là ba mươi phần trăm nếu các vị phóng nó một nghìn hai trăm lần một năm. Chi phí cho mỗi chuyến bay sẽ là tám nghìn đô, giá cho mỗi cân thiết bị trên tàu sẽ rẻ tới mức chỉ còn hai trăm bảy mươi đô. Nhỏ hơn, nhanh hơn, rẻ hơn. Đó chính là khẩu hiệu của chúng tôi.
– Nhỏ tới mức nào vậy ông Obie? Trọng tải của con tàu là bao nhiêu?
Sullivan lưỡng lự một chút. Đây chính là điểm họ có thể mất hợp đồng này.
– Chúng tôi có thể chở một lượng hàng là ba trăm kí lô, cộng thêm người lái tàu nếu bay quanh trái đất ở độ cao thấp.
Họ im lặng rất lâu.
Ông Rashad hỏi.
– Thế thôi à?
– Như vậy là gần ba trăm cân. Các vị có thể lắp vào đó nhiều thiết bị nghiên cứu…
– Tôi biết ba trăm cân là bao nhiêu. Đâu có nhiều nhặn gì.
– Vậy chúng tôi bù lại việc đó bằng việc phóng tàu thường xuyên hơn. Các vị gần như có thể nghĩ đến việc biến nó thành một chiếc máy bay vào vũ trụ.
– Thực tế thì… thực tế thì chúng tôi đã nhận được sự quan tâm của NASA. – ông Casper xen vào với một giọng có chút thất vọng. – Đây là một kiểu hệ thống họ có thể mua để lao rất nhanh lên trạm không gian.
Lucas nhướn lông mày.
– NASA quan tâm ư?
– Ồ, chúng tôi có một đường dây liên lạc bên trong.
Ôi, tệ thật, ông Casper, Sullivan nghĩ. Đừng bàn đến chuyện đó.
– Cho họ xem tờ báo đi Sully!
– Gì cơ?
– Tờ Thời báo Los Angeles, trang hai.
Sullivan nhìn tờ Thời báo Los Angeles mà Bridget đã dúi vào tay anh. Anh lật trang hai và thấy bài báo: “NASA đã đưa các phi hành gia lên thay thế”. Tiếp theo đó là một bức ảnh các quan chức cấp cao của Trung tâm vũ trụ Johnson trong một cuộc họp báo. Anh nhận ra một người đàn ông giản dị với đôi tai to và kiểu tóc rất xấu. Đó là Gordon Obie.
Casper giật tờ báo và đưa nó cho các vị khách.
– Hãy nhìn người đàn ông này, người đứng cạnh Leroy Cornell. Đó là giám đốc điều hành bay. Đó là anh trai của ông Obie đây.
Hai vị khách bị cuốn hút ngay lập tức. Họ quay lại nhìn Sullivan.
– Thế nào? – Casper nói. – Các quý ông đây có hứng thú bàn chuyện kinh doanh nữa không?
– Chúng tôi nên nói thẳng với các vị chuyện này. – Lucas nói. – Ông Rashad và tôi đã xem qua những phát minh khác của các hãng hàng không. Chúng tôi đã xem qua tập đoàn Kelly Astroliner, Roton và Kistler K-1. Họ đều khiến chúng tôi ấn tượng, đặc biệt là K-1. Nhưng chúng tôi nhận ra là chúng tôi cũng nên cho các công ty nhỏ như các anh cơ hội.
Công ty nhỏ như các anh.
Mẹ kiếp, Sullivan nghĩ. Anh rất ghét phải xin tiền, ghét phải quỳ gối trước những kẻ mặc áo đóng thùng. Đây là một chiến dịch vô vọng. Anh thấy đau đầu, bụng cuộn lên và những kẻ mặc âu phục này đang lãng phí thời gian của anh.
– Hãy cho chúng tôi biết tại sao chúng tôi nên đặt cược cho các vị. – Lucas nói. – Điều gì khiến chúng tôi chọn lựa công ty Apogee?
– Nói thẳng ra thì, thưa các quý ông, tôi nghĩ chúng tôi không phải là sự lựa chọn tốt nhất. – Sullivan trả lời thẳng thừng. Anh quay đầu bỏ đi.
