Trở thành thiên tài chơi chứng khoán

CHƯƠNG 3. Các loại cổ phiếu sinh lợi



Có một lần, tôi thua cược. Người thua phải đãi người thắng một bữa tối tại nhà hàng Lutece. Là một gã độc thân, cuộc sống với tôi lúc đó chỉ đơn giản là “Phết một lát pho-mát lên chiếc bánh vòng còn nguyên” (Đây là công thức của riêng tôi, chứ không phải của nhà hàng Beardstown Ladies). Vậy là tôi ngồi đó, trong một nhà hàng có lẽ là nhà hàng lịch sự nhất thế giới, chăm chú nhìn vào thực đơn. Một người đàn ông trong bộ trang phục bếp trưởng tới bên, giúp tôi gọi món. Không hiểu sao khi nhìn vào bộ trang phục đó, tôi không thể nhận ra ông ta chính là Andre Soitner, bếp trưởng và cũng là chủ nhà hàng.

Chỉ vào một món khai vị trong thực đơn, tôi ngốc nghếch hỏi: “Món này có ra gì không?”.

“Không, dở lắm!”, Soitner trả lời.

Dù ông ta chỉ đùa, nhưng tôi cũng kịp hiểu ra. Những món trong thực đơn đều là món ngon. Khi lựa chọn nhà hàng Lutece, ta đã quyết định chọn nơi ăn ngon nhất, còn gọi món nào chỉ là việc phụ.

Bạn hãy nhớ khái niệm này khi đọc các chương sau của sách. Sẽ rất tốt khi bạn là nhà đầu tư duy nhất vào một lĩnh vực nào đó. Nhưng thế vẫn chưa đủ. Bạn còn phải chọn đúng lĩnh vực nữa. Nếu bạn chọn trước lĩnh vực sẽ đầu tư và lĩnh vực đó cho phép bạn là người dẫn đầu cuộc chơi ngay trước khi cuộc chơi bắt đầu (tôi đang nói đến “nhà hàng Lucete” trong thế giới đầu tư) thì phần việc quan trọng nhất đã được hoàn thành. Mặc dù còn phải đưa ra nhiều quyết định nữa, nhưng nếu bạn chọn món từ một thực đơn đã hoàn hảo rồi thì sẽ hiếm khi chúng làm cho bạn mắc chứng khó tiêu.

CÁC CÔNG TY CON/ CÔNG TY VỆ TINH (SPIN-OFF )

Lĩnh vực đầu tư thứ nhất mà chúng ta sẽ nghiên cứu có vẻ không hấp dẫn chút nào.

Đó là những bộ phận tách ra của một công ty, và thường được gọi là “công ty con”. Những công ty này có thể tồn tại dưới nhiều hình thức nhưng kết quả cuối cùng thường giống nhau: Một công ty lớn chọn ra một chi nhánh, một bộ phận hay một mảng kinh doanh và tách nó ra bằng cách thành lập một công ty mới, độc lập, không dựa vào công ty mẹ. Trong phần lớn trường hợp, cổ phiếu của công ty con này sẽ được bán cho các cổ đông hiện tại của công ty mẹ.

Có rất nhiều lý do giải thích vì sao một công ty lại chọn tách ra khỏi công ty mẹ. Song, lý do đáng chú ý nhất là: Đầu tư vào những công ty con sẽ mang lại lợi nhuận lớn. Thực tế diễn ra vượt quá sức tưởng tượng của nhiều người: Giá trị cổ phiếu của những công ty con và thậm chí cả cổ phiếu của công ty mẹ tăng cao hơn giá cổ phiếu trung bình trên thị trường.

Một nghiên cứu kéo dài suốt 25 năm tại công ty Penn State (kết thúc vào năm 1988) cho thấy, cổ phiếu của những công ty con có mức tăng trưởng cao hơn cổ phiếu của các đối thủ trong ngành và trong ba năm đầu kể từ lúc nó tách ra, chỉ số S&P 500 (một loại chỉ số dự đoán tỷ lệ, đánh giá rủi ro, nghiên cứu đầu tư..) vào khoảng 10% một năm. Các công ty mẹ cũng làm ăn khá tốt với mức lợi nhuận hàng năm vượt mức trung bình của các công ty đối thủ tới hơn 6% trong cùng ba năm đầu đó. Những nghiên cứu khác cũng đưa ra các kết luận đầy hứa hẹn về triển vọng của công ty con.

Vậy những kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa gì đối với bạn? Nếu bạn đồng ý rằng sau một khoảng thời gian dài, mức lãi trung bình mà thị trường mang lại xấp xỉ 10% một năm thì như vậy, về mặt lý thuyết, lợi nhuận đạt mức cao hơn thị trường 10%. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi năm, bạn được hưởng lãi 20%. Nếu những kết quả nghiên cứu này vẫn còn đúng trong tương lai thì chỉ cần thêm vào danh mục vốn đầu tư một công ty con, mới được tách là bạn đã có thể thu lời lớn. Nghĩa là bạn sẽ có được 20% lợi tức hàng năm mà không cần đến một công cụ hay tài năng đặc biệt nào.

Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn sẵn lòng bỏ công sức vào khoản đầu tư của mình? Chọn những danh mục mà bạn tin tưởng sẽ đưa tới kết quả cao hơn con số 20% một năm kia. Hãy nhớ đến một chi tiết quan trọng là Warren Buffett, một tỉ phú được nhiều người ái mộ, cũng chỉ đạt được mức lợi nhuận 28% một năm (dù là trong vòng hơn 40 năm). Phải chăng, chỉ cần chọn đầu tư vào một trong số những công ty chia tách là bạn có thể gặt hái được thành công?

“Đời nào lại như thế”, bạn tự nhủ. “Có cái gì đó không ổn rồi. Thứ nhất, ai dám đảm bảo rằng những công ty vệ tinh đó sẽ tiếp tục làm ăn tốt như trong quá khứ? Thứ hai, đến lúc mọi người nhận ra những công ty con có kết quả xuất sắc như vậy thì chẳng phải giá cổ phiếu của chúng sẽ bị đẩy lên đến mức chẳng còn lời lãi gì hay sao? Và làm cách nào để bạn có thể dự đoán đâu là công ty vệ tinh có khả năng thành công mỹ mãn nhất?”.

Điểm 0 cho lòng tin của bạn. Dĩ nhiên, những công ty con này sẽ tiếp tục hoạt động hiệu quả trên mức trung bình của thị trường và sau này, thậm chí còn có nhiều người nữa cũng nhận ra thành tích ấy. Vì sao bạn có thể chọn lựa đúng đắn những “ông lớn” thực sự trong tương lai? Hãy yên tâm, bạn sẽ làm được điều đó dễ dàng nhờ sự giúp đỡ của tôi. Để hiểu được cách thức làm thế nào và vì lý do gì, trước tiên, chúng ta hãy bắt đầu từ những lý thuyết cơ bản.

Lý do đầu tiên khiến những công ty đó muốn tách ra là gì? Câu trả lời khá dễ hiểu:

• Những lĩnh vực kinh doanh không liên quan đến nhau có thể được tách ra để đạt vị thế cao hơn trên thị trường.

• Chẳng hạn, với một tập đoàn kinh doanh cả thép và bảo hiểm, bạn có thể tách một trong hai ngành đó ra. Rồi sau đó, tìm cách thu hút sự đầu tư của những người chỉ có hứng thú với bảo hiểm hoặc thép, chứ không phải cả hai.

• Dĩ nhiên, trước một cuộc tách công ty, một số nhà đầu tư bảo hiểm có thể vẫn muốn mua cổ phiếu của tập đoàn, nhưng hầu hết họ chỉ mua nếu được giảm giá (Điều này cho thấy sự miễn cưỡng đối với việc mua mảng thép mà họ không mấy hứng thú).

• Đôi khi, động lực tách rời xuất phát từ mong muốn loại ra một lĩnh vực kinh doanh không mấy thành công để nó không ảnh hưởng đến hình ảnh tổng thể trong mắt các nhà đầu tư.

• Tình huống này (cũng như trường hợp hai lĩnh vực kinh doanh không liên quan đến nhau nói trên) cũng có thể mang lại lợi ích cho ban quản lý. Việc kinh doanh “bê bối” kia có thể là do những lỗ hổng không đáng có trong quản lý vì đầu tư không thích đáng về thời gian hay nỗ lực tập trung. Khi đã là một công ty riêng, đội ngũ lãnh đạo riêng của mỗi lĩnh vực kinh doanh sẽ có cơ hội làm việc hiệu quả hơn.

• Đôi khi, nếu một công ty không thể bán cổ phiếu dễ dàng thì việc tách một phần của doanh nghiệp ra sẽ giúp tăng giá trị cổ phiếu trong mắt các cổ đông.

• Đôi khi, một mảng kinh doanh rơi vào tình trạng bê bối đến mức công ty mẹ không thể tìm được người mua với giá phải chăng. Nếu công ty được tách ra kia hoạt động trong một lĩnh vực không được ưa chuộng lắm mà vẫn có thể mang lại chút lời lãi thì công ty mẹ có thể chuyển nợ nần sang nó. Bằng cách này, nợ nần được hoán chuyển từ công ty mẹ sang công ty con mới (nhờ thế, làm tăng giá trị của công ty mẹ).

• Mặt khác, một nhánh kinh doanh đang gặp bê bối có thể được nhận thêm khoản đầu tư lớn hơn từ công ty mẹ, để có thể tự mình sống sót còn công ty mẹ thì thoát khỏi nó.

• Vấn đề thuế cũng có thể chi phối việc mua cổ phiếu của công ty con thay vì mua toàn bộ cổ phiếu của công ty mẹ.

• Một doanh nghiệp có mức thuế thấp có thể bị loại khỏi thị trường. Nhưng đối với các cổ đông, đầu tư vào một công ty con là con đường mang lại những khoản lợi nhuận béo bở nhất. Nếu một công ty con có thể đáp ứng tất cả các tiêu chí IRS thì các giao dịch liên quan đến công ty này đều được miễn thuế. Hay nói cách khác, toàn bộ công ty cũng như các cổ đông đều không phải chi trả bất cứ khoản thuế nào trong quá trình phân phối cổ phiếu.

• Các cổ đông sẽ thu được lợi nhuận từ công ty mà họ đầu tư. Những khoản lợi nhuận này được gọi là cổ tức. Trong hầu hết mọi trường hợp, các công ty phải đóng thuế cho các khoản lợi nhuận mà họ đạt được và các cổ đông cũng phải đóng thuế cho lượng cổ tức mà họ nhận được.

• Việc chia tách công ty có thể là một giải pháp chiến lược chống độc quyền hay cải tổ lại cơ cấu hoạt động, dọn đường cho các giao dịch cũng như thực hiện các mục tiêu khác.

• Trong khi tiếp quản, đôi lúc, do rào cản pháp luật nên nhà quản lý không muốn hoặc không thể mua lại một trong những lĩnh vực kinh doanh của công ty mục tiêu. Một lối thoát thường thấy là tách riêng lĩnh vực đó ra thành một công ty con ngay trước khi sáp nhập.

Trong khi tiếp quản, đôi lúc, do rào cản pháp luật nên nhà quản lý không muốn hoặc không thể mua lại một trong những lĩnh vực kinh doanh của công ty mục tiêu. Một lối thoát thường thấy là tách riêng lĩnh vực đó ra thành một công ty con ngay trước khi sáp nhập.

Trong một số trường hợp, một ngân hàng hay một chi nhánh bảo hiểm có thể buộc công ty mẹ hoặc chi nhánh tuân theo những quy định mà họ không hề muốn. Một công ty tách rời, tồn tại như một thực thể được điều chỉnh sẽ giải quyết vấn đề này.

Danh sách trên còn có thể dài thêm nữa. Tuy nhiên, thật thú vị khi nhận ra rằng, bất kể động cơ tách ra là gì đi chăng nữa thì những công ty con mới này thường có mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình trên thị trường. Tại sao lại như vậy? Tại sao điều này lại xảy ra?

Trên thực tế, câu trả lời là mức lợi nhuận bổ sung của những công ty con này hoàn toàn mang tính hệ thống. Về cơ bản, quá trình tách công ty ra là một phương pháp phân bổ cổ phiếu sai đối tượng và không hiệu quả. Thông thường, cổ phiếu của những công ty con sẽ không được bán ra ngoài mà chỉ bán cho các cổ đông đang đầu tư vào công ty mẹ. Do vậy, khi đó, những cổ phiếu này sẽ được bán ngay tức thì mà không phải quan tâm đến vấn đề giá cả hay giá trị gốc.

Chúng ta có thể dự đoán được hậu quả: Khi nguồn cung ban đầu dồi dào quá mức, giá sẽ giảm. Giả sử các công ty đầu tư cổ phiếu cũng tham gia vào quá trình mua bán này. Hầu hết các công ty con đều có quy mô hoạt động nhỏ hơn so với công ty mẹ. Quy mô của một công ty con có thể chỉ bằng 10 hoặc 20% so với quy mô của công ty mẹ. Ngay cả khi các quỹ đầu tư tập thể dành thời gian để phân tích tình hình kinh doanh của các công ty con, quy mô hoạt động của nó cũng quá nhỏ so với những hạng mục của họ – trong đó chỉ bao gồm những công ty có số vốn đầu tư theo giá thị trường lớn hơn.

Nhiều quỹ đầu tư có thể chỉ mua cổ phiếu của những công ty thuộc nhóm S&P 500, nhóm này chỉ bao gồm những công ty lớn nhất nước Mỹ. Nếu một công ty thuộc nhóm S&P 500 tách một nhánh ra thành công ty vệ tinh, bạn có thể chắc chắn rằng, chỉ ngay sau khi công ty con này ra đời, một số lượng cổ phiếu khổng lồ của nó sẽ được bán ra nhanh chóng. Điều này có vẻ ngốc nghếch phải không? Đúng vậy. Bạn có hiểu không? – Một phần. Liệu đây có phải là cơ hội cho bạn chọn mua cổ phiếu với giá thấp không? – Chắc chắn là thế.

Một lý do khác khiến những công ty con này kinh doanh có hiệu quả là vì chủ nghĩa tư bản với những mặt trái của nó. Khi một công ty con và ban điều hành của nó thoát khỏi sự ràng buộc của công ty mẹ, những quyền lực chi phối các giao dịch chứng khoán sẽ bị dỡ bỏ. Việc kết hợp các yếu tố như sự tin cậy, tinh thần trách nhiệm và ưu đãi trực tiếp diễn ra rất tự nhiên. Sau khi được tách ra, việc chọn mua cổ phiếu, dù là của công ty con hay công ty mẹ, có thể ngay lập tức mang lại lợi nhuận cho đội ngũ quản lý của mỗi doanh nghiệp. Cả công ty con và công ty mẹ đều được hưởng lợi từ phương thức hoạt động này.

Một nghiên cứu tại Penn State đã cho thấy, trong năm đầu tiên tách ra khỏi công ty mẹ, các công ty con này thường không thể đạt được lợi nhuận tối đa từ cổ phiếu. Nó chỉ có thể làm được điều đó trong năm thứ hai. Có lẽ phải mất một năm, các công ty con mới thoát khỏi áp lực ban đầu là bán được càng nhiều cổ phiếu càng tốt trước khi tập trung vào kinh doanh. Đúng hơn là, chỉ đến một năm sau, những thay đổi do tái đầu tư mới bắt đầu phát huy tác dụng và được thị trường công nhận. Dù lý do của sự tăng trưởng thần kỳ trong năm thứ hai là gì, thì những kết quả vẫn chỉ ra rằng, khi một công ty được tách ra, nó có nhiều thời gian để nghiên cứu và đưa ra những quyết định đầu tư có lợi hơn.

Giải thích cuối cùng cho việc vì sao cổ đông của cả công ty con lẫn công ty mẹ được lợi nhiều như vậy từ việc thành lập công ty vệ tinh là: Trong hầu hết các trường hợp, nếu bạn tìm hiểu ý đồ ẩn sau quyết định thành lập công ty vệ tinh thì câu trả lời chính là: Ban giám đốc có tham vọng nâng cao giá trị cho các cổ đông. Tất nhiên, bởi vì đây là công việc và trách nhiệm chính của họ cho nên về mặt lý thuyết, mọi quyết định của ban điều hành đều nên dựa trên nguyên tắc này. Mặc dù đây là điều nên làm, nhưng không phải lúc nào mọi việc cũng diễn ra đúng như vậy.

Có lẽ đây cũng là bản chất của con người hoặc chỉ đơn thuần là lối suy nghĩ của người Mỹ, hay cũng có thể đó là trật tự vốn có của sự vật. Tất cả các nhà quản lý đều mong muốn tìm kiếm cơ hội mở rộng phạm vi, quy mô hoạt động và tầm ảnh hưởng của mình. Đây có lẽ cũng chính là lý do vì sao có nhiều vụ sáp nhập đến thế và vì sao nhiều vụ sáp nhập lại thất bại, đặc biệt khi đó không phải là sở trường của công ty. Qua đó, người ta cũng hiểu vì sao nhiều doanh nghiệp (ví dụ như, các hãng hàng không và hệ thống các cửa hàng bán lẻ) vẫn tiếp tục bành trướng. Động cơ ban đầu của việc sáp nhập hay mở rộng thường dễ gây hiểu lầm. Tuy nhiên, điều đó hiếm khi xảy ra với một công ty được chia tách. Mục đích phân chia tài sản bị phân chia và hạn chế tầm ảnh hưởng chỉ là mang lại cho các cổ đông lợi nhuận lớn hơn.

Cũng thật thú vị khi biết rằng chính việc tách ra, lập thành công ty con lại là giải pháp tối ưu dành cho các công ty sáp nhập không thành công. Hi vọng việc lựa chọn hướng đi này là báo hiệu cho sự trở lại của kỷ cương và phương hướng đầu tư của cổ đông. Trong bất kỳ trường hợp nào, chiến lược đầu tư vào cổ phiếu của các công ty con hay công ty mẹ nên hướng vào những lĩnh vực kinh doanh đã định sẵn của một công ty luôn hướng hoạt động theo quyền lợi của cổ đông.

LỰA CHỌN CỔ PHIẾU TỐT NHẤT TRONG NHỮNG CỔ PHIẾU TỐT

Một khi bạn đã tin tưởng rằng cổ phần của công ty con là mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư cổ phiếu trên thị trường tập trung vào thì điều tiếp theo bạn muốn biết chắc chắn là: làm sao để phần thắng nghiêng về mình nhiều hơn? Những tham số và tình huống nào quyết định hiệu quả hoạt động của công ty con? Bạn đang tìm kiếm điều gì và tìm hiểu điều đó khó như thế nào?

Để lựa chọn một cơ hội đầu tư thực sự tốt, bạn không cần những công thức đặc biệt hay mô hình toán học nào cả. Tất cả những gì bạn cần là lối tư duy logic, hợp lý và một chút kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư cổ phiếu. Điều này nghe có vẻ sáo mòn nhưng đó lại là sự thật. Rất nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp không quan tâm đến công ty con và không hề muốn đầu tư vào chúng. Có thể họ có quá nhiều công ty để đầu tư, hay họ chỉ đầu tư vào những công ty có quy mô nhất định, hoặc đơn giản, họ thấy chẳng tội gì mà đi phân tích những sự kiện bất thường của các công ty. Như vậy, chỉ cần để tâm một chút đến cơ hội của mỗi công ty con, bạn đã có lợi thế lớn rồi.

Thật khó tin phải không? Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu một số trường hợp điển hình sau đây và bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói.

NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG

Công ty Cổ phần Host Marrioty/Tập đoàn Marriott International

Trong những năm 1980, với tham vọng bành trướng, Tập đoàn Marriott đã xây dựng hàng loạt khách sạn. Tuy nhiên, cái họ nhằm vào không phải là sở hữu những khách sạn đó mà là phí quản lý khách sạn từ người sở hữu khác. Chiến lược của họ là xây dựng khách sạn rồi bán đi, đồng thời giữ lại những hợp đồng quản lý béo bở cho các khách sạn tương tự. Chiến lược này mang lại nhiều thành công lớn cho họ. Khi thị trường bất động sản lâm vào tình trạng bế tắc hồi đầu những năm 1990, Marriott cũng chịu chung tình trạng với hàng loạt khách sạn không thể bán được bởi trên thị trường, loại hình kinh doanh này đã trở nên phổ biến. Không chỉ có thế, Marriott còn đang phải gánh những khoản nợ trị giá hàng tỷ đô la chi phí đầu tư xây dựng.

Hãy bắt đầu với Stephen Bollenbach, một chuyên gia tài chính có tầm cỡ. Với quan điểm đầy sáng tạo, ông đã giúp Donald Trump thoát khỏi tình trạng khốn đốn khi phải đóng cửa các sòng bạc. Trên cương vị CFO của Marriott (và hiện là Giám đốc điều hành của Tập đoàn khách sạn Hilton), ông đã chỉ ra lối thoát cho công ty. Những hợp đồng tài chính liên quan đến các khoản nợ đã được công khai tại Marriott cho phép lĩnh vực kinh doanh béo bở này tách ra thành công ty vệ tinh. Công ty con này có thể mang lại nguồn thu nhập rất lớn trong khi chỉ đòi hỏi đầu tư tài sản rất ít. Quan điểm của Bollenbach là loại bỏ tất cả những khách sạn không bán được ra khỏi hoạt động kinh doanh hiện thời và chuyển nhượng các lĩnh vực kinh doanh có mức tăng trưởng thấp. Với suy nghĩ chỉ gánh chịu những khoản nợ thật sự cần thiết, công ty cổ phần Host Marriott và những công ty con hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ quản lý đã hợp thành một công ty mới, gọi là Tập đoàn Marriott International.

Theo kế hoạch, Bollenbach sẽ là Giám đốc điều hành mới của Host Marriott. Bên cạnh đó, Tập đoàn Marriott International được yêu cầu giải ngân cho Host Marriott một khoản tín dụng trị giá 600 triệu đô la nhằm thanh toán những khoản nợ còn tồn đọng và giúp đỡ gia đình Marriott, hiện là chủ sở hữu 25% cổ phiếu của tập đoàn Marriott, và sẽ còn tiếp tục sở hữu 25% cổ phiếu trong cả Tập đoàn Marriott International và công ty Host. Các giao dịch của công ty con này bắt đầu hoạt động vào khoảng giữa năm 1993.

Hãy nhớ rằng, bạn không cần nghiên cứu gì thêm ngoài những điều nói trên. Tờ Wall Street Journal (và nhiều tờ báo tài chính khác) đã cho tôi biết những thông tin cơ bản này khi Marriott lần đầu cung cấp thông tin kinh doanh của họ vào tháng 11 năm 1992. Bạn sẽ không mất quá nhiều thời gian để đọc những thông tin này trên báo chí. Xét cho cùng, đây là trường hợp điển hình cho một công ty kinh doanh quản lý khách sạn khá thành công, đã thoát khỏi những khoản nợ trị giá hàng tỷ đô la và nguy cơ phá sản do không thể bán được một loạt bất động sản. Tất nhiên, có được điều này là nhờ sự ra đời của một tập đoàn lớn nhưng vẫn còn khá mới mẻ – Marriott International. Hiển nhiên là kết quả của giao dịch đó đang tạo ra một tổ chức quyền lực mới gọi là Marriot International. Ở đây, sẽ có một vài thứ “rác độc”. Một công ty sẽ bị lãng quên, đó chính là Host Marriott, nếu nó vẫn nắm giữ những bất động sản không ai cần đến và phải gánh chịu những khoản nợ hàng tỷ đô la.

Quả thực, tôi rất tò mò về thứ “rác độc” này. Tôi không hiểu “Liệu có ai muốn sở hữu những cổ phiếu này?”. Không một tổ chức, một cá nhân, không một ai có thể đầu tư vào Host Marriott (sau khi Marriott International ra đời). Áp lực bán cổ phiếu còn rất nặng nề. Và có lẽ, tôi là người duy nhất mong muốn mua những cổ phiếu này với giá hời.

Lúc này, bất kỳ ai nghe nói về chuyện đầu tư đều cho rằng tôi là một kẻ ngược đời. Điều đó có nghĩa là tôi đi ngược với đám đông và lối tư duy truyền thống. Rõ ràng, suy nghĩ chung không phải lúc nào cũng đúng hết. Có thể, tôi là một kẻ ngược đời. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc tôi sẽ nhảy ra trước một chiếc xe tải đang chạy với tốc độ cao, chỉ bởi vì không ai khác muốn làm điều đó. Nó chỉ có nghĩa là nếu tôi đã nghĩ kĩ về một vấn đề nào đó thì tôi sẽ cố gắng giữ lập trường của mình, ngay cả khi đám đông có những suy nghĩ hoàn toàn trái ngược.

Thực tế là tất cả mọi người sẽ bán cổ phiếu của Host Marriott sau khi Marriott International ra đời. Nghĩa là việc mua cổ phiếu này sẽ rất ngược đời trong suy nghĩ của đám đông. Cuối cùng, thì đám đông cũng thắng. Host Marriott đúng như cái vẻ ngoài vốn có của nó: một chiếc xe Mark đang chạy với tốc độ cao trên đó chất đầy những bất động sản không ai thèm quan tâm và những khoản nợ chồng chất. Song, vẫn có một vài điều cần phải bàn thêm đằng sau những lời kêu gọi vốn ngược đời khiến tôi sẵn sàng, thậm chí rất tò mò, tìm hiểu thêm chút nữa.

Thực tế, Host Marriott có một số đặc tính mà tôi muốn tìm kiếm khi cố gắng lựa chọn một cơ hội đầu tư mang lại lợi nhuận lớn.

1. Các tập đoàn không thích những đặc điểm này của Host Marriott (và lý do họ đưa ra không liên quan gì đến những thành công trong đầu tư)

Có một vài lý do giải thích tại sao những nhà quản lý các danh mục đầu tư chứng khoán của các tổ chức hay quỹ hưu trí không muốn đầu tư cổ phiếu vào Host Marriott. Chúng ta cũng đã đề cập đến một vấn đề của tập đoàn này, đó là những khoản nợ khổng lồ và những bất động sản chẳng mấy ai quan tâm đến. Những luận cứ này sẽ mang lại cho chúng ta thành công trong đầu tư và có lẽ, đó là lý do có cơ sở vững chắc để họ không muốn đầu tư vào Host Marriott. Tuy nhiên, sau khi có thông báo về các giao dịch vào tháng 11 năm 1992, chỉ một phần nhỏ thông tin về Host Marriott được tiết lộ. Các đánh giá đầu tư ở giai đoạn ban đầu này thực ra đã được tiết lộ như thế nào?

Ngay từ những bài báo đầu tiên, Host đã trở thành nỗi khiếp sợ với các nhà đầu tư, đến nỗi hầu hết các tổ chức đều chán nản, không muốn nghiên cứu thêm về cổ phiếu mới của công ty này. Bởi vì một lượng lớn thông tin và sự việc đã được phơi bày chắc chắn đã làm nao lòng giới đầu tư trước khi họ thấy được sự ra hoa kết trái của công ty con (ước tính kéo dài trong khoảng chín tháng), nên tôi quyết tâm đọc những bài báo đó – trước hết là, để xem xét liệu tập đoàn này có thực sự tồi tệ như mọi người nghĩ không.

Một lý do khác khiến các tổ chức không háo hức đầu tư vào Host chính là quy mô hoạt động của nó, chứ hoàn toàn không phải chỉ vì những thành tích trong đầu tư. Theo luận điểm của các nhà phân tích được trích dẫn trong những bài báo đầu, Host chỉ chiếm khoảng 10 đến 15% tổng giá trị cổ phiếu được phân bổ tới các cổ đông, phần còn lại thì dành cho hoạt động kinh doanh ở một lĩnh vực khá phát đạt – Tập đoàn Marriott International. Một cổ phiếu mắc nợ và tổng lượng vốn trên thị trường chỉ chiếm một phần nhỏ so với số vốn ban đầu của công ty Marriott (trị giá 2 tỷ đô la) có lẽ không phải là mục tiêu đầu tư phù hợp đối với hầu hết các cổ đông đầu tiên của công ty Marriott.

Ngoài ra, lĩnh vực kinh doanh của Host khác hẳn những lĩnh vực mà các tổ chức đầu tư mong muốn tìm kiếm khi họ mua cổ phiếu của Marriott. Host chú trọng mua khách sạn; trong khi đó, lĩnh vực hấp dẫn các nhà đầu tư nhiều nhất chính là cung cấp dịch vụ quản lý khách sạn. Mặc dù kinh doanh bất động sản và khách sạn là một lĩnh vực khá triển vọng, nhưng nhóm cổ đông của Marriott đều có những khoản lợi nhuận khác nữa và chắc chắn là họ muốn bán cổ phiếu của Host đi. Việc mua bán cổ phiếu chỉ vì lý do này sẽ không dựa trên những thành tích đầu tư cụ thể và do đó, có thể tạo ra một cơ hội mua cổ phiếu tốt.

Ghi chú: Với những lý do chỉ dành cho trường hợp của công ty Marriott, việc tách ra trở thành công ty con thực sự cần được xem xét kỹ lưỡng, ít nhất là về mặt chuyên môn. Mục đích quan trọng nhất là để lập nên Tập đoàn Mariott International mặc dù cổ phiếu của công ty này sẽ đại diện cho giá trị của các tổ chức sáp nhập. Những mục đích khi đưa ra minh họa này (và mục đích của sự chính xác trong từng suy nghĩ trong lĩnh vực kỹ thuật), sẽ rõ ràng hơn khi nghĩ về Host – một công ty có số lượng cổ phiếu chiếm 10 đến 15% giá trị cổ phiếu của Marriott đã được định giá trên thị trường.

2. Người trong cuộc mong muốn có những cổ phiếu này

Sự tham gia đầu tư của người trong cuộc là một trong những khu vực đầu tư quan trọng cần có khi xác định và lựa chọn giữa các công ty con. Với tôi, đó là khu vực quan trọng nhất. Liệu các nhà quản lý công ty con có nhận được sự khích lệ giống như các cổ đông hay không? Liệu họ có thu được lợi nhuận lớn trong cổ phần, cổ phần hạn chế, hay quyền mua hoặc bán hay không? Liệu có kế hoạch nào giúp họ đạt được những khoản đền bù lớn hơn không? Khi tất cả những văn bản cần thiết cho việc tách ra thành lập công ty con được hoàn tất và đệ trình thì tôi thường quan tâm đến khu vực đầu tư này trước tiên.

Trong trường hợp của Host Marriot, một số vấn đề được nhắc đến trong những bài báo đầu tiên đã thu hút sự quan tâm của tôi. Stephen Bollenbach, người vạch ra các kế hoạch hoạt động, đã trở thành Giám đốc điều hành của Host. Tất nhiên, theo những nguồn thông tin từ báo chí, Bollenbach đã giúp đỡ Donald Trump thoát khỏi tình cảnh khốn đốn khi kinh doanh khách sạn và sòng bạc. Xét về khía cạnh đó, Bollenbach xứng đáng là ứng cử viên sáng giá cho vị trí này. Duy chỉ có một điều khiến tôi băn khoăn là: Mặc dù điều đó không có nghĩa là Bollenbach phải hoàn toàn chịu trách nhiệm cứu lấy con tàu đang bị đắm – bằng cách đưa ra lối thoát để họ vứt bỏ tất cả những bất động sản rắc rối và những khoản nợ nặng nề – tình nguyện nhảy từ một con tàu đang vững chắc sang một con tàu bị đắm, Host Marriott.

“Điều đó thật tuyệt vời, Bollenbach!” câu chuyện được tiếp tục. “Tôi nghĩ rằng anh đã thực sự cứu sống chúng tôi! Bây giờ, khi anh ném được những bất động sản và khoản nợ qua mạn tàu, sao anh không tung mình nhảy ra khỏi con tàu đó! Píp píp. Hãy dùng xuồng cứu hộ nếu anh thấy cần. Tôi chúc anh có một hành trình may mắn!”.

Điều đó có thể xảy ra. Tôi nghĩ rằng, có lẽ Host không phải là một trường hợp hoàn toàn vô vọng và Bolllenbach sẽ được hưởng những thành quả xứng đáng khi vực dậy công ty mới này và đưa nó vào hoạt động. Tôi xin thề rằng tôi đã kiểm tra những khoản thu nhập mà Bollenbach được hưởng khi các văn bản SEC được hoàn tất và đệ trình. Tình hình sẽ tốt hơn nữa khi có thêm nhiều cổ phần ưu đãi. Ngoài ra, gia đình Marriott vẫn sở hữu 25% cổ phần của Host sau khi nó tách ra thành công ty vệ tinh. Mặc dù lý do chính của vụ đầu tư cổ phiếu này là muốn giúp Tập đoàn Marriott International thoát khỏi những khoản nợ và gánh nặng bất động sản sau khi công ty con được thành lập và đi vào hoạt động, song đây sẽ vẫn là một nguồn lợi của gia đình Marriott nhằm giúp cổ phiếu của Host Marriott ngày càng lớn mạnh.

3. Tạo ra hoặc khám phá cơ hội đầu tư tiềm ẩn trước đó

Sau khi được thành lập, một công ty con sẽ mang lại những cổ phiếu có giá hấp dẫn và lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, trong trường hợp của Host, tôi còn phát hiện ra một cơ hội đầu tư khác: cổ phiếu dự trữ.

Nếu lập luận của các nhà phân tích được trích dẫn trong những bài báo đầu tiên đúng thì một cổ phiếu của Host có thể có giá giao dịch từ 3 đến 5 đô la. Song, công ty mới này cũng sẽ nợ khoảng 20 – 25 đô la/một cổ phiếu. Giả sử một cổ phiếu của Host sẽ có giá trị trên thị trường là 5 đô la và khoản nợ là 25 đô la/một cổ phiếu. Điều đó tạo nên giá trị xấp xỉ với giá trị tất cả các tài sản của Host – 30 đô la. Do đó, nếu giá trị tài sản của Host tăng lên 15%, thì giá trị cổ phiếu sẽ tăng gấp đôi (15 × 30 đô la = 450 đô la). Nếu bạn có thể làm được điều đó thì quả là tuyệt vời. Thế còn khi giá trị tài sản của Host giảm 15% thì sao? Đừng hỏi tôi điều đó.

Tuy nhiên, tôi không tin Host Marriott sẽ bị chìm vào quên lãng – ít nhất là không phải ngay bây giờ. Tôi biết rằng tất cả các cổ đông mới của Host đều có lý do hợp lý khi đưa những cổ phiếu không mấy hấp dẫn của mình ra thị trường càng sớm, càng tốt. Mặc dù Host Marriot có thể bị vướng vào những quy định pháp luật và các vụ kiện tụng của chủ nợ, nhân viên và các cổ đông, tôi vẫn không tin một sự chuyển nhượng nhanh chóng của Host Marriott sẽ nằm ngoài kế hoạch. Lại có thêm một sự thật nữa là Marriott International, một tập đoàn làm ăn phát đạt, buộc phải cho Host vay một khoản tiền lên tới 600 triệu đô la. Gia đình Marriott sẽ vẫn tiếp tục sở hữu 25% cổ phiếu của Host, còn Bollenbach tiếp tục nỗ lực đưa công ty mới này thành công ty dẫn đầu trên thị trường. Đây dường như cũng là mối quan tâm của tất cả các thành viên trong Host Marriott với hi vọng nó có thể tồn tại và phát triển mạnh. Ít nhất là, những việc tôi làm đã tạo nên một cuộc cá cược rất thú vị trong giới đầu tư.

Khác xa với những suy nghĩ sáng suốt một thời trước kia, cổ phiếu dự trữ là một thuộc tính sẵn có mà bạn có thể thấy tại rất nhiều công ty vệ tinh. Hãy nhớ rằng, một trong những lý do hàng đầu để một công ty có thể lựa chọn lĩnh vực kinh doanh nào đó và tách nó ra thành một công ty con là mong muốn xác lập vị thế của mình trên thị trường, trong một lĩnh vực hầu như không nhận được sự quan tâm của mọi người và rất khó bán được cổ phiếu. Đây quả là một giải pháp tốt khi tách những giá trị đó ra khỏi các công ty con. Nó tỏ ra có ưu thế hơn việc đánh lừa thị trường bằng cách đưa những khoản nợ của công ty mẹ sang bảng cân đối tài sản của công ty con. Mỗi đô la của khoản nợ được chuyển sang công ty con mới thành lập đồng nghĩa với 1 đô la cộng thêm giá trị vào công ty mẹ.

Quá trình này tạo ra rất nhiều những công ty con bị mắc nợ một cách khác thường. Mặc dù thị trường có thể định giá cổ phiếu của một trong những công ty con ở giá 1 đô la tương ứng với 5, 6 hay thậm chí 10 đô la trong khoản nợ của công ty đó, thì 1 đô la cũng là khoản thua lỗ nặng nhất của bạn rồi còn gì. Các nhà đầu tư cá nhân không chịu trách nhiệm về những khoản nợ của công ty. Hãy nói về rủi ro khi đầu tư vào những công ty này. Phần thưởng dành cho những lập luận vững chắc và nghiên cứu kỹ lưỡng sẽ được nhân lên rất nhiều lần khi được ứng dụng trong trường hợp của những công ty bị mắc nợ như thế này.

Trong trường hợp bạn không để tâm đến, chúng tôi chỉ cố gắng xây dựng một luận điểm đầu tư có khả năng phát triển được hay những lý do căn bản để đầu tư vào cổ phiếu của Host Marriott. Khi xem xét lại ta thấy, lựa chọn đầu tư vào Host đúng là một lựa chọn sáng suốt, bởi vì:

• Hầu hết các tổ chức đầu tư lành mạnh sẽ bán cổ phiếu của Host Marriott trước khi nhìn thấy chúng có khả năng mang lại lợi nhuận.

• Những nhân vật giữ vị trí quan trọng trong cuộc và là đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu đã bộc lộ mối quan tâm thầm kín của họ đối với thành công của Host.

• Số lượng cổ phiếu dự trữ lớn có thể mang lại những khoản lợi nhuận khổng lồ nếu vì một lý do nào đó, cổ phiếu Host trở nên hấp dẫn hơn nhiều so với vẻ ngoài của nó.

Nếu mọi việc được tiến hành theo đúng hướng chúng ta chọn và cộng thêm một chút may mắn nữa thì những đặc tính này sẽ giúp chúng ta thành công hơn so với những công ty con có mức tăng trưởng trung bình trên thị trường.

Vậy những điều đó diễn ra như thế nào? Như người ta mong đợi, nhiều tổ chức đang cố gắng bán cổ phiếu của Host với giá thấp. Theo quy định của văn bản SEC, những người trong cuộc chắc chắn sẽ có khoản lợi nhuận ngầm rất lớn. Gần 20% cổ phiếu của những công ty mới thành lập được bán ưu đãi cho ban quản lý và các nhân viên. Cuối cùng, tình hình nợ nần chồng chất của Host – điều khiến hầu hết mọi người thấy nản lòng (và cũng chính là cơ hội cho chúng ta) – hóa ra lại hấp dẫn hơn nhiều so với các thông tin được đề cập trong những bài báo đầu tiên.

Vậy Host hoạt động như thế nào? – Theo tôi, là khá tốt. Giá trị cổ phiếu của Host Marriott (“một thứ rác”) gần như tăng gấp ba lần trong vòng bốn tháng hoạt động. Những kết quả đáng kinh ngạc như vậy lại được tạo ra từ một công ty mà thực tế, tất cả mọi người đều mong muốn từ bỏ.

Bạn có sẵn sàng từ bỏ không? Có quá nhiều điều khiến bạn phải suy nghĩ? Có quá nhiều việc bạn phải làm? Bạn không suy nghĩ gì trước những khoản lợi nhuận tiềm năng như vậy hay sao? Hay là bạn muốn học thêm một chút nữa trong lĩnh vực này.

ĐÀO BỚI NHỮNG KHO BÁU BỊ CHÔN VÙI

Tính cho đến nay, việc duy nhất mà chúng ta làm là nghiên cứu những cơ hội đầu tư lớn có triển vọng được đề cập trong một số tờ báo. Bây giờ, (khi bạn biết có một cái bẫy) mọi chuyện đã trở nên phức tạp hơn trước. Bạn sắp bắt đầu một cuộc hành trình đầy gian khổ trong thế giới nghiên cứu môi trường đầu tư, hoàn thành những văn bản dày mấy trăm trang của công ty và hàng núi hồ sơ của Uỷ ban Chứng khoán và Hối đoái (SEC).

Trước khi hoảng sợ, bạn hãy hít thở thật sâu. Bạn không cần từ bỏ công việc hàng ngày của mình. Chắc chắn, bạn sẽ còn một số việc khác phải làm, song nó sẽ không quá khó khăn. Bạn chỉ cần nghĩ là mình đang đào bới một kho báu đã bị chôn vùi. Không ai nghĩ về công việc đào bới thực sự – như dùng xẻng đào bới, đất cát bị tung lên – khi một kho báu đang hiện ra trước mắt. Khi bạn đang “đào bới” một mục tiêu rất lớn trước mắt thì bản chất công việc đó sẽ hoàn toàn thay đổi. Lối tư duy giống như vậy cũng được áp dụng ở đây.

Về cơ bản, tất cả quá trình đó đều được rút ngắn lại thành hai bước cơ bản. Đầu tiên, xác định nơi chứa kho báu (hay trong trường hợp này là cơ hội mang lại lợi nhuận). Thứ hai, sau khi bạn đã xác định đúng vị trí (tốt hơn nên đánh dấu bằng dấu X to, màu đỏ), hãy bắt đầu đào. Sẽ là ích khi ta phải đào bới cả những khu vực xung quanh.

Vậy bạn đã sẵn sàng? Bạn đang thăm dò một khu vực đầu tư béo bở: các công ty con. Bạn cần phải có một luận cứ đầu tư đáng tin cậy. Điều này sẽ giúp bạn thành công hơn nhiều so với các công ty con có mức tăng trưởng trung bình trên thị trường. Bây giờ, đã đến lúc bạn phải xắn tay áo lên và bắt đầu công việc điều tra của mình rồi đó.

Được không? Tốt rồi. Chỉ cần bạn không quá vội vàng.

Trong ví dụ về Tập đoàn Marriott, kế hoạch tách ra thành công ty con được công bố lần đầu vào tháng 10 năm 1992. Mặc dù trong mấy tháng trời, sự kiện này đã xuất hiện nhiều lần trên mặt báo, nhưng đến tận tháng 6 và tháng 7 năm 1993, những hồ sơ có liên quan của Uỷ ban Chứng khoán và Hối đoái mới được hoàn tất. Và tận cuối tháng 12, mất gần một năm sau khi thông tin này được công bố lần đầu, quá trình tách ra mới hoàn thành. Thông thường, việc này chỉ mất khoảng từ chín đến sáu tháng. Trong một số trường hợp, quá trình này có thể kéo dài hơn một năm.

Nếu bạn thiếu kiên nhẫn và luôn hành động vội vã thì việc ngồi chờ những công ty này thực sự đi vào hoạt động có lẽ không phù hợp với bạn. Những vụ cá cược đua ngựa ở Las Vegas không bao giờ thành công, bởi vì hầu hết các tay cá độ đều không thể kiên nhẫn chờ đợi quá hai phú. Điều tương tự cũng xảy ra trên thị trường chứng khoán.

Thị trường tài chính cũng được coi là một thị trường có thể giúp nhiều người thành công trong chốc lát và thích ứng dễ dàng với môi trường đầu tư. Mặt khác, việc có thời gian để suy nghĩ và nghiên cứu, tuỳ theo điều kiện và thuận lợi của bạn mà không phải lo lắng về những thông tin cập nhật nhất xuất hiện trên phương tiện thông tin đại chúng sẽ tạo ra lợi thế cho các nhà đầu tư không chuyên như bạn. Không chỉ có thế, khi đã dành thời gian một năm để nghiên cứu tờ Wall Street Journal (hay vô số những tài liệu kinh tế khác) nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tư có lợi, chắc chắn bạn sẽ tìm được ít nhất là một hay hai thông tin (đã được thông báo từ trước). Lúc này, một số công ty con sắp được thành lập. Đã đến lúc bạn phải nghiên cứu thêm nữa và có thể đầu tư nếu bạn thấy đó là cơ hội đầu tư tốt.

NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG

Công ty Chứng khoán Strattec/Briggs & Stratton

Tháng 5 năm 1994, Briggs & Stratton, một công ty chuyên sản xuất các động cơ nhỏ chạy bằng ga (được sử dụng hầu hết trong các thiết bị điện ngoài trời) thông báo dự định tách lĩnh vực sản xuất khoá tự động thành một công ty con. Theo dự kiến, công ty con này sẽ được thành lập vào cuối năm 1994 hay đầu năm 1995. Công ty sản xuất khoá tự động (sau này được gọi là công ty Strattec Security) là một công ty nhỏ, chiếm gần 10% tổng lượng hàng hóa cũng như doanh thu của Công ty cổ phần Briggs & Stratton.

Từ khi công ty Briggs, công ty mẹ, được xếp trong nhóm chỉ số S&P 500 trung bình với tổng lượng vốn trên thị trường là 1 tỷ đô la, có vẻ như, Strattec sẽ trở thành ứng cử viên hàng đầu cho việc bán cổ phiếu cho các tổ chức đầu tư, một khi cổ phiếu của nó được phân bổ tới các cổ đông của Tập đoàn Briggs. Không chỉ sản xuất khoá cho ô tô và xe tải (một lĩnh vực không hề liên quan đến ngành kinh doanh động cơ công suất nhỏ của tập đoàn Briggs), mà Strattec còn có lượng vốn trên thị trường dưới 100 triệu đô la. Đây hoàn toàn không phải là môi trường đầu tư phù hợp đối với hầu hết các tổ chức đầu tư cổ phiếu tại Briggs & Stratton.

Mặc dù có rất nhiều cơ hội để Strattec có được những thành công đáng kể khi tách ra trở thành công ty con, nhưng công ty cũng gặp phải khá nhiều trở ngại. Những khó khăn này kéo dài cho tới tháng 11 năm 1994, khi mẫu SEC Form 10 được soạn thảo và chính thức được đưa vào áp dụng rộng rãi. Nói chung, văn bản này bao gồm hầu hết các thông tin hợp lý về một công ty con mới thành lập. Nó được áp dụng trong những trường hợp công ty con mới thành lập chỉ chiếm một phần nhỏ của công ty mẹ. Do đó, những giao dịch kinh doanh nhỏ hơn không yêu cầu có sự biểu quyết của các cổ đông. Trong trường hợp công ty con chiếm một phần lớn tài sản của công ty mẹ, các cổ đông có thể biểu quyết trước khi quyết định tách công ty ra thành nhiều công ty nhỏ, hoạt động độc lập dựa trên một văn bản uỷ quyền được kí và đóng dấu xác nhận. Trong những trường hợp như vậy, văn bản uỷ nhiệm bao gồm hầu hết các thông tin tương tự như trong mẫu SEC Form 10. (Bây giờ, bạn không cần phải lo lắng về việc ghi chép các thông tin cũng như việc làm sao để có được các hồ sơ và giấy uỷ nhiệm đó. Điều này sẽ được trình bày rõ trong Chương 7).

Tuy nhiên, đến tận tháng 1 năm 1995, khi một mẫu Form 10 được sửa đổi (sửa đổi một số chi tiết và một số điểm để trống trong hồ sơ gốc), thì công việc mới được tiến hành. Theo văn bản này, các cổ phiếu của công ty con được phân phối cho các cổ đông vào ngày 27 tháng 2. Điều đầu tiên tôi quan tâm đến mỗi hồ sơ này là tìm hiểu xem số người điều hành chính và các cổ đông chính lên đến bao nhiêu. Thật tuyệt vời nếu chúng ta được thấy câu trả lời ngay trong trang đầu tiên sau phần giới thiệu. Dưới tiêu đề Lý do phân phối cổ phiếu, ban giám đốc tiết lộ lý do chính của việc tách thành công ty con là “nhằm mang lại thu nhập cho các nhân viên nắm giữ vai trò chính. Những khoản đó được tính theo cổ phiếu và gắn chặt với giá trị của hoạt động kinh doanh cũng như thành tích đạt được tại công ty Strattec, một công ty được công khai hóa hình thức hoạt động độc lập, chứ không phải là một đơn vị chìm lẫn vào tập đoàn Briggs”.

Theo thông tin trong văn bản, kế hoạch trao cổ phiếu ưu đãi như một phần thưởng cho các nhân viên văn phòng và lực lượng nhân viên nòng cốt sẽ được nhận hơn 12% tổng số cổ phiếu của công ty dành để khích lệ nhân viên. Đối với những người quan sát ở bên ngoài, khoản ưu đãi này là quá lớn. Như tôi được biết, công ty nào càng hào phóng với các kế hoạch đãi ngộ, bù đắp của mình thì công ty đó càng phát triển – miễn là sự đãi ngộ rộng rãi này đưa ra dưới dạng các kế hoạch về cổ phiếu tùy chọn hay cổ phiếu hạn chế.

Thực tế, chủ đề chung cho các cơ hội đầu tư hấp dẫn là: đội ngũ quản lý và nhân viên được khích lệ, động viên để hành động như những người chủ thực sự. Các nhà đầu tư có thể phát đạt hơn nữa nếu luật pháp thực sự giúp các nhà quản lý cao cấp và lực lượng nhân sự chính có một khoản tiền thưởng xứng đáng. Sự can thiệp của chính phủ theo hình thức này là khá khôn ngoan. Bạn có thể đạt được kết quả tương tự bằng cách đầu tư vào những công ty như Strattec, nơi mà các nhà quản lý sẽ giúp cổ đông ngày càng giàu có hơn.

Ngoài việc xem xét trường hợp của những người trong cuộc, những khoản tiền thưởng thường dựa vào mẫu Form 10, giấy uỷ nhiệm hay văn bản tương tự. Những văn bản này thường chứa đựng một bảng nội dung chi tiết, theo sau là một bài tóm tắt dài khoảng năm hay tám trang của khoảng 100 trang tiếp theo hay hơn nữa. Đây là thông tin sẽ giúp bạn xác định được khu vực mà bạn quan tâm và lựa chọn môi trường đầu tư nào bạn nên tập trung nhất. Thành thực mà nói, việc xem đi xem lại vở hài kịch Gilligan’s Island còn hấp dẫn hơn nhiều so với việc đọc từng trang của văn bản uỷ nhiệm hay mẫu Form 10. Do vậy, chọn lọc là một nhân tố quan trọng. Nhiều phần trong văn bản này không chỉ nói rõ lợi nhuận kinh tế của những người trong cuộc, mà quan trọng hơn nó còn báo cáo về nguồn thu nhập và bảng cân đối tài sản khá trịnh trọng của công ty con mới thành lập. (Những báo cáo này chỉ ra rằng, bảng cân đối tài sản và báo cáo thu nhập sẽ giống nhau nếu một công ty mới đã tồn tại như một công ty độc lập trong những năm trước đó).

Theo thông báo về những khoản thu nhập được trích trong phần tóm tắt của mẫu Form 10, những khoản doanh thu đạt được khi kết thúc năm tài chính của Strattec vào tháng 6 năm 1994 là 1,18 đô la trên một cổ phiếu. Ngoại trừ những khoản chi phí trước đây, lợi nhuận trong vòng sáu tháng trở lại đây (kết thúc vào cuối tháng 12 năm 1994) sẽ lên tới hơn 10% so với cùng kì năm 1993.

Vì không được trang bị thông tin đầy đủ, tôi cố gắng nhằm vào giá cổ phiếu được cho là công bằng nhất tại Strattec, khi công ty bắt đầu hoạt động giao dịch vào cuối tháng 2 năm 1995.

Theo tư duy logic và quy định của Form 10, Strattec là một công ty sản xuất khoá và chìa khoá hàng đầu cho những ô tô đời mới và xe tải, nên công ty này không được xếp trong nhóm các nhà sản xuất thiết bị đầu tiên cho ngành công nghiệp ô tô. Bước tiếp theo là phải tìm hiểu giá bán của hầu hết các công ty khác cùng ngành (giá bán này có liên quan đến doanh thu của họ). Rất đơn giản, nếu tất cả các nhà cung cấp (OEM) cho ngành ô tô đều có giá giao dịch bằng 10 lần mức thu nhập hàng năm (ví dụ, giá cả giao dịch/tỷ lệ lợi nhuận hay P/E của 10), thì mức giá giao dịch chung cuối cùng của tập đoàn Strattec có lẽ là 11,80 đô la trên một cổ phiếu (1,18 đô la nhân với 10).

Nếu đọc tiếp cuốn sách này, chúng ta sẽ được cung cấp một vài nguồn thông tin tham khảo cùng một số loại dữ liệu giúp hoàn tất quá trình định giá tương đối. Trong trường hợp này, tôi sử dụng Chỉ số cổ phiếu ngang bằng nhau, bởi vì nó được ứng dụng rộng rãi và rất dễ sử dụng. Nội dung của chỉ số này được thiết kế dựa theo từng ngành công nghiệp riêng biệt. Dưới tên các ngành, chẳng hạn như “Thiết bị ô tô”, tôi có thể xác định một dãy số xấp xỉ 9 đến 13 lần so với lợi nhuận của công ty. Dãy số này phù hợp với chỉ số P/E của ngành sản xuất thiết bị thay thế tại công ty Strattec. Điều đó có nghĩa là mức giá phù hợp của công ty Strattec là khoảng 10,62 đô la một cổ phiếu (1,18 đô la × 9) và xấp xỉ 15,34 đô la (1,18 đô la × 13). Nếu tôi muốn con số đó cao hơn (bởi vì doanh thu của Strattec đã tăng gần 10% trong sáu tháng, kể từ thời điểm kết thúc năm tài chính vào tháng 6 năm 1994), thì một con số cao hơn 10% có lẽ là hợp lý. Tất cả các phân tích này đều rất đúng và xuất sắc. Bởi vậy, nếu giá giao dịch của Strattec không bắt đầu từ 6 hoặc 7 đô la một cổ phiếu thì do áp lực bán cổ phiếu rất lớn, tôi sẽ không giàu được từ những yếu tố đã được thảo luận. Hơn nữa, dù không biết nhiều về lĩnh vực sản xuất của công ty Strattec, nhưng tôi biết rõ một điều: Cung cấp các thiết bị cho ngành sản xuất ô tô được xem là một ngành kinh doanh không mấy hấp dẫn. Chắc chắn, nếu tôi quyết định mua cổ phiếu của Strattec, Warren Buffett sẽ không phải là đối thủ cạnh tranh của tôi (Thực tế là, theo quy tắc thông thường, Buffett sẽ không để ý tới những khoản đầu tư cá nhân dưới 100 triệu đô la, trong khi đó toàn bộ công ty này được định giá dưới 100 triệu đô la).

Tôi đã tìm thấy một phần thú vị khi đọc một vài trang dưới tiêu đề Tình hình kinh doanh của công ty. Điều này không có gì là khó hiểu. Cho đến nay, Strattec là nhà cung cấp khoá lớn nhất cho hãng General Motors và doanh thu từ mối quan hệ này chiếm khoảng 50% tổng số lượng sản phẩm của Strattec. Strattec cũng cung cấp hầu như tất cả các loại khoá cho Chrysler và công ty này mang lại cho Strattec khoảng hơn 16% tổng doanh thu. Từ những thông tin này, tôi đoán rằng Strattec phải thực sự làm ăn phát đạt trong vai trò của một nhà cung cấp khoá. Đặc biệt, phần thông tin dưới đây đã thực sự thu hút sự quan tâm của tôi.

“Dựa trên những cam kết hiện nay về chất lượng sản phẩm, Strattec tin rằng nếu chúng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu, Ford sẽ trở thành khách hàng lớn thứ hai của mình trong năm tài chính 1996 (kết thúc vào tháng 6 năm 1996). Tiêu đề của phần này không hề hấp dẫn như các tiêu đề Wham!, Socko! và Blamo! từ những chương trình T.V trước kia, nhưng hầu hết đều có ảnh hưởng tốt đối với tôi. Bởi vì tất cả những con số thể hiện doanh thu và lợi nhuận của công ty được đề cập trước đây lại không gộp cả lợi nhuận thu được từ kinh doanh với hãng Ford, cho nên việc một khách hàng mong muốn có đơn đặt hàng với số lượng lớn hơn cả số lượng Chryster Corporation cần là một tin khá nổi bật.

Hiện nay, Chrysler là khách hàng lớn thứ hai của tập đoàn Strattec, và chiếm khoảng hơn 16% tổng số giao dịch kinh doanh của tập đoàn này. Điều này đẩy Ford xuống vị trí thứ hai, nghĩa là giá trị hợp đồng này phải lớn hơn cả 16%. (GM là khách hàng lớn nhất với khoảng 50% tổng giao dịch của Strattec, như vậy cũng có nghĩa là hợp đồng của Ford sẽ thấp hơn con số này). Tóm lại, đây là một thông tin rất thú vị mà về cơ bản sẽ làm tăng giá trị của tập đoàn Strattec. Tôi hi vọng là thông tin này sẽ không được phản ánh trên giá cổ phiếu của Strattec cho đến khi tôi có thể mua vào với giá hời.

Đứng từ góc độ số lượng, có một số chi tiết rất hấp dẫn liên quan đến tình hình kinh doanh của Strattec. Cho đến nay, Strattec là nhà cung cấp lớn nhất trên thị trường sản xuất khoá tự động. Với phần lớn các hợp đồng của hãng General Motors và tất cả hợp đồng của Chrysler, Strattec có lợi thế rất lớn. Do vậy, khi có thêm hợp đồng của hãng Ford, chất lượng và giá cả các sản phẩm của Strattec cần phải được định hướng đúng mức. Tôi cho rằng, hầu hết các nhà cung cấp thiết bị ô tô đang được cân nhắc chưa chắc đã có vị thế cao hơn Strattec trên thị trường. Kết hợp những điều này lại, có thể thấy, tỷ lệ P/E của Strattec cao hơn so với các nhà cung cấp khác trên thị trường cũng là điều hợp lý.

Tất nhiên, tôi không định chỉ mua cổ phiếu trong danh sách các cổ phiếu được đánh giá là có giá trị cao trong dãy số P/E. Tuy nhiên, nếu có thể mua cổ phiếu Strattec khi bị đánh giá thấp trong ngành sản xuất thiết bị ô tô (doanh thu tăng gấp chín lần) thì dù không cần tính đến hợp đồng mới của hãng Ford, ta vẫn thấy vụ đầu tư này có thể sẽ rất hấp dẫn.

Kết quả ra sao? Một vài tháng sau khi Strattec bắt đầu hoạt động giao dịch, cổ phiếu được giao dịch tự do từ 10½ và 12. Như vậy, khi nằm ở mức bị đánh giá thấp – trước khi tính cả hợp đồng của Ford, Strattec có mức tăng trưởng cao hơn nhiều so với khoảng thị trường trung bình. Hơn nữa trong sáu tháng gần đây, mức lợi nhuận đạt tới 10%. Tóm lại, thật dễ dàng để mua cổ phiếu của Strattec với giá hấp dẫn. Điều này càng được khẳng định khi trước khoảng thời gian cuối năm 1995, giá cổ phiếu của Strattec là 18 đô la và không cần đến tám tháng sau, công ty đã có thêm 50% lợi nhuận. Kết quả không tệ và thật may là điều này không phải khác thường ở các công ty con.

Được thôi, tôi biết bạn đang nghĩ gì. Ai cũng quan tâm đến lợi nhuận, nhưng có một thực tế là lĩnh vực sản xuất thiết bị thay thế rất tẻ nhạt. Song không có vấn đề gì. Bạn có thể có tất cả – tiền bạc và sự hào hứng – bởi vì điểm dừng tiếp theo của chúng ta là thế giới mua sắm tại nhà tuyệt vời.

LỢI NHUẬN LỚN THU ĐƯỢC TỪ MẠNG LƯỚI MUA SẮM TẠI NHÀ – CARTWRIGHTS KHÔNG PHẢI LÀ NƠI MANG LẠI CHO BẠN SỰ GIÀU CÓ

Tôi không nghĩ rằng hành trình vào thế giới mua sắm tại nhà sẽ thật sự thú vị. Tất nhiên, giống như mọi người, tôi sẽ nhìn lướt qua một con chó bằng sứ hay một vài đồ vật không có giá trị sử dụng. Khi nhà tôi chất đầy những đồ vật trông rất nực cười, tôi sẽ giấu chúng đi để giữ thể diện, và tôi thực sự không có ý kiến gì về những khách hàng đang mua những thứ đồ này. Nói tóm lại, tôi không coi Mạng lưới mua sắm tại nhà là một môi trường đầu tư tiềm năng.

Một bài báo xuất hiện trong số đầu tiên của tạp chí Smart Money tháng 4 năm 1992 đã làm tôi thay đổi thái độ đó. Trong một bài báo có tiêu đề 10 Stocks for the ‘90s, chúng ta sẽ thấy một trong mười lựa chọn đó hóa ra lại là Mạng lưới mua sắm tại nhà. Để tìm hiểu những tiền đề cơ bản của bài báo này, chúng ta hãy nghiên cứu kỹ những người từng gặt hái được chiến thắng vĩ đại nhất thập niên 1980 bằng việc xem xét tình hình hoạt động của họ từ trước đó. Sau đó, hãy ghi lại một danh sách những người đã gặt hái thành công trong những năm 1990. Có một số lý do giải thích tại sao một trong những lựa chọn đó, Mạng lưới mua sắm tại nhà, lại thực sự hấp dẫn tôi.

Trước tiên, hầu hết các tiêu chí lựa chọn để lập ra danh sách topten phải liên quan đến thước đo giá trị của Ben Graham (tỷ lệ P/E thấp và tỷ lệ trung chuyển tiền mặt thấp, tỷ lệ P/B, vân vân). Thật ngạc nhiên là trước đó Mạng lưới mua sắm tại nhà không được coi là một cổ phiếu giá trị. Thứ hai, mỗi cổ phiếu của Mạng lưới này được định giá là hơn 5 đô la. Trong khi đó nhiều tổ chức không muốn mua cổ phiếu với giá dưới 10 đô la. Bởi vì hầu hết các công ty tại Mỹ mong muốn giá cổ phiếu của công ty họ dao động từ 10 đô la đến 100 đô la một cổ phiếu. Bán với giá dưới 10 đô la, trong nhiều trường hợp, sẽ làm giảm vị thế của nó trên thị trường. Bởi vì với mức giá này, lượng vốn trên thị trường sẽ thấp hơn hay thực tế là những cổ phiếu có giá cao với nguồn vốn bị giảm xuống đã không còn phổ biến. Song chúng ta có thể tìm thấy những cơ hội đầu tư trong các cổ phiếu chỉ có giá tính bằng một con số bởi chúng có xu hướng bị đánh giá thấp hơn so với giá trị thực và kết quả là mua được cổ phiếu với giá rẻ hơn so với giá thực.

Lý do cuối cùng giải thích tại sao Mạng lưới mua sắm tại nhà lại có tiềm năng là – thật ngạc nhiên, hết sức ngạc nhiên là – nó liên quan đến một công ty con. (Đó là lý do tại sao chúng ta có mặt ở vị trí đầu tiên, bạn còn nhớ chứ?). Theo bài báo này, Mạng lưới mua sắm tại nhà đã có kế hoạch tách những tài sản quảng cáo “để nâng cao chất lượng của những nguồn doanh thu”. Điều này nghĩa là gì vậy”. Tôi sẽ tìm hiểu sau. Nhưng chắc chắn, nó giống với công ty mẹ, Mạng lưới mua sắm tại nhà, và công ty con, Silver King Communications. Tất cả đều đáng để chúng ta nghiên cứu thêm.

Theo quy định của Form 10 được soạn thảo vào tháng 8 năm 1992, dưới tiêu đề “Lý do phân phối cổ phiếu”, các nhà quản lý của Mạng lưới cho rằng:

Các tổ chức đầu tư và tài chính không thể hiểu làm sao để đánh giá Mạng lưới mua sắm tại nhà (HSN), một phần bởi vì Mạng lưới này là một công ty hoạt động theo định hướng bán lẻ và một công ty hoạt động trong lĩnh vực phát thanh truyền hình. Những công ty hoạt động trong lĩnh vực phát thanh truyền hình thường được định giá nhờ quá trình lưu thông tiền mặt, trong khi các công ty bán lẻ thường được định giá dựa trên cơ sở doanh thu trên một cổ phiếu. Sự phân loại của HSN với tư cách là một công ty bán lẻ hay là một công ty hoạt động trong lĩnh vực phát thanh truyền hình dẫn đến việc sẽ phải ứng dụng phương pháp định giá riêng biệt đối với từng công ty. Trong khi đó, việc kết hợp hai phương pháp định giá đó được xem như là phương thức hợp lý hơn. Ví dụ, những giao dịch bán lẻ của HSN và bản thân HSN bị đánh giá thấp hơn nhiều bởi tác động của việc giảm giá bán và được trừ dần liên quan đến những tài sản của công ty phát thanh truyền hình. Ban giám đốc của HSN tin rằng sự tách ra của HSN và hoạt động trong lĩnh vực phát thanh truyền hình sẽ cho phép các nhà đầu tư tiềm năng hiểu rõ hơn về tình hình kinh doanh của mỗi công ty và có thể thu hút họ quan tâm hơn nữa tới nó.

Thì ra trong những năm 1980, với nỗ lực mở rộng sự tiếp cận của khách hàng tới chương trình mua sắm tại nhà mạng lưới mua sắm tại nhà đã mua 12 đài truyền hình UHF độc lập. Theo văn bản quy định tại SEC, những đài truyền hình này đưa thông tin đến với gần 17,5 triệu gia đình đại diện cho “một trong những lượng khán giả lớn nhất và đây là một nhóm các đài truyền hình hoạt động độc lập tại Mỹ”. Vấn đề duy nhất là, HSN đã trả rất nhiều tiền cho những quảng cáo này. Điều đó không tồi, nhưng tài sản của đài truyền hình không hề lớn. Giá trị của họ được lấy từ dòng tiền mặt đến từ doanh thu quảng cáo (trong trường hợp của Mạng lưới mua sắm tại nhà, một ngành thương mại không bao giờ chết), chứ không phải từ lượng thiết bị truyền thanh được sử dụng phát chương trình.

Điều đáng nói là khi mua một vài thứ với giá rất cao mà chỉ dựa vào một lượng tài sản cố định và lượng vốn lưu động tương đối nhỏ để tạo ra khoản lợi nhuận, bạn sẽ nhận được sự tín nhiệm lớn từ khách hàng. Điều này được thể hiện ở các bảng cân đối tài sản của người mua. Sự tín nhiệm của khách hàng tăng lên khi giá mua vượt quá giá trị tài sản có thể xác định của các công ty (ví dụ, tài sản có thể được xác định như thiết bị phát thanh, giấy báo thu và quyền phát chương trình). Sự trội giá mua so với giá trị thực của tài sản phải được trừ dần (một chi phí tương tự như giảm chi phí cho nhà máy và thiết bị) trong một khoảng thời gian kéo dài vài năm. Giống như sự giảm giá, giảm dần uy tín của khách hàng là thiệt hại không tính bằng tiền mặt. Nó thể hiện trong chính những con số doanh thu được báo cáo. (Bạn sẽ hiểu rõ thêm những thuật ngữ này trong Chương 7).

Đó là thiệt hại, bởi vì tài sản trong lĩnh vực truyền hình là một ví dụ cổ điển về một lĩnh vực kinh doanh mà giá trị của nó không gắn chặt với số lượng tài sản các phát thanh thường được định giá dựa trên dòng tiền mặt của họ (cộng thêm vào những chi phí như sự giảm giá hay giảm dần doanh thu), không có mặt báo cáo về doanh thu. Mặt khác, tài sản của những người bán lẻ được định giá dựa trên doanh thu của họ. Văn bản SEC của Mạng lưới mua sắm này cũng cho biết rằng xác định được tỉ số P/E cho các lĩnh vực kinh doanh kết hợp là rất khó. Theo một quy định, doanh nghiệp bán lẻ nên được đánh giá dựa trên những khoản doanh thu, còn những đài phát thanh được đánh giá dựa trên sự nhân lên của dòng tiền mặt.

Chỉ cần nhìn nhanh vào báo cáo thu nhập của Silver King, bạn sẽ thấy điều này được trình bày rất rõ. Trong những năm gần đây Silver King đã đạt được doanh thu hơn 4 triệu đô la. Với tổng số tiền mặt đạt trên 26 triệu đô la (4 triệu đô la doanh thu từ hoạt động kinh doanh cộng với gần 22 triệu đô la giảm giá và bị trừ dần). Bởi vì thiết bị truyền thanh không thể thay thế thường xuyên, nên vốn đầu tư cho nhà máy và thiết bị mới chỉ là 3 triệu đô la. Điều này có nghĩa là, nếu chưa tính đến khoản lãi suất và thuế, doanh thu thực tế từ hoạt động kinh doanh của Silver King là gần 23 triệu đô la tiền mặt, còn lợi nhuận hoạt động là khoảng 4 triệu đô la cộng với những khoản chiết khấu và trừ dần – khoảng 22 triệu đô la, chưa đầy 3 triệu đô la vốn đầu tư. (Nếu bạn đang bị mất tiền, hãy xem xét lại quá trình trung chuyển tiền mặt trong Chương 7).

Tất nhiên, bạn không biết rằng chỉ cần nhìn vào khoản thu ta sẽ thấy lĩnh vực phát thanh truyền hình của Mạng lưới mua sắm tại nhà là cái máy lớn “đẻ” ra tiền. Tài sản từ lĩnh vực phát thanh truyền hình chỉ góp 4 triệu đô la vào lợi nhuận hoạt động, nhưng chúng đã làm tăng thêm hơn 26 triệu đô la vào nguồn tiền mặt đang lưu thông trên thị trường của Mạng lưới này. Bởi vì hiện tại HSN còn khoảng hơn 88 triệu cổ phiếu chưa bán được, 4 triệu đô la chiếm khoảng 4,5% trên một cổ phiếu của những khoản doanh thu bị mất đi từ việc tách toàn bộ lĩnh vực kinh doanh truyền thanh thành một công ty vệ tinh. Nhưng, hãy chờ thêm nhé, đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện.

Theo thông tin tại SEC, Mạng lưới mua sắm tại nhà sẽ chuyển khoản nợ trị giá khoảng hơn 140 triệu đô la sang công ty Silver King như là một phần của quá trình tách thành công ty con. Ở mức lãi suất là 9%, HSN sẽ giảm khoảng hơn 12,6 triệu đô la trong chi phí lãi suất hàng năm (0,9 × 140 triệu đô la). Điểm mấu chốt ở đây khác xa với những những điều phố Wall đề cập đến. Mạng lưới này sẽ thu về nhiều lợi nhuận hơn khi không có lượng tài sản của lĩnh vực phát thanh truyền hình! (Theo một báo cáo về doanh thu, khoản doanh thu trước thuế xấp xỉ 8,6 triệu đô la cao hơn lượng doanh thu sau khi tách ra thành các công ty con hơn 12,6 triệu đô la so với chi phí lãi suất, trong khi chỉ sẽ mất đi khoảng 4 triệu đô la lợi nhuận hoạt động khi tách ra thành Silver King).

Tất nhiên, ta đã biết đến tiềm năng rất lớn của các đài truyền hình HSN, nhưng đây vẫn không phải là cách đúng đắn để xem xét mọi thứ. Song, đó lại là quan điểm của Mạng lưới mua sắm tại nhà. Họ tin rằng các nhà đầu tư không tính đến giá trị của công ty phát thanh truyền hình khi đánh giá giá trị của HSN. Thực tế, khi xem xét các khoản nợ dành cho việc mua các thiết bị phát thanh truyền hình, các nhà đầu tư có lẽ cũng đã trừ các khoản đó. (Bởi vì HSN đã vay khá nhiều để mua những đài phát thanh này, các nhà đầu tư trừ đi chi phí lãi suất cao từ giá trị cổ phiếu chỉ mang lại khoản tín dụng trị giá 4 triệu đô la của nguồn thu nhập kinh doanh, chứ không phải cho luồng tiền mặt).

Toàn bộ tình huống này có thể được xem xét lại. Rõ ràng là, Silver King có một số yếu tố của một công ty con không được kiểm soát và bị đánh giá sai lệch. Silver King sẽ có khoản nợ khoảng hơn 140 triệu đô la trong bảng cân đối tài sản. Giá trị của công ty con tương đối nhỏ so với giá trị cổ phiếu của mỗi cổ đông trong Mạng lưới mua sắm tại nhà. Hy vọng rằng, điều này sẽ làm cho các cổ đông thấy không phù hợp và coi thường nó. (Thuật ngữ tách thành công ty con được gọi là sự phân bổ một cho mười – nghĩa là với mười cổ phiếu mà nhà đầu tư có được tại Mạng lưới mua sắm tại nhà, họ sẽ nhận được một cổ phiếu tại Silver King Communications). Hơn nữa, Silver King hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh hoàn toàn khác hẳn các ngành kinh doanh bán lẻ trước kia, vẫn được các cổ đông của công ty mẹ ủng hộ phát hành truyền thông. Có lẽ, quan trọng hơn cả là Silver King đang kiếm được hàng tấn tiền mặt mà hầu hết các cổ đông của Mạng lưới mua sắm tại nhà, những người nhận được cổ phiếu của Silver King, chưa chắc đã biết điều này.

Các cơ hội đầu tư không kết thúc tại đây. Công ty mẹ, Mạng lưới mua sắm tại nhà, cũng rất đáng để chúng ta tìm hiểu. Bởi vì một nhà đầu tư mua cổ phiếu của HSN dựa trên những báo cáo về doanh thu có lẽ không thể đầu tư quá nhiều vào lĩnh vực phát thanh. Có lẽ giá cổ phiếu của HSN sẽ không giảm nhiều sau khi công ty con ra đời. Nếu điều này xảy ra, giá trị kết hợp giữa HSN và các công ty con có thể còn cao hơn giá trước khi tách thành công ty con của HSN. Hơn nữa, bởi vì doanh thu của Mạng lưới này thực sự tăng lên nhờ việc tách thành công ty vệ tinh, cho nên giá cổ phiếu của HSN có thể còn cao hơn khi không có tài sản phát thanh truyền hình.

Trước khi chúng ta nhận được kết quả, có một điểm cần phải xem xét lại. Bất cứ khi nào một công ty mẹ thông báo tách một lĩnh vực kinh doanh thành một công ty con (trong những ngành công nghiệp có những quy định rất khắt khe như ngành phát thanh truyền hình, bảo hiểm hay ngân hàng), hãy nghiên cứu kỹ công ty mẹ. Công ty con có lẽ chỉ là bước mở đầu cho việc thay thế công ty mẹ. Tất nhiên, việc tách thành công ty con có thể là nhằm giải phóng công ty mẹ khỏi những rào cản. Tuy nhiên, việc đảm nhận những công ty mà còn tồn tại các công ty thứ cấp là rất phức tạp và tốn thời gian. Một lý do để tách ra thành lập công ty con là giúp cho công ty mẹ dễ dàng bán được cổ phiếu hơn. Trong những tình huống khác, các công ty con không có ý định từ trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn hơn so với các công ty khác trên thị trường.

Trong trường hợp của Mạng lưới mua sắm tại nhà, có lẽ có một vài mối liên hệ giữa những quyết định theo đuổi tình hình hoạt động của công ty con và thảo luận về việc sáp nhập. Vào tháng 3 năm 1992, chỉ vài ngày sau khi thảo luận không thành công về việc sáp nhập với một số đối thủ trong ngành kinh doanh mua sắm tại nhà, mạng lưới QVC, Mạng lưới mua sắm tại nhà thông báo về việc tách một lĩnh vực kinh doanh ra thành một công ty con, gọi là Hệ thống chính xác. Thông báo về việc tách ra thành công ty con Silver King được đưa ra một vài tháng sau đó. Vào thời gian sáp nhập, nhiều buổi thảo luận đã bị hoãn lại. Một số nhà phân tích phỏng đoán (trong tờ Wall Street Journal) rằng QVC không muốn mua những công ty hoạt động ở những lĩnh vực xa lạ như vậy. Ngoài việc mong muốn biến HSN trở thành một mục tiêu tiếp quản hấp dẫn hơn, các công ty con chắc chắn có ảnh hưởng trong việc biến HSN trở thành ứng cử viên đưa ra những yêu cầu hấp dẫn hơn và đơn giản hơn.

Tháng 12 năm 1992, trước khi việc thành lập công ty con được hoàn tất, Liberty Media (bản thân nó đã là một công ty con của Tập đoàn Viễn thông Tele-Communications, nhà cung cấp dây cáp lớn nhất nước) kí một văn bản thỏa thuận để mua quyền kiểm soát Mạng lưới mua sắm tại nhà từ người sáng lập ra nó và cũng là cổ đông lớn nhất, Roy Speer. Những ngày trước đó, Liberty cũng có những hành động nhằm kiểm soát QVC. Việc thành lập công ty con Silver King vẫn được tiến hành theo dự kiến ban đầu, mặc dù lúc này Liberty đã đạt được thỏa thuận mua lại cổ phiếu Speer của Silver King, và được Uỷ ban Thông tin liên bang (FCC) chấp thuận những quy định trong việc hạn chế quyền sở hữu của các trạm phát thanh (Silver King chưa chắc đã có được quyền kiểm soát cao nhất). Trên thực tế, trong thời gian trước khi công ty con này ra đời, Silver King tuyên bố là chưa chắc Liberty Media được phép mua cổ phiếu của Silver King.

Trong một môi trường thay đổi chóng mặt, khi Silver King ra đời vào tháng 1 năm 1993, giá cổ phiếu giao dịch ở mức gần 5 đô la một cổ phiếu mức giá này ổn định trong bốn tháng đầu sau khi tách ra thành công ty con). Điều này nghe có vẻ hấp dẫn với các nhà đầu tư. Mặc dù nợ nhiều, nhưng với mức giá 5 đô la một cổ phiếu chứng tỏ Silver King vẫn giao dịch ở giá thấp hơn năm lần sau khi tính đến các khoản lợi nhuận và thuế. Tuy nhiên, người ta không thể biết rõ tương lai của Silver King sẽ như thế nào.

Trong quá khứ, đài truyền hình Silver King nhận được 1% doanh thu từ Mạng lưới mua sắm tại nhà khi trao đổi các buổi trình chiếu của Mạng lưới này. Điều gì sẽ xảy ra nếu Mạng lưới này không còn yêu cầu đài truyền hình của Silver King trình chiếu những biểu diễn của họ? Liberty Media, cổ đông mới có mặt trong Hội đồng quản trị của HSN, đã có mối liên hệ tốt trong ngành truyền hình cáp. Có lẽ HSN có thể được trình chiếu trực tiếp trên truyền hình cáp mà không cần qua đài truyền hình của Silver King. Sau đó, Silver King sẽ không còn gì hết, ngoại trừ một mạng lưới các đài truyền hình chính đến với 27,5 triệu gia đình. Kết quả này này có vẻ cũng không quá tồi.

Điều gì đã xảy ra? Sau một vài tháng giao dịch ở khu vực có giá cổ phiếu 5 đô la, trong năm tiếp theo, Silver King chuyển sang giao dịch ở mức 10 đến 20 đô la. Điều này một phần là nhờ công ty thoát khỏi áp lực bán cổ phiếu sau khi được thành lập và một phần là nhờ sự phỏng đoán (được trích trong tờ Wall Street Journal) rằng Silver King đang xem xét sáp nhập thêm những công ty khác vào để thành lập mạng lưới truyền hình thứ năm. Một vài năm sau đó, Barry Diller, một tập đoàn có danh tiếng trong lĩnh vực thông tin đại chúng, đã nắm quyền kiểm soát Silver King, lấy nó làm bước đệm nhằm kiểm soát hoàn toàn lĩnh vực thông tin đại chúng. Chắc chắn là tôi không mua Silver King để tham gia vào một chuỗi những sự kiện đặc biệt này. Tuy nhiên, mua một tài sản mà không ai để ý tới với giá thấp sẽ mang lại cho chúng ta chỗ đứng tốt trong nhiều lĩnh vực và giúp giá trị của nó cuối cùng cũng được thị trường công nhận.

Vâng, đúng vậy. Mạng lưới mua sắm tại nhà đã có một số biến đổi khá thú vị về giá sau khi tách ra thành công ty con. Cổ phiếu của nó tăng giá sau khi cổ phiếu của Silver King được phân bổ tới các cổ đông của HSN. Thông thường, khi cổ phiếu của công ty con có giá trị là 50 xu một cổ phiếu (bằng một phần mười cổ phiếu của Silver King) được bán cho các cổ đông của công ty mẹ, cổ phiếu của công ty mẹ sẽ giảm khoảng 50 xu trong ngày phân phối cổ phiếu. Thay vào đó, cổ phiếu của Mạng lưới mua sắm tại nhà lại tăng lên 25 xu một cổ phiếu. Nếu bạn sở hữu cổ phiếu của Mạng lưới này vào ngày trước ngày phân phối cổ phiếu, ngày tiếp theo bạn sẽ bị mất trắng cổ phiếu đó. Giá trị kết hợp của cổ phiếu HSN và cổ phiếu Silver King mang lại khoảng 12% lợi nhuận cho các cổ đông của HSN (chỉ trong một ngày). Cho dù các chuyên gia nói thế nào đi nữa về hiệu quả của thị trường cổ phiếu, rõ ràng là vẫn có rất nhiều cổ phiếu được định giá không hợp lý. Với các nhà đầu tư, những người biết nên nghiên cứu ở đâu, đó chính là vấn đề.

Tôi hầu như quