Tôi Nói Gì Khi Nói Về Chạy Bộ

CHƯƠNG 8 – 18 TUỔI ĐẾN KHI TÔI CHẾT



NGÀY 26 THÁNG TÁM NĂM 2006 – MỘT THỊ TRẤN BÊN BỜ BIỂN QUẬN KANAGAWA
Ngay lúc này tôi đang tập luyện cho một cuộc thi ba môn phối hợp. Gần đây tôi đang tập trung tập xe đạp, đạp xe miệt mài một hay hai giờ đồng hồ mỗi ngày trên con đường dành cho xe đạp dọc bờ biển ở Oiso gọi là Đường Xe Đạp Bên Bờ Thái Bình Dương, gió quất bên hông. (Ngược với tên gọi tuyệt vời của mình, con đường này hẹp, lại còn bị cắt đứt ô nhiều đoạn do đèn giao thông nên không dễ chạy xe). Nhờ tất cả quá trình tập luyện cật lực này, các cơ của tôi từ lưng dưới đến đùi đều chắc và mạnh.
Chiếc xe đạp tôi sử dụng trong các cuộc đua là kiểu có dây choàng ngón chân cho phép ta đạp xuống bàn đạp và nhấc lên. Thực hiện cả hai động tác này sẽ làm tăng tốc độ của ta. Để giữ chuyển động của chân nhịp nhàng, điều quan trọng là tập trung vào phần nhấc lên, nhất là khi ta sắp lên một con dốc dài. Vấn đề là, các cơ bắp dùng để nhấc bàn đạp hầu như không bao giờ được dùng trong đời sống hàng ngày, nên khi tôi thực sự bước vào tập xe đạp thì các cơ bắp này không thể tránh khỏi trở nên cứng và kiệt quệ. Nhưng nếu tôi tập xe đạp vào buổi sáng, tôi có thể chạy vào buổi chiều, dù các cơ chân tôi cứng. Tôi không thể gọi kiểu tập luyện này là vui thú được, nhưng tôi không kêu ca. Đây chính là cái tôi sẽ đối mặt trong ba môn phối hợp.
Chạy bộ và bơi thì dù gì tôi cũng thích, cho dù không phải tôi đang tập luyện để đua. Chúng là một phần tự nhiên trong sinh hoạt hằng ngày của tôi, nhưng đạp xe đạp thì không. Một lý do tôi miễn cưỡng khi phải đạp xe là ở chỗ xe đạp là một kiểu dụng cụ. Ta cần một cái mũ sắt, giày đạp xe đạp, và đủ kiểu trang bị khác, và ta phải giữ gìn tất cả các phần và dụng cụ này. Chẳng qua là tôi không giỏi cái khoản giữ gìn dụng cụ. Thêm nữa, ta phải tìm ra một đường chạy an toàn, nơi ta có thể đạp nhanh như ta muốn. Lúc nào cũng có vẻ như quá nhiều phiền phức.
Một yếu tối nữa là nỗi sợ. Để đến được một con đường phù hợp dành cho xe đạp, tôi phải đạp xe qua thành phố, và nỗi sợ tôi cảm thấy khi luồn lách giữa dòng xe cộ trên chiếc xe đạp thể thao với hai lốp xe mỏng dính và giày đạp xe buộc chặt vào pê-đan là một cái gì ta không thể hiểu nổi trừ phi ta đã kinh qua. Khi có kinh nghiệm hơn thì tôi cũng quen với điều đó, hay ít nhất cũng học được cách qua khỏi, nhưng có nhiều khoảnh khắc kinh hoàng đủ làm tôi toát mồ hôi lạnh.
Ngay cả khi tập luyện, mỗi khi cua nhanh vào một khúc quanh hẹp là tim tôi lại đập thình thịch. Nếu không đi đúng lộ trình và khom người theo góc độ phù hợp khi quẹo vào khúc quanh thì tôi sẽ lộn nhào hay đâm sầm vào hàng rào. Theo kinh nghiệm thì lý ra tôi đã phải tìm ra các tốc độ tối đa mình có thể thực hiện. Cũng khá là đáng sợ khi đạp xuống một cái dốc với tốc độ nhanh khi đường trơn trượt nước mưa. Trong một cuộc đua thì một sai lầm nhỏ cũng đủ để gây ra một vụ đâm xe kinh hoàng.