– À, xin lỗi! – Casper đuổi theo bạn đồng nghiệp. – Sully! – ông thì thầm. – Anh đang làm cái quái gì vậy?
– Những gã này không hề có hứng thú với chúng ta. Anh đã nghe bọn họ nói rồi đấy. Họ thích tập đoàn K-1. Họ muốn những tên lửa bự, để cho hợp với những cái của nợ của họ.
– Đừng bới việc này lên! Quay lại nói chuyện với họ đi.
– Tại sao chứ! Họ sẽ chẳng ký cho chúng ta một tấm séc nào hết.
– Để tuột mất họ nghĩa là chúng ta mất tất cả.
– Chúng ta đã mất rồi đấy.
– Không. Không, anh có thể bán thứ này cho họ. Tất cả những gì anh cần làm là nói sự thật. Hãy nói cho họ biết chúng ta thực sự tin gì. Vì anh biết và tôi biết rằng chúng ta có thứ tốt nhất.
Sullivan dụi mắt. Thuốc đau đầu đã tan hết và anh thấy đầu như có búa bổ. Anh đã chán phải cầu xin. Anh là một kỹ sư, và cũng là một phi công. Anh sẽ hài lòng dành nốt phần đời còn lại của mình ngập tay trong đống dầu mỡ động cơ đen sì. Nhưng điều đó sẽ không xảy ra nếu không có các nhà đầu tư và không có nguồn vốn mới.
Anh quay lại, đi về phía các vị khách. Điều khiến anh ngạc nhiên là dường như họ tiếp anh với một thái độ e sợ. Có lẽ vì anh đã nói sự thật.
– Thôi được. – Sullivan nói và thấy bạo gan hơn vì lúc này anh chẳng còn gì để mất. Anh có thể hạ mình xuống là một người đàn ông. – Vụ buôn bán như thế này. Chúng tôi có thể khẳng định mọi điều chúng tôi vừa nói bằng một ví dụ đơn giản. Các công ty khác có sẵn sàng phóng một con tàu trong một tích tắc người ta thả một cái mũ không? Không. Họ không thể làm được. Họ cần thời gian chuẩn bị. – Anh rít lên. – Phải mất hàng tháng trời. Nhưng chúng tôi có thể phóng tàu bất cứ lúc nào. Tất cả những gì chúng tôi cần làm là đưa bé bự này lên bệ phóng và chúng tôi có thể đưa nó lên quỹ đạo thấp xung quanh trái đất. Mà tệ lắm thì chúng tôi có thể cho nó lên đó để gửi xúc xích cho các Trạm vũ trụ. Vì vậy hãy cho chúng tôi một ngày chính xác. Hãy cho chúng tôi các vị muốn phóng tàu khi nào và chúng tôi sẽ làm được việc đó.
Casper mặt trắng bệch như người chết, và đó không phải là khuôn mặt thân thiện. Sullivan đã đưa họ đi quá xa đến bờ vực mà họ đang phải bấu víu vào đó. Tàu Apogee IIvẫn chưa được thử nghiệm. Nó đã nằm trong khu nhà chứa này hơn mười bốn tháng và bám đầy bụi trong khi họ đang đi xin tiền. Trong chuyến đi đầu tiên của tàu, Sully muốn con tàu đi hết tốc lực đến quỹ đạo ư?
– Thực sự thì tôi rất tự tin rằng con tàu sẽ vượt qua được giai đoạn trình duyệt. – Sullivan nói, thậm chí còn nâng mức liều lĩnh lên cao hơn. – Chính tôi sẽ ngồi trên ghế lái.
Casper lộn ruột.
– Ờ… đó là một lối nói ẩn dụ, thưa các vị. Nó có thể bay một cách hoàn hảo mà không cần người lái.
– Nhưng không có một lời bịa đặt nào trong câu nói đó. – Sullivan nói. – Hãy để tôi lái nó lên! Như thế mọi người sẽ cảm thấy hứng thú hơn. Các vị sẽ nói gì đây?
Tôi nói rằng chắc chắn anh bị mất trí rồi, đôi mắt của Casper nói với anh như vậy.
