Tôi Là Con Mèo

CHƯƠNG 2 PHẦN 2



Tôi liếc nhìn mặt ông chủ và nghĩ thầm rằng, khi họ biểu diễn thì chắc sẽ rối tung rối mù lên đây. Ông chủ vẫn hỏi nghiêm túc:
– Thế những người trình diễn, ngoài anh ra còn những ai?
– Nhiều lắm ạ. Trong vai Oiran có anh K, cử nhân luật. Anh ta để râu nhưng lại nói giọng con gái nhõng nhẹo, nghe hơi buồn cười. Lại có cả chỗ Oiran nấc nữa.
Ông chủ lo lắng hỏi:
– Đọc ngâm mà cũng phải nấc à?
– Vâng, dù sao sự biểu hiện tình cảm là rất quan trọng mà!
Anh Tofu lúc nào cũng mang tính chất chuyên môn.
– Vậy nấc có đạt không?
Ông chú đã thốt lên được điều mấu chốt. Anh Tofu cũng thở ra một điều quan trọng:
– Riêng việc nấc thì lần đầu nên hơi khó.
– Thế cậu thì sắm vai gì?
– Em là người lái đò.
– Sao, cậu là lái đò à?
Giọng ông chủ như muốn bộc bạch rằng, nếu anh làm được lái đò thì chắc là tôi cũng có thể đóng được vai người bảo vệ lắm! Cuối cùng ông nói thẳng, không cần ngoại giao, khách sáo:
– Cậu sắm vai người lái đò thì khó đạt yêu cầu lắm nhỉ?
Anh Tofu cũng không tỏ ra bị chạm nọc gì cả, vẫn nói giọng từ tốn:
– Cái vai lái đò đó chẳng được diễn mấy, mà tiếc là đã kết thúc một cách “đầu voi đuôi chuột” mất. Chả là, ở gần hội trường đó có bốn năm cô nữ sinh trọ học. Không biết nghe ai nói mà các cô ấy biết hôm đó có buổi đọc ngâm, nên đến đứng nghe ngấp nghé ngoài cửa. Khi em cầm mái chèo, vừa làm điệu bộ bắt nhịp vừa nghĩ bụng thế này sẽ tốt đây… nghĩa là làm điệu bộ hơi quá một chút thì các cô cười phá lên. Thế là em giật mình, làm sai hết, sau đó không thể nào làm tiếp được nữa. Kết cục đành giải tán giữa chừng.
Đấy, lần đầu tiên nói là đã thành công mà như vậy. Còn nếu bảo là đã thất bại thì không biết nó thế nào nhỉ? Cứ tưởng tượng mà không nhịn được cười. Tự nhiên từ cuống họng tôi bật ra tiếng “gừ, gừ”. Ông chủ lại nhẹ nhàng vuốt đầu cho tôi. Cười người khác mà lại được thương yêu thì tốt rồi. Nhưng dẫu sao tôi cũng cảm thấy hơi vô duyên thế nào ấy.
– Thật chả ra làm sao!
Ngày đầu năm mới mà ông chủ đã đọc điếu từ như vậy.
– Chúng em định rút kinh nghiệm, từ lần thứ hai trở đi sẽ làm đàng hoàng hơn, hoành tráng hơn. Hôm nay em đến đây cũng là vì thế. Nghĩa là muốn mời thầy vào Hội để góp sức thêm cho Hội.
Ông chủ ngay lập tức tiêu cực từ chối:
– Tôi thì không thể biết nấc đâu.
– Không, không nấc cũng được. Đây là danh sách những người tán thành, ủng hộ…
Ông khách vừa nói vừa giở chiếc khăn gói màu tím, nâng niu, trân trọng lấy ra cuốn sổ cỡ giấy Gokiku[20]. Anh ta giở cuốn sổ ra trước đầu gối ông chủ, nói:
– Xin thầy ký tên và đóng dấu vào chỗ này.
Tôi nhìn vào sổ, thấy hàng loạt tên các văn nhân, tiến sĩ nổi tiếng được liệt kê đủ cả.
– Sao lại có danh sách người ủng hộ à? Thế người ủng hộ thì có nghĩa vụ gì?
Xem ra ông chủ thuộc loại người rất cẩn thận.
– Nghĩa vụ thì cũng không có yêu cầu gì nhất định cả, chỉ cần ghi tên và bày tỏ ý chí ủng hộ là được thôi ạ.
– Nếu vậy thì tôi cũng vào.
Vừa mới nghe không phải có nghĩa vụ gì là ông chủ thoải mái ngay, vẻ mặt ông thể hiện ý chí nếu biết rằng không phải chịu trách nhiệm gì thì dẫu có ký tên vào bản liên minh lật đổ nhà vua, ông ta cùng sẵn sàng. Hơn nữa, được ghi tên vào danh sách cùng với những nhà học giả nổi tiếng thế này đối với ông là một vinh dự quá lớn mà từ trước tơi nay chưa bao giờ có được cơ hội. Cho nên ông hăng hái cũng là phải.
– Xin lỗi, chờ một chút.
Ông nói và đi vào phòng sách để lấy con dấu. Tôi bị ném tọt xuống sàn. Tofu thò tay nhón bánh kasutera trong hộp, cho đầy vào mồm rồi nhai lúng búng một chập, trông rất khổ sở. Nhìn cảnh này làm tôi nhớ lại vụ zoni sáng nay… Khi ông chủ cầm con dấu từ phòng sách đi ra thì bánh đã được nằm yên vị trong bụng anh Tofu rồi. Chắc ông chủ không biết là thiếu một miếng kasutera trong hộp bánh đâu. Ông ta mà biết thì người bị nghi ngờ đầu tiên sẽ là tôi đấy!
Sau khi Tofu về rồi, ông chủ đi vào phòng sách, nhìn trên bàn thấy bức thư của thầy Meitei đã để đó từ bao giờ. “Xin kính chúc năm mới…”. Ông chủ nghĩ bụng “gớm sao mà có vẻ nghiêm trang hiếm thấy quá!”. Thư của Meitei thì chẳng bao giờ có được lá nào viết nghiêm túc. Chỉ toàn mấy cái thư với nội dung đại loại kiểu: “Sau đó thì cái người con gái đã từng yêu tha thiết ấy cũng không đến nữa. Cũng không còn những bức thư tình, thầm yêu, trộm nhớ gì nữa. Dần dần rồi ngày tháng cũng trôi qua. Vả lại cũng phải để cho lòng được xa lánh, nguôi quên…” Vậy mà tấm bưu thiếp chúc mừng năm mới này lại viết nghiêm túc tử tế, khác hẳn những bức thư ấy.
“Đệ cũng muốn đến thăm nhà huynh lắm, nhưng mong đại huynh thông cảm cho. Ngược với chủ nghĩa tiêu cực của đại huynh, đệ đây theo phương châm hết sức cố gắng tích cực. Do vậy, với ý định đón một cái tết xưa nay chưa từng có, ngày nào đệ cũng bận đến chóng mặt…”
– Phải rồi, tay này thì tết chính là dịp để chơi bời thử sức, nên bận là phải.
Trong thâm tâm, ông chủ đồng ý với Meitei như vậy.
“… Hôm kia được một chút rảnh rỗi, đệ nghĩ phải đưa anh Tofu đi thưởng thức món tochimenbo, nhưng tiếc là hết nguyên liệu nên không thực hiện được, thật vô cùng không may… ”
Ông chủ lặng lẽ cười mỉm:
– Lại bắt đầu chứng nào tật ấy rồi đây!
“Ngày mai thì có hội Lá bài Karuta của một ông Nam tước. Ngày kia thì tiệc năm mới của hội mỹ học. Ngày hôm sau đó thì hội chào mừng giáo sư Toribe. Rồi hôm sau đó… ”
– Rõ thật lắm chuyện.
Ông chủ bỏ qua, đọc lướt đi.
“Như đã nói ở trên, mấy hôm nay liên tiếp đệ phải tham dự các cuộc hội họp, nào là hội giao khúc, hội bài cú, hội đoản ca, hội thơ mới… nên thay vì đến nhà chúc tết đại huynh, đệ đành phải dùng bưu thiếp này, mong đại huynh rộng lượng thứ lỗi… ”
Ông chủ đáp lời với lá thư:
– Chẳng cần đến cũng được.
“Lần sau huynh đến chơi, đã lâu lắm chưa chiêu đãi huynh, đệ muốn mời huynh dùng cơm tối. Nhà nghèo, không có cao lương mỹ vị gì, nhưng ít nhất, đệ cũng chuẩn bị sẵn món tochimenbo… ”
Ông chủ hơi nhăn mặt, tức giận:
– Lại tochimenbo. Đồ bố láo.
“Có điều là món này dạo này hết nguyên liệu. Nếu trường hợp chuẩn bị không kịp thì sẽ thay bằng món lưỡi chim công.”
– Chơi xỏ nhau đây.
Ông chủ nói và muốn đọc tiếp.
“Như ai cũng biết, lưỡi một con công thì chỉ được một mẩu thịt bằng đầu ngón tay út. Đế đủ cho cái dạ dày ăn khỏe của đại huynh… ”
– Đồ láo toét.
Ông chủ nói như hát đi.
“… thì phải bắt vài ba chục con công. Nhưng các vườn động vật hay các nhà hàng chim cảnh ở Asakusa thì mới thấy lác đác có công, chứ những cửa hàng bán chim bình thường không thấy có, nên tìm vất vả lắm… ”
– Ai khiến. Tự mình đi chuốc lấy vất vả. – Ông chủ chẳng mảy may biết ơn tẹo nào.
“Món lưỡi công này là món rất thịnh hành thời La Mã cổ đại. Xin huynh hiểu cho là phải hào hoa, phong nhã hay khi thèm lắm người ta mới dám ăn đấy… ”
– Hiểu cái gì, đồ dở hơi. – Ông chủ cười nhạt.