Về cơ bản, tôi vốn không phải là người lanh lẹ lắm và không thích các môn thể thao dựa trên tốc độ kết hợp với sự nhanh nhẹn, cho nên đạp xe dứt khoát không phải là sở trường của tôi. Chính vì vậy mà trong ba phần của cuộc thi ba môn phối hợp – bơi lội, đạp xe và chạy bộ – tôi luôn lần lữa tập xe đạp cho đến phút chót. Đó là khâu yếu nhất của tôi. Thậm chí dù tôi có vượt trội trong phần chạy trong ba môn phối hợp thì 6,2 dặm, chặng cuối cùng đó chưa bao giờ đủ dài để bù lại thời gian. Đó chính là lý do tôi đã quyết định phải liều dành thêm chút thời gian ra trò cho môn đạp xe. Hôm nay là ngày 1 tháng Tám, cuộc đua thì vào ngày 1 tháng Mười, vậy là tôi còn đúng hai tháng. Tôi không chắc liệu mình có kịp rèn các cơ cần thiết để đạp xe không, nhưng ít nhất thì tôi cũng sẽ quen với xe đạp trở lại.
Chiếc xe tôi đang dùng là xe đạp thể thao Panasonic bằng titan nhẹ-tựa-hồng-mai mà tôi đã dùng bảy năm qua. Sang số xe cũng giống như một trong những chức năng cơ thể tôi vậy. Đó là một cái máy tuyệt vời. Ít nhất thì cái máy cũng khá hơn người dùng nó. Tôi đã đạp xe này khá nhiều trong bốn cuộc đua ba môn phối hợp rồi nhưng chưa từng có sự cố gì lớn. Trên thân xe có ghi “18 Till I Die” – 18 tuổi đến khi tôi chết – tên một bài hát nổi tiếng của Bryan Adams. Đó là một câu tếu, dĩ nhiên rồi. Mười tám tuổi đến khi ta chết nghĩa là chết lúc mười tám tuổi.
Hè này thời tiết ở Nhật thật lạ lùng. Mùa mưa, vốn bặt dần đi vào đầu tháng Bảy, năm nay lại kéo dài đến cuối tháng. Trời mưa nhiều đến nỗi tôi phát ngấy. Mưa như trút tại nhiều nơi ở Nhật, và có rất nhiều người thiệt mạng. Người ta nói tất cả là do sự nóng dần lên của trái đất. Có thể đúng thế, mà cũng có thể không. Một số chuyên gia cho là đúng như thế, một số khác bảo không phải. Có một số bằng chứng cho thấy thế, những bằng chứng khác lại không. Vậy nhưng người ta vẫn nói rằng phần lớn các vấn đề trái đất đang đối mặt ít hay nhiều đều do sự nóng dần lên của trái đất. Khi doanh thu hàng may mặc giảm đi, khi hàng tấn gỗ vụn dạt lên bờ, khi có lũ lụt và hạn hán, khi giá cả tiêu dùng tăng, phần lớn lỗi đều trút lên đầu sự nóng dần lên của trái đất. Cái thế giới này cần là một kẻ chịu trách nhiệm nhất định để người ta có thể chỉ mặt mà nói, “Tất cả là lỗi của mi đó!”
Dù sao đi nữa, do cái kẻ luôn luôn chịu trách nhiệm mà ta không thể đối phó này, trời vẫn cứ mưa, và tôi hầu như không thể tập đạp xe trong suốt tháng Bảy. Đó không phải lỗi của tôi – đó là lỗi của kẻ chịu trách nhiệm ấy. Dù sao, rốt cuộc mấy ngày cuối cùng này cũng nắng và tôi có thể lôi xe đạp ra ngoài trời. Tôi gài dây cái mũ sắt có dáng thuôn, đeo kính thể thao, rót nước đầy bình, canh lại đồng hồ đo tốc độ, rồi lên đường.
