Trăng Lạnh

CHƯƠNG 33



Amelia Sachs bước vào một cửa hiệu thực phẩm bé tí bị bỏ hoang trong khu Tiểu Ý(72), phía nam Greenwich Village. Các ô kính cửa sổ được quét sơn kín và duy nhất một bóng đèn không chao chiếu sáng bên trong. Cánh cửa thông sang căn phòng đằng sau hé mở, để lộ một đống rác lớn, những chiếc giá cũ và những hộp xốt cà chua bụi bặm.

(72)Little Italia – tên chung cho các khu tiểu dân Ý ở Mĩ

Cái chốn trông giống như chốn vốn là câu lạc bộ của một băng nhóm tội phạm có tổ chức loại tẹp nhẹp, và thực tế cũng đúng vậy cho tới khi nó bị khám xét và đóng cửa cách đây một năm. Chính quyền thành phố tạm thời sở hữu nó và đang muốn bán rẻ đi, nhưng đến nay chưa có ai mua. Sellitto nói nó sẽ là địa điểm tốt, an toàn đối với một cuộc gặp gỡ nhạy cảm kiểu này.

Ngồi bên chiếc bàn ọp ẹp là Phó thị trưởng Robert Wallace và một cảnh sát trẻ mày râu nhẵn nhụi, một thám tử của Sở Nội vụ. Viên sĩ quan của Sở Nội vụ, Toby Henson, chào Sachs bằng một cái bắt tay rất chặt và một ánh mắt cho thấy nếu cô chấp nhận lời mời đi chơi với anh ta, anh ta sẽ đem đến cho cô buổi tối đáng nhớ cả đời.

Cô nghiêm nghị gật đầu, chỉ tập trung vào cái công việc khó khăn đang ở trước mặt. Cô đã suy nghĩ lại, nhìn bên trong cái hộp, như ý kiến thúc giục của Rhyme, và kết quả hóa ra là cực kì khó chịu.

“Cô bảo có một tình thế phức tạp à?”, Wallace hỏi, “Cô không muốn trao đổi trên điện thoại.”

Sachs trình bày với hai người đàn ông về Gerald Duncan và Dennis Baker. Wallace đã được nghe cơ bản câu chuyện, nhưng Henson ngạc nhiên cười thành tiếng. “Cái tay Duncan này, anh ta chỉ là một công dân? Và anh ta muốn gạt bỏ một cảnh sát biến chất? Đó là lí do tại sao anh ta đã hành động?”

“Phải.”

“Anh ta có những cái tên chứ?”

“Chỉ của Baker. Có khoảng tám hay mười người khác ở 118, tuy nhiên có một người nữa, một người chơi chính.”

“Một người nữa à?”, Wallace hỏi.

“Phải. Chúng tôi đang tìm kiếm một người với một mối liên hệ ở Maryland… Liệu chúng tôi có sai lầm không?”

“Maryland à?”, viên sĩ quan của Sở Nội vụ hỏi.

Sachs bật tiếng cười nghiêm trang. “Anh biết trò điện thoại chứ?”

“Chị muốn nói tới một trò của bọn trẻ con trong những bữa liên hoan? Một đứa thì thầm điều gì đó với đứa bên cạnh và khi thông tin truyền đi xung quanh bàn, nó trở nên sai lệch?”

“Phải. Nguồn tin của tôi nghe được là Maryland. Tôi thì nghĩ đó là Marilyn.”

“Một tên người?” Khi Sachs gật đầu, cặp mắt Wallace nheo lại. “Hẵng hượm, cô không muốn nói là…”

“Thanh tra Marilin Flaherti.”

“Chẳng thể nào.”

Thám tử Henson lắc đầu. “Đâu có nhẽ.”

“Tôi ước gì tôi nhầm. Nhưng chúng tôi nắm trong tay một số bằng chứng. Chúng tôi tìm thấy cát và dấu vết nước biển trong xe của Baker. Bà ta có ngôi nhà ở Connecticut, bên bãi biển. Và tôi đã bị ai đó đi một chiếc Mercedes AMG bám đuôi. Đầu tiên, tôi nghĩ đó là một băng nhóm từ Jersey hay Baltimore. Nhưng hóa ra Flaherti có sở hữu một chiếc Mercedes.”

“Một cảnh sát sở hữu một chiếc AMG?”, viên sĩ quan của Sở Nội vụ hỏi với vẻ không tin được.

