Trăng Lạnh

CHƯƠNG 35



Lon Sellito quay lại nhà Rhyme, tức giận đi tới đi lui.

Có vẻ như luật sư của Duncan đã gặp viên trợ lí ủy viên công tố bang và đạt được thỏa thuận là với một bản khai thừa nhận tội lỗi, một khoản tiền một trăm nghìn đô la đền bù cho việc huy động cảnh sát và lực lượng cứu hỏa, cùng với một cam kết bằng văn bản rằng sẽ làm chứng buộc tội Baker, gã thoát mọi tội hình sự, và sẽ bị bắt lại nếu không giữ lời cam kết xuất hiện trước tòa làm chứng chống Baker. Gã chẳng hề bị lấy dấu vân tay hay ghi biên bản giam giữ.

Viên thám tử to béo quần áo nhàu nhĩ nhìn chằm chằm chiếc máy điện thoại, mắt quắc lên, tay chống nạnh, y như chính chiếc máy điện thoại là thằng ngốc bất tài đã thả một kẻ có khả năng giết người.

Sự tự vệ bộc lộ rõ ràng trong giọng ông công tố viên. “Chẳng còn cách nào khác để anh ta hợp tác”, người đàn ông nói. “Anh ta được đại diện bởi một luật sư của công ti Hoàng tử Reed. Anh ta chịu nộp hộ chiếu. Tất cả đều đúng quy tắc. Anh ta đồng ý vẫn thuộc phạm vi kiểm soát của cơ quan pháp luật cho tới lúc xử Baker. Tôi đã bố trí cho anh ta ở tại một khách sạn trong thành phố, cắt cử một cảnh sát canh chừng. Anh ta sẽ không đi đâu. Có gì mà to chuyện? Tôi làm như thế này hàng trăm lần rồi.”

“Bên Westchester thì sao?”Rhyme quát vào mic điện thoại “Cái xác bị đánh cắp thì sao?”

“Họ đồng ý không khởi tố. Tôi báo là chúng ta sẽ dành cho họ sự giúp đỡ mà họ đang cần với mấy vụ khác.”

Ông công tố viên có thể coi vụ này như chiếc nhẫn vàng trong sự nghiệp của ông ta, việc tiêu diệt được một đường dây cảnh sát tham nhũng sẽ khiến ông ta vụt nổi tiếng.

Rhyme lắc đầu, tức điên. Sự bất tài và thói tham vọng cá nhân khiến anh giận dữ. Thật khó khăn để làm công việc này mà không bị can thiệp bởi các quan chức. Chết tiệt thế nào mà chẳng có ai gọi cho anh trước khi thả Duncan ra? Thậm chí chưa có ý kiến của Kathryn Dance về đoạn băng phỏng vấn, cũng vẫn còn quá nhiều câu hỏi chưa được trả lời.

Sellitto quát: “Hắn đang ở đâu?”

“Dù sao, bằng chứng nào…?”

“Hắn đang ở chỗ quái nào?”, Sellitto tức giận hỏi.

Ông công tố viên lưỡng lự nói cho họ biết tên một khách sạn ở khu Midtownvà số điện thoại di động của người cảnh sát canh chừngDuncan.

“Tôi gọi đây.”Cooperbấm số điện thoại.

Sellitto tiếp tục. “Và luật sư của hắn là ai?”

Viên trợ lí úy viên công tố bang cũng cho họ biết tên người này. Ông ta nói giọng căng thẳng: “Tôi thật lòng không hiểu toàn bộ sự ầm ĩ này là…”

Sellitto dập máy. Ông ta nhìn Dance. “Tôi chuẩn bị nhấn một số nút nghiêm trọng. Chị biết tôi đang nói gì chứ?”

Dance gật đầu. “Ở California, chúng tôi cũng gặp những trường hợp rất phiền phức. Nhưng tôi cảm thấy thoải mái với ý kiến của mình. Hãy làm bất cứ việc gì có thể để tìm thấy hắn. Tôi muốn nói là tất cả mọi việc. Tôi sẽ trình bày đúng ý kiến ấy với bất cứ ai anh muốn tôi trình bày. Giám đốc Sở, thị trưởng, thống đốc.”