Điều đầu tiên cần nhớ khi đạp xe đạp đua là khom người tới trước càng nhiều càng tốt để bớt cản không khí – nhất là giữ cho mặt ta hướng tới trước và ngẩng lên. Bất luận thế nào ta cũng phải học được tư thế này. Chừng nào ta chưa quen thì việc giữ yên tư thế này trong hơn một giờ – như một con bọ ngựa đang cầu nguyện với cái đầu ngẩng cao – gần như là không thể. Chẳng mấy chốc lưng và cổ ta sẽ bắt đầu kêu gào. Khi ta mệt lử đi rồi thì đầu ta thường gục xuống và ta nhìn xuống, và một khi điều đó xảy ra thì tất cả những hiểm nguy đang rình rập ngoài kia ập đến.
Hồi tôi huấn luyện cho cuộc thi ba môn phối hợp đầu tiên của mình và đạp một mạch gần sáu mươi hai dặm, tôi đã đâm sầm ngay vào một cọc kim loại – một trong mấy cái cọc dựng lên để ngăn không cho xe hơi và xe máy dùng làn đường thể thao ven sông. Tôi mệt, tâm trí tôi đâu đâu, và tôi đã không chú ý giữ mặt mình hướng tới trước. Bánh trước của xe đạp bị vẹo cả, còn tôi thì lộn đầu xuống đất. Tôi bỗng nhiên thấy mình đúng nghĩa là bay trong không trung. May thay, cái mũ sắt bảo vệ đầu cho tôi, nếu không tôi đã bị chấn thương nặng rồi. Cánh tay tôi bị trầy xước khá nặng do cạ vào bê tông, nhưng tôi vẫn may mắn qua khỏi mà chỉ bị vậy thôi. Tôi biết một vài tay đua xe khác đã bị chấn thương còn nặng hơn nhiều.
Khi đã bị một tai nạn đáng sợ thế rồi, ta sẽ khắc cốt ghi tâm chuyện đó. Trong hầu hết trường hợp học được cái gì quan trọng trong đời cũng đòi hỏi một nỗi đau thể xác. Từ tai nạn trên xe đạp ấy, dù có mệt mỏi thế nào thì tôi cũng luôn giữ dầu ngẩng cao và hai mắt nhìn thẳng về con đường trước mặt.
Dĩ nhiên là tất cả sự tập trung chú ý này đè nặng lên các cơ của tôi vốn đã làm việc quá sức, nhưng ngay cả trong cái nóng tháng Tám này tôi cũng không đổ mồi hôi. Thực ra thì có lẽ tôi cũng có đổ mồ hôi, nhưng gió thổi ngược thổi mạnh làm cho nó bốc hơi. Thay vì vậy, tôi khát. Nếu cứ để vậy quá lâu thì tôi sẽ bị mất nước, và bị mất nước thì đầu óc tôi sẽ trở nên mụ mẫm đi. Tôi không bao giờ đi đạp xe mà không mang theo bình nước. Trong lúc đạp xe, tôi rút bình nước nơi giá ra, nốc ít nước, rồi để lại như cũ. Tôi đã tập cho mình làm chuỗi động tác này một cách nhuần nhuyễn, tự động, luôn bảo đảm vẫn nhìn về phía trước.
Khi mới bắt đầu đạp xe tôi hãy còn chưa biết ất giáp gì, nên tôi nhờ một người hiểu biết nhiều về đua xe đạp huấn luyện cho tôi. Vào kỳ nghỉ, hai chúng tôi thường chất xe đạp lên một chiếc xe ô tô liên hợp và lên đường ra bến tàu Oi. Xe tải thường không đến bến tàu vào ngày nghỉ, nên con đường rộng chạy qua tất cả các nhà kho này trở thành một đường đạp xe tuyệt vời. Rất nhiều tay đua xe đạp tụ tập ở đây. Hai chúng tôi thường quyết định xem chúng tôi sẽ đạp bao nhiêu vòng, trong bao lâu, rồi lên đường. Ông ta đi kèm tôi trong những chuyến đi đường dài – chính là kiểu chuyến đi mà lần nọ tôi gặp rủi ro.