“Đừng quên Flaherti là một cảnh sát kiếm mỗi năm vài trăm nghìn bất hợp pháp”, Sachs nghiêm khắc nói. “Và chúng tôi tìm thấy vài món tóc màu muối tiêu dài khoảng bằng tóc bà ta trong chiếc Explorer Baker đánh cắp từ nơi giam giữ xe của cảnh sát. Ồ, và hãy nhớ, bà ta dứt khoát không muốn Sở Nội vụ giải quyết vụ việc.”

“Đúng, điều ấy rất lạ lùng”, Wallace tán thành.

“Vì bà ta dự định sẽ vùi lấp tất cả. Giao nó cho một người của bà ta ‘giải quyết’. Nhưng rồi nó sẽ tan biến đi.”

“Tệ hại quá, một thanh tra”, anh chàng đẹp trai của Sở Nội vụ thì thào.

“Bà ta đang bị giam à?” Wallace hỏi.

Sachs lắc đầu: “Vấn đề là chúng tôi không thể tìm thấy số tiền. Chúng tôi không có lí do chắc chắn để gửi trát yêu cầu được xem xét tài khoản ngân hàng của bà ta hay giấy tờ để khám nhà bà ta. Bởi vậy chúng tôi cần ông.”

Wallace hỏi: “Tôi có thể làm gì?”

“Tôi đã đề nghị bà ta gặp chúng ta tại đây. Tôi sẽ tường thuật với bà ta những sự việc đã xảy ra, chỉ là tường thuật sơ qua thôi. Tôi muốn ông cho bà ta biết là chúng ta đã khám phá ra được là Baker có một kẻ cộng tác. Ông thị trưởng đã triệu tập một ủy ban đặc biệt và ông ấy sẽ dốc hết sức để lần đến bọn họ. Hãy nói với bà ta rằng Sở Nội vụ đảm nhận toàn bộ vụ này.”

“Cô nghĩ bà ta sẽ ngay lập tức xử lí số tiền đó và cô sẽ tóm cổ bà ta?”

“Đấy là điều chúng tôi hi vọng. Cộng sự của tôi sẽ cài một thiết bị theo dõi lộ trình trên xe bà ta khi bà ta ở trong này tối hôm nay. Và sau khi bà ta rời khỏi đây, chúng tôi sẽ bám đuôi… Nào; ông thấy việc nói dối bà ta có ổn không?”

“Không, tôi thấy không ổn.” Wallace nhìn xuống mặt bàn xù xì, bị khắc đầy các hình vẽ và chữ viết. “Nhưng tôi sẽ thực hiện được.”

Thám tử Toby Henson rõ ràng đã mất hết sự quan tâm đến chuyện hẹn hò trong tương lai với Sachs. Anh ta thở dài và đưa ra một đánh giá mà cô không thể nào không đồng tình. “Việc này sẽ tồi tệ đây.”

Nào, chúng ta đã học được gì?

Ron Pulaski, quen nghĩ là chúng ta vì có người anh em sinh đôi, tự hỏi.

Tức, ta đã học được gì khi giải quyết vụ này cùng Rhyme và Sachs?

Anh quyết tâm trở thành một cảnh sát giỏi nhất trong phạm vi khả năng của mình và anh dành rất nhiều thời gian đánh giá những gì mình đã làm đúng, những gì mình đã làm sai. Bây giờ, bước xuôi theo con phố về phía cái của hiệu thực phẩm cũ nơi Sachs đang gặp Wallace, anh thực sự không thể thấy mình đã làm hỏng bét việc gì ở vụ này. Ồ, chắc chắn rồi, anh đáng lẽ đã có thể khám nghiệm hiện trường chiếc Explorer tốt hơn. Và từ nay dứt khoát anh sẽ đeo vũ khí ra bên ngoài bộ áo liền quần Tivek – và không sử dụng các thế khóa họng, trừ phi hết sức cần thiết.

Nhưng về tổng thể? Pulaski đã thực hiện nhiệm vụ khá tốt.

Tuy nhiên, anh vẫn chưa hài lòng. Anh cho rằng cảm giác này xuất phát từ chỗ làm việc cho thám tử Sachs. Cô gái ấy yêu cầu cao. Luôn luôn có một cái gì đó nữa cần kiểm tra, một manh mối nữa cần tìm thấy, thêm một tiếng đồng hồ nữa trên hiện trường.