Rhyme nói vói Sachs: “Thử xem vị luật sư biết gì về hắn.”

Cô lấy tên ông ta, mở điện thoại di động đánh tách. Tất nhiên, Rhyme biết về công ti Hoàng tử Reed. Đó là một công ti luật lớn, được kính trọng, ở mạn dưới Broadway. Các luật sư thuộc công ti này nổi tiếng với những vụ bảo vệ cho những tội phạm thuộc giới trí thức, thu hút nhiều sự chú ý.

Bằng giọng nghiêm trang. Cooper thông báo: “Chúng ta gặp phải một vấn đề. Liên quan đến người cảnh sát ở khách sạn, canh chừng Duncan. Anh ta vừa kiểm tra phòng hắn. Hắn biến mất rồi, Lincoln.”

“Cái gì?”

“Người cảnh sát nói tối hôm qua hắn đi ngủ sớm, bảo rằng hắn cảm thấy không khỏe và hắn muốn hôm nay dậy muộn. Trông có vẻ hắn đã cạy khóa sang căn phòng sát bên cạnh. Người cảnh sát không biết việc này xảy ra khi nào. Chắc hẳn đêm hôm qua.”

Sachs nắm chặt chiếc điện thoại. “Hoàng từ Reed không có luật sư nào mang tên như đã nói với ông công tố viên. Và Duncan chẳng phải khách hàng của họ.”

“Ôi, mẹ kiếp”, Rhyme quát to.

“Thôi được”, Sellitto nói. “Tới lúc phải mời đến kỵ binh.” Ôngta gọi cho Bo Haumann chỉ huy Đơn vị Phản ứng nhanh và bảo rằng họ cần bắt đối tượng tình nghi lại ngay. “Chỉ có điều chúng tôi chẳng biết chính xác hắn đang ở đâu.”

Sellitto cung cấp cho vị sĩ quan chỉ huy chiến thuật những chi tiết ít ỏi mà họ đang nắm. Phản ứng của Haumann, mà Rhyme không nghe thấy, tuy nhiên suy ra được từ lời Sellitto. “Anh chẳng cần nói với tôi, Bo ạ.”

Sellitto để lại lời nhắn cho chính ủy viên công tố bang, rồi gọi cho Tòa nhà Lớn thông báo tình hình.

“Tôi muốn tìm hiểu thêm về hắn”, Rhyme nói với Cooper “Chúng ta đã tự mãn quá đáng. Chúng ta chưa hỏi đầy đủ.” Anh liếc nhìn Dance. “Kathryn, tôi thực sự không muốn đề nghị việc này…”

Cô đang cất điện thoại di động. “Tôi đã hủy chuyến bay rồi.”

“Tôi xin lỗi. Đây không hẳn là vụ của chị.”

“Nó là vụ của tôi kể từ lúc tôi phỏng vấn tay Cobb hôm thứ Ba”, Dance nói, cặp mắt màu xanh lá cây lạnh lùng và đôi môi bĩu ra.

Cooper đang chạy những thông tin họ đã biết được về Gerald Duncan. Anh ta lập một danh sách số điện thoại và bắt đầu gọi. Sau mấy cuộc trao đổi, anh ta nói: “Nghe này. Hắn không phải là Duncan. Cảnh sát bang Missouri đã điều xe tới cái địa chỉ ghi trên bằng lái. Đúng, chủ sỡ hữu ngôi nhà mang tên Gerald Duncan, nhưng không phải gã Gerald Duncan của chúng ta. Người đàn ông sống ở đó đã chuyển đến Anchoragedo yêu cầu công việc cách đây sáu tháng. Ngôi nhà hiện tại bỏ không và đang chờ cho thuê. Ảnh anh ta đây.”

Bức ảnh lấy từ bằng lái xe chụp một người đàn ông rất khác gã đàn ông họ bắt ngày hôm qua.

Rhyme gật đầu. “Xuất sắc. Hắn đọc báo để kiểm tra các tin rao cho thuê nhà, tìm thấy một ngôi nhà đã được rao lâu rồi và tính toán rằng trong vòng vài tuần nữa nó vẫn chưa được cho thuê vì vướng lễ Giáng sinh. Cũng giống như đối với ngôi nhà thờ vậy. Và hắn làm giả tấm bằng lái xe mà chúng ta xem. Cả hộ chiếu nữa. Chúng ta đánh giá quá thấp gã này ngay từ đầu.”