Hai thương gia nhìn nhau, thì thầm vài câu. Rồi Lucas nói.
– Chúng tôi đều rất chú ý đến lời giải thích đó. Chúng tôi cần thời gian để duyệt qua với các cộng sự và các lịch trình du lịch hợp tác nữa. Vậy thì hãy chờ… một tháng. Các vị chờ được chứ?
Họ đã buộc anh phải lừa gạt. Sullivan chỉ cười.
– Một tháng à? Không sao. – Anh nhìn Casper bây giờ đang nhắm tịt mắt như thể đang đau đớn.
– Chúng tôi sẽ liên lạc với các vị. – ông Rashad nói và chỉ chiếc tàu. – Tôi có để ý tên các anh đặt theo kiểu đặc trưng là Apogee II. Liệu có tàu Apogee I không?
Casper và Sullivan nhìn nhau.
– À, đúng thế. – Casper nói. – Đã có…
– Chuyện gì đã xảy ra với con tàu đó?
Casper im bặt.
Khốn nạn thật, Sullivan nghĩ. Nói thật dường như có tác dụng với mấy gã này, có lẽ anh nên lặp lại việc đó.
– Nó đã đâm và bốc cháy. – Anh nói và bước ra khỏi nhà chứa máy bay.
Đâm và bốc cháy. Đó là cách duy nhất để mô tả chuyện gì đã xảy ra trong buổi sáng lạnh lẽo và trong xanh ấy cách đây một năm rưỡi. Buổi sáng hôm đó, ước mơ của anh cũng đã vỡ vụn và bốc cháy. Khi ngồi tại chiếc bàn mòn vẹt ở văn phòng công ty và nhấm nháp chút cà phê để giết thời giờ, anh không thể không nhớ lại như in từng chi tiết đau lòng của ngày hôm đó. Chuyến xe buýt chở các nhân viên NASA đỗ ở khu bệ phóng. Anh trai anh, Gordie tự hào cười rất tươi. Không khí ăn mừng tràn ngập trong lòng hàng chục người làm việc tại Apogee và một số các nhà đầu tư đang tụ tập dưới mái che để uống cà phê và ăn bánh rán trước khi phóng tàu.
Rồi đếm ngược. Rồi phóng tàu. Mọi người nheo mắt nhìn bầu trời khi tàu Apogee I bay vút vào không trung và thu nhỏ lại chỉ bằng một chiếc đinh ghim.
Rồi ánh sáng lóe lên. Và thế là hết.
Sau đó, anh trai anh không nói gì nhiều, thậm chí không nói cả một lời chia buồn. Nhưng Gordon là như vậy. Suốt đời mình, mỗi khi Sullivan gặp vận hạn. – và dường như điều này xảy ra quá thường xuyên. – thì Gordon chỉ lắc đầu buồn bã, thất vọng như vậy. Gordon là anh, một đứa con trai nghiêm chỉnh và đáng tin cậy. Anh ấy đã tự khiến mình nổi bật với tư cách là một viên chỉ huy phi hành đoàn tàu con thoi.
Sullivan chưa từng được tham gia đội phi hành gia. Dù anh cũng là một phi công và kỹ sư máy bay nhưng dường như anh chưa bao giờ được cuộc sống cho cơ hội. Nếu anh leo vào trong buồng lái thì đó cũng chính là lúc một sợi dây điện bị lòi ra hay một đường dây nào đó bị đứt. Anh thường nghĩ đáng lẽ anh phải khắc những chữ Không phải lỗi của tôi lên trán vì mọi việc rất hay gặp vấn đề khi anh không gây ra lỗi lầm gì. Nhưng Gordon không thèm nhìn nhận sự việc. Mọi việc không bao giờ hỏng trong tay anh ấy. Gordon nghĩ khái niệm rủi ro là một lời biện hộ cho sự bất tài.
– Sao anh không gọi điện cho anh ấy? – Bridget nhắc.
Anh ngẩng lên. Cô ta đang đứng cạnh bàn anh, khoanh tay như một giáo viên tiểu học.
– Gọi ai? – Anh hỏi.
