Trăng Lạnh

CHƯƠNG 41



Sachs kết thúc việc khám nghiệm hiện trường tại ngôi nhà ở Brooklyn, gửi số chứng cứ quá ít ỏi mà cô có thể tìm thấy về cho Rhyme.

Cô cởi bộ đồ Tivek và mặc chiếc áo khoác vào, vội vã đi qua cái lạnh cắt da cắt thịt tới chỗ Sellitto đỗ xe. Ngồi ở đằng sau xe là Pam Willoughby, ôm chặt cuốn Harry Potter và nhấm nháp cốc sôcôla nóng do viên thám tử to béo xoay sở kiếm được. Ông ta vẫn còn ở bên trong ngôi nhà bí mật của đối tượng, làm nốt các thủ tục. Sachs trèo vào xe, ngồi bên cạnh cô bé. Theo gợi ý của Kathryn Dance, họ đã đưa cô gái nhỏ đến đây cùng xem xét nơi trú ngụ và tài sản của Thợ Đồng Hồ với hi vọng rằng một cái gì đó có thể hỗ trợ trí nhớ của cô. Nhưng gã đàn ông chẳng bỏ lại nhiều thứ và dù sao Pammy cũng không trông thấy gì khiến cô có thể cung cấp thêm thông tin.

Mỉm cười, Sachs quan sát cô gái nhỏ, nhớ vẻ hi vọng lạ lùng khi cô nhìn thấy cô bé trên chiếc xe đi thuê tại hiện trường đầu tiên. Nữ cảnh sát nói: “Suốt mấy năm qua, cô nghĩ tới cháu rất nhiều.”

“Cháu cũng thế”, cô gái nhỏ đáp, nhìn xuống cái cốc của mình.

“Sau khi đến NewYork, cháu đi đâu?”

“Mẹ con cháu trở về Missouri và lẩn trốn trong rừng. Me để cháu ở cùng những người khác. Hầu như cháu toàn một mình, đọc sách. Cháu chẳng hòa hợp lắm với ai cả. Họ đối xử tệ với cháu. Nếu cô không nghĩ như họ nghĩ, mà những điều họ nghĩ rất kinh khủng, họ sẽ hoàn toàn bỏ rơi cô.

Nhiều người học tập tại nhà. Nhưng cháu thực sự muốn đến trường và làm ầm ĩ lên. Bud không muốn, nhưng mẹ rốt cuộc đồng ý. Tuy nhiên, bà ấy bảo nếu cháu tiết lộ cho bất cứ ai về bà ấy, về việc bà ấy làm, cháu cũng sẽ bị đi tù như một kẻ trợ thủ… không, một kẻ đồng lõa. Và ở đó đàn ông sẽ giở trò với cháu. Cô biết là cháu đang nói tới chuyện gì.”

“Ôi, cháu yêu.”

Sachs siết chặt bàn tay cô bé. Amelia Sachs muốn có con vô cùng, và biết rằng, cách này hay cách khác, trong tương lai cô sẽ có con. Cô xúc động sâu sắc khi một người mẹ lại để con mình phải trải qua những điều này.

“Và đôi lúc, khi cuộc sống thực sự tồi tệ, cháu vẫn nghĩ tới cô và tưởng tượng rằng cô là mẹ cháu. Cháu không biết tên cô. Có thể hồi đó cháu đã nghe tên cô rồi nhưng cháu chẳng thể nhớ được. Nên cháu đặt cho cô một cái tên khác: Artemis. Cháu đọc những câu chuyện thần thoại từ cuốn sách này. Đó là nữ thần săn bắn. Vì cô giết chết bọn chó dại, bọn người đang tấn công cháu.” Cô bé nhìn xuống. “Đó là một cái tên thật ngớ ngẩn.”

“Không, không, đó là một cái tên tuyệt vời. Cô rất yêu cái tên ấy… Cháu đã nhận ra cô trong con hẻm hôm thứ Ba, đúng không? Lúc cháu ngồi trên xe?”

“Vâng. Cháu nghĩ trời xui khiến cô ở đó, để lại cứu cháu. Cô có cho là có những chuyện như thế xảy ra không?”

Không, Sachs không tin. Nhưng cô nói: “Đôi lúc, cuộc sống diễn ra theo những cách rất lạ lùng.”

Một chiếc xe loại được chế tạo để chạy trong thành phố đỗ lại và một người làm công tác xã hội mà Sachs quen biết bướ cra, đi đến chỗ họ.

“Ôi chao.” Người phụ nữ gốc Phi xinh đẹp xoa xoa hai bàn tay vào nhau trước cái máy sưởi. “Thậm chí chưa chính thức bắt đầu mùa đông. Lạnh như thế này thật không chịu đựng nổi.” Chị ta đã thu xếp cho cô gái nhỏ và giờ đang trình bày: “Chúng tôi tìm thấy mấy gia đinh muốn nhận con nuôi thực sự tốt. Có một gia đinh ở Riverdale tôi quen biết nhiều năm nay rồi. Cháu sẽ lưu lại đó vài ngày tới, trong lúc chúng tôi thử xem có thể lần ra một số bà con của cháu không.”

Pammy cau mày. “Cháu có thể mang một cái tên mới không?”

“Một cái tên mới?”

“Cháu không muốn là cháu nữa. Cháu không muốn mẹ lại nói chuyện với cháu. Và cháu không muốn bất cứ ai mà mẹ cháu có quan hệ tìm thấy cháu.”

Sachs giành quyển nói trước dù cho người phụ nữ làm công tác xã hội kia sắp sửa nói gì: “Chúng ta đảm bảo là sẽ không có gì xảy ra với cháu. Một lời hứa đây.”

Panuny ôm lấy Sachs.

“Vậy cô có thể gặp lại cháu?”, Sachs hỏi.

Cố gắng kiềm chế nỗi phấn chấn trước việc này, cô gái nhỏ đáp: “Cháu nghĩ là có thể. Nếu cô muốn.”

“Đi mua sắm vào ngày mai, cháu thấy thế nào?”

“Được. Chắc chắn được ạ.”

“Tốt. Một cuộc hẹn đấy nhé.” Sachs chợt nảy ra một ý tưởng. “Này, cháu thích chó không?”

“Cóạ, mấy người cháu sống cùng ở Missouri nuôi một con. Cháu ưa nó hơn bọn họ.”

Sachs gọi cho Thom đang ở nhà Rhyme. “Có một câu hỏi.” “Xin mời.”

“Đã ai nhận nuôi Jackson chưa?”

“Chưa. Nó vẫn chờ người nhận nuôi đây.”

“Chẳng phải đăng tin tìm người nhận nuôi nó nữa”, Sachs nói. Cô ngắt máy và nhìn Pam. “Cô có một món quà Giáng sinh sớm cho cháu.”

Đôi khi, thậm chí những chiếc đồng hồ đeo tay được chế tạo tinh vi nhất cũng đơn giản là không hoạt động,

Nếu người ta suy nghĩ về chúng, người ta sẽ thấy chúng thực sự rất dễ gặp trục trặc. Năm trăm, một nghìn bộ phận chuyển động tí hon, những chiếc vít những lò xo, chân kính nhỏ li ti, tất cả được lắp ráp một cách chính xác, hàng chục chuyển động riêng rẽ làm thành một hợp xướng… Hàng trăm thứ có thể bị nhầm lẫn. Đôi khi người thợ đồng hồ tính toán sai, đôi khi một mẩu kim loại bé xíu không hoàn hảo, đôi khi chủ sở hữu chiếc đồng hồ lên dây cót quá chặt. Đôi khi anh ta đánh rơi nó. Hay hơi ẩm luồn vào bên dưới vỏ kính.

Rồi chiếc đồng hồ lại có thể hoạt động chính xác trong môi trường này mà không hoạt động chính xác trong môi trường khác. Thậm chí chiếc đồng hồ danh tiếng Rolex Oyster Vĩnh Cửu, mang tính cách mạng vì là chiếc đồng hồ đầu tiên thuộc dòng xa xỉ dành cho các thợ lặn, cũng chỉ chịu được những mức áp suất nhất định dưới nước.

Lúc bấy giờ, gần công viên Trung Tâm, Charles Vespasian Hale ngồi trong chiếc xe của chính gã, gã đã lái đến đây từ San Diego – chẳng để lại dấu vết gì, nếu mua xăng bằng tiền mặt và tránh những tuyến đường phải trả phí giao thông. Gã đang tự hỏi yếu tố nào khiến kế hoạch mà gã vạch ra không được thuận buồm xuôi gió.

Gã đồ rằng câu trả lời là cảnh sát, đặc biệt là Lincoln Rhyme. Hale đã làm mọi việc gã có thể nghĩ ra để dự đoán những động thái của Rhyme. Nhưng người cựu cảnh sát rốt cuộc cứ đi trước gã một chút. Rhyme thực hiện chính xác cái điều gã lo lắng – anh quan sát vài bánh răng, vài đòn bẩy, rồi từ đó suy ra được cách lắp ráp toàn bộ chiếc đồng hồ của Hale.

Gã sẽ có vô khối thời gian xem xét lại những sai sót vả tương lai cố gắng tránh để xuất hiện những sai sót này. Gã sẽ lái xe trở về California, rời khỏi đây ngay tức khắc. Gã liếc nhìn gương mặt mình trong gương chiếu hậu. Gã đã nhuộm lại màu tóc tự nhiên, đã tháo cặp kính áp tròng màu xanh lơ nhạt, nhưng chất collagen(83), khiến gã có chiếc mũi dày, cặp má phị và cái cằm đôi, vẫn còn nằm dưới lớp da gã. Và sẽ mất hàng tháng trời gã mới lấy lại được gần hai mươi ki-lô phải giảm đi vì phi vụ này, để trở về là chính bản thân gã. Gã cảm thấy ốm yếu, uể oải sau khoảng thời gian vừa qua ở thành phố và cần trở về với thiên nhiên hoang dã, với núi đồi.

(83) Protein co giãn như cao su, đóng vai trò cấu trúc chính trong cơ thể động vật có xương sống.

Đúng, Hale đã thất bại. Nhưng, như gã nói với Vincent Reynolds, điều ấy chẳng nhằm nhò gì trong cả cái kế hoạch vĩ đại. Gã không lo lắng về việc Charlotte Allerton bị bắt. Bọn ả đâu biết danh tính thực sự của gã (suốt từ bấy tới giờ bọn ả đinh ninh rằng gã tên thật là Duncan)và những tiếp xúc ban đầu được thông qua các cá nhân cực kì kín đáo.

Hơn nữa, thực tế thi sự thất bại lại có mặt tích cực –Hale đã biết được một điều làm thay đổi cuộc đời gã. Gã sáng tạo ra nhân vật Thợ Đồng Hồ đơn giản vì nhân vật này có vẻ rùng rợn, khiến dân chúng và cảnh sát xuất hiện mối quan tâm vốn vẫn dành cho loại tội phạm của những chương trình tin tức giật gân li kì.

Nhưng khi vào vai, Hale ngạc nhiên với phát hiện rằng nhân vật này chính là hiện thân cho cái bản ngã đích thực của gã. Việc vào vai giống như là trở về nhà vậy. Gã đâm ra mê say thời gian và các loại đồng hồ. (Gã cũng hình thành nên niềm thích thú lâu dài đối với Đồng hồ Delphi, đánh cắp nó vào lúc nào đó sau này là khả năng quá ư rõ ràng.)

Thợ Đồng Hồ…

Bản thân Charles Hale đơn giản là một chiếc đồng hồ. Người ta có thể sử dụng một chiếc đồng hồ cho những việc vui vẻ như kiểm tra những cơn co bóp dạ con chờ đợi sự ra đời của một đứa bé. Hay những việc dã man như phối hợp thời gian để thực hiện một vụ cướp bóc, tàn sát phụ nữ và trẻ em.

Thời gian vượt qua giới hạn đạo đức.

Hale lúc này nhìn xuống cái vật nằm trên ghế bên cạnh mình, chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng Breguet. Với đôi bàn tay đeo găng, gã cầm nó lên, chậm rãi vặn dây cót – vặn dây cót không hết cỡ bao giò cũng tốt hơn – rồi cẩn thận đút nó vào giữa hai lớp nilon xốp trong cái phong bì lớn màu trắng.

Hale đậy nắp phong bì có dính sẵn và nổ máy.

Chẳng manh mối rõ rệt nào cả.

Rhyme, Sellitto, Cooper và Pulaski đang ngồi trong phòng thí nghiệm trên đường Tây Công viên Trung Tâm, xem những thứ quá ít ỏi được tìm thấy tại ngôi nhà bí mật của đối tượng bên Brooklyn.

Amelia Sachs lúc này không có mặt. Cô chẳng thông báo mình đi đâu. Nhưng cô cũng chẳng cần phải thông báo. Cô đã bảo Thom rằng cô ở gần đây, nếu mọi người muốn gọi cô – tham gia một cuộc họp chỗ góc phố Sáu và Năm mươi bảy. Rhyme đã kiểm tra danh bạ điện thoại. Đó là trụ sở công ti Argyle.

Rhyme đơn giàn không thể suy nghĩ tới việc ấy, và anh đang tập trung vào vấn đề làm thế nào tiếp tục tìm kiếm Thợ Đồng Hồ dù gã có là ai chăng nữa.

Xem xét ngược trở lại, Rhyme dựng lên sơ bộ bối cảnh các sự kiện. Buổi lễ được thông báo ngày mười lăm tháng Mười, vậy Carol và Bud đã liên lạc với Thợ Đồng Hồ vào khoảng thời gian này. Gã đến NewYork chừng mùng một tháng Mười một, ngày ngôi nhà bí mật ở Brooklyn bắt đầu được thuê. Mấy tuần sau đó, Amelia Sachs nhận vụ Creeley, rồi tiếp theo không bao lâu, Baker và Wallace quyết định cho thủ tiêu cô.

“Lúc này bọn chúng móc nối với Thợ Đồng Hồ. Khi chúng ta tưởng hắn là Duncan, hắn nói với chúng ta thế nào nhỉ? Về việc bọn chúng gặp gỡ ấy?”

Sellitto trả lời: “Chỉ là ai đó ở câu lạc bộ đã giới thiệu bọn chúng với nhau, cái câu lạc bộ nơi Baker động đến bạn hắn.”

“Nhưng hắn nói dối. Không có câu lạc bộ nào…” Rhyme lắc đầu. “Kẻ nào đó đã giới thiệu bọn chúng với nhau, kẻ nào đó biết Thợ Đồng Hồ… có thể là kẻ nào đó ở thành phố này. Nếu chúng ta phát hiện ra được kẻ ấy, có thể sẽ có những manh mối chắc chắn. Baker có khai gì không?”

“Không, không một lời. Không đứa nào mở miệng.”

Chàng cảnh sát trẻ lắc đầu. “Đó sẽ là một việc khó khăn. Tôi muốn nói, có bao nhiêu băng nhóm tội phạm có tổ chức trong thành phố này? Biết đến lúc nào mới lần ra được đúng kẻ ấy. Xem chừng chẳng ai định tình nguyện giúp đỡ chúng ta đâu.”

Nhà hình sự học cau mày. “Cậu đang nói tới cái gì? Một băng nhóm tội phạm có tổ chức thì đóng vai trò gì?”

“Chà, tôi chỉ nghĩ kẻ nào đó có liên quan tới giới tội phạm có tổ chức chính là kẻ đã giới thiệu bọn chúng với nhau.”

“Tại sao?”

“Baker muốn thủ tiêu một cảnh sát, đúng không ạ? Tuy nhiên hắn chẳng thể thực hiện theo cái cách khiến hắn bị nghi ngờ, bởi vậy hắn phải thuê kẻ nào đó. Hắn đến chỗ quen biết thuộc giới tội phạm có tổ chức. Nhưng chỗ quen biết ấy không làm việc giết cảnh sát, nên giới thiệu Baker với một tên có thể làm việc này: Thợ Đồng Hồ.”

Chẳng ai nói gì, Pulaskiđỏ bừng mặt và nhìn xuống. “Tôi không biết. Chỉ là một ý nghĩ thế thôi.”

“Và là một ý nghĩ quá hay, cậu chàng ạ”, Sellitto nói.

“Thật à?”

Rhyme gật đầu. “Không tồi… Hãy gọi cho lực lượng đặc nhiệm về tội phạm có tổ chức và thử xem đám đưa tin của họ có thể cung cấp tin tức gì. Gọi cho Dellray nữa… Bây giờ, chúng ta sẽ quay lại với các chứng cứ.”

Họ xác định được một số dấu vân tay tại ngôi nhà bí mật Brooklyn, nhưng chẳng dấu vân tay nào cho kết quả theo Hệ thống hợp nhất nhận diện dấu vân tay tự động và chẳng dấu vân tay nào phù hợp với dấu vân tay trên những hiện trường trước. Ngôi nhà được thuê dưới một cái tên giả khác và một địa chỉ giả. Đây là hợp đồng giao dịch sử dụng tiền mặt. Kiểm tra kĩ lưỡng việc truy cập Internet trong khu vực thì thấy gã đàn ông xem chừng thi thoảng truy cập qua vài mạng không dây xung quanh đấy. Không phát hiện được các hộp thư điện tử, chỉ có các website đã truy cập. Website Thợ Đồng Hồ vào thường xuyên nhất là của một cửa hiệu sách bán các giáo trình cho một số chuyên ngành y khoa bậc đại học.

Sellitto nói: “Bậy thật, lại một kẻ nào nữa đã thuê hắn.”

Chắc chắn, Rhyme tự nhủ thầm, gật đầu. “Hắn sẽ nhằm vào một, hoặc một số nạn nhân khác. Biết đâu ngay bây giờ hắn đang xây dựng kế hoạch. Nghĩ xem hắn có thể gây ra tai họa như thế nào khi đóng giả một bác sĩ.”

Và ta đã để hắn trốn thoát.

Xem xét chỗ chứng cứ Sachs thu thập được, thấy hầu như không có gì hơn ngoài những cái sợi tuột từ cổ len của áo khoác và vài mẩu thực vật màu xanh đọng dấu vết nước biển – tuy nhiên hóa ra chẳng phù hợp với rong và nước biển phát hiện xung quanh chiếc thuyền của Robert Wallace ở Long Island.

Viên phó thanh tra phụ trách đồn cảnh sát khu vực bên Brooklyn gọi điện thông báo rằng việc tìm hiểu thêm trong khu vực là vô ích. Năm, sáu người nhớ đã gặp Thợ Đồng Hồ, nhưng không ai biết gì về gã.

Đối với Charlotte và gã chồng mới chết của ả, Bud Allerton, quá trình điều tra đạt kết quả mỹ mãn hơn nhiều. Đôi vợ chổng còn lâu mới thận trọng bằng Thợ Đồng Hồ. Sachs tìm thấy số lượng lớn chứng cứ về các nhóm vũ trang bí mật đã chứa chấp bọn chúng cũng như về cái Hội đồng Ái quốc khét tiếng trên mạn phía bắc thành phố NewYork, mà Rhyme và Sachs từng đụng độ. Những cuộc điện thoại, dấu vân tay, email… cung cấp cho FBI và cảnh sát bang vô số manh mối truy lùng.

Chuông cửa reo và Thom rời khỏi căn phòng đi ra mở cửa. Lát sau, anh ta quay vào với một người phụ nữ mặc quân phục. Đấy là Lucy Richter, “nạn nhân” thứ tư của Thợ Đồng Hồ. Rhyme để ý thấy cô ngạc nhiên vì phòng thí nghiệm giám định vật chứng trong ngôi nhà của anh hơn việc anh bị tàn tật. Rồi anh ý thức được rằng người phụ nữ này đã tham gia vào một thể loại chiến tranh nơi những quả bom là thứ vũ khí mà người ta lựa chọn, hiển nhiên là cô đã chứng kiến đủ kiểu mất tay chân, liệt bán thân hay toàn thân. Tình trạng của Rhyme không khiến cô bối rối.

Lucy giải thích là cô mới gọi điện cho Kathryn Dance, nói muốn trao đổi với các nhân viên điều tra. Nữ thám tử của California đề nghị cô gọi điện hoặc ghé nhà Rhyme.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.