Cooper, nhìn chằm chằm vào máy vi tính, gọi to: “Chủ sở hữu ngôi nhà kia, Duncan thật, gặp một số vấn đề về thẻ tín dụng. Thông tin cá nhân bị đánh cắp.”

Lincoln Rhyme cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc thân mình, phần cơ thể mà theo lí thuyết anh không cảm thấy được gì cả. Anh có cảm giác rằng một tai họa vô hình đang lộ ra nhanh chóng.

Dance nhìn gương mặt bất động của Duncan cũng chăm chú y như Rhyme nhìn các bảng chứng cứ. Cô nói với vẻ trầm ngâm: “Hắn thực sự đang toan tính điều gì?”

Một câu hỏi họ chưa thể bắt đầu trả lời được.

Ở trên tàu điện ngẩm, Charles Vespasian Hale, gã đàn ông đã giả dạng Gerald Duncan, Thợ Đồng Hồ, kiểm tra chiếc đồng hồ đeo tay (chiếc đồng hồ Breguet bỏ túi mà gã yêu quý không phù hợp với vai trò gã chuẩn bị sắm).

Tất cả đã theo đúng kế hoạch. Gã đang đáp chuyến tàu xuất phát từ Brooklyn, nơi gã có ngôi nhà bí mật đầu tiên, mang tâm trạng đề phòng và cả hổi hộp nữa.

Tất nhiên, câu chuyện về bản thân mình trong quá khứ mà Hale kể cho Vincent Reynolds hầu như chả có gì là sự thật. Nó không thể nào là sự thật được. Gã đã lập kế hoạch dài hơi với cái công việc của gã và gã biết rằng kẻ hiếp dâm xốp xồm xộp kia sẽ khai tông tốc tất cả cho cảnh sát ngay khi vừa bi đe dọa.

Ra đời tại Chicago, Hale là con trai một thầy giáo dạy tiếng Latin bậc trung học (vì thế gã có cái tên lót đặt theo tên một vị hoàng đế La Mã cao quý) và một phụ nữ quản lí gian bán các món đồ đẹp đẽ xinh xinh ở một cửa hiệu ngoại ô thuộc hệ thống công ti Sears. Cặp vợ chồng chẳng bao giữ nói nhiều, chẳng làm nhiều. Tối tối, sau bữa ăn yên lặng, cha gã đến chỗ những cuốn sách, mẹ gã đến chỗ chiếc máy khâu. Đối với họ, một hoạt động kiểu gia đình có thể là ngồi vào hai chiếc ghế riêng rẽ, trước chiếc ti vi nhỏ, theo dõi những bộ phim sitcom vớ vẩn và những vở kịch vụ án vừa xem vừa đoán được tình tiết chúng tạo ra cho họ thứ phương tiện giao tiếp độc nhất vô nhị – bằng cách bình luận về những diễn biến trên màn hình, họ bày tỏ với nhau những mong mỏi, những nỗi bất mãn mà họ không có đủ can đảm để thổ lộ trực tiếp.

Yên lặng…

Đứa con trai hầu như suốt đời là kẻ cô độc. Gã là đứa con xuất hiện bất ngờ và cha mẹ gã cư xử với gã bằng cung cách trang trọng, lãnh đạm, giễu cợt, y như gã là một loài thực vật mà họ không chắc chắn phải tưới nước, bón phân ra sao. Biết bao nhiêu tiếng đồng hồ lẻ loi, tẻ nhạt đã trở thành một vết thương hở, và Charles cảm thấy nỗi mong muốn đến tuyệt vọng bận rộn làm cái gì đó cho hết thời gian, vì sợ sự tĩnh lặng nhức nhối trong ngôi nhà sẽ bóp nghẹt gã.