Luyện tập xe đạp một mình, thật lòng mà nói, khá khắc nghiệt. Chạy cự ly dài để chuẩn bị cho marathon dứt khoát là đơn độc, nhưng cứ bám vài cái ghi đông, chỉ một thân một mình đạp mải miết là việc còn đơn độc hơn nhiều. Nó là chừng ấy động tác lặp đi lặp lại mãi. Ta lên dốc, trên mặt đất bằng, rồi xuống dốc. Đôi khi gió cùng chiều ta, đôi khi ngược chiều ta. Ta sang số khi cần, sửa lại tư thế, kiểm tra tốc độ, đạp mạnh lên nữa, thả lỏng một chút, kiểm tra tốc độ, uống nước, sang số, sửa tư thế … Có lúc tôi chợt nghĩ nó như một hình thức tra tấn rối rắm. Trong cuốn sách của mình, vận động viên ba môn phối hợp Dave Scott đã viết rằng trong tất cả các môn thể thao con người nghĩ ra, đạp xe hẳn là môn khó ưa nhất. Tôi hoàn toàn đồng ý.
Vậy nhưng, trong vài tháng trước, cuộc đua ba môn phối hợp, dù có bất hợp lý thế nào chăng nữa thì đây cũng là cái tôi phải làm. Ư ử tuyệt vọng cái đoạn điệp khúc trong bài “18 Till I Die”, đôi khi nguyền rủa thế gian, tôi nhấn chân xuống bàn đạp, nhấc lên, buộc hai chân mình nhớ đúng nhịp. Một ngọn gió nóng từ Thái Bình Dương lùa qua, sượt qua má tôi ran rát.
Thời gian của tôi ở Harvard kết thúc vào cuối tháng Sáu, có nghĩa là kết thúc thời gian lưu lại của tôi ở Cambridge. (Tạm biệt, bia hơi Sam Adams! Tạm biệt, Dunkin’ Donuts!) Tôi thu dọn hành lý trở về Nhật vào đầu tháng Bảy. Những việc chính tôi đã làm khi ở Cambridge là gì à? Cơ bản, tôi sẽ thú nhận, tôi đã mua rất nhiều đĩa than. Trong khu vực Boston vẫn còn rất nhiều tiệm bán đĩa cũ chất lượng tốt. Khi có thời gian tôi cũng xem qua mấy tiệm đĩa hát ở New York và Maine. Bảy mươi phần trăm đĩa tôi mua là nhạc jazz, phần còn lại là cổ điển, cộng với một ít đĩa nhạc rock. Tôi là một nhà sưu tập đĩa rất hay (hay có lẽ tôi nên nói là cực kỳ) say mê. Gửi tất cả đĩa này về Nhật qua bưu điện là cả một kỳ công.
Tôi không thực sự rõ hiện giờ tôi có bao nhiêu đĩa trong nhà. Tôi chưa hề đếm, và thử làm thế thì quá đáng sợ. Từ hồi mười lăm tuổi tôi đã mua một lượng lớn đĩa, và bỏ đi một lượng lớn. Lượng vào ra cao đến nỗi tôi không theo dõi được tổng số. Chúng đến, chúng đi. Nhưng tổng số đĩa thì nhất định là tăng lên. Dù sao, vấn đề không phải là con số. Nếu có ai hỏi tôi có bao nhiêu đĩa, tôi chỉ có thể nói, “Hình như tôi có nhiều lắm. Nhưng vẫn chưa đủ.”
Trong cuốn Đại gia Gatsby của Scott Fitzgerald, một trong các nhân vật, Tom Buchanan, một người giàu có, cũng đồng thời là một tay chơi polo nổi tiếng, nói, “Tôi đã nghe chuyện biến chuồng ngựa thành nhà để xe, nhưng tôi là người đầu tiên từng biến nhà để xe thành chuồng ngựa.” Không phải huênh hoang, nhưng tôi cũng đang làm điều như vậy. Mỗi khi thấy một đĩa than tốt có thu một bản nhạc mà tôi có trong CD, tôi không ngần ngại bán cái CD đi và mua cái đĩa than. Và khi tôi tìm thấy một đĩa hát chất lượng tốt hơn, gần với bản gốc hơn, tôi không ngần ngại đổi cái đĩa than cũ lấy cái mới. Theo đuổi việc này mất rất nhiều thời gian, ấy là chưa nói một khoản đầu tư tiền mặt đáng kể. Tôi khá chắc chắn hầu hết mọi người sẽ bảo là tôi bị ám ảnh mất rồi.