– Anh trai anh chứ còn ai nữa? Hãy cho anh ấy biết là chúng ta sẽ phóng mẫu tàu thứ hai. Hãy mời anh ấy đến xem. Có lẽ anh ấy sẽ đưa theo những người khác trong NASA.
– Tôi không muốn bất cứ ai của NASA.
– Sully, nếu chúng ta gây ấn tượng với họ, chúng ta sẽ khiến công ty này vận động.
– Như lần trước hả?
– Đó là không may thôi. Chúng ta đã sửa chữa các vấn đề.
– Nên có lẽ lại có một lần không may khác.
– Anh sẽ mang lại xui xẻo cho chúng tôi, anh biết không? – cô ta ném điện thoại trước mặt anh. – Gọi cho Gordon đi! Nếu chúng ta gieo con xúc xắc, chúng ta có thể cá cược cả ngôi nhà của mình.
Anh nhìn chiếc điện thoại và nghĩ về tàu Apogee I, nghĩ về việc giấc mơ cả đời anh đã phút chốc tan thành mây khói như thế nào.
– Sully?
– Quên chuyện đó đi! – Anh nói. – Anh tôi có những chuyện hay ho để làm hơn là mất thời gian cùng những kẻ thua cuộc. – rồi anh ném tờ báo vào thùng rác.
Ngày 26 tháng 7
Trên tàu Atlantis
– Này, Watson. – chỉ huy Vance gọi xuống khoang giữa. – Lên đây và xem ngôi nhà mới của cô đi!
Emma trôi lên cầu thang và xuất hiện trên khoang lái, ngay sau ghế ngồi của Vance. Khi mới nhìn lướt qua cửa sổ, cô hít một hơi thật mạnh vì ngạc nhiên. Đây là điểm gần nhất cô được đến với trạm không gian. Trong suốt lần làm nhiệm vụ đầu tiên cách đây hai năm rưỡi, họ đã không được lên Trạm không gian quốc tế mà chỉ nhìn nó từ xa.
– Nó tuyệt quá đúng không?
– Nó là thứ tuyệt nhất mà tôi từng thấy. – Emma nói khẽ.
Quả thật như vậy. Những tia nắng đang tỏa ra từ mái giàn chính khiến Trạm vũ trụ quốc tế trông như một chiếc thuyền buồm kỳ vĩ đang bay thẳng lên trời. Được mười sáu quốc gia khác nhau chế tạo, các bộ phận của nó đã được đưa lên vũ trụ sau bốn mươi lăm lần phóng. Họ đã mất năm năm lắp ghép nó từng mảnh từng mảnh một để cho nó bay vào quỹ đạo. Nó không chỉ đơn thuần là một kỳ công của công nghệ, mà nó còn là một biểu tượng cho những gì con người có thể đạt được khi họ hạ vũ khí và hướng ánh mắt lên trời.
– Giờ thì đó là một phần của cải thật sự. – Vance nói. – Tôi sẽ gọi đó là một căn hộ để ngắm cảnh.
– Chúng ta đã đến nơi. – phi công lái tàu con thoi DeWitt nói. – Bay tốt.
Vance rời ghế chỉ huy và đứng cạnh ô cửa phía trên đầu tàu để nhìn rõ khi họ đến gần khoang hạ cánh của Trạm vũ trụ quốc tế. Đây là giai đoạn tinh tế nhất trong suốt toàn bộ quá trình phức tạp để gặp nhau theo kế hoạch. TàuAtlantis đã được phóng đến quỹ đạo thấp hơn so với Trạm vũ trụ. Hai ngày qua, cô đã không chơi trò đuổi kịp Trạm vũ trụ đang chuyển động ầm ầm. Họ sẽ tiếp cận cô từ phía dưới, sử dụng các máy bay sử dụng hệ thống điều khiển theo phản xạ để định vị vị trí tốt nhất để hạ cánh. Emma giờ đã nghe thấy tiếng phụt mạnh của các ống xả và cô thấy con tàu đang giật mạnh.