Có thể khiến người ta phát điên.

Cũng có thể dạy người ta trở thành một cảnh sát xuất sắc.

Bây giờ, Pulaski sẽ thực sự phải tiến lên, với việc Sachs rời lực lượng. Pulaski đã nghe tin đồn về việc này, tất nhiên, và nó khiến anh cảm thấy không vui. Nhưng anh sẽ làm những gì cần thiết. Dù sao, anh cũng không biết liệu có bao giờ anh có được lòng quyết tâm và nỗ lực như cô không. Suy cho cùng, lúc này, vội vã bước xuôi theo con phố lạnh băng, anh đang nghĩ về gia đình mình. Anh thật lòng chỉ muốn về nhà ngay. Nói chuyện với Jenny về ngày hôm nay của cô – không phải của anh, không không – và rồi chơi cùng bọn trẻ. Thích thú làm sao, khi quan sát ánh mắt cậu con trai. Nó thay đổi hoàn toàn và rất nhanh chóng – khi cu cậu nhận ra cái gì đó cu cậu chưa nhìn thấy bao giờ, khi cu cậu làm quen, khi cu cậu cười thành tiếng. Anh và Jenny cứ ngồi trên sàn với bé Brad bò tới bò lui ở giữa, những ngón tay bé tí của cu cậu túm lấy ngón tay cái của Pulaski.

Còn cô con gái mới sinh của họ? Cô bé tròn trĩnh và nhăn nheo như một quả bưởi già, nằm trong chiếc nôi mây Sponge Bob gần đó, vui vẻ, hoàn hảo.

Nhưng niềm vui gia đình của Pulaski phải đợi. Sau những gì sắp sửa xảy ra, sẽ là một đêm dài.

Anh kiểm tra số phố. Hai khối phố nữa là anh tới cái cửa hiệu nơi anh chuẩn bị gặp Amelia Sachs. Anh đang nghĩ: Ta đã học thêm được gì?

Một điều: Người ta dứt khoát nên tránh những con hẻm.

Một năm trước, Pulaski suýt nữa bị đánh chết vì đi quá sát một bức tường và có một đối tượng nấp ở góc tòa nhà. Gã đàn ông đã bước ra, vụt vào đầu anh bằng một cây côn.

Bất cẩn và ngu ngốc.

Như thám tử Sachs nói: “Trước đây anh chưa biết. Bây giờ thì anh biết rồi.”

Lúc này, đang tiến đến gần một con hẻm. Pulaski rẽ ngoặt sang phía tay trái, bước dọc theo lề đường – phòng trường hợp không chắc đã xảy ra là một kẻ nào đó, một tên trấn lột hoặc một gã nghiện, nấp trong con hẻm.

Anh ngoái lại và nhìn vào, thấy cái dải sỏi không bóng người. Nhưng ít nhất anh cũng khôn ngoan rồi. Làm cảnh sát là như thế, rút kinh nghiệm từ những bài học nhỏ và biến chúng thành một phần của…

Bàn tay túm lấy Pulaski từ đằng sau.

“Lạy chúa”, anh thở hổn hển trong lúc bị đẩy qua cửa một chiếc xe thùng đỗ bên lề đường, mà anh đã không trông thấy vì đang mải nhìn vào con hẻm. Anh thở hổn hển và bắt đầu cất tiếng kêu cứu.

Nhưng kẻ tấn công Pulaski – Phó thanh tra Halston Jeffreries, cặp mắt ông ta lạnh lẽo như vầng trăng trên đầu họ, lấy bàn tay bịt miệng chàng cảnh sát trẻ. Một người khác giật khẩu súng ngắn của anh và trong vòng vài giây anh biến mất vào phía sau chiếc xe thùng.

Cánh cửa đóng sầm lại.

* * *

Cửa trước cửa hiệu thực phẩm cũ mở ra và Marilin Flaherti bước vào, đóng cánh cửa lại đằng sau, cài chốt.

Không mỉm cười, bà ta nhìn xung quanh cái cửa hiệu hoang tàn, gật đầu chào các sĩ quan khác và Wallace. Sachs nghĩ bà ta trông thậm chí còn căng thẳng hơn bình thường.

