Trăng Lạnh

CHƯƠNG 8 (TIẾP)



Chứng cứ:

– Đồng hồ.

+ Không chứa chất nổ, tác nhân sinh học hay hóa học.

+ Giống hệt chiếc đồng hồ trên cầu tàu.

+ Sản phẩm của hãng Arnold, Fremingham, Massachusetts. Đang gọi điện tìm hiểu về nhà phân phối và cửa hiệu bán lẻ.

– Bài thơ do đối tượng để lại ở cả hai hiện trường.

+ In ra từ máy tính, trên loại giấy thông thường, mực HP Laserjet.

+ Lời bài thơ:

Vầng Trăng Lạnh tròn vành vạnh trên bầu trời,

Chiếu ánh sáng lên thi thể này dưới mặt đất,

Cho biết thời điểm cái chết đến

Và kết thúc cuộc hành trình bắt đầu từ khi chào đời.

Thợ Đồng Hồ

+ Không xuất hiện trong bất cứ cơ sở dữ liệu nào, có lẽ do chính hắn sáng tác.

+ Trăng Lạnh là tháng âm lịch, tháng của sự chết chóc.

– Sáu mươi đô la trong túi áo khoác, số sê-ri không đem lại manh mối gì. Dấu vân tay không nhận diện được.

– Cát mịn được sử dụng như một “tác nhân xóa dấu vết”. Loại cát thông thường. Vì hắn sẽ quay lại hiện trường?

– Thanh kim loại, nặng ba mươi bẩy ki-lô, có lỗ giống như lỗ kim. Không được sử dụng tại công trường xây dựng bên kia phố. Không tìm thấy ở chỗ nào khác.

– Băng dính nhựa, loại thông thường, nhưng được cắt một cách chính xác, đáng chú ý. Từng đoạn dài đúng bằng nhau.

– Thallium sulfate (thuốc diệt chuột) tìm thấy trong cát.

– Đất chứa protein cá tìm thấy trong túi áo khoác nạn nhân.

– Quá ít dấu vết được tìm thấy.

– Sợi vải màu nâu, có thể là từ thảm trải ô tô.

Các chi tiết khác:

– Phương tiện di chuyển

+ Có thể là xe Ford Explorer, đã chạy khoảng ba năm. Thảm màu nâu.

+ Tìm hiểu qua số đuôi biển đăng kí các xe đỗ trong khu vực vào sáng thứ Ba không phát hiện chiếc xe nào từng nhận lệnh khám xét. Không vé phạt nào được phát ra đêm thứ Hai.

– Đang đề nghị Vice kiểm tra số gái mại dâm, mục đích: tìm kiểm nhân chứng.

Luôn luôn tồn tại một mạng lưới cánh-chiến-hữu trong các chính quyền thành phố, một ma trận tiền bạc, quyền lực, và sự bảo trợ giăng khắp nơi giống như một mạng nhện thép vậy, ở cấp cao và cấp thấp, liên kết các chính trị gia với các công chức, với những người cộng tác kinh doanh, và với các ông chủ lao động, với công nhân… Một mạng lưới bất tận.

Tất nhiên, thành phố New York không phải ngoại lệ, nhưng mạng lưới cánh-chiến-hữu mà Amelia Sachs thấy bản thân mình đang mắc vào lúc này có một điểm đặc biệt: người chơi chính lại là một bà.

Người phụ nữ trạc năm mươi lăm tuổi, mặc bộ đồng phục màu xanh lơ với bao nhiêu thứ trước ngực – huy hiệu, huy chương, đai huân chương. Lẽ dĩ nhiên cả một cái cài áo hình lá cờ Mỹ. (Giống như các chính trị gia, những nhân vật quan trọng trong Sở Cảnh sát New York, những người khi xuất hiện trước công chúng trang phục phải thể hiện ba màu đỏ, trắng và xanh da trời.) Bà ta có mái tóc cắt ngắn kiểu con trai xỉn màu muối tiêu, ôm lấy một khuôn mặt dài, u sầu.

Marilin Flaherti là thanh tra, một trong số rất ít phụ nữ ở cấp bậc này trong Sở (cấp thanh tra còn hơn cấp đại úy). Bà ta là sĩ quan cao cấp Phòng Tác chiến. Đây là đơn vị được báo cáo trực tiếp lên giám đốc Sở. Phòng Tác chiến đảm nhiệm nhiều chức năng, bao gồm chức năng liên lạc với các cơ quan và tổ chức khác về những sự kiện lớn trong thành phố – những sự kiện được lập kế hoạch trước, ví dụ như những cuộc viếng thăm của các quan chức và những sự kiện bất ngờ, ví dụ như tấn công khủng bố. Vai trò quan trọng nhất của Flaherti hiện tại là liên lạc giữa Sở Cảnh sát và Tòa Thị chính.