“… cho đến thế kỷ 16, 17, khắp châu Âu, công là món ăn ưa thích không thể thiếu trong các cuộc yến tiệc. Còn nhớ, khi Bá tước Leicester mời nữ hoàng Elizabeth đến chơi ở Kenilwarth cũng đã dùng món này. Trong bức tranh “Yến tiệc” của họa sĩ nổi tiếng Rembrandt cũng có con công xòe đuôi trên bàn tiệc… ”
Ông chủ ca cẩm: “Có thời gian viết được cả lịch sử món lưỡi công như vậy thì làm gì mà đến nỗi bận rộn thế?”
“Quả thật là gần đây đệ đã nghĩ một người dạ dày yếu như đại huynh thì nếu có chiêu đãi gì, nhất định phải thử… ”
Ông chủ lại làu bàu “Như đại huynh là rách việc. Chẳng can phải lấy tôi làm tiêu chuẩn đánh giá dạ dày như vậy đâu.”
“Theo các nhà sử học thì người La Mã một ngày mở tiệc tới 2, 3 lần. Trong một ngày mà ăn cao lương mỹ vị đến 2, 3 lần như vậy thì dẫu người có dạ dày khỏe đến mấy cũng loạn kỹ năng tiêu hóa, huống hồ như đại huynh… ”
– Lại như đại huynh à, láo thật!
“… Nhưng, là những nhà nghiên cứu, mong tìm cách cân bằng giữa xa xỉ với vệ sinh, họ thấy cần phải làm thế nào để vừa có thể cứ ăn thật nhiều cao lương mỹ vị vừa vẫn giữ được dạ dày bình ổn, họ đã đưa ra một bí quyết… ”
– Kỳ lạ nhỉ!
Tự nhiên ông chủ trở nên hào hứng.
“Sau khi ăn, bao giờ họ cũng tắm. Sau khi ngâm mình trong nước, họ thực hiện một phương pháp tổng vệ sinh dạ dày, bằng cách nôn ọe tất cả những cái đã nuốt vào bụng ra. Sau khi đã làm sạch dạ dày, lấy lại sức khỏe cho thành ruột, họ lại ngồi vào bàn tiệc, thưởng thức thoải mái những của ngon vật lạ. Sau đó lại ngâm mình trong nước, rồi lại nôn ọe. Làm như vậy thì tha hồ ngốn bao nhiêu thức ăn ngon, bổ mà các cơ quan tiêu hóa vẫn chẳng mảy may bị ảnh hưởng gì. Đây đúng là một phương pháp hành động “nhất cử lưỡng tiện” (một công đôi việc), chứ không phải là gì khác… ”
– Ừ, quả là nhất cử lưỡng tiện thật. – Ông chủ tỏ ra khâm phục và ngưỡng mộ phương pháp đó.
“Đệ có thể đầy tự tin mà nói rằng, ở thể kỷ 20 này, giao thông đi lại phát triển, tiệc tùng yến hội tăng lên là chuyện không cần phải nói nữa. Rồi thì, sau hai năm binh lửa chiến tranh, vất vả, bận rộn, bây giờ nhất định đã đến lúc, nhân dân của đất nước thắng trận chúng ta phải học tập người La Mã phải nghiên cứu cái kỹ thuật tắm và mửa này. Nếu không thì trong tương lai không xa, nhân dân của một cường quốc hiếm lạ này, ai cũng bị mắc chứng đau dạ dày hết như đại huynh thì thật đau lòng… ”
– Lại “như đại huynh” nữa à? Cái thằng chỉ chuyên chọc tức người khác. – Ông chủ nghĩ bụng.
“Gần đây, những người thông thạo, am hiểu Tây phương chúng ta đã khảo cứu những truyền thuyết cổ sử, phát hiện ra những bí quyết, những phương pháp đã bị hủy bỏ để ứng dụng cho xã hội Minh Trị. Họ thật là có công trong việc ngăn chặn mầm mong tai họa cho tương lai. Mai sau, nếu được sống thoải mái với mọi khoái lạc hàng ngày, hẳn chúng ta phải nhớ công ơn họ lắm!.. ”
Ông chủ ngoẹo cổ, vẻ khó hiểu.
“Vì vậy, gần đây đệ có tìm đọc các tài liệu, sách vở của các tác giả Gibbol, Mommsen, Smith… nhưng thật đáng tiếc, vẫn chưa tìm ra đầu mối của các phát minh. Nhưng, như đại huynh đã biết, đệ là người một khi đã định làm cái gì thì quyết không bao giờ bỏ cuộc giữa chừng, nếu chưa thành công đâu. Vì vậy, đệ tin rằng việc chấn hưng lại phương pháp mửa này chắc cũng không còn xa nữa. Những chuyện này, nếu phát hiện được đến đâu, đệ sẽ xin báo cáo. Mong đại huynh cứ yên tâm. Còn món Tochimenbo và món lưỡi công mà đệ vừa nói thì đế khi nào phát hiện ra các bí quyết của nó, ta sẽ dùng. Như vậy tiện cho hoàn cảnh của đệ, mà cũng tiện cho người yếu dạ dày như đại huynh nữa. ”
Ông chủ cười, nói lẩm bẩm: “Thế là cuối cùng mình bị lừa à? Nó viết nghiêm chỉnh quá, thành ra mình cứ thành thật đọc cho đến hết. Mới đầu năm mới mà đã tếu táo thế này thì cái tay Meitei này cũng rỗi rãi thật.”
Bốn năm ngày sau đó không có chuyện gì đặc biệt. Những cây thủy tiên trong bình sứ trắng dần dần héo đi. Những nhành mai tía cũng dần dần nở hoa. Cứ suốt ngày nhìn những thứ đó cũng chán, tôi đi tìm gặp Tam Mao mấy lần nhưng không gặp. Lần đầu tưởng Tam Mao đi vắng, nhưng lần thứ hai thì biết là nàng đang ốm, nằm trong nhà. Nấp sau chậu hoa Điệp lan, nghe bà thầy dạy đàn và cô hầu gái nói chuyện sau khung cửa, tôi đã biết được như vậy.
– Tam Mao có ăn được không?
– Không, từ sáng đến giờ chưa ăn gì cả. Cháu đã cho nó nằm gần lò sưởi cho ấm.
Chả có vẻ mèo gì cả. Được đối xử cứ như là người vậy. Tôi nghĩ đến tình cảnh của mình mà phát ghen lên. Song mặt khác, thấy con mèo mà mình thương yêu được đối xử hậu hĩnh như vậy thì tôi cũng vui.
– Gay quá nhỉ, không ăn uống gì thì người cứ yếu mãi đi mất thôi.
– Vâng, đúng thế đấy ạ. Ngay cả cháu mà một ngày không ăn thì hôm sau cũng không thể làm gì được.
Người hầu gái nói cứ như mèo là động vật cao cấp hơn mình vậy. Có thể thực tế trong cái nhà này, mèo được quý hơn người hầu gái cũng nên.
– Đã đưa nó đi bác sĩ khám chưa?
– Vâng, đã đi rồi ạ. Cái ông bác sĩ ấy thật kỳ. Cháu bế mèo vào phòng khám thì ông ấy lại hỏi bị cảm à và định bắt mạch cho cháu. Cháu bảo bệnh nhân không phải là tôi mà là con mèo này, rồi đặt mèo ngồi lại trong lòng mình. Ông ta cười hề hề, bảo bệnh của mèo thì tôi không biết chữa, cứ để kệ nó, tự nó khắc khỏi thôi. Thật là quá đáng. Cháu tức quá, bảo thế thì thôi, không cần khám cũng được. Đây là con mèo rất quý hóa của chúng tôi đấy. Nói rồi cháu bỏ Tam Mao vào bọc, mang về.
– À, đúng nhỉ!
“Đúng nhỉ” là thứ ngôn ngữ tôi không bao giờ nghe thấy ở nhà mình. Có lẽ chỉ có cái bà là gì gì của Thiên Chương Viện này là mới dùng thôi. Quả là sang trọng, tôi hết sức khâm phục.
– Nó sụt sà sụt sịt như là nói cái gì ấy.
– Vâng, chắc là bị cảm nên đau cổ họng đấy. Ngài nào mà bị cảm thì cũng đều bị ho cả mà.
Chỉ có mỗi người hầu gái của gì gì đó của Thiên Chương Viện là ra sức dùng lời kính cẩn.
– Nghe nói gần đây có cái bệnh phổi gì đấy mà!
– Vâng, đúng là không bao giờ như bây giờ, gần đây phát sinh toàn những bệnh mới, nào là bệnh lao, nào là dịch hạch, không thể lơ là được đâu ạ.
– Những thứ mà thòi Mạc phủ ngày xưa không có, thì không thể có cái gì là tử tế đâu. Cô cũng phải cẩn thận đấy.
– Vâng, đúng thế đấy ạ! – Người hầu gái tỏ vẻ rất xúc động.
– Nó có đi đâu đâu mà lại bị cảm thế nhỉ?
– Không ạ, thưa bà, gần đây cô ấy có bạn, một người bạn rất xấu đấy ạ!
Người hầu gái có vẻ đắc ý như đang nói đến một vấn đề đại sự quốc gia vậy.
– Bạn xấu nào vậy?
– Vâng ạ, một con mèo đực bẩn thỉu, ở nhà cái ông giáo ngoài phố lớn ấy ạ.
– Ông giáo là cái người mà sáng nào cũng la lên những tiếng nghe mất lịch sự ấy à?
– Vâng ạ. Cái người mà mỗi lần rửa mặt lại hét như con ngỗng bị bóp cổ ấy ạ.