Ông phó thị trưởng, giữ vẻ điềm tĩnh, giới thiệu Flaherti với viên thám tử của Sở Nội vụ. Bà ta bắt tay viên thám tử và ngồi xuống chiếc bàn méo mó, bên cạnh Sachs.

“Tuyệt mật, hả?”

Sachs nói: “Vụ này hóa ra là việc chọc vào tổ ông bắp cày.”

Sachs thận trọng quan sát gương mặt người đàn bà trong khi cô trình bày các chi tiết. Bà thanh tra giữ gương mặt lạnh lùng, không biểu cảm. Sachs tự hỏi liệu Kathryn Dance sẽ nhìn thấy gì trong tư thế cứng ngắc của bà ta, cặp môi mím chặt, ánh mắt tinh tường, lạnh lùng. Người đàn bà hầu như bất động.

Nữ thám tử nói với bà ta về kẻ cộng tác với Baker. Rồi thêm: “Tôi biết bà cảm thấy thế nào về Sở Nội vụ, nhưng, với tất cả sự tôn trọng bà, tôi đã quyết định rằng chúng ta cần đưa họ vào cuộc.”

“Tôi…”

“Tôi xin lỗi, bà thanh tra.” Sachs quay về phía Wallace.

Nhưng viên phó thị trưởng không nói gì. Ông ta đơn giản là lắc đầu, thở dài, rồi liếc nhìn viên sĩ quan Sở Nội vụ. Viên sĩ quan trẻ tuổi rút vũ khí ra.

Sachs chớp mắt. “Sao… Này, anh đang làm gì thế?”

Anh ta chĩa súng vào giữa cô và Flaherti.

“Chuyện này là sao?”, bà thanh tra hổn hển nói.

“Đó là một mớ bòng bong”, Wallace trả lời, nghe giọng gần như hối tiếc. “Đó thực sự là một mớ bòng bong. Cả hai người, đặt tay lên trên bàn.”

Viên phó thị trưởng quan sát họ, trong lúc Toby Henson đưa súng của mình cho Wallace chĩa vào hai người phụ nữ.

Henson hoàn toàn chẳng phải từ Sở Nội vụ, mà gã là một thám tử thuộc đồn 118, tham gia vào vòng trong của đường dây tống tiền, kẻ đã hỗ trợ Dennis Baker giết Sarkowski và Creeley. Bây giờ, gã xỏ vào đôi găng tay da và rút khẩu Glock của Sachs ra khỏi bao. Gã vỗ vỗ người cô xem còn khẩu súng dự trữ nào không. Không có. Gã lục soát cái sắc của bà thanh tra và tước lấy khẩu súng lục công vụ.

“Cô gọi tên sự việc đúng đấy, thám tử”, Wallace nói với Sachs đang choáng váng nhìn ông ta chằm chằm. “Chúng ta có một tình thế phức tạp… một tình thế phức tạp.” Ông ta rút điện thoại di động gọi cho một trong những cảnh sát canh chừng đằng trước cửa hiệu, cũng tham gia vào trong đường dây tống tiền, “Tất cả xong chưa?”

“Rồi.”

Wallace ngắt máy.

Sachs nói: “Ông à? Là ông à? Nhưng…” Cô quay đầu sang Flaherti.

Bà thanh tra hỏi: “Toàn bộ chuyện này là sao?”

Viên phó thị trưởng hất đầu chỉ bà thanh tra và nói với Sachs: “Sai lầm lớn. Bà ta chẳng liên quan gì. Dennis Baker và tôi từng là đối tác, tuy nhiên là đối tác làm ăn. Ở Long Island. Chúng tôi đã lớn lên ở đó. Cùng nhau mở một công ti tái chế. Bị phá sản và hắn vào học viện, trở thành cảnh sát. Tôi gây dựng chuyện làm ăn khác. Rồi tôi tham gia vào thể chế chính trị của thành phố và chúng tôi giữ liên lạc với nhau. Tôi trở thành người liên lạc cho cảnh sát và thanh tra viên, cảm nhận được những mưu đồ kiểu nào có thể thực hiện, những mưu đồ kiểu nào thì không. Dennis và tôi tìm thấy một mưu đồ có thể thực hiện.”

“Robert!”, Flaherti quát. “Không, không…”

“A. Marilyn…” là tất cả những gì gã đầu bạc có thể thốt lên.