Flaherti đã đi lên từ lính thường, giống như Sachs (tình cờ, cả hai người phụ nữ cũng từng lớn lên ở hai khu vực giáp nhau của Brooklyn). Bà thanh tra trước làm việc tại bộ phận Tuần tra – đi tuần bộ – rồi chuyển sang bộ phận Thám tử, rồi phụ trách cảnh sát khu vực. Lạnh lùng và cứng rắn, dáng đậm đà to ngang, bà ta là một phụ nữ đáng gờm trên mọi khía cạnh, đủ tiền bạc để khéo léo vượt qua những khó khăn mà một phụ nữ ở cấp bậc cao trong các cơ quan thực thi pháp luật phải đối mặt.

Muốn biết bà ta đã thành công chừng nào, chỉ cần liếc nhìn lên tường đến các bức ảnh đóng khung chụp bà ta và bạn bè: các quan chức thành phố, các ông chủ nghiệp đoàn, các nhà đầu tư bất động sản giàu có và các doanh nhân. Một bức chụp bà ta cùng một ông bệ vệ đầu hói ngồi dưới hàng hiên một ngôi nhà lớn bên bãi biển. Một bức khác chụp bà ta tại Nhà hát Metropolitan, trong cánh tay một người đàn ông Sachs nhận ra được – một doanh nhân giàu có cỡ Donal Trump(33). Một biểu hiện nữa cho sự thành công của bà ta là kích thước cái văn phòng Sở Cảnh sát New York họ hiện đang ngồi đây, Flaherti bằng cách nào đó đã giành được một góc mênh mông nhìn ra cảng, trong khi tất cả các thanh tra Sachs biết đều không có văn phòng thiết kế đẹp như vậy.

(33) Donald John Trump (sinh năm 1946): Nhà kinh doanh bất động sản, nhà văn người Mỹ. Ông là chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của Trump Organization, một công ty phát triển bất động sản đặt trụ sở tại Mỹ.

Sachs đang ngồi đối diện Flaherti, ở giữa là chiếc bàn làm việc rộng và bóng loáng. Người thứ ba có mặt tại căn phòng là Robert Wallace, một phó thị trưởng. Ông ta chưng một khuôn mặt xệ, tự tin và một bộ tóc màu bạc được vuốt keo thành một cái mũ ni hoàn hảo cho một chính trị gia.

“Cô là con gái của Herman Sachs”, Flaherti nói. Không đợi câu trả lời, bà ta nhìn Wallace. “Một cảnh sát tuần tra. Một người tử tế. Tôi có dự buổi lễ tuyên dương ông ấy.”

Cha Sachs từng nhiều lần nhận tuyên dương trong suốt những năm làm việc. Cô phân vân không biết Flaherti nhắc đến lần nào. Lần ông thuyết phục được gã chồng say rượu buông con dao đang kề cổ vợ gã? Hay lần ông lao qua một tấm kính cửa sổ dày, tước vũ khí một tên cướp tại một cửa hàng bán thức ăn sẵn trong khi không làm nhiệm vụ? Hay lần ông đỡ cho một đứa trẻ ra đời ở nhà hát Rialto, nơi nam tài tử mcQueen đang chiến đấu với những kẻ xấu xa trên màn bạc, còn bà mẹ người Mỹ Latin nằm trên sàn vương vãi bỏng ngô, rên rỉ trải qua cơn vượt cạn đầy gian nan?

Wallace hỏi: “Thế này là thế nào? Chúng ta phải hiểu rằng có thể một số cảnh sát hình sự đã dính líu vào?”

Flaherti quay ánh mắt màu xám thép sang Sachs và gật đầu.

Xuất phát.

“Có thể… Chúng ta có những chi tiết liên quan đến ma túy. Và một cái chết đáng ngờ.”

“Được rồi”, Wallace nói, kéo dài các âm tiết với một hơi thở dài và nhăn mặt. Vị cựu doanh nhân khu Long Island, bây giờ ở ghế nhân viên cao cấp của thị trưởng, đảm nhiệm vai trò ủy viên đặc biệt hội đồng diệt trừ tham nhũng tận gốc trong chính quyền thành phố. Ông ta đã làm việc có hiệu quả liên tục, chỉ riêng năm ngoái thôi ông ta đã ngăn chặn được những kế hoạch lừa đảo lớn trong hoạt động thanh tra xây dựng và quan chức nghiệp đoàn giáo viên. Ông ta rõ ràng bực bội với ý nghĩ về các sĩ quan cảnh sát biến chất.