– Nhìn xem! – DeWitt kêu lên. – Đó là tia nắng đã kêu ầm ĩ trong tháng qua. – Anh chỉ một trong những tấm mặt trời bị thủng một lỗ lớn. Đó là một trong những mối nguy hiểm ngoài vũ trụ là những cơn mưa thiên thạch và các mảnh vụn do con người tạo ra không ngừng rơi xuống. Thậm chí chỉ một mảnh vụn nhỏ cũng có thể biến thành một vũ khí phóng nguy hiểm khi nó di chuyển với tốc độ hàng nghìn dặm một giờ.
Khi họ tiến lại gần hơn và Trạm vũ trụ đã choán hết ô cửa. Emma cảm thấy một nỗi sợ hãi choán ngợp và cả niềm tự hào lớn đến nỗi mắt cô long lanh nước. Nhà, cô nghĩ, mình đang về nhà.
Chiếc cửa chặn khí mở toang và một khuôn mặt to lớn với nước da nâu cười với họ ở đầu kia của đường ống nối tàu Atlantis với Trạm vũ trụ quốc tế.
– Họ đã mang theo những trái cam! – Luther Ames hét to với các đồng nghiệp trên trạm. – Tôi có thể ngửi thấy chúng.
– Dịch vụ cung cấp tận nhà của NASA đây. – chỉ huy Vance nói mà mặt lạnh như không. – Rau quả của quý vị đã đến. – Vance xách một túi đầy hoa quả tươi và bay qua cửa chặn khí của tàu Atlantis sang Trạm vũ trụ.
Họ đã hạ cánh hoàn hảo. Cả hai con tàu đều di chuyển với vận tốc mười bảy nghìn năm trăm dặm một giờ, cách xa trái đất, Vance đã tiếp cận Trạm vũ trụ quốc tế theo một tỉ lệ rất nhỏ là hai in-sơ mỗi giây. Anh đã nối liền khoang hạ cánh của tàu Atlantis với cảng của Trạm vũ trụ để khóa chặt và gọn.
Giờ những cánh cửa đã mở và từng người trong phi hành đoàn Atlantis bay sang Trạm vũ trụ được chào đón bằng những cái bắt tay, những cái ôm và những nụ cười hân hoan trên khuôn mặt của những người đã không được gặp khách mới trong nhiều tháng trời. Khoang đó quá nhỏ để chứa mười ba người nên hai phi hành đoàn nhanh chóng vào khoang kế bên.
Emma là người thứ năm vào trạm. Cô chui ra khỏi ống nối và hít một hỗn hợp mùi mới. Đó là thứ mùi hơi chua và có hơi da thịt của những người bị nhốt quá lâu trong không gian kín. Luther Ames, người bạn cũ huấn luyện trong đội phi hành gia, là người đầu tiên chào cô.
– Tôi nghĩ đây là bác sĩ Watson! – Anh nói to rồi ôm cô vào lòng. – Chào mừng cô lên trạm! Càng nhiều phụ nữ càng vui!
– Này, anh biết tôi không phải là phụ nữ mà.
Anh nháy mắt.
– Chúng ta giữ bí mật đó giữa hai ta thôi. – Luther lúc nào cũng khoác lác. Đó là một người đàn ông có thể khiến cả căn phòng vui vẻ hẳn lên. Mọi người thích Luther vì anh yêu quý tất cả. Emma rất vui khi có anh trên trạm.
Đặc biệt là khi cô quay sang nhìn những người bạn khác trên trạm. Đầu tiên, cô bắt tay Michael Griggs, chỉ huy trạm và thấy anh ta chào lịch sự nhưng gần như theo kiểu nhà binh. Diana Estes, một phụ nữ Anh được Cơ quan vũ trụ Châu Âu gửi lên, không nồng nhiệt hơn là mấy. Cô cười nhưng thật ngạc nhiên là cặp mắt cô xanh như tảng băng trôi, lạnh lùng và xa cách.
Tiếp theo, Emma quay sang anh người Nga, Nicolai Rudenko, người ở trên trạm lâu nhất. – gần năm tháng. Những bóng đèn trong khoang tàu dường như đã làm trôi hết mọi màu sắc trên mặt anh ta và biến nó thành một màu xám xịt như đám râu hoa mọc lởm chởm của anh. Khi họ bắt tay, hầu như anh không nhìn cô. Người đàn ông này, cô nghĩ, cần được về nhà. Anh ấy đang buồn và rã rời.