“Vậy”, Amelia Sachs nói, đôi vai rũ xuống, “Kịch bản ở đây là gì?” Cô bật tiếng cười chán nản. “Bà thanh tra giết tôi rồi tự sát. Ông giấu một ít tiền vào nhà bà ta. Và…”

“Và Dennis sẽ chết trong tù, hắn dây vào với đám bạn tù bất hảo, ngã lộn cổ trên cầu thang, ai biết đâu đấy? Quá tệ. Nhưng hắn đáng lẽ đã phải thận trọng hơn. Không nhân chứng. Đó là cái kết thúc của vụ án.”

“Ông nghĩ bất cứ ai cũng có thể mua chuộc được? Một người nào đó ở đồn 118 sẽ rẽ hướng khác. Họ sẽ tóm cổ ông, sớm hay muộn.”

“Chà, xin lỗi cô, thám tử, nhưng chúng tôi phải dập tắt những đám cháy mà chúng tôi vướng vào, cô có nghĩ vậy không? Và cô là đám cháy lớn nhất mà chúng tôi vướng vào lúc này.”

“Nghe đây, Robert”, Flaherti nói, giọng gay gắt. “Ông đang gặp rắc rồi, nhưng chưa quá muộn đâu.”

Wallace xỏ vào đôi găng tay. “Kiểm tra lại ngoài phố đi, bảo chúng nó chuẩn bị xe sẵn sàng.” Viên phó thị trưởng cầm khẩu Glock của Sachs lên.

Gã đàn ông bước ra cửa.

Ánh mắt Wallace trở nên lạnh lùng trong lúc ông ta quan sát Sachs và nắm chắc khẩu súng ngắn trong tay.

Sachs chằm chằm nhìn thẳng vào ông ta. “Hẵng khoan.”

Wallace cau mày.

Sachs quan sát ông ta. Bình thản một cách bí hiểm trong hoàn cảnh như thế này, ông ta nghĩ. Rồi cô gọi. “Nhóm phản ứng nhanh số Một, vào đi.”

Wallace chớp mắt. “Cái gì?”

Trước sự bàng hoàng của viên Phó thị trưởng, một giọng đàn ông hét to từ căn phòng đằng sau tối om: “Không ai được động đậy! Không tôi sẽ bắn!”

Thế này là thế nào?

Thở hổn hển, Wallace nhìn vào, thấy một cảnh sát thuộc đơn vị Phản ứng nhanh đang đứng trên ngưỡng cửa thông giữa hai căn phòng, họng súng máy H&K của anh ta lia từ vị chính trị gia sang gã Henson đang đứng ở cửa trước.

Sachs thò tay xuống lấy cái gì đó dưới gầm bàn. Bàn tay cô đưa lên kèm theo một khẩu Glock. Cô hẳn đã bố trí nó ở đấy từ trước! Cô xoay người về phía trước, chĩa súng vào Henson. “Buông vũ khí! Nằm xuống sàn!” Người cảnh sát thuộc đơn vị Phản ứng nhanh lại hướng họng súng vào viên phó thị trưởng.

Wallace, nghĩ trong nỗi khiếp sợ: Ôi, lạy Chúa, đó là một cái bẫy… Một sự dàn dựng hoàn toàn.

“Nào!”, Sachs thét to nhắc lại.

Henson lẩm bẩm: “Như cứt.” Gã thực hiện mệnh lệnh.

Wallace vẫn cầm khẩu Glock của Sachs. Ông ta liếc nhìn xuống nó.

Mắt trông chừng Henson, Sachs hơi quay về phía Wallace.

“Khẩu súng ông đang cầm không nạp đạn. Ông sẽ chết chẳng vì lí do gì.”

Chán nản, Wallace buông khẩu súng xuống bàn và giơ hai tay lên.

Vẻ hoang mang, thanh tra Flaherti đẩy mạnh chiếc ghế dựa ra đằng sau, đứng bật dậy.

Sachs nói vào mic cài ở ve áo: “Các nhóm tập kích, bắt đầu.”

Cửa trước bị đẩy tung và sáu cảnh sát ập vào – các cảnh sát Đơn vị Phản ứng nhanh. Theo sau họ là Phó thanh tra Halston Jefferies và Giám đốc Sở Nội vụ. Đại úy Ron Scott. Một sĩ quan tuần tra trẻ tuổi cũng bước vào.