Flaherti cũng nhăn mặt, tuy nhiên, không như nét nhăn mặt của Wallace, nó không bộc lộ điều gì.

Dưới cái nhìn chằm chằm của bà thanh tra, Sachs trình bày trường hợp tự tử của Benjamin Creeley, nó đáng ngờ vì ngón tay cái bị gãy, cũng như chứng cứ có ma túy bị đốt tại ngôi nhà, dấu vết của cocaine và khả năng liên hệ với một số cảnh sát thường xuyên tới quán Thánh James.

“Các cảnh sát thuộc 118.”

Tức đồn cảnh sát khu vực số 118, đóng trụ sở ở East Village. Sachs đã tìm hiểu được rằng quán Thánh James là cái vũng nước cho đồn cảnh sát này.

“Lúc tôi tới đó, có bốn cảnh sát đang trong quán, những cảnh sát khác cũng thỉnh thoảng qua lại. Tôi không biết Creeley đã gặp gỡ ai. Liệu là một, hai người hay cả nửa tá.”

Wallace hỏi: “Cô biết tên bọn họ không?”

“Không. Tôi không muốn đặt quá nhiều câu hỏi tại thời điểm này. Và tôi thậm chí cũng chưa có sự khẳng định về việc Creeley thực tế đã gặp gỡ ai trong đồn. Tuy nhiên, nhiều khả năng là thế.”

Flaherti sờ chiếc nhẫn kim cương đeo trên ngón giữa bàn tay phải. Nó to tướng. Ngoài vật này, và một cái lắc vàng dày, bà ta không đeo đồ trang sức nào khác. Bà thanh tra vẫn chẳng biểu lộ cảm xúc gì nhưng Sachs biết tin tức đặc biệt vừa rồi khiến bà ta lo lắng ghê gớm. Thậm chí một dấu hiệu lờ mờ về những cảnh sát biến chất cũng giội một gáo nước lạnh cho toàn chính quyền thành phố, chứ một vấn đề ở 118 thì quả thật đặc biệt không biết phải làm sao. Đó là một đồn cảnh sát mẫu, bắt giữ được nhiều tội phạm hơn, cũng như tỉ lệ bị thương vong cao hơn các đồn cảnh sát khu vực khác. Nhiều sĩ quan cao cấp trong Tòa nhà Lớn từng đi lên từ 118, nhiều hơn từ bất cứ đơn vị nào.

Sachs nói: “Sau khi biết rằng có khả năng có mối liên hệ giữa họ và Creeley, tôi đã sử dụng thẻ ATM rút ra mấy trăm đô la. Tôi đổi chỗ tiền ấy lấy tất cả chỗ tiền mặt trong quầy thu ngân của quán Thánh James. Một số tờ tiền chắc chắn do cảnh sát 118 trả.”

“Tốt. Và cô đã kiểm tra số sê-ri.” Flaherti lơ đãng lăn chiếc bút Mont Blanc trên tập giấy thấm.

“Đúng ạ. Không bị Kho bạc và Bộ Tư pháp đánh dấu. Nhưng gần như tất cả các tờ tiền đều cho kết quả xét nghiệm dương tính với cocaine. Một tờ với heroin.”

“Ôi, lạy Chúa”, Wallace nói.

“Đừng vội vã kết luận.”

Flaherti nhắc nhở. Sachs gật đầu và trình bày với ông phó thị trưởng điều bà thanh tra đang muốn đề cập. Nhiều tờ tiền hai mươi đô la trong quá trình lưu hành bình thường cũng có chứa chất ma túy. Nhưng cái thực tế là gần như tất cả các tờ tiền mà những cảnh sát ở quán Thánh James trả đều thể hiện dấu hiệu này lại rất đáng quan ngại.

“Cùng thành phần như thứ cocaine tìm thấy trong lò sưởi nhà Creeley à?”, Flaherti hỏi.

“Không. Và người phục vụ quầy bar nói bà ta chưa bao giờ trông thấy họ sử dụng ma túy.”

Wallace hỏi: “Cô có bất cứ chứng cứ gì về việc các cảnh sát trực tiếp dính líu vào cái chết không?”