Hết giờ này sang giờ khác, gã ở bên ngoài – đi bộ hoặc trèo cây. Vì một lí do nào đấy mà người ta dễ chịu đựng tình trạng cô đơn hơn khi người ta ở bên ngoài trời. Luôn luôn có cái gì đó khiến người ta phân tán tư tường, luôn luôn có cái gỉ đó người ta sẽ tìm thấy bên kia ngọn đồi tiếp theo, ở cái cành tiếp theo trên cây thích. Gã tham gia câu lạc bộ sinh học ngoài trời ở trường. Gã tham gia các cuộc thám hiểm của tố chức Huấn luyện Dã ngoại(77) và bao giờ cũng là người đầu tiên vượt qua chiếc cầu treo, lao xuống nước từ các vách đá, tụt xuống sườn núi theo dây thừng.

(77) Outward Bound expeditions: một tổ chức phi lợi nhuận xây dựng các chương trình thám hiểm thế giới hoang dã.

Nếu bắt buộc phải ở trong nhà, Charles hình thành thói quen lấp đầy thời gian bằng việc sắp xếp ngăn nắp các vật. Việc sắp xếp các dụng cụ văn phòng phẩm, những cuốn sách vả đồ chơi có thể không ngừng lấp đầy biết bao nhiêu tiếng đồng hồ nhức nhối. Gã không lẻ loi khi làm việc ấy, gã không đau đớn bởi buồn chán, gã không sợ sự yên lặng.

Mày có biết không, Vincent, rằng từ meticulous (thận trọng, tỉ mỉ) xuất phát từ từ meticulosus trong tiếng Latin, có nghĩa là sợ hãi?

Khi các thứ không chính xác và lộn xộn, Charles hay rơi vào trạng thái bị kích động, thậm chí nếu sai sót chỉ là cái gì đó ngớ ngẩn như một thanh ray tàu hỏa bị lệch hay một nan hoa xe đạp bị cong. Gã sợ bất cứ cái gì không trôi chảy cũng giống như người khác sợ tiếng móng tay dí ken két trên một tấm bảng đen vậy.

Cuộc hôn nhân của cha mẹ gã chẳng hạn. Sau khi cha mẹ gã li dị, gã chưa bao giờ nói chuyện lại với họ. Cuộc đời phải trật tự và hoàn hảo. Khi nó không thể anh nên được tự do loại bỏ tất cả các yếu tố lộn xộn. Gã chẳng cầu nguyện (chẳng có bằng chứng thực tế nào cho thấy người ta làm cho cuộc đời trật tự hay đạt được mục tiêu thông qua sự giao tiếp với thánh thần), nhưng giả dụ như gã cầu nguyện, gã sẽ cầu nguyện cho tất cả các yếu tố lộn xộn biến mất.

Hale tham gia quân đội hai năm, ở đó gã phát triển mạnh mẽ trong môi trường của kỉ cương trật tự. Gã đi học tại trường đào tạo hạ sĩ quan và được các giáo sư chú ý. Sau khi gã được phong hàm sĩ quan, họ đề nghị gã dạy lịch sử quân sự và xây dựng kế hoạch chiến lược, chiến thuật, những lĩnh vực mà gã rất xuất sắc.

Giải ngũ, Hale dành một năm cho môn đi bộ việt dã và leo núi ở châu Âu. Rồi gã trở về Mỹ và làm nghề huy động vốn đầu tư mạo hiểm, học thêm luật buổi tối.

Gã làm luật sư một thời gian và xuất sắc trong việc xây dựng các hợp đồng kinh doanh. Gã kiếm được rất nhiều tiền, nhưng nỗi cô đơn không rời khỏi cuộc đời gã. Gã lảng tránh những mối quan hệ vì chúng đòi hỏi sự ứng biến và đầy những hành vi phi lí. Càng ngày niềm đam mê lập kế hoạch và đưa mọi vật vào trật tự càng thay thế vai trò của một người tình. Và cũng giống như bất cứ ai thay thế một mối quan hệ có thật bằng một nỗi ám ảnh. Hale nhận ra mình đang tìm kiếm những cách mạnh mẽ để thỏa mãn bản thân.

Sáu năm trước, gã tìm thấy giải pháp hoàn hảo. Gã đã giết nạn nhân đầu tiên.