Các cảnh sát Đơn vị Phản ứng nhanh dùng sức mạnh ấn Wallace xuống sàn. Ông ta cảm thấy đau ở hông và các khớp xương. Henson cũng bị còng. Viên phó thị trưởng nhìn ra ngoài và thấy hai cảnh sát khác thuộc đồn 118, những kẻ đã đứng gác đằng trước. Bọn chúng đang nằm trên vỉa hè giá lạnh, bị còng.

“Một cách rất khó khăn để khám phá.” Amelia Sachs nói nhưng không với ai cả, trong lúc nạp đạn lại cho khẩu Glock và nhét nó vào bao. “Tuy nhiên, chắc chắn cách này sẽ trả lời các câu hỏi của chúng ta.”

Câu hỏi mà cô đề cập chẳng phải là về tội lỗi của Robert Wallace – họ đã biết trước ông ta là một trong những kẻ hợp tác với Baker, nó là câu hỏi liệu cả Marilin Flaherti có liên quan không.

Họ dàn dựng toàn bộ sự việc để biết được điều đó, đồng thời để ghi âm lời thú nhận của Wallace.

Lon Sellitto, Ron Scott, Halston Jefferies đã lập một trạm chỉ huy trong chiếc xe thùng đỗ phía bên trên con phố, đồng thời cũng đã bố trí một tay bắn tỉa của Đơn vị Phản ứng nhanh nấp ở căn phòng đằng sau nhằm đảm bảo rằng Wallace và gã cảnh sát kia chưa nhả đạn trước khi Sachs có cơ hội ghi âm cuộc đối thoại. Họ dự định Pulaski sẽ cùng một nhóm kiểm soát cửa trước, và một nhóm khác kiểm soát cửa hậu. Nhưng đến phút cuối cùng, họ phát hiện ra Wallace đem theo cảnh sát thuộc đồn 118, những người có thể đã bị mua chuộc hoặc có thể chưa, vì thế họ phải thay đổi kế hoạch một chút.

Thực tế là Pulaski suýt nữa đã chạm trán đám cảnh sát của Wallace gác bên ngoài cửa hiệu và làm hỏng bét tất cả.

Chàng cảnh sát trẻ nói: “Thanh tra Jefferies đẩy tôi vào chiếc xe chỉ huy ngay trước khi mấy gã đó kịp nhìn thấy tôi.”

Jefferies quát: “Bước đi ngoài phố cứ như là một chú bé Hướng đạo sinh. Cậu chàng, giương to mắt lên, nếu muốn sống sót ngoài phố.”

Sự giận dữ của viên thanh tra có vẻ nhẹ nhàng so với cơn thịnh nộ ngày hôm qua, Sachs tự nhủ. Ít nhất thì ông ta cũng không phun nước bọt.

“Vâng, thưa sếp. Tôi sẽ thận trọng hơn trong tương lai.”

“Lạy Chúa, bây giờ bạ ai người ta cũng cho vào học viện được.”

Sachs cố gắng không mỉm cười. Cô quay sang Flaherti. “Xin lỗi, bà thanh tra. Chỉ là chúng tôi muốn biết chắc chắn rằng bà không phải một người tham gia vào cuộc chơi với bọn họ.” Cô giải thích sự ngờ vực của mình và những manh mối khiến cô nghĩ bà thanh tra có thể đã hợp tác cùng Baker.

“Chiếc Mercedes à?”, Flaherti hỏi. “Chắc chắn rồi, nó là của tôi. Và, chắc chắn, cô đã bị bám đuôi. Tôi yêu cầu một sĩ quan Sở Nội vụ để mắt tới cô và Pulaski. Cả hai đều trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm. Hai người có thể hành động quá mức cần thiết. Tôi đưa xe tôi cho anh ta sử dụng vì nếu một chiếc xe công vụ thì ngay lập tức hai người sẽ chú ý tới.”

Chiếc xe đắt tiền thực tế đã khiến Sachs bắt đầu suy nghĩ theo hướng khác. Cô tự hỏi, nếu các băng nhóm không dính líu vào, phải chăng Pulaski đánh giá sai đối tác của Creeley, Jordan Kessler, và vị doanh nhân có thể đã phần nào dính líu vào những cái chết ấy. Cô phỏng đoán có thể Creeley và Sarkowsky vướng vào một trong những cuộc điều tra kiểu công ti Enron gần đây và bị thủ tiêu vì họ biết gì đó về chuyện lừa đảo doanh nghiệp tại một công ti khách hàng. Kessler xem chừng là người chơi duy nhất trong cuộc chơi này có khả năng mua một chiếc xe như chiếc AMG Mers.