Kenichi Hirai, phi hành gia của trung tâm NASDA trôi về phía trước chào cô. Ít ra thì anh nở một nụ cười trên mặt và bắt tay rất chặt. Anh lẩm bẩm chào cô và nhanh chóng lui về phía sau.
Lúc này khoang tàu đã trống không, những người còn lại trong nhóm rải rác đi về các khu vực khác của trạm không gian. Cô thấy chỉ còn lại cô và Bill Haning.
Debbie Haning đã mất cách đây ba hôm. Tàu Atlantissẽ đưa Bill về nhà, không phải đến bên giường bệnh của vợ anh mà tới mộ của cô. Emma lướt đến bên anh.
– Tôi xin lỗi. – cô nói khẽ. – Tôi rất tiếc!
Anh chỉ gật đầu và quay đi.
– Lạ thật! – Anh nói. – Chúng tôi luôn nghĩ nếu có chuyện gì đó xảy ra thì người gánh chịu sẽ là tôi. Tôi là một anh hùng vĩ đại trong gia đình, là người phải nhận những mối nguy hiểm. Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng cô ấy sẽ là người…. – Anh hít sâu. Cô thấy anh đang cố gắng giữ bình tĩnh. Và cô biết lúc này không thích hợp để nói những lời an ủi. Ngay cả một sự đụng chạm nhẹ cũng có thể làm sụp đổ sự chống cự yếu ớt của anh về mặt cảm xúc.
– Ồ, Watson! – cuối cùng anh nói. – Tôi nghĩ tôi nên là người chỉ cho cô mọi việc vì cô sẽ đảm nhận công việc của tôi.
Cô gật đầu.
– Bất cứ khi nào anh sẵn sàng, Bill ạ.
– Vậy hãy làm việc đó ngay bây giờ. Có rất nhiều điều tôi cần nói cho cô biết. Không có nhiều thời gian để chuyển giao đâu.
Dù Emma đã quen với cách bố trí của trạm không gian, khi nhìn vào cấu trúc thực sự bên trong, cô cảm thấy chóng mặt. Tình trạng không trọng lượng của con tàu, nghĩa là không có việc thẳng đứng hay lộn ngược, không có sàn nhà hay trần nhà. Mọi bề mặt đều có thể đóng vai trò là nơi làm việc. Nếu cô quay quá nhanh trong không trung thì cô sẽ mất cảm giác về phương hướng ngay lập tức. Những cơn buồn nôn cuộn lên làm cô phải di chuyển rất chậm và cố gắng tập trung vào một điểm khi di chuyển.
Cô biết kích cỡ của Trạm vũ trụ quốc tế có không gian sống tương đương hai chiếc Boeing 747. Nhưng không gian sống đó được gắn hàng chục khoang to bằng chiếc xe buýt. Chúng được nối với nhau như những đồ chơi của hãng Tinkertoys bởi những điểm nối gọi là các nút. Tàu con thoi đã hạ cánh trên nút thứ hai. Được gắn cùng trên nút đó là phòng thí nghiệm của cơ quan vũ trụ Châu Âu, phòng thí nghiệm của Nhật Bản và phòng thí nghiệm của Mỹ. Phòng này đóng vai trò là cửa vào những phần còn lại của Trạm vũ trụ.
Bill dẫn cô ra khỏi phòng thí nghiệm của Mỹ, đến điểm nút tiếp theo, đó là điểm nút số một. Ở đây, họ dừng lại một lúc và nhìn qua mái vòm quan sát. Trái đất đang quay chậm dưới họ và những đám mây đục như sữa đang lượn vòng trên biển.
– Đây là nơi tôi thường lui tới mỗi khi rảnh. – Bill nói. – Chỉ cần nhìn ra ngoài cửa sổ. Như thế khiến tôi cảm thấy sợ hãi. Tôi gọi nơi này là Nhà thờ của Đất mẹ. – Anh quay đi không nhìn cảnh đó nữa và chỉ một cánh cửa vào một nút khác. – Ngay trước mặt chúng ta là cửa chặn khí các hoạt động đi lại trên trạm. Còn cánh cửa bên dưới chúng ta dẫn đến khoang sinh hoạt. Chỗ ngủ của cô ở đó. Phương tiện cứu hộ để quay về trái đất nằm ở đầu kia phòng thí nghiệm để cô có thể đến đó khi có trường hợp khẩn cấp.