Sống ở San Diego, Hale biết chuyện một người cộng tác kinh doanh với gã bị thương nặng. Một thằng lái xe say rượu đâm vào xe anh ta. Tai nạn khiến phần hông anh ta nát bét và cả hai chân đều gãy đôi – một chân phải cắt bỏ. Thằng lái xe không bày tỏ bất cứ chút ăn năn nào, khăng khăng không chịu nhận mình đã sai, chẳng những thế còn đổ lỗi gây ra tai nạn lên chính nạn nhân. Thằng du côn bị kết án nhưng, vì là lần đầu tiên phạm tội, hắn được hưởng án nhẹ. Rồi hắn bắt đầu quấy rối người bạn làm ăn của Hale để vòi tiền.

Hale quyết định rằng không thể cho thằng kia tiếp tục. Gã đi đến một kế hoạch tỉ mỉ nhằm khiến thằng ranh con phải phát khiếp mà dừng lại. Nhưng khi gã xem xét toàn bộ kế hoạch, gã nhận ra nó làm gã cảm thấy thiếu thoải mái, bực bội. Kế hoạch ấy có cái gì đó vụng về. Nó không trật tự một cách chính xác như ý gã muốn. Cuối cùng, gã nhận ra vấn đề. Kế hoạch của gã khiến nạn nhân khiếp sợ, tuy nhiên vẫn sống. Nếu thằng nhãi kia chết, thì kế hoạch mới hoàn hảo và chẳng còn dấu vết nào dẫn tới Hale hay người bạn bị thương được.

Nhưng liệu gã có thể thực sự giết người không? Cái ý tưởng nghe hoàn toàn trái với lẽ thường.

Có hay không?

Vào một đêm tháng Mười mưa gió, Hale đi đến quyết định.

Vụ án mạng diễn ra hoàn hảo và cảnh sát chẳng hề ngờ vực cái chết của tay thanh niên là cái gì khác ngoài một tai nạn điện giật tại nhà.

Hale chuẩn bị tinh thần là minh sẽ cảm thấy hối hận. Nhưng không, gã đã không cảm thấy hối hận gì. Thay vào đó là sự mê li. Kế hoạch được thực hiện quá hoàn hảo, cái thực tế là hắn vừa giết người không thành vấn đề.

Con nghiện muốn có thêm thuốc.

Chẳng bao lâu sau đó, Hale tham gia vào một dự án kinh doanh ở Mexico City – xây dựng những khu vực điền trang sang trọng. Tuy nhiên, một quan chức tham nhũng đã gây ra đủ các trở ngại hòng khiến vụ làm ăn thất bại. Đối tác người Mexico của Hale cho biết kẻ ti tiện này đã hành động như vậy nhiều lần.

“Thật đáng tiếc nếu không loại bỏ được hắn”, Hale nói nhũn nhặn.

“Ổ, chẳng bao giờ loại bỏ được hắn đâu”, người bạn Mexico nói. “Anh có thể bảo là hắn bất khả xâm phạm.”

Điều này khiến Hale chú ý. “Tại sao?”

Tay ủy viên hội đồng thành phố này, người bạn Mexico giải thích, bị ám ảnh về vấn đề an ninh. Hắn đi một chiếc SUV bọc sắt to tướng, một chiếc Cadillac đặt sản xuất riêng, và luôn luôn mang theo vệ sĩ có trang bị vũ khí. Công ti nhận bảo vệ cho hắn liên tục thay đổi các tuyến đường để đi lại giữa nhà hắn và văn phòng, các cuộc gặp gỡ. Hắn chuyển gia đình từ ngôi nhà này sang ngôi nhà khác một cách ngẫu nhiên, và thường xuyên thậm chí không ở trong những ngôi nhà của chính hắn mà ở nhà bạn bè hoặc nhà thuê. Và hắn thường xuyên đi ra ngoài cùng đứa con trai còn ít tuổi – người ta đồn đại rằng hắn giữ thằng bé ở gần làm tấm mộc. Tay ủy viên hội đồng cũng được một bộ trưởng nội vụ liên bang cao cấp che chở.

“Vậy, anh có thể bảo là hắn bất khả xâm phạm”, người bạn Mexico nói trong lúc rót đầy hai li Patrón, loại rượu tequila rấtđắt tiền.