Nhưng bây giờ thì Sachs nhận ra rằng toàn bộ vụ án liên quan đến những cảnh sát biến chất, và chỗ tro ở lò sưởi nhà Creeley chẳng phải từ các sổ sách kế toán bị sửa chữa, mà đơn giản là chứng cứ mà bọn chúng đốt đi để chắc chắn đã hủy mọi ghi chép về khoản tiền được nộp cho bọn chúng, như cô phỏng đoán lúc đầu.

Sự chú ý của bà thanh tra chuyển sang Robert Wallace. Bà ta hỏi Sachs: “Làm sao cô phát hiện ra ông ta?”

“Cho ông ta biết đi, Ron,” Sachs yêu cầu Pulaski.

Chàng cảnh sát trẻ gật đầu: “Thám tử Sachs đây đã xác minh…” Anh ngừng lại. “Thám tử Sachs đã tìm thấy một loạt dấu vết trong xe và nhà Baker khiến chúng tôi có ý nghĩ là, chà, khiến thám tử Sachs và thám tử Rhyme có ý nghĩ là có thể cái người thứ hai có dính líu sống gần một bãi biển hay một bến cảng.”

Sachs tiếp tục: “Tôi không nghĩ Phó thanh tra Jefferies có dính líu bởi ông ấy sẽ không yêu cầu gửi một hồ sơ tới chính đồn mình phụ trách nếu ông ấy muốn hủy nó. Một người khác đã yêu cầu gửi nó tới đó và lấy nó đi trước khi nó được vào sổ. Tôi quay lại gặp ông ấy và hỏi liệu có người nào đấy gần đây đã tới phòng hồ sơ không, người nào đấy có thể có mối liên quan đến vụ án. Có một người. Là ông.” Một cái liếc nhìn sang Wallace. “Rồi tôi đặt ra câu hỏi hợp logic tiếp theo. Ông có mối liên hệ nào với Maryland không? Và chắc chắn ông có. Chỉ có điều không phải một mối liên hệ lộ liễu.”

Tư duy bên trong chiếc hộp.

“Ôi, lạy chúa”, Wallace lẩm bẩm. “Baker bảo tôi rằng cô đã nhắc tới Maryland. Nhưng tôi không bao giờ nghĩ cô sẽ phát hiện ra được.”

Ron Scott, Giám đốc Sở Nội vụ, nói với Flaherti: “Wallace có một con thuyền đậu ở khu bờ nam Long Island. Đăng kí ở New York nhưng đóng ở Annapolis. Nó tên là Maryland Monroe.” Scott nhìn Wallace và bật tiếng cười lạnh lùng “Những người chơi thuyền các ông thực sự thích chơi chữ.”

Sachs nói: “Cát, rong biển, dấu vết nước mặn trong xe và nhà Baker phù hợp với những thứ đó ở bến tàu của ông ta. Chúng tôi xin một lệnh khám xét và lục soát con thuyền. Có một số bằng chứng xác đáng. Các số điện thoại, tài liệu, dấu vết. Hơn bốn triệu tiền mặt, ồ, và rất nhiều ma túy nữa. Rất nhiều rượu, có lẽ là bất hợp pháp. Nhưng tôi xin nói rằng rượu sẽ là vấn đề ít nghiêm trọng nhất đối với ông.”

Ron Scott gật đầu ra hiệu cho hai cảnh sát Đơn vị Phản ứng nhanh. “Đưa ông ta vào thành phố. Trung tâm tạm giam.”

Trong khi bị dẫn ra ngoài, Wallace nói vọng lại: “Tôi sẽ im lặng. Nếu các người nghĩ là tôi sẽ nêu vài cái tên, các người có thể quên chuyện đó đi. Tôi sẽ không thú nhận.”

Flaherti bật tiếng cười đầu tiên Sachs nghe thấy: “Ông điên à Robert? Nghe như họ đã tập hợp được đầy đủ bằng chứ để tống khứ ông vĩnh viễn rồi. Ông chẳng cần nói một lời đâu.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.