– Ba thành viên trong đoàn ngủ trong khoang này à?
Anh gật đầu.
– Ba người khác ngủ trong khoang dịch vụ của Nga. Cô có thể đi qua cánh cửa ở đây. Giờ chúng ta hãy đến đó!
Họ rời nút số một, bơi như cá qua mê cung các đường hầm và đến khoang dịch vụ của Nga trên trạm.
Đây là phần cũ nhất của Trạm vũ trụ quốc tế, phần được phóng lên quỹ đạo lâu nhất và sự già nua của nó hiện rõ. Khi họ đi qua Zarya. – lò năng lượng và lò đẩy động cơ. – cô thấy nhiều vết ố trên tường, có cả những vết cào xước và sứt mẻ. Những gì lúc đầu chỉ là những bản thiết kế trong đầu cô giờ đã bắt đầu biến thành những chi tiết cụ thể và có cảm giác. Trạm vũ trụ không chỉ là một mê cung những phòng thí nghiệm lấp lánh mà nó cũng là nơi ở của con người. Những hao mòn và hư hỏng do sự cư trú thường xuyên của con người hiện hữu rất rõ.
Họ bay vào khoang dịch vụ của Nga. Ở đó, Emma gặp một cảnh tượng kỳ lạ của Griggs và Vance. Cả hai đều lộn ngược. Hay mình là người lộn ngược? Emma nghĩ và thấy buồn cười khi sống trong thế giới đảo lộn không trọng lực này. Giống như khoang sinh hoạt, khoang dịch vụ của người Nga có một phòng trưng bày, một nhà vệ sinh và các chỗ ngủ cho ba thành viên. Ở góc xa, cô thấy một lối ra khác.
– Lối đó có dẫn ra tàu Soyuz cũ không? – cô hỏi.
Bill gật đầu.
– Giờ chúng tôi dùng nó làm kho chứa đồ linh tinh. Đó là tất cả những gì chúng tôi có thể làm với nó. Thân tàuSoyuz đã từng được sử dụng làm thuyền cứu hộ trong trường hợp khẩn cấp, giờ quá cũ kỹ. Pin của nó đã cạn từ lâu.
Luther Ames thò đầu ra khỏi khoang dịch vụ của Nga.
– Này mọi người! Đã đến lúc trình diễn rồi đấy! Cả nhóm sẽ ôm nhau ở trung tâm hội nghị truyền thông. NASA muốn những người trả tiền thuế nhìn thấy lễ hội tình yêu của chúng ta ở trên này.
Bill thở dài mệt mỏi.
– Chúng ta như những con vật trong sở thú. Ngày nào cũng phải cười với mấy cái máy ảnh ngu ngốc.
Emma là người cuối cùng tham gia vào cuộc di cư lên khoang sinh hoạt. Khi cô đến đó, hơn mười người đã tụ tập bên trong. Trông họ như một đám tay và chân, ai cũng lắc lư, cố không va vào nhau.
Trong khi Griggs tổ chức mọi việc, Emma nán lại ở nút số một. Cô trôi trong không trung và từ từ trôi về phía mái vòm. Cảnh đẹp ngoài ô cửa khiến cô nghẹt thở.
Trái đất ở bên dưới phô bày hết vẻ đẹp của nó, một chuỗi những ngôi sao tạo thành đường viền nhẹ nhàng trên đường chân trời. Giờ họ đang đi vào chỗ tối, và ở bên dưới cô thấy những dấu ấn quen thuộc trôi dần vào bóng tối. Houston! Đó là lễ hái quả đầu tiên của họ trong đêm.
Cô cúi sát về phía cửa sổ, áp tay vào kính. Ôi, Jack, cô nghĩ, em ước anh có ở đây. Em ước gì anh có thể nhìn thấy cảnh tượng này.
Rồi cô vẫy tay. Và cô biết chắc chắn rằng ở nơi nào đó dưới màn đêm dưới kia, Jack đang vẫy tay đáp lại cô.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.