Nghe thấy “như tiếng ngỗng bị bóp cổ” thì thật là một hình dung tuyệt giỏi. Ông chủ của tôi có thói quen mỗi khi rửa mặt, súc miệng trong nhà tắm lại lấy tăm chọc vào cổ họng, vô tư phát ra những tiếng kêu nghe kỳ quái. Những lúc ông khó chịu thì càng ầm ĩ hơn. Và cả khi phấn khởi, hứng lên lại càng ngậu xị nữa. Tức là khi ông bực tức hay phấn khởi, đều gầm gào rất hăng.
Theo bà chủ, vợ ông, thì trước khi dọn đến ở đây, ông không có cái tật này. Nhưng rồi một hôm, ông bỗng phát ra những tiếng như vậy và cho đến bây giờ, không có một ngày nào là không phát nữa. Thật là một thói quen phiền hà mà không hiểu sao ông cứ nhiệt tình giữ mãi như thế. Loài mèo chúng tôi quả thật không thể tưởng tượng nổi. Chuyện đó thì thôi, cho qua cũng được. Nhưng khi nghe thấy lời đánh giá rất xấu rằng “con mèo bẩn thỉu” thì tôi vội dỏng tai lên nghe tiếp:
– Gầm gào như vậy, chắc là bị trù ám, nguyền rủa gì đó cũng chưa biết chừng đâu. Thời trước duy tân, dù cho là con ở hay đầy tớ xách dép gì thì cũng đều có những phép tắc của nó cả. Chẳng có ai mà lại có cái kiểu rửa mặt như vậy giữa một con phố toàn những người khá giả cả.
– Đúng thế đấy ạ.
Người hầu gái tỏ ra rất cảm kích, cấi gì cũng “ạ, ạ.”
– Một con mèo mà có ông chủ như vậy thì chắc là mèo hoang. Lần sau, nó mà đến thì quật cho nó mấy cái vào!
– Vâng, nhất định cháu sẽ đánh. Con Tam Mao bị bệnh cũng hoàn toàn do nó chứ sao. Nhất định phải đánh nó mới được.
Thật oan uổng vô cùng. Không thể đến gần cái mụ đàn bà này được, tôi đành đi về mà không gặp được Tam Mao.
Về đến nhà, thấy ông chủ đang ở trong phòng sách, tay cầm bút, nghĩ ngợi trầm ngâm cái gì đó. Tôi mà nói cho biết những lời bình phẩm về ông, nghe được ở nhà bà thầy dạy đàn kia, thì chắc ông sẽ cáu tiết lên đấy. Nhưng mà “ngu si hưởng thái bình”[21] nên tôi ậm ừ, để mặc cho ông trở thành một thi nhân thần thánh. Vừa lúc đó, ông Meitei, cái người gửi thiếp chúc tết, nói là bận lắm không đến được ấy, lại lù lù hiện ra.
– Cậu đang sáng tác thơ mới đấy à? Làm được bài nào hay chưa, cho tôi xem với nào.
Ông ta nói. Ông chủ nặng nhọc đáp:
– À, có bài này thấy hay, tôi đang định dịch đây.
– Bài, bài của ai?
– Chả biết của ai cả.
– Vô danh à? Bài vô đanh cũng có nhiều cái hay lắm đấy, không thể coi thường được đâu. Đại để cậu lấy ở đâu ra vậy?
Ông ta hỏi. Ông chủ lấy bình tĩnh trả lời:
– Trong tạp chí “Độc bản số II.”
– Độc bản số II à? Độc bản số II làm sao?
– Những bài văn nổi tiếng mà tôi đang dịch là ở trong đó mà.
– Đừng có đùa nhé. Kiểu này chắc đang định trả đũa cái vụ lưỡi công đây!
Ông chủ thản nhiên vuốt râu, nói:
– Tôi không phải cái đồ bốc phét như cậu.
– Ngày xưa có người hỏi ông Sanyo (Sơn Dương), thưa thầy, gần đây thầy có bài viết nào nổi tiếng không ạ? Ông ta bèn chỉ cái giấy đòi nợ của người đánh ngựa viết mà bảo “văn chương gần đây thì nổi tiếng nhất là bản này đây”. Đấy, đại loại là có chuyện như vậy. Biết đâu con mắt thẩm mỹ của cậu lại bất ngờ chính xác đấy. Đâu, đọc lên xem nào, tôi sẽ đánh giá cho.
Thầy Meitei nói như một nhà thẩm mỹ chính hiệu. Ông chủ cất giọng đọc, nghe như một vị thiền sư đọc lời răn của Đại đăng quốc sư:
– Cự nhân dẫn lực.
– Cái gì? Cự nhân dẫn lực nghĩa là gì?
– Đầu đề là “Cự nhân dẫn lực”.
– Đầu đề kỳ lạ nhỉ? Tôi chà hiểu nghĩa là thế nào cả.
– Ý định nói là “người khổng lồ có tên là sức kéo”.
– Một cái “định” khó ghê nhỉ. Nhưng thôi, đầu đề thì cho qua. Nào đọc vào bài đi. Tiếng cậu tốt, nghe hay lắm.
– Không được phá quấy đâu đấy!
Ông chủ nói và lấy lại giọng, bắt đầu đọc:
“Keith nhìn qua cửa sổ. Những đứa trẻ đang chơi đánh cầu. Chúng tung những quả cầu lên cao. Những quả cầu bay lên, bay lên. Một lúc sau thì rơi xuống. Chúng lại tung những quả cầu lên. Tung đi tung lại: hai ba lần. Mỗi lần tung lên, quả cầu lại rơi xuống. Tại sao lại rơi xuống? Tại sao những quả cầu không chỉ bay lên? Keith hỏi. Mẹ trả lời: “Bởi vì trong lòng đất có người khổng lồ. Đó là người khổng lồ có tên là Sức kéo. Ông ta rất khỏe, ông ta kéo vạn vật về phía mình. Ông ta kéo mái nhà về mặt đất. Nếu không kéo thì mái nhà bay đi. Những đứa trẻ cũng bay đi. Con nhìn thấy những chiếc lá rụng kia rồi chứ? Đó là do người khổng lồ “Sức kéo” gọi đấy. Và có khi quyển sách cũng rơi, đúng không nào? Là bởi vì người khổng lồ Sức kéo bảo nó “lại đây”. Quả cầu bay lên không trung, người khổng lồ Sức kéo gọi lại. Gọi lại nên nó rơi xuống!”
– Hết rồi hả?
– Ừ. Được đấy chứ?
– Ôi, cái này đáng sợ thật. Không ngờ món Tochimenbo lại được đáp lễ ở đây.
– Không phải đáp lễ đáp lủng gì cả. Quả thật, tôi thấy hay thì dịch thôi. Cậu có thấy thế không?
Ông chủ nói và nhìn sâu vào đôi mắt phía sau đôi kính gọng vàng.
– Thật kinh ngạc. Không ngờ cậu lại cao tay thế này. Lần này hoàn toàn chịu. Xin hàng. Xin hàng.
Ông ta tự giác ngộ, tự nói một mình như vậy. Những lời nói hoàn toàn không đến tai ông chủ.
– Tôi không hề có ý định bắt cậu phải đầu hàng. Chỉ là thấy hay thì dịch thôi.
– Ổ, thực tế là rất hay. Nếu không như vậy thì không phải thử thiệt. Ghê quá! Sợ thật!
– Không đến nỗi phải sợ thế đâu. Gần đây tôi bỏ vẽ tranh thuốc nước rồi nên định viết lách cái gì chăng.
– Không thể so sánh với tranh thuốc nước, loại hình không có sự khác nhau giữa gần với xa, màu trắng hay màu đen đều bình đẳng được. Đáng khâm phục hết mức rồi.
– Được khen đến thế thì tôi cũng vui lắm.
Ông chủ, mãi mãi vẫn cứ lầm lẫn.
Vừa lúc đó thì anh Kangetsu bước vào, vừa đi vừa “xin lỗi, hôm trước đã làm phiền”.
Thầy Meitei nói lấp lửng:
– À, xin chào! Bây giờ được nghe một áng văn tuyệt vời, đã xua đuổi được vong hồn của tochimenbo rồi!
– Hả? Thế à?
Và đây lại có thêm một lời đáp vô nghĩa, khó hiểu nữa. Có lẽ không phải chỉ có một mình ông chủ đang cao hứng.
– Hôm trước, cái người tên là Ochi Tofu mà cậu giới thiệu, đã đến đây đấy.
– Ồ, đến rồi à? Cái cậu Ochi Kochi ấy là người rất thật thà nhưng phải cái hơi hâm hâm. Em sợ sẽ làm phiền thầy, nhưng mà cậu ta cứ nhất định đòi giới thiệu…
– Không, chẳng có gì phiền cả.
– Cậu ta đến đây, có giải thích gì về cái tên họ của mình không?
– Không, không nói gì về chuyện đó cả.
– Thế à? Cậu ta có thói quen đi đâu, gặp ai lần đầu tiên cũng giải thích về cái tên của mình.
Như chỉ chờ có thế, Meitei xen vào:
– Giải thích như thế nào?
– Cái từ Tofu (Đông Phong – gió đông) ấy, cậu rất thích đọc theo âm (tiếng Nhật) là Kochi.
– Lạ nhỉ!
Thầy Meitei nói và nhón từ trong túi đựng thuốc bằng da, có vân kim tuyến ra một nhúm sợi thuốc lá.
– Cậu ta bảo, tên tôi không phải là Ochi Tofu mà dứt khoát phải là Ochi Kochi cơ.
– Kỳ quá nhỉ.
Ông thầy nói và nuốt khói thuốc Kumoi vào tận bụng.
– Cái này hoàn toàn là do lòng say mê văn học mà ra. Đọc là Kochi thì nghe ra thành ngữ “gần xa”. Không những thế cậu ta còn rất hãnh diện về cái tên họ có vần điệu nữa. Cậu ta phàn nàn rằng “nếu đọc theo âm Hán là Tofu thì mọi người chẳng hề hiểu cho cái dụng ý rất công phu không dễ gì có được của tôi cả”.