“Bất khả xâm phạm”, Haletrầm ngâm thì thầm. Gã gật đầu.

Chẳng bao lâu sau cuộc gặp gỡ, năm bài báo có vẻ không liên quan gì đến nhau xuất hiện trên tờ El Heraldo de Mexico số ra ngày hai ba tháng Mười.

• Một vụ hỏa hoạn xảy ra tại Mexicana Seguridad Privado, công ti cung cấp các dịch vụ an ninh, khiến toàn bộ nhân viên phải sơ tán. Không có báo cáo nào về thương vong và thiệt hại không đáng kể.

• Một hacker đã làm tắt máy chủ của một nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động, khiến dịch vụ bị gián đoạn tại một phần Mexico City và khu vực ngoại ô phía nam trong hai tiếng đồng hồ.

• Một chiếc xe tải bốc cháy giữa quốc lộ 160, phía nam Mexico City, gẩn Chalco, gây tắc nghẽn hoàn toàn tuyến giao thông lên phía bắc.

• Henri Porfirio, Chủ tịch ủy ban cấp giấy phép kinh doanh bất động sản thành phố, qua đời khi chiếc SUV của ông làm sập cây cầu một làn đường, rơi thẳng từ trên cao mười hai mét xuống một xe tải chở propane(78) đang đỗ và nổ tung. Tai nạn xảy ra khi các lái xe đang theo những hướng dẫn từ bốt chỉ đường để rời khỏi quốc lộ, rẽ vào một đường nhánh để tránh một vụ ùn tắc giao thông lớn. Các xe khác trước đó đã vượt qua cây cầu an toàn, tuy nhiên, xe ông ủy viên hội đồng, vì bọc thép, quá nặng đối với cây cầu cũ kĩ, mặc dù có một tấm biển báo cây cầu chịu được trọng lượng xe SUV. Người phụ trách an ninh của Porfirio biết về vụ ùn tắc giao thông và cố gắng liên lạc để hướng dẫn cho ông một tuyến an toàn hơn nhưng không được, vì không kết nối được với điện thoại di động của ông. Xe ông là xe duy nhất rơi khỏi cầu.

Con trai Porfirio không ở trong chiếc SUV, đáng lẽ nó sẽ đi cùng ông. Ngày hôm trước bị ngộ độc nhẹ do thức ăn, cậu bé ở nhà với mẹ.

(78) Khí cháy, không màu, không mùi, bốc cháy ở 465°C.

• Erasmo Saleno, quan chức nội vụ cao cấp thuộc chính quyền liên bang Mexico, bị bắt sau khi một nguồn tin bí mật đưa cảnh sát tới ngôi nhà nghỉ mùa hè của ông ta, tại ngôi nhà họ tìm thấy vũ khí và cocaine được cất giấu (điều kì lạ là các phóng viên cũng được báo động, trong đó có một nhiếp ảnh gia có quan hệ với tờ Thời báoLos Angeles).

Tất cả là những tin tức được đăng trong một ngày.

Một tháng sau, dự án bất động sản của Hale bắt đầu triển khai và gã nhận từ người bạn làm ăn ở Mexico khoản chia thêm năm trăm nghìn đô la tiền mặt.

Gã hài lòng với món tiền. Tuy nhiên, gã còn hài lòng hơn với những mối quan hệ gã thiết lập được thông qua nhà doanh nghiệp Mexico. Chẳng bao lâu sau, nhà doanh nghiệp này lại giới thiệu gã với một người ớ Mỹ có nhu cầu về các dịch vụ tương tự.

Bây giờ, mỗi năm vài lần, giữa các dự án kinh doanh. Hale lại nhận một nhiệm vụ như thế. Thông thường là sát nhân, tuy nhiên gã cũng tham gia vào những âm mưu tài chính, lừa đảo bảo hiểm, và ăn trộm tinh vi. Hale làm việc cho bất cứ ai, vì bất cứ động cơ gì, những việc ấy không can hệ đến gã. Gã chẳng quan tâm tại sao ai đó lại muốn một tội ác được thực hiện. Gã đã hai lần giết những ông chồng lăng mạ vợ. Gã giết một kẻ gạ gẫm trẻ con một tuần trước khi giết một nữ doanh nhân là một Mạnh Thường Quân lớn cho Con đường thống nhất(79).

(79) United Way: liên minh các tổ chức từ thiện ở Mỹ.

Định nghĩa tốt vàxấu của CharlesVespasian Hale khác với của mọi người. Tốt là sự hào hứng về tinh thần. Và xấu là sự buồn chán. Tốt là một kế hoạch tinh vi được thực hiện suôn sẻ, và xấu là một kế hoạch cẩu thả hoặc một kế hoạch được thực hiện bất cẩn.

Nhưng âm mưu hiện tại của Hale – chắc chắn là âm mưu tinh vi và có ảnh hưởng nhất – đang được thực hiện một cách hoàn hảo.

Chúa sáng tạo ra bộ máy phức tạp của vũ trụ, rồi lên dây cót và cho nó bắt đầu chạy…

Hale rời tàu điện ngầm và leo lên phố, mũi gã đau nhói vì lạnh, cặp mắt chảy nước, và gã bắt đầu đi bộ dọc theo vỉa hè. Gã chuẩn bị nhấn nút để những chiếc kim trên thiết bị bấm giờ đích thực của gã bắt đầu chạy.

Điện thoại của Lon Sellitto đổ chuông và ông ta nhận cuộc gọi. Cau mày, ông ta trao đổi mấy câu ngắn gọn. “Tôi sẽ xem xét.”

Rhymengẩng nhìn vẻ chờ đợi.

“Haumann. Anhấy vừa nhận một cú điện thoại từ người quản lí một công ti chuyên phát bưu phẩm ở cùng tầng với cái công ti mà Thợ Đồng hồ đột nhập tại khu Midtown. Người quản lí nói một khách hàng vừa gọi điện. Một phong bì đáng lẽ phải giao ngày hôm qua lại chẳng thấy đâu cả. Xem chừng ai đó đã đột nhập và đánh cắp nó vào khoảng thời gian chúng ta đang rà soát văn phòng tìm kiếm đối tượng. Người quản lí hỏi liệu chúng ta có biết gì không.”

Ánh mắt Rhyme đưa sang những bức hình Sachs chụp dãy hành lang. Chúa phù hộ cho cô, cô đã chụp toàn bộ tầng đó. Phía dưới tên công ti chuyển phát bưu phẩm là dòng chữ An ninh nghiêm ngặt – Chuyển phát bảo đảm những thứ có giá trị.

Rhyme nghe thấy tiếng mọi người nói lao xao xung quanh anh. Tuy nhiên anh không nghe thấy rõ ràng từng lời. Anh đăm đăm nhìn bức ảnh, rồi lại nhìn các chứng cứ khác.

“Sự tiếp cận vấn đề.” Rhymethì thào.

“Sao cơ?”, Sellitto cau mày hỏi.

“Chúng ta quá tập trung vào Thợ Đồng Hồ và các vụ giết người giả, rồi tiếp theo vào kế hoạch tiêu diệt Baker của hắn, chúng ta đã không xem xét điều gì khác đang diễn ra.”

“Là điều gì?”, Sachs hỏi.

“Việc đột nhập. Tội mà hắn thực tế đã phạm là tội xâm nhập trái phép. Tất cả những văn phòng ở tầng đó đều không được gác mất một lúc. Khi người ta sơ tán tòa nhà, người ta để các cửa mở?”

“Chà, phải, tôi cho là vậy”, viên thám tử to béo nói.

Sachs tiếp lời: “Có nghĩa trong lúc chúng ta tập trung vào công ti thiết kế sàn, Thợ ĐồngHồ hẳn đã khoác lên người một bộ đồng phục hoặc chỉ cần đeo vào cổ một tấm phù hiệu rồi đi vào công ti chuyển phát hàng hóa và dễ dàng lấy cái phong bì kia.”

Sự tiếp cận vấn đề…

“Hãy gọi cho công ti chuyển phát bưu phẩm. Tìm hiểu xem có gì bên trong phong bì, ai gửi nó và gửi đi đâu. Tiến hành ngay.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.