“Ồ, không. Tôi thậm chí không đưa ra giả thuyết đó. Theo bối cảnh mà tôi đang suy nghĩ tới thì, nếu có cảnh sát nào dính líu chăng nữa, cũng chỉ là kết nối Creeley với một số băng nhóm tội phạm, lờ đi và hưởng phần trăm lợi nhuận nếu ông ta rửa tiền hay buôn bán ma túy. Rồi gạt các đơn kiện hoặc giẫm lên các cuộc điều tra do các đồn cảnh sát khác tiến hành.”

“Từng bị bắt giữ bao giờ chưa?”

“Creeley ấy à? Chưa ạ. Và tôi đã gọi cho vợ ông ta. Bà ta nói rằng chưa bao giờ trông thấy ông ta sử dụng bất cứ thứ ma túy nào. Nhưng nhiều người sử dụng ma túy có thể giữ bí mật rất giỏi. Những kẻ buôn bán ma túy thì dứt khoát là có thể giữ bí mật nếu bản thân họ không sử dụng.”

Bà thanh tra nhún vai. “Tất nhiên, ông ta có thể hoàn toàn vô tội. Creeley có thể chỉ đến quán Thánh James gặp một người cùng làm ăn. Cô bảo ông ta cãi nhau với ai ở đấy ngay trước hôm chết à?”

“Có vẻ thế.”

“Và vậy là một trong những chuyện làm ăn của ông ta gặp trục trặc. Bất động sản hoặc gì đó. Có thể chẳng có liên quan với 118.”

Sachs gật đầu một cách chắc chắn. “Tất nhiên rồi. Việc cảnh sát hay lui tới quán Thánh James có thể chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Creeley có thể bị giết vì trót vay tiền của những đối tượng bất hảo hoặc đã chứng kiến chuyện gì.”

Sở Nội vụ điều tra các vụ án hình sự liên quan đến cảnh sát là hợp lí. Tuy nhiên, Sachs không muốn thế, ít nhất tại thời điểm này. Cô sẽ chuyển vụ án cho họ, nhưng phải sau khi cô đã tự tóm được đối tượng.

Flaherti lại chạm vào chiếc bút gắn cẩm thạch, rồi xem chừng suy nghĩ lung hơn. Đàn ông có thể nhận trừng phạt vì mọi kiểu bất cẩn, đàn bà thì không chịu đựng được, ở cái cấp này. Với những ngón tay móng tia tót hoàn hảo, phủ lớp sơn bóng trong suốt, Flaherti đặt chiếc bút vào ngăn kéo bàn trên cùng. “Không, không giao Sở Nội vụ.”

“Tại sao không?”, Wallace hỏi.

Bà thanh tra lắc đầu. “Chỗ đó quá gần gũi 118. Lệnh có thể bị rút lại.”

Wallace chậm rãi gật đầu. “Nếu bà nghĩ thế là tốt nhất.”

“Tôi nghĩ thế.”

Nhưng niềm sung sướng trong lòng Sachs vì Sở Nội vụ không lấy mất vụ của cô chẳng kéo dài được. Flaherti nói thêm: “Tôi sẽ giao cho người nào đó ở đây. Người nào đó có thâm niên.”

Sachs chỉ ngập ngừng một lát.

Tôi muốn điều tra vụ này, thưa bà thanh tra.”

Flaherti nói: “Cô mới vào ngành. Cô chưa bao giờ giải quyết một chuyện nội bộ.” Như thế là bà thanh tra cũng đã chuẩn bị tinh thần. “Những vụ loại này không giống những vụ khác.”

“Tôi hiểu điều ấy. Nhưng tôi có thể giải quyết được.” Sachs đang nghĩ: Tôi đã khui ra vụ này. Tôi đã tiến hành được đến đây. Và nó là vụ án mạng đầu tiên của tôi. Mấy người chết tiệt, đừng lấy mất vụ của tôi đấy.”

“Đây không phải chỉ khám nghiệm hiện trường.”

Sachs nói một cách điềm tĩnh: “Tôi là điều tra viên chính trong vụ án mạng Creeley. Tôi không làm công việc kĩ thuật.”

“Dù sao, tôi nghĩ tốt nhất… Vậy, nếu có thể, hãy chuyển cho tôi tất cả các hồ sơ vụ án, tất cả những gì cô đang giữ.”

Sachs ngồi cúi về phía trước, bấm móng ngón trỏ vào ngón cái. Cô có thể làm gì để giữ lại vụ án?