– Thế thì đúng là hơi hâm thật.
Meitei nói và cao hứng nhả khói thuốc Kumoi từ trong bụng ra đằng mũi. Giữa đường, khói bị lạc, chui ra đằng mồm. Ông thầy cầm tẩu, ho sù sụ. Ông chủ cười, nói:
– Hôm trước đến đây, anh ta nói là đã đóng vai người lái đò, trong đêm biểu diễn của Hội đọc ngâm văn học, rồi bị các cô nữ sinh cười đấy.
– À, cái đó, cái đó…
Thầy Meitei nói, tay gõ gõ cái tẩu vào đầu gối. Tôi cảm thấy nguy hiểm nên lùi xa ra một chút.
– Cái hội đọc ngâm ấy, khi chúng tôi thưởng thức món Tochimenbo hôm trước, cậu ta cũng nói đên. Cậu ta bảo, lần thử hai tổ chức, chúng em định thế nào cùng phải mời những văn sĩ nổi tiếng. Vì vậy nhất định mong được “thầy” thế nào cũng tham dự. Tôi hỏi, lần sau sẽ diễn vở “Trò đời” của Chikamatsu à? Cậu ta bảo không, lần này sẽ chọn vở mới, vở “Kim sắc dạ xoa”. Tôi hỏi thế cậu sẽ sắm vai nào? Cậu ta bảo vai Omiya. “Omiya Tofu” thì thú vị thật. Tôi định là nhất định sẽ đi xem để vỗ tay cổ võ đấy.
– Chắc là sẽ hay đấy!
– Nhưng cậu ấy là người thật thà, không có gì xấu nên không sao cả. Khác hẳn cái loại như Meitei.
Ông chủ nói để cùng một lần trả thù luôn cả vụ A. Sarto lẫn vụ lưỡi chim công và tochimenbo. Ông Meitei dường như không để ý, cười:
– Bởi vì tôi thì dẫu sao cũng chỉ có tư cách của “chiếc bàn xúc hến Gyotoku”[22] thôi mà!
– Xem ra có lẽ đúng thế đấy.
Ông chủ nói, nhưng thực ra ông cũng chẳng hiểu “chiếc bàn xúc hến Gyotoku” nghĩa là gì. Nhưng vì lâu năm làm nghề dạy học, quen nói lấp liếm, đánh trống lảng nên trong trường hợp này, ông cũng áp dụng kinh nghiệm môi trường giáo dục vào môi trường giao tiếp xã hội.
Kangetsu hỏi một cách thành thật:
– Cái bàn xúc hến Gyotoku là cái gì?
Ông chủ nhìn sàn nhà, đánh trống lảng:
– Cái hoa thủy tiên kia, dạo cuối năm ngoái, trên đường đi tắm về, tôi mua về cắm mà tươi lâu thế đấy.
– Lại nói đến cuối năm ngoái. Cuối năm ngoái, tôi đã gặp một chuyên rất là ly kỳ.
Meitei vừa nói vừa xoay xoay cái tẩu trên tay như xiếc Daikagura[23].
– Chuyện gì vậy? Nói cho nghe với nào.
Ông chủ có vẻ định gạt phắt chuyện “cái bàn hến” sang một bên nên hào hứng bắt chuyện. Nghe cái gọi là chuyện ly kỳ của thầy Meitei thì nó là thế này:
‘Tôi nhớ rõ là vào ngày 27 cuối năm ngoái, vì có hẹn trước mời ngài Tofu của chúng ta đến chơi để muốn nhân đó nghe thầy nói về văn nghệ, nên tôi phải ở nhà. Thế là tôi dài cổ chờ suốt từ sáng mà mãi chẳng thấy thầy ấy đến. Tôi ăn trưa xong, đang nằm cạnh lò sưởi, đọc truyện cười Barry Pain[24] thì có thư của mẹ tôi từ Shizuoka gửi đến. Đọc thư mới thấy, chỉ những người già là lúc nào cũng coi tôi như trẻ con. Mẹ tôi nhắc nhở nào là đang mùa rét, ban đêm không được đi ra ngoài, nào là tắm nước lạnh cũng được nhưng trước khi tắm phải đốt lò sưởi cho ấm nhà lên rồi hãy tắm, không sẽ cảm đấy… Thế đấy! Cha mẹ thật là đáng quý. Chứ người ngoài thi có ai nhắc nhở cho như vậy đâu. Một kẻ lông bông, bất cẩn như tôi cũng phải cảm động. Ấy thế mà nếu cứ sống lêu lổng thế này mãi thì rất phí. Phải sáng tác một cái gì đó, một tác phẩm lớn, làm sáng danh gia đình mới được. Tôi có ý định là trong lúc mẹ còn sống, phải cho thiên hạ biết rằng có mặt thầy Meitei này trong văn đàn Minh Trị đây. Sau đó, tôi đọc tiếp thư thì mẹ tôi viết rằng mày thật là sướng, trong khi cuộc chiến tranh với Nga đã nổ ra, bao nhiêu thanh niên phải vất vả cho tổ quốc thì mày, ngay cả những ngày cuối năm bận rộn này cũng vẫn nhởn nhơ chơi bời như ngày tết. Nào có phải tôi chơi bời như mẹ tôi nghĩ đâu. Sau đó mẹ tôi liệt kê một loạt tên các bạn tôi từ thời tiểu học, những người mà kẻ thì chết, người thì bị thương do chiến tranh. Đọc từng cái tên đó, tôi cảm thấy đời thật vô vị, con người ta thật là chán! Cuối cùng, mẹ tôi viết nghe rất tội nghiệp rằng tao cũng già rồi, có lẽ ăn cái tết này cũng là tết cuối cùng thôi.
Tôi càng đọc càng thấy buồn chán, chỉ mong sao anh Tofu đến mau cho nhưng chẳng thấy thầy ấy đâu cả. Thế rồi đã đến bữa cơm tối. Tôi nghĩ phải viết thư trả lời cho mẹ và viết được khoảng 12, 13 dòng. Thư của mẹ tôi thì dài đến 6 tấc, nhưng tôi thì không thể có tài năng như vậy, bao giờ cũng chỉ trên dưới độ chục dòng, bao gồm cả những lời xin lỗi. Thế rồi cả một ngày không nhúc nhích, dạ dày thấy ấm ách, tôi nghĩ nếu Tofu mà đến thì cho hắn đợi và tôi ra bưu điện bỏ thư rồi đi dạo luôn.
Tôi không đi về phía phố Fujimi như mọi khi mà đi về phía Dote (phường số 3, khu bờ đê). Đêm đó trời hơi âm u. Gió từ bên kia sông thổi tới rất lạnh. Từ phía dốc Kagurazaka tàu hỏa hú còi chạy qua dưới chân đê. Buồn ơi là buồn. Trong đầu tôi, những thứ nào là cuối năm, chết trận, già lão, kiếp người mong manh… cứ quay cuồng, nhốn nháo. Tôi chợt nghĩ tới việc người ta hay treo cổ tự sát có lẽ cũng vì cái ý nghĩ muốn chết nảy sinh vào những lúc như thế này chăng? Tôi chợt ngửng lên, nhìn lên phía trên đê thì thấy mình đã tới đúng ngay dưới cái cây thông ấy từ lúc nào rồi.
– Cây thông ấy là cái gì?
Ông chủ ném ra một câu hỏi cụt lủn. Meitei kéo lại cổ áo, nói:
– Cây thông treo cổ ấy mà!
Kangetsu khơi thêm:
– Cây thông ở Konodai ấy à?
– Ở Konodai là cây thông treo chuông, còn ở khu bờ đê (Dote Sambancho) là cây thông treo cổ. Sở dĩ có cái tên này là vì, từ ngày xưa truyền lại rằng bất kỳ ai, hễ đi đến dưới cây thông ấy là đều muốn treo cổ. Trên đê có mấy chục cây thông, nhưng mà hễ cứ có vụ treo cổ nào là y như rằng đúng cây thông này. Mỗi năm thể nào cũng có hai, ba vụ. Nhất định không ai chịu chết ở cây thông khác.
Tôi nhìn kỹ, thấy cây thông này cành rủ xuống rất vừa tầm với người đi qua. Cái cành ngả vừa vặn thế kia mà cứ để không thì phí quá. Phải làm thế nào treo thử ai vào đây xem sao? Có ai đang đi đến đây không nhỉ: Tôi nhìn nháo nhác xung quanh, nhưng đáng tiếc là không có ai cả. Đành treo cổ mình lên xem chăng? Nhưng tự treo mình lên thì toi mạng mất. Nguy hiểm lắm, thôi vậy!
Nhưng ngày xưa, ở Hy Lạp có chuyện người ta chơi trò treo cổ trong các cuộc yến tiệc để cho tăng phần vui nhộn. Một người leo lên bệ, chui đau vào một nút dây đã buộc sẵn, đúng lúc đó thì một người khác đá đổ cái bệ. Đồng thời với lúc cái bệ bị đá đó ấy, người cho đầu vào thòng lọng cũng đã nói lỏng nút đây, nhảy xuống. Nếu quả có chuyện đó thật thì chẳng có gì đáng sợ cả. Tôi cũng muốn thử một lần xem sao. Tôi giơ tay, với thử cành cây thì nó cong xuống vừa đúng tầm. Cái độ cong vừa vặn, đúng tầm này quả thật là một vẻ đẹp. Cứ tưởng tượng, mình chui đầu vào đây mà đung đưa thì khoái biết bao. Tôi nhất định muốn thử, nhưng lại sợ nhỡ Tofu đến, đang đợi ở nhà thì tội nghiệp. Tôi định sẽ gặp Tofu trước, nói chuyện như đã hẹn đã, sau đó sẽ ra thử sau, thế là tôi đi về nhà.