Như đã dự tính, tháng Mười một năm 2005 tôi đã chạy trong cuộc đua Marathon New York . Đó là một ngày thu đẹp, nắng ấm, kiểu ngày tuyệt vời khi ta tưởng chừng như thấy Mel Tormé quá cố bỗng đâu xuất hiện, lưng tựa cây đàn piano cánh mà ngâm nga một câu trong “Autumn in New York”. Sáng hôm đó, cùng với hàng chục ngàn người chạy đua khác, tôi bắt đầu cuộc đua tại cầu Verrazano-Narrows trên đảo Staten; chạy qua Brooklyn, nơi nhà văn Mary Morris luôn đợi để cổ vũ tôi; rồi qua Queens; qua Harlem và Bronx; và sau hai giờ với vài cây cầu thì đến đích, gần nhà hàng Tavern on the Green bên trong Công viên Trung tâm.
Còn kết quả chạy của tôi thì sao? Thật lòng mà nói, không cừ lắm. Ít ra thì cũng không khá như tôi thầm mong đợi. Nếu được, tôi hy vọng có thể chấm hết cuốn sách này với một câu oai hùng như, “Như bao khổ luyện công phu, tôi đã đạt kết quả khá tại Marathon New York. Khi về đến đích tôi đã thực sự xúc động,” rồi thong thả dạo bước dươi ánh hoàng hôn trong tiếng nhạc hiệu bài Rocky vang vang phía sau. Cho đến lúc thực sự chạy trong cuộc đua tôi vẫn cứ nuôi hy vọng rằng mọi chuyện sẽ diễn ra như thế, cứ trông đợi cái màn chót đầy kịch tính này. Đó là Kế hoạch A của tôi. Một kế hoạch thật tuyệt vời, tôi nghĩ thế.
Nhưng trong đời thực mọi sự không diễn ra êm ả thế. Có những thời khắc nào đó trong đời mình, khi ta thực sự cần một giải pháp dứt khoác thì, người đến gõ cửa nhà ta, rất có thể, là một người đưa hung tin. Không phải lúc nào cũng vậy, nhưng theo kinh nghiệm tôi có thể nói rằng các thông báo ảm đạm luôn nhiều hơn gấp bội các thông báo khác. Người đưa tin đưa tay lên mũ và trông có vẻ ái ngại, nhưng điều đó chẳng làm được gì để cho nội dung của thông đệp tốt hơn lên. Đó không phải là lỗi của người đưa tin. Chẳng ích ǵ khi đổ lỗi cho y, chẳng ích ǵ khi túm cổ áo y mà lay cả người y. Người đưa tin chỉ mẫn cán làm việc mà sếp y giao. Còn gã sếp này? Hắn chẳng thể là ai khác ngoài ông bạn già Hiện Thực của chúng ta.
Trước cuộc đua tôi rất sung sức và nghỉ ngơi đầy đủ, tôi nghĩ vậy. Cái cảm giác lạ tôi cảm thấy bên trong đầu gối đã biến mất. Hai chân tôi, nhất là quanh bắp chân, vẫn còn cảm giác mệt mỏi một chút, nhưng đó không phải là cái đáng cho tôi lo lắng (hay tôi cho là thế). Kế hoạch tập luyện của tôi đã diễn ra trôi chảy, tốt hơn so với bất kỳ cuộc đua nào trước đây. Nên tôi có cái hy vọng (hay xác tính khiêm nhường) ấy là tôi sẽ đạt được kết quả khá nhất trong vài năm trở lại đây. Tất cả những gì tôi cần làm giờ đây là nghỉ.