Đúng lúc đó, ông phó thị trưởng cau mày. “Hẵng gượm. Cô có phải người làm việc với viên cựu sĩ quan cảnh sát ngồi xe lăn không?”

“Lincoln Rhyme. Đúng thế.”

Ông phó thị trưởng cân nhắc một lát rồi nhìn Flaherti. “Tôi tuyên bố để cô ấy giải quyết vụ này, Marilin”

“Tại sao?”

“Cô ấy có một danh tiếng vàng ròng.”

“Chúng ta đâu cần danh tiếng. Chúng ta cần người có kinh nghiệm. Tôi không có ý làm mất lòng cô.”

“Tôi cũng vậy”, Sachs bình thản đáp.

“Đây là những vấn đề rất nhạy cảm. Chứa tính kích động.”

Nhưng Wallace thích cái ý tưởng của ông ta. “Ông thị trưởng sẽ rất khoái. Cô ấy cộng tác với Rhyme và anh ta vốn vẫn được báo chí ca ngợi. Anh ta lại là dân sự. Người ta sẽ xem như cô ấy tiến hành độc lập thôi.”

Người ta… tức cánh phóng viên, Sachs hiểu điều ấy.

“Tôi không muốn một cuộc điều tra lớn, lộn xộn”, Flaherti nói.

Sachs đáp ngay: “Sẽ không như thế đâu. Tôi chỉ có một sĩ quan làm việc cùng tôi.”

“Ai?”

“Từ bộ phận Tuần tra. Ronald Pulaski. Anh ta là một sĩ quan giỏi. Trẻ nhưng giỏi.”

Sau một lát im lặng, Flaherti hỏi: “Cô sẽ tiến hành như thế nào?”

“Tìm hiểu thêm về mối liên hệ giữa Creeley với 118 và quán Thánh James. Về cuộc sống của ông ta nữa, xem liệu có một lí do khác để sát hại ông ta không. Tôi muốn trao đổi với người cùng kinh doanh với ông ta. Biết đâu có vấn đề gì với khách hàng hoặc với công việc ông ta đang làm. Và chúng ta phải tìm hiểu thêm về mối liên quan giữa Creeley với ma túy.”

Flaherti chưa bị thuyết phục hoàn toàn nhưng bà ta nói: “Thôi được, chúng ta sẽ thử theo cách của cô. Tuy nhiên, cô phải thông tin liên tục cho tôi. Tôi và không ai khác.”

Một cảm giác nhẹ nhõm lớn lao tràn ngập trong Sachs. “Tất nhiên rồi.”

“Thông tin qua điện thoại hoặc đến gặp trực tiếp. Không email hay văn bản…” Flaherti cau mày. “Một điều nữa, hiện giờ cô không phải giải quyết thêm vụ nào khác chứ?”

Các vị thanh tra không lên đến cấp bậc này nếu không có giác quan thứ sáu. Người phụ nữ đã đặt ra câu hỏi mà Sachs hi vọng bà ta đừng đặt ra.

“Tôi đang hỗ trợ vụ Thợ Đồng Hồ.

Flaherti cau mày. “Ồ, cô theo vụ ấy à? Tôi không biết đấy… So với một trường hợp giết người hàng loạt, trường hợp quán Thánh James này đâu quan trọng bằng.”

Những lời của Rhyme vang lên: Vụ của em không quan trọng bằng vụ Thợ Đồng Hồ…

Wallace trầm ngâm suy nghĩ một lát. Rồi ông ta liếc nhìn Flaherti. “Tôi nghĩ chúng ta phải có tầm tư duy lớn ở đây. Điều gì sẽ tồi tệ hơn cho thành phố? Một kẻ làm thịt vài người hay một vụ bê bối tại sở cảnh sát mà báo chí khui ra trước khi chúng ta kiểm soát được? Cánh phóng viên tấn công đám cảnh sát biến chất khác nào cá mập săn máu. Không, tôi muốn tiến hành giải quyết việc này. To tát đấy.”

Sachs bực tức hất mặt trước câu bình luận của Wallace – làm thịt vài người ­– nhưng cô không thể phủ nhận rằng họ có chung mục đích. Cô muốn theo vụ Creeley đến cùng.

Lần thứ hai trong một ngày, cô thấy mình nói: “Tôi có thể giải quyết cả hai vụ. Tôi xin hứa không để xảy ra vấn đề gì.”

Sachs thầm nghe thấy một giọng hoài nghi: Chúng ta hãy hi vọng, Sachs ạ.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.