– Thế là hết chuyện hả?
Ông chủ hỏi. Kangetsu tủm tỉm cười, khen:
– Chuyện hay đấy nhỉ.
– Tôi về đến nhà thì Tofu không đến, nhưng có bưu thiếp gửi đến, nói là hôm nay đột nhiên có việc bận, không thể đến được, xin để một hôm nào khác sẽ xin được hầu chuyện. Thế là tôi yên tâm, bây giờ mình có thể cứ vui vẻ mà treo cổ được rồi, không cần phải lo gì nữa. Tôi lập tức xỏ chân vào guốc, vội vàng quay lại chỗ lúc nãy xem thì…
Nói đến đây ông ta tỉnh bơ, nhìn mặt ông chủ và Kangetsu. Ông chủ sốt ruột hỏi:
– Quay lại thì sao?
Kangetsu nói và kéo dây buộc lại áo Haori:
– Chà chà, đến đoạn hay rồi đây!
– Quay lại thì thấy đã có ai đến trước, đang treo cổ ở đấy rồi. Chỉ chậm có một bước chân thôi mà cậu thấy không, thật đáng tiếc. Bây giờ nghĩ lại mới thấy, tất cả mọi sự lúc đó đều do tử thần quyết định cả. Nói như James[25] thì giữa thế giới u minh của tiềm thức với thế giới thực tại mà ta đang sống luôn có sự cảm ứng lẫn nhau, theo luật nhân quả. Đúng là có sự kỳ lạ thật nhỉ?
Meitei trở lại vẻ mặt tỉnh bơ. Ông chủ nghĩ mình lại bị chơi nữa rồi, không nói gì, phồng má nhai bánh. Kangetsu cẩn thận cời tro lò sưởi, cúi mặt cười tủm tỉm, rồi cuối cùng lại lên tiếng, dáng vẻ rất trầm tĩnh:
– Đúng, quả là như vậy thật! Nghe chuyện của thầy, tôi mới thấy đúng là rất lạ, hoàn toàn không thể tưởng tượng được. Chính bản thân tôi mới gần đây cũng đã trải qua, nên hoàn toàn không có nghi ngờ gì cả.
– Ô, cậu cũng đã muốn treo cổ à?
– Không, chuyện của tôi thì không phải là treo cổ, nhưng việc này cũng xảy ra vào cuối năm ngoái. Vả lại, cũng đúng ngày, giờ với chuyện của thầy nên càng thấy là kỳ lạ.
– Cái này thú vị đấy. – Meitei cũng phồng má nhai bánh dẻo, nói.
– Hôm đó, tại nhà một người quen của tôi ở Mukojima có một cuộc liên hoan cuối năm, kiêm biểu diễn văn nghệ. Tôi cũng vác cây đàn violon đến dự. Một cuộc tụ tập tương đối tưng bừng, có khoảng độ 15, 16 các bà mệnh phụ, phu nhân và các tiểu thư, cô chiêu đến dự nên tôi nghĩ đây là một dịp vui và chuẩn bị rất chu đáo. Tiệc tùng, ca nhạc xong, chỗ này chỗ kia chuyện trò rôm rả. Đêm cũng đã khuya, tôi nghĩ có lẽ nên cáo từ mà về, thì một phu nhân của một vi viện sĩ đến cạnh tôi, khẽ hỏi anh có biết gì về bệnh của cô XY không? Thực ra đó là người mà mới cách đó vài ba hôm, tôi đã gặp, thấy rất khỏe mạnh, không thể nghĩ được lại có thể có bệnh, cho nên tôi sửng sốt, hỏi kỹ lại thì được biết là ngay hôm gặp tôi đó, đêm về cô ta bị sốt cao, luôn mê sảng, nói rất nhiều. Nếu chỉ có thế thôi thì không sao. Có điều, trong những lời mê sảng kia, thỉnh thoảng lại có tên của tôi.
Ông chủ thì tất nhiên rồi, ngay cả đến thầy Meitei cũng không thấy nói những câu như mọi khi, kiểu “không rẻ tiền đâu!” mà ai nấy đều chăm chú, lễ độ lắng nghe.
– Người ta đã mời bác sĩ đến khám nhưng không biết được là bệnh gì. Bác sĩ chẩn đoán rằng: “Chỉ biết là sốt cao nên đầu óc bị rối loạn. Nếu cho uống thuốc ngủ mà không có công hiệu thì tình trạng sẽ nguy kịch”. Tôi vừa nghe thấy thế, lập tức một nỗi chán chường dâng lên, một cảm giác khó chịu như sự rên rỉ trong cơn mơ ập tới. Tôi cảm thấy như không khí xung quanh đặc quánh lại, siết chặt lấy tôi từ bốn phía. Trên đường về, đầu óc tôi chỉ nghĩ về chuyện ấy và cảm thấy ngột ngạt vô cùng… Cái nàng XY xinh đẹp ấy, khỏe mạnh ấy, trong câu chuyện vui nhộn này…!
– Xin lỗi, dừng lại một chút đã. Cái nàng có tên là XY từ nãy đến giờ nghe đã hai lần rồi. Nếu không có gì trở ngại thì xin cho biết rõ là ai đi. Cậu thấy thế có đúng không, nhỉ?
Meitei quay sang nói với ông chủ, nhưng ông chủ chỉ ậm ừ.
– Cái đó có thể làm phiền cho người ta, nên thôi, bỏ qua.
– Tất cả cứ để cho nó mờ mờ, ảo ảo mà tiến triển thôi nhỉ! Đúng không?
– Xin đừng có cười khỉnh như thế. Đây là chuyện nghiêm túc thật sự đấy… Chỉ biết là khi nghe tin phu nhân ấy tự nhiên mắc bệnh như vậy, tôi cảm thấy lòng tả tơi tan nát, toàn thân như mất hết sức lực, đâm ra u uất, rã rời, chỉ còn biết dò dẫm, lê gót đến bên cầu Azuma. Tôi dựa lan can thành cầu nhìn xuống, không biết thủy triều đang lên hay xuống, chỉ thấy nước chảy đen ngòm. Từ phía Hanakawado, một chiếc xe kéo tay tiến đến, đi qua cầu. Tôi nhìn theo, chiếc đèn lồng treo trên xe cứ nhỏ dần và mất hút chỗ (trụ sở công ty) bia Sapporo. Tôi lại nhìn xuống dòng nước và nghe thấy từ trên sông có ai gọi tên mình. Trời, vào giờ này mà có ai gọi tên tôi ư? Không thể tin được, song tôi vẫn nhìn xuống nước và chỉ thấy tối đen, không nhìn thấy gì cả. Có lẽ đây chỉ là ảo tưởng. Phải đi về ngay thôi. Tôi nghĩ thế và bước đi được vài bước thì lại nghe thấy tiếng rất nhẹ gọi tên tôi từ xa. Tôi lại đứng lại, dỏng tai lên nghe. Nghe tiếng gọi đến lần thứ ba thì tay tôi bám vào lan can cầu, đầu gối run lẩy bẩy. Tiếng gọi đó không biết từ xa vọng lại hay từ hay từ đáy sông vọng lên, nhưng rõ ràng là tiếng của XY, không lẫn vào đâu được. Tôi bất chợt cất tiếng thưa “ơi”. Tiếng thưa rất to, vọng trên mặt nước yên tĩnh khiến tôi phải giật mình vì chính nó và hốt hoảng nhìn xung quanh. Chẳng thấy người nào, chó nào. Trăng cũng không. Lúc đó tôi đã bị cuốn vào trong “đêm tối” mà đùng đùng muốn đi đến chỗ có tiếng gọi ấy. Tiếng cô XY vẫn vẳng vào tai tôi như đau đớn, như mách gọi, như cầu cứu, nên lần này tôi đáp “tôi sẽ đến ngay đây!”, rồi nhoài nửa người ra ngoài lan can, nhìn xuống dòng nước đen ngòm. Tôi đinh ninh là tiếng gọi tôi vọng lên từ dưới lớp sóng, cố tình vọng lên tư dưới làn nước này đây. Tôi nghĩ thế và đã leo hẳn lên lan can, quyết tâm nếu lần này nghe tiếng gọi thì sẽ nhảy xuống. Tôi đang nhìn dòng sông thì tiếng bi thương lại vọng lên như một sợi chỉ. ‘‘Chính nó đây!”, Tôi thầm nghĩ và dồn sức nhảy lên, rồi rơi xuống như một hòn đá cuội, không hề mảy may lưu luyến gì cả.
– Cuối cùng đã nhảy thật à?
Ông chủ trợn mắt hỏi. Meitei tay vuốt mũi nói:
– Tôi không nghĩ đến mức ấy đâu.
– Sau khi nhảy xuống rồi, tôi lặng đi một lúc lâu, không còn biết gì nữa. Khi tỉnh lại thì thấy lạnh nhưng không bị ướt gì cả, mà cũng không có cảm giác là đã uống nước. Đúng là tôi đã nhảy thật mà. Lạ quá! Thấy kỳ lạ, tôi mới nhìn ra xung quanh thì giật mình. Tôi định nhảy xuống nước nhưng hóa ra lại nhảy vào giữa cầu. Thật chán quá! Chỉ vì nhầm lẫn phía trước với phía sau mà tôi đã không đi được đến chỗ tiếng gọi ấy.
Kangetsu cười hề hề và bận bịu với cái áo khoác Haori.
– Ha ha ha… chuyện này hay thật. Giống hệt trường hợp tôi cũng đã gặp thì thật là kỳ lạ. Đây sẽ là tư liệu cho giáo sư James đây. Nếu viết lại câu chuyện này hoàn toàn đúng như sự thực, thành một tác phẩm có nhan đề là “Cảm ứng của con ngưcri” thì nhất định sẽ làm kinh ngạc văn đàn đấy… Thế bệnh tình của cái cô XY ấy sau đó thế nào? – Thầy Meitei còn truy thêm.
– Cách đây vài ba hôm, đầu năm mới tôi đến chơi thì thấy đang đánh cầu với cô hầu gái ở trước cổng, trông có vẻ như bệnh tình đã khỏi hẳn.
Ông chủ suốt từ đầu đến giờ yên lặng, đến đây thì lên tiếng, tỏ ra không chịu thua:
– Tôi cũng có một câu chuyện.
– Có chuyện là chuyện gì?
Trong con mắt Meitei, một người như ông chủ thì tất nhiên không thể có chuyện gì được.
– Chuyện của tôi cũng xảy ra vào cuối năm ngoái.
– Tất cả đều hẹn nhau vào cuối năm ngoái, kỳ diệu thật.
Kangetsu cười. Trên rìa chiếc răng cửa bị mẻ có dính bánh dày ku-ya. Meitei hỏi châm chọc:
– Cũng cùng ngày cùng giờ phải không?
– Không, khác ngày. Vào khoảng ngày 20 thì phải. Hôm ấy vợ tôi bảo thay vì quà tặng cuối năm mình đưa em đi nghe hát tuồng của đoàn Settsu Daijo được không? Tôi bảo đi cũng được, nhưng hôm nay hát vở gì? Vợ tôi đọc trên báo bảo là vở Unagidani[26]. Tôi bảo tôi không thích vở này nên hôm nay chưa đi, thế là hoãn được một hôm. Hôm sau, vợ tôi mang báo đến bảo hôm nay là vở Horikawa[27] thì được chứ? Tôi bản vở này chỉ toàn có tiếng đàn samisen ầm ĩ chứ chẳng có nội dung gì, thôi đừng đi. Vợ tôi rất tức, bỏ đi. Hôm sau nữa thì vợ tôi bảo hôm nay là vở Sanyusangendo[28], em đứt khoát muốn đi nghe vở này của Settsu Daijo. Có thể mình không thích vở này nhưng cứ phải đưa em đi. Cô ta mà cả dứt khoát như vậy.
Tôi bảo nếu cô đã muốn đi đến thế thì đi cũng được, nhưng tuồng này cả đời mới có một lần nên người xem đông lắm, không thể chen lấn mà vào được. Làm như vậy là không nghĩ đến người khác. Muốn đến những chỗ như vậy, thường người ta phải liên hệ trước với các nhà hàng để đặt chỗ chẳng hạn. Mình bỏ qua những quy tắc thông thường như vậy thì không hay. Cho nên dù là đáng tiếc thật đấy, nhưng hôm nay đừng đi. Nghe thế, vợ tôi lừ mắt rồi khóc, nói “Em là phụ nữ, em không biết những chuyện rườm rà rắc rối như vậy. Mẹ anh Ohara, vợ anh Suzuki kia có phải làm thế đâu mà vẫn đi được đấy thôi. Dù mình có là ông giáo hay ông gì thì cũng chẳng cần phải thủ tục rắc rối như vậy cũng được chứ. Mình thật quá đáng!” Tôi đầu hàng và chấp nhận vậy thì cứ đi, ăn cơm tối xong sẽ đi bằng tàu điện. Cô ấy hăng hái giục thế thì phải có mặt trước 4 giờ, không thể chần chờ được. Tôi hỏi tại sao phải có mặt trước 4 giờ thì cô ấy bảo chị vợ anh Suzuki cho biết nếu không đến sớm như vậy sẽ hết chỗ, không thể xem được. Vậy thì nếu quá 4 giờ là không được phải không? Tôi hỏi lại cho chắc chắn, cô ta bảo vâng, đúng thế.
Thế là các cậu biết không? Không hiểu sao từ lúc đó, tự nhiên bị lên com sốt rét.
Kangetsu hỏi:
– Vợ thầy ấy à?
– Không. Vợ tôi khỏe như vâm thì có. Tôi đây này. Tự nhiên tôi thấy mình xẹp đi như quả bóng bị thủng, mắt hoa lên, không còn cử động được nữa.
Meitei họa thêm:
– Bệnh nhanh đến bất ngờ nhỉ!
– Bí thế đấy. Ước muốn của vợ một năm mới có một lần, tôi rất muốn làm cho cô ấy toại nguyện. Suốt cả đời, lúc nào cô ấy cũng chỉ toàn bị tôi trách móc, giận dữ, bắt nuôi con vất vả mà tôi chưa có dịp trả công. Hôm nay may mắn có thì giờ, trong túi cũng có tiền nữa, muốn đưa vợ đi thì được quá rồi. Vợ tôi thì muốn đi mà tôi cũng muốn đưa cô ấy đi. Nhất định phải đưa đi. Muốn như thế mà lại bị sốt rét thế này, mắt mũi cứ tối sầm cả lại. Như thế này thì ngay đến cả xỏ chân vào giầy cũng không xỏ nổi, còn nói chi đến đi tàu điện nữa. Ôi, tội nghiệp quá. Thật đáng thương! Càng nghĩ lại càng sốt, mắt mũi càng tối sầm lại. Phải mau mau đi tìm bác sĩ, xin thuốc uống thì may ra mới kịp khỏi trước 4 giờ chăng? Tôi bàn với vợ như thế rồi đi mời bác sĩ Amaki. Nhưng thật trớ trêu, đêm qua bác sĩ phải trực nên bây giờ vẫn còn ở trường. Người nhà bác sĩ cho biết khoảng 2 giờ thì ông ta sẽ về, khi nào về họ sẽ báo ngay. Giá mà lúc ấy uống nước hạnh nhân thì chắc sẽ khỏi trước 4 giờ đấy, nhưng khốn nỗi, những lúc rủi ro thì cái gì cũng không nghĩ ra được, không theo ý mình được.
Thỉnh thoảng tôi liếc nhìn bộ mặt hớn hở của vợ thì thấy những nét vui biến đi đâu hết. Với vẻ mặt oán giận, vợ tôi hỏi tóm lại là anh có đi hay không? Đi chứ, nhất định đi chứ. Đến 4 giờ là nhất định tôi sẽ khỏi cho mà xem. Cứ yên tâm đi rửa mặt, thay quần áo, sửa soạn rồi chờ đi. Trong lòng tôi đầy tình cảm thiết tha như tôi đã nói. Nhưng sốt càng lúc càng cao mắt mũi hoa cả lên, đầu óc quay cuồng lộn lạo. Kiểu này, nếu đến 4 giờ mà không khỏi cho để thực hiện lời hứa thì ai chứ đàn bà, vốn tính hẹp hòi, chẳng biết rồi cái gì sẽ xảy ra đây? Đã đến cái bước khổ nhục rồi, biết làm thế nào đây. Để đề phòng bất trắc xảy ra, ngay từ bây giờ phải giải thích cho cô ta hiểu rõ cái lý lẽ vạn vật đổi thay, sinh giả tất diệt[29]. Phải làm cho cô ấy giác ngộ từ bây giờ để nhỡ có gì xảy ra khỏi bị bất ngờ, hoảng hốt. Đó cũng còn là nghĩa vụ của một người chồng đối với vợ nữa.
Tôi nghĩ thế nên gọi vợ vào phòng sách, hỏi: “Cô là phụ nữ nhưng chắc đã biết câu châm ngôn của châu Âu “many a slip twixt the cup and the lip” (từ chén rượu đến miệng vẫn còn nhiều rủi ro) rồi chứ?” Thế là cô ta nổi giận đùng đùng, cho một thôi một hồi: “Cái loại chữ viết ngang ấy ai mà biết được. Mình biết là người ta không biết tiếng Anh, vậy mà cố tình dùng tiếng Anh để chế giễu. Vâng, tôi là người không biết tiếng Anh đấy. Nếu mình thích tiếng Anh như vậy sao không đi mà lấy những cô tốt nghiệp trường dòng Giê-su ấy? Không thấy có người nào bạc bẽo như mình cả!”
Thế là cái dự định tốt đẹp của mình bị bẻ gãy. Tôi cũng xin thanh minh với các cậu là tôi tuyệt nhiên không dùng tiếng Anh với ý xấu. Hoàn toàn chỉ xuất phát từ tình thương vợ hết lòng thôi. Thế mà lại bị vợ tôi hiểu lầm như vậy, thật không còn mặt mũi nào nữa. Vả lại, cơn sốt và chóng mặt từ bấy đến giờ làm đâu óc tôi loạn lên, tôi nôn nóng, muốn nhồi nhét cho vợ hiểu nhanh cái chân lý “hữu vi chuyển biến” “sinh giả tất diệt” kia nên mới quên mất là vợ không biết tiếng Anh và đã dùng tiếng Anh một cách vô ý thức. Ngẫm ra thấy cũng hoàn toàn lỗi tại mình, đó là thất bại của mình. Bị thất bại như vậy, cơn sốt càng nặng lên, mắt tôi càng hoa lên.
Vợ tôi nghe theo lời giục, vào nhà tắm trang điểm rồi lấy kimono trong tủ ra thay. Cô ấy đã sẵn sàng chờ để có thể xuất phát bất kỳ lúc nào. Tôi cuống lên, không biết phải làm thế nào nữa. Giá mà bác sĩ Amaki đến nhanh cho thì hay biết bao. Tôi sốt ruột nhìn đồng hồ, đã 3 giờ. Chỉ còn có một tiếng đồng hồ nữa là đến 4 giờ. Vợ tôi mở cửa phòng sách, thò mặt vào hỏi đã đến giờ đi rồi chăng? Kể ra tự khen vợ mình thì cũng kỳ, nhưng tôi thấy chưa bao giờ vợ tôi đẹp như lúc này. Được tắm rửa kỹ càng, da cổ trắng nõn ánh lên trên nền vải đũi đen. Khuôn mặt ấy cùng với xà phòng và niềm hy vọng được đi xem tuồng, hai yếu tố hữu hình và vô hình, làm cho nó càng rạng rỡ thêm. Tôi cảm thấy muốn làm thỏa mãn niềm hy vọng ấy bằng bất kỳ giá nào.
Thế là, khi tôi đang hút một điếu thuốc, định cố ráng sức đi chăng thì bác sĩ Amaki đến. Mọi sự diễn ra đúng như mong muốn. Nhưng nghe tôi kể bệnh thì bác sĩ bắt tôi thè lưỡi ra cho xem, rồi cầm tay, gõ ngực, sờ lưng, bành mắt, chọc vào sọ tôi rồi suy nghĩ một lúc. Tôi bảo “tôi thấy dẫu sao cũng hơi nguy hiểm!” Nghe nói thế, bác sĩ bình tĩnh bảo không có gì đặc biệt cả. Vợ tôi hỏi thưa bác sĩ, có đi đâu một chút thì chắc cũng không sao, phải không ạ? Bác sĩ lại suy nghĩ và nói một cách khó khăn “cái đó thì… nếu không thấy khó chịu thì…” Tôi bảo tôi thấy khó chịu lắm. Bác sĩ bảo “tôi cứ cho ông một liều thuốc uống ngay và một chai thuốc nước vậy”. Tôi bảo “ôi! bệnh tình có vẻ nguy lắm phải không bác sĩ?!” Bác sĩ bảo “không, không đến nỗi đáng lo thế đâu, đừng có làm thần kinh căng thẳng, không tốt đâu”, rồi đi về.
Lúc đó đã hơn ba rưỡi, tôi sai người giúp việc lấy thuốc về. Theo nghiêm lệnh của vợ tôi là phải đi ngay, về ngay. Đã 4 giờ kém 15, vẫn còn 15 phút nữa mới đến 4 giờ. Thế là từ 4 giờ kém 15 trở đi tôi bắt đầu buồn nôn, cái triệu chứng mà suốt từ trước đến lúc đó chưa có. Vợ tôi pha chén thuốc đặt trước mặt tôi. Tôi cầm chén thuốc định uống thì từ trong dạ dày có cái gì như muốn ọe ra, đành phải đặt chén xuống. Vợ tôi giục “cứ uống thật nhanh vào thì không sao đâu”. Khong uống thật nhanh, không đi nhanh lên thì không còn tình nghĩa gì nữa, tôi nghĩ thế và vừa cầm chén lên kề vào miệng thì lại ọe. Cứ cầm lên đặt xuống rồi lại đặt xuống cầm lên định uống như vậy thì chiếc đồng hồ trong phòng đã kêu reng reng, báo 4 giờ.
Trời, 4 giờ rồi, không thể chần chừ được nữa. Tôi lại cầm chén đưa lên miệng thì lạ quá các câu ạ. Chính cái này mới là kỳ lạ đây. Cùng với tiếng chuông đồng hồ báo 4 giờ, cơn buồn nôn cũng chấm dứt và tôi đã uống được chén thuốc không khó khăn gì. Sau đó, đến khoảng 4 giờ 10 thì tôi đã hiểu dược nguyên nhân sự nổi tiếng của bác sĩ Amaki. Những cái ớn lạnh ở sống lưng, sự hoa mắt, choáng váng cũng biến đi như trong mơ. Bệnh tình cứ tưởng là đứng cũng không nổi, thế mà bỗng chốc khỏi hoàn toàn, mừng ơi là mừng.
Với vẻ mặt ý như “chuyện với trò, chả ra đầu ra đuôi gì cả!”, Meitei hỏi:
– Thế sau đó cậu có cùng đi xem kịch nữa không?
– Tôi muốn đi nhưng mà đã quá 4 giờ, vợ tôi bảo bây giờ có đi cũng không còn chỗ nữa, thế là đành bỏ. Giá mà bác sĩ Amaki đến sớm hơn cho, chỉ cần 15 phút thôi, thì tôi đã làm tròn bổn phận của mình mà vợ tôi cũng toại nguyện. Vậy mà chỉ sai lệch có 15 phút! Thật tiếc vô cùng. Cho đến bây giờ, nghĩ lại vẫn thấy cái giờ phút đó thật là nguy hiểm.
Kể xong chuyện, ông chủ làm như mình đã tròn nghĩa vụ. Chắc ông ta nghĩ thế là mình cũng ngang bằng với hai người kia rồi. Kangetsu lại nhe cái răng mẻ ra, cười như mọi khi:
– Tiếc quá nhỉ!
Meitei thì mặt tỉnh bơ, nói như nói một mình:
– Có được một người chồng tử tế như cậu, vợ cậu thật là hạnh phúc quá đấy!
Từ sau cánh cửa, nghe có tiếng hắng giọng ho khan của bà chủ.
Tôi đã lặng lẽ lắng nghe lần lượt chuyện của ba người, chẳng thấy lạ, cũng chẳng thấy buồn. Tôi nghĩ con người là cái loại chẳng biết làm gì hơn ngoài múa may cái mồm để giết thời gian. Họ cười những cái chẳng có gì đáng cười, thích thú những cái chẳng có gì hay ho như vậy đấy. Sự hẹp hòi, ích kỷ của ông chủ tôi thì tôi đã biết rõ từ trước rồi. Thường thì ông ít nói nên tôi nghĩ có thể ông cũng hiểu biết gì đó, và có cảm giác hơi sờ sợ về cái “có thể hiểu biết” đó. Nhưng bây giờ, sau khi nghe chuyện của ông, tôi bỗng đâm ra khinh bỉ. Tại sao ông ta không im lặng mà nghe chuyện của hai người kia? Chỉ vì hiếu thắng mà đem cái chuyện bỉ ổi ấy ra nói để làm gì? Chắc là trong sách của Epiktetos đã viết là “hãy làm thế đi” chăng?
Tóm lại thì ông chủ cũng như Kangetsu và Meitei, đều là những kẻ ăn không ngồi rồi, nhàn rỗi. Họ như những dây leo, nhờ gió thổi mà tung lên, sống nhởn nhơ, vẻ cao siêu sang trọng, nhưng thực ra cũng đầy lòng tham, thói xấu, tầm thường. Thói ganh đua, lòng hiếu thắng vẫn thỉnh thoảng hé ra trong những chuyện đùa tếu hàng ngày của họ. Chỉ tiến thêm một bước nữa thì họ cũng một gáo một giuộc, cùng hội cùng thuyền với những kẻ phàm phu, tục tử mà hàng ngày họ vẫn chửi bới, xỉ vả thôi. Trong con mắt của mèo, nhìn họ thật đáng thương hại. Có điều là hành động, ngôn ngữ của họ không rập khuôn, nhàm chán hay tỏ vẻ ta đây như những kẻ hiểu biết nửa vời, gây cho người khác phải khó chịu, cho nên về điểm này cũng còn hơi chấp nhận được.
Nghĩ thế, tự nhiên tôi thấy chuyện của ba người trở nên nhạt nhẽo, tôi bèn vòng qua sân, sang nhà bà thầy dạy đàn xem tình hình Tam Mao ra sao? Những dây rơm bên trang trí ngày tết đã được dỡ bỏ, đã sang mồng 10 tết. Từ bầu trời cao vòi vọi, không một gợn mây, nắng xuân êm dịu tỏa khắp nơi trên mặt đất. Mảnh vườn chưa đến 10 chư-bô cũng rực rỡ, đầy sức sống hơn hẳn ngày đầu năm, khi đón nhận ánh bình minh chiếu dọi. Trên hành lang thềm nhà có một chiếc zabuton[30] nhưng không có ai cả. Cửa cũng đóng kín mít. Có thể bà thầy dạy đàn đang đi tắm ở hiệu tắm nước nóng chăng? Bà ấy đi vắng cũng chẳng sao, tôi chỉ muốn biết Tam Mao đã khá hơn hay chưa thôi. Vắng lặng, không có ai, nên tôi cứ chân bẩn mà leo qua hành lang, vào nằm khểnh trên chiếc zabuton, cảm giác rất khoái. Thế rồi tôi thiu thiu buồn ngủ và ngủ thiếp đi, quên cả Tam Mao. Bỗng nhiên nghe thấy tiếng người nói phía trong cửa:
– Tốt quá. Xong rồi hả?
Hóa ra không phải bà thầy đi vắng.
– Vâng, xin lỗi, cháu về hơi muộn. Cháu đến nhà hàng làm đồ thờ thì họ bảo vừa làm xong.
– Đâu, cho tôi xem nào? Ồ, đẹp quá. Thế này thì Tam Mao cũng được lên cõi tịnh độ đây! Vàng thì không sợ tróc đâu nhỉ.
– Vâng, cháu đã hỏi cho chắc chắn, họ bảo là bài vị này dùng vật liệu tốt nên còn bền hơn bài vị của người kia đấy… Họ bảo là cái chữ “dự” của “Miu dự tín nữ” nên giản lược đi thì trông đẹp hơn. Vì vậy nên nét chữ có thay đổi một chút.
– Đâu, đâu, để ngay lên bàn thờ, thắp hương cho nó đi.
Tam Mao làm sao rồi? Sao có vẻ kỳ lạ thế nào ấy! Tôi vội đứng phắt lên trên chiếc đệm. Tiếng tụng niệm của bà thầy bắt đầu cất lên sau tiếng chuông “cheng”: Miu dự tín nữ, nam mô a di đà phật, nam mô a di đà phật… Cô cũng khấn cho nó đi. “Cheng”. Nam mô miu dự tín nữ, nam mô a di đà phật, nam mô a di đà phật! Lần này là tiếng người hầu gái.
Tôi đứng lặng trên tấm đệm, tim đập thình thình, mắt không động cựa, y hệt một con mèo gỗ.
– Thật là đáng tiếc quá đi mất thôi ạ. Lúc đầu chỉ có cảm nhẹ một chút, thế mà lại… có phải thế không ạ?
– Giá mà ông Amaki cho nó thuốc thì biết đâu nó đã qua khỏi rồi cũng nên.
– Cái ông Amaki ấy, trước hết là người rất tồi. Ông ta đã coi thường Tam Mao quá đáng.
– Đừng có nói xấu người khác như vậy. Đây cũng là đến lúc tuổi thọ của nó đã hết thôi.
Xem ra, hình như Tam Mao cũng đã được thầy Amaki khám bệnh!?
– Tức là, tôi nghĩ chắc nó đã bị con mèo hoang ở nhà cái ông giáo ngoài phố lớn ấy rủ rê, đi lung tung, bừa bãi nên mới ra như thế.
– Vâng, chính cái thằng khốn ấy là kẻ thù của Tam Mao đấy ạ.
Tôi rất muốn thanh minh đôi điều, nhưng biết rằng chỗ này là chỗ nên nín nhịn nên tôi đành nuốt nước bọt, lắng nghe. Câu chuyện giữa chừng bị gián đoạn một lát, rồi lại tiếp tục:
– Cuộc đời chẳng như ý người ta mong muốn. Đầy đủ, sung sướng như Tam Mao thì lại chết sớm. Những con mèo hoang đói khổ thì lại khỏe mạnh, chơi đùa, quậy phá…
– Vâng, đúng thế đấy ạ. Con mèo đáng yêu như Tam Mao thì có mang chiêng, mang trống mà đi tìm cũng không có người thứ hai đâu, phải không ạ?
Đáng lẽ phải nối là “con” thứ hai thì lại nói là “người” thứ hai. Có lẽ cô hầu này coi người và mèo là cùng một loài chăng? Nếu vậy thì mặt cô cũng giống mặt mèo chúng tôi đấy.
– Nếu mà được thì thay cho Tam Mao…
– Giá được đúng như ý cầu nguyện, mà cái con hoang ở nhà ông giáo ấy chết đi nhỉ!
Được như lời cầu nguyện thì hơi gay đây! Chết là thế nào? Tôi chưa từng chết bao giờ nên không thể nói là thích hay ghét được. Có điều, hôm trước vì lạnh quá, tôi chui vào trong cái vò đã tắt lửa để nằm. Cô sen không biết có tôi trong đó, cứ thế đậy kín lại. Cái sự ngột ngạt, khổ sở hôm đó nghĩ mà sợ. Theo giải thích của chị Bạch thì nếu mà cứ tiếp tục ngột ngạt như thế cho đến giờ thì là chết đấy. Nếu chết thay cho Tam Mao thì tôi cũng chẳng phàn nàn gì đâu. Nhưng nếu chết mà phải chịu sự ngột ngạt, khó thở như vậy thì tôi chả muốn chết vì ai cả.
– Nhưng mèo mà cũng được nhà sư tụng kinh, được cải danh thế này thì chết cũng chẳng còn ân hận gì nữa.
– Vâng, đúng thế ạ. Hoàn toàn là có “quả báo” mà. Nhưng nói về mong muốn của cháu thì kinh của nhà sư ấy “khinh thiểu” (ngăn và sơ sài) quá, phải không ạ?
– Thấy ngắn quá, tôi hỏi nhà sư “nhanh quá nhỉ” thì vị sư của chùa Nguyệt Quế ấy bảo là “vâng, vừa đúng đến chỗ ngắt đoạn mà… có gì đâu, mèo thì chỉ bằng ấy là cũng đủ lên cõi tịnh độ rồi…”
– Ối trời ơi… nhưng mà cái thằng hoang kia thì…
Thỉnh thoảng tôi vẫn thoái thác là mình không có tên, vậy mà cái cô hầu gái này cứ gọi tôi là Hoang, Hoang… thật là mất lịch sự.
– … tội nó nhiều lắm, dù có được tụng bao nhiêu kinh cũng chẳng được cứu rỗi đâu.
Tôi không biết sau đó cái tên “thằng Hoang” còn được lặp đi lặp lại mấy trăm lần nữa? Tôi bỏ mặc giữa chừng cuộc nói chuyện vô hạn định này mà trườn khỏi đệm, rơi xuống sàn. Khi nhảy từ bờ hè ra ngoài, tôi rùng mình một cái, tất cả tám vạn, tám nghìn, tám trăm, tám mươi tám sợi lông đồng loạt dựng đứng cả lên. Từ đó trở đi, tôi không bao giờ ghé qua gần nhà bà thầy dạy đàn ấy nữa. Bây giờ thì có thể, chính bà ta đang được nhà sư chùa Nguyệt Quê tụng niệm cho cái thứ kinh “khinh thiểu” gì đó rồi cũng nên?
Gần đây tôi cũng chẳng còn can đảm đi ra ngoài nữa. Tôi thấy đời sao mà đen tối, chán chường thế. Tôi thành ra một con mèo lù đù không kém gì ông chủ. Khi ông chủ vùi mình trong phòng sách, không ló mặt đi đâu, mọi người bảo ông thất tình, ngẫm ra không phải là vô lý.
Tôi chưa bao giờ bắt chuột, nên có lần chị bếp đề nghị đuổi đi. Ông chủ thì biết tôi không phải là một con mèo bình thường như mọi con mèo khác, cho nên tôi vẫn ung dung tá túc trong cái nhà này.
Về điểm này thì tôi không ngần ngại tỏ lòng cảm tạ công ơn sâu sắc của ông chủ, đồng thời tỏ lòng kính phục con mắt tinh đời của ông. Chị bếp vì không biết tôi nên ngược đãi, tôi cũng chẳng giận.
Nếu mà bây giờ Hidari Jingoro[31] xuất hiện, chạm khắc chân dung tôi lên cột cửa lâu đài, hay một Steinlen[32] nào đó của Nhật Bản vẽ chân dung tôi lên canvas thì cái bọn đần độn ấy mới bắt đầu gột rửa được cái đầu óc tăm tối của chúng chăng?
Chú thích
[1] Nhật Bản có điệu múa “mèo đây, mèo đây” của trẻ con, vốn là một bài đồng dao thời Edo. Từ năm Minh Trị nguyên niên trở thành bài hát, múa, thịnh hành thời Minh Trị.
[2] Trong 12 con giáp của Nhật không có năm con mèo. Đây là ý hài hước chế giễu sự lẩm cẩm của ông chủ.
[3] Hàn Nguyệt – trăng lạnh.
[4] Vải lụa lót ống tay áo.
[5] Nhật Bản có quy ước chặt chẽ về trang phục xã giao.
[6] Momokawa Joen (1832-1898), một nghệ nhân kể chuyện thời Minh Trị, nhiều năm sưu tầm truyện về mèo, nổi tiếng với tác phẩm “Truyện một trăm con mèo xưa và nay”.
[7] Nhà thơ Anh (1716-1771) có thơ về con mèo ăn trộm cá vàng.
[8] Zoni: tạp chử, canh hổ lốn – một món ăn truyền thống ngày Tết của Nhật Bản. Canh gồm nước súp nấu bằng tương, cái là những mẩu bánh dầy hình tròn hay hình vuông tùy theo văn hóa từng vùng, thêm một vài cọng rau xanh và mềm như loại rau cải cúc, hành lá… Bánh dầy chuyên dụng để được lâu hàng tháng, khô cứng. Tùy theo địa phương, trước khi cho vào canh người ta nướng bánh trên lửa hay không nướng.
[9] Những địa danh ở Tokyo.
[10] Di thư là sách vở của các tiền nhân để lại cho đời.
[11] Masamune – Chính Tông, một thương hiệu rượu nổi tiếng của Nhật Bản.
[12] Nigenkin, nhị huyền cầm, tên gọi chung các loại đàn hai dây của Nhật.
[13] Tenshoin – Thiên Chương Viện, là tên cải danh của bà Chính thất tướng quân Tokugawa Iesada, tướng quân thứ 13 trong 15 đời tướng quân của dòng họ Tokugawa. Đây là một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng trong việc kết thúc chế độ Mạc phủ 1867.
[14] Nguyên văn: 2 sen 3 lin.
[15] Việt Trí Đông Phong.
[16] Nguyên văn tiếng Hán là “thú hướng” còn có nghĩa là “ý đồ, dụng ý”…
[17] Tochimenbo, bút danh một nhà thơ haiku theo trường phái Nhật Bản, nổi tiếng đương thời. Tên thật là Ando Renzaburo.
[18] Buson (1716-1783), nhà thơ haiku và họa sĩ thời Edo.
[19] Chikamatsu Mondaemon (1653-1724), tác giả kịch bản tuồng Tịnh lưu ly và Kabuki.
[20] Một loại sổ tay có kích cỡ khoảng 13×14 cm
[21] Nguyên văn là “không biết thì thành bụt”, không biết thì thanh thản, thánh thiện.
[22] Ý nói là kẻ ngốc nghếch, khác đời.
[23] Đại thần nhạc, một loại nghệ thuật làm xiếc và múa sư tử… Ở đây ám chỉ nghệ thuật xoáy đĩa trong múa sư tử.
[24] Nhà văn Anh, 1864-1928.
[25] William James (1842-1910), nhà tâm lý học Mỹ.
[26] Thung lũng lươn.
[27] Con sông đào.
[28] Ngôi đền 33 gian.
[29] Sinh giả tất diệt: sống rồi nhất định sẽ chết.
[30] Zabuton: tấm đệm để ngồi.
[31] Nhà kiến trúc và điêu khắc đền chùa thời Edo, có tác phẩm điêu khắc”con mèo ngủ” trong đền Nikko Toshogu.
[32] Họa sĩ Pháp (1859-1923).

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.