Tại vạch xuất phát, tôi chạy theo ngưởi dẫn tốc độ cầm tấm bảng đề 3 GIỜ 45 PHÚT. Tôi tin chắc mình đương nhiên sẽ thực hiện được thời gian đó. Đó có lẽ là một sai lầm. Giờ nhớ lại, tôi thấy lẽ ra mình nên theo sau người dẫn tốc độ ba giờ năm mươi lăm phút, rồi tăng tốc về sau, và giá mà tôi chắc chắn được là mình kham nổi. Kiểu tiếp cận hợp lý đó có lẽ là cái tôi cần. Nhưng cái gì khác cứ thúc ép tôi: Mi đã tập luyện cật lực hết mức trong cái nóng đó, phải không nào? Nếu mi không thể thực hiện được thời gian này, vậy thì có ý nghĩ gì chứ? Mi là thằng đàn ông, phải không nào? Hãy bắt tay hành động như một thằng đàn ông đi! Giọng nói này thủ thỉ vào tai tôi, cũng như giọng con mèo và con cáo xảo quyệt quyến dụ Pinocchio trên đường đến trường. Chỉ mới không lâu trước đây thôi, chạy marathon trong vòng ba giờ bốn mươi lăm phút đối với tôi là chuyện thường tình.
Đến dặm thứ mười sáu tôi đã có thể theo kịp người dẫn tốc độ, nhưng sau đó thì không thể. Khó mà thú nhận điều này với chính mình, nhưng dần dà hai chân tôi không chịu cử động, nên tốc độ của tôi bắt đầu giảm đi. Cái bảng 3 GIỜ 50 PHÚT vượt qua tôi. Đây là kịch bản xấu nhất có thể có. Bằng mọi giá tôi không thể để người dẫn tốc độ bốn giờ vượt qua tôi. Sau khi vượt qua cầu Đại lộ Madison và bắt đầu chạy xuôi xuống con đường rộng, thằng tắp từ Uptown đến Công viên Trung tâm, tôi bắt đầu cảm thấy khỏe hơn một chút và thoáng hy vọng mình đang trở lại trạng thái tốt đẹp như ban đầu, nhưng điều đó chóng tắt, vì ngay khi tôi tiến vào Công viên Trung tâm và đối mặt cái dốc thoai thoải hiểm ác, tôi bắt đầu bị chuột rút bên bắp đùi phải. Không tệ đến nỗi tôi phải dừng, nhưng cơn đau buộc tôi phải chạy như cuốc bộ. Đám đông quanh tôi cứ thúc giục tôi, la lên, “Chạy đi! Chạy đi!”, còn tôi thì chẳng muốn gì hơn là tiếp tục chạy, nhưng tôi không kiểm soát hai chân mình được nữa rồi.
Vậy là cuối cùng tôi trượt cái mốc bốn giờ một chút. Tôi đã hoàn tất cuộc chay, tàm tạm, nghĩa là tôi đã duy trì được kỷ lục của mình là đến đích mọi cuộc marathon mình tham gia (tổng số là hai mươi bốn cuộc rồi). Tôi có thể thực hiện được mức tối thiểu, nhưng đó là một kết quả nản lòng sau bao nhiều ngày tập luyện khó nhọc và lập kế hoạch tỉ mỉ của tôi. Có cảm giác như một đám mây đen rơi rớt lại đã bò dần vào bụng tôi. Bất luận thế nào thì tôi cũng không thể chấp nhận chuyện này. Tôi đã tập luyện hết sức vất vả, vậy sao tôi lại bị chuột rút chứ? Tôi không cố lập luận là tất cả nỗ lực phải được tưởng thưởng công bằng, nhưng nếu như có một Thượng đế trên trời cao thì có phải là đòi hỏi quá đáng không nếu tôi xin nhìn thấy một chút xíu dấu hiệu? Có quá đáng không khi mong đợi một chút lòng nhân từ?
Khoảng nửa năm sau, tháng Tư năm 2006, tôi chạy cuộc đua Marathon Boston. Theo lệ thường thì mỗi năm tôi chỉ chạy một cuộc đua marathon, nhưng vì cuộc đua Marathon New York đã để lại trong miệng tôi một dư vị tồi tệ như vậy nên tôi đã quyết định thử lần nữa. Lần này, dù sao, tôi cố ý, và quyết liệt, giảm lượng tập luyện xuống. Tập luyện nhiều cho Marathon New York đã không giúp gì nhiều. Có lẽ tôi đã tâp luyện quá nhiều. Lần này tôi không lên lịch nữa, thay vào đó mỗi ngày chỉ chạy nhiều hơn thường lệ một chút, giữ cho đầu mình vắng bặt không có những ý nghĩ rối rắm, chỉ làm cái mình thấy thích. Tôi cố gắng giữ một thái độ thản nhiên. Chỉ là marathon thôi mà, tôi tự nhủ. Tôi quyết định cứ làm theo đó rồi xem chuyện gì xảy ra.
Đây là lần thứ bảy tôi chạy Marathon Boston, vậy nên tôi biết đường đua rất rõ – có bao nhiêu dốc, tất cả các khúc quanh ra sao – chẳng phải là điều này bảo đảm cho tôi làm tốt.
Vậy thì, bạn sẽ hỏi, kết quả ra sao?
Thời gian của tôi không khác mấy với thời gian ở cuộc đua New York. Sau khi đã học được bài học của mình ở đấy, tôi cố hết sức kiểm soát mọi thứ trong chặng đầu cuộc đua Boston, duy trì tốc độ của mình, để dành lại ít sức lực. Tôi thưởng thức cuộc chạy, ngắm cảnh vật lướt qua, chờ đến cái lúc mà tôi cảm thấy mình có thể tăng tốc lên một bậc. Nhưng thời điểm đó không bao giờ đến. Từ dặm hai mươi đến dặm hai mươi ba, ngang qua dốc Heartbreak, tôi cảm thấy ổn. Chẳng có sự cố gì cả. Bạn bè chờ ở dốc Heartbreak để cổ vũ tôi về sau nói, “Haruki trông khỏe thật đấy.” Tôi chạy lên đồi mỉm cười và vẫy tay. Tôi chắc chắn rằng với vận tốc này tôi có thể tăng tốc và chạy được một thời gian kha khá. Nhưng sau khi vượt qua Cleveland Circle và bước vào khu thương mại Boston, hai chân tôi bắt đầu trở nên nặng nề. Chẳng mấy chốc tình trạng đuối sức xâm chiếm lấy tôi. Tôi không bị chuột rút, nhưng ở vài dặm cuối của cuộc đua, sau khi vượt qua cầu Đại học Boston, tôi chỉ có thể làm nổi một việc là làm sao để không bị bỏ lại đằng sau. Tăng tốc như tôi đã tính là không thể.
Tôi có thể về đích, dĩ nhiên rồi. Dưới bầu trời tản mác mây tôi đã chạy đủ 26,2 dặm không dừng và băng qua đích được đặt trước Prudential Center. Tôi quấn mình trong một tấm bạc giữ nhiệt cho khỏi lạng, và đón nhận huy chương từ một tình nguyện viên. Mội nỗi nhẹ nhõm dâng trào trong tôi – nhẹ nhõm là tôi không phải chạy nữa. Đến đích một cuộc đua marathon luôn có cảm giác tuyệt vời – đó là một thành tựu đẹp đẽ – nhưng tôi không hài lòng với thời gian mình chạy. Thông thường tôi mong đợi một ly bia hơi Sam Adams lạnh sau cuộc đua, nhưng giờ tôi thậm chí còn không thèm ly bia nữa. Tình trạng kiệt lực đã ngấm vào từng bộ phận một.
“Chuyện quái gì đã xảy ra vậy mình?” vợ tôi, chờ tôi ở đích, ngạc nhiên. “Anh vẫn còn khá mạnh, và em biết anh tập luyện đủ mà.”
Thật ra là sao? Tôi tự hỏi, không hiểu được. Có lẽ tôi chỉ đang già đi. Cũng có thể là lý do nằm ở đâu khác, có lẽ cái gì đó then chốt mà tôi đã bỏ qua. Dù sao, lúc này, bất kỳ suy đoán nào cũng phải là như thế thôi: suy đoán. Như một mương nước nhỏ âm thầm bị hút cạn vào sa mạc.
Dù sao, có một điều tôi có thể tự tin nói ra: cho đến khi cái cảm tưởng mình đã làm khá tốt trong cuộc đua quay trở lại thì tôi vẫn sẽ chạy marathon, và không để nó làm mình nản lòng. Ngay cả khi tôi già yếu đi, khi mọi người báo trước cho tôi là đã đến lúc bỏ cuộc rồi, tôi cũng sẽ không quan tâm. Chừng nào cơ thể tôi còn cho phép, tôi còn chạy. Dù thời gian chạy của tôi có trở nên tệ hơn, tôi vẫn sẽ cứ dồn chừng ấy nỗ lực – có lẽ thậm chí còn nhiều hơn – vào mục tiêu của mình là về đích cuộc đua marathon. Tôi không cần biết người khác nói gì – chỉ vì bản tính của tôi là vậy, cách của tôi là thế. Như bọ cạp đốt, ve sầu bám vào cây, cá hồi bơi ngược dòng về nơi chúng sinh ra, và vịt hoang kết bạn tình suốt đời.
Tôi có thể không nghe thấy nhạc hiệu Rocky, hay không nhìn thấy mặt trời lặn ở đâu cả, nhưng với tôi, và với cuốn sách này, đây có thể là một kiểu kết luận. Một kiểu kết luận dè dặt, giày-đế-mềm-phòng-xa. Một sự xuống dốc, nếu bạn muốn tôi nói thế. Biến nó thành một kịch bản phim, nhà làm phim ở Hollywood chỉ liếc mắt vào trang cuối là sẽ ném trả ngay. Nhưng nói gọn lại thì kiểu kết luận này phù hợp với con người tôi.
Ý tôi là, tôi không bắt đầu chạy bộ vì ai đó bảo tôi nên chạy bộ. Cũng như tôi không trở thành tiểu thuyết gia vì ai đó yêu cầu tôi làm thế. Một hôm, bất ngờ, tôi muốn viết một cuốn tiểu thuyết. Và một hôm, đột ngột, tôi bắt đầu chạy – đơn giản vì tôi muốn thế. Tôi luôn làm bất cứ cái gì mình cảm thấy thích làm trong đời. Người ta có thể cố ngăn tôi, và làm cho tôi thấy là tôi sai, nhưng tôi sẽ không thay đổi.
Tôi ngước nhìn bầu trời, tự hỏi không biết mình có thoáng thấy lòng nhân từ trên đó không, nhưng tôi không thấy. Tất cả những gì tôi thấy là những đám mây mùa hè hững hờ trôi trên bầu trời Thái B́nh Dương. Và chúng chẳng có gì để nói với tôi cả. Mây bao giờ cũng ít nói. Tôi có lẽ không nên nhìn lên chúng. Cái tôi nên nhìn là bên trong tôi. Như nhìn đăm đăm vào một cái giếng sâu. Tôi có thể nhìn thấy lòng nhân từ dưới đấy không? Không, tất cả những gì tôi nhìn thấy là bản tính của chính mình. Bản tính riêng biệt, cứng đầu, bất hợp tác, thường nghĩ quá nhiều về mình mà vẫn còn hoài nghi chính nó – bản tính mà, khi rắc rối xảy ra, cố tìm thấy cái gì ấy vui vẻ, hay cái gì đó gần như ngộ nghĩnh, nơi tình huống đó. Tôi đã mang theo tính cách này như một cái va li cũ, trên một con đường dài bụi bặm. Tôi không mang nó theo vì tôi thích nó. Cái chứa đựng bên trong quá trĩu nặng,và nó trông nhếch nhác, sờn rách loang lổ. Tôi đã mang nó theo mình vì không có gì khác tôi phải mang. Dù sao, tôi cho là mình đã trở nên gắn bó với nó. Như bạn cũng đoán được.

o O o

Vậy nên tôi đang tập luyện mỗi ngày cho cuộc đua Ba môn phối hợp thành phố Murakami ở quận Niigata. Nói khác đi, tôi vẫn còn kéo lê cái va li cũ đó, rất có thể là đi về một cái dốc xuống khác. Đến một sự chín chắn lầm lì, không tô điểm – hay, nói giản dị hơn, đến một ngõ cụt đang dần hiện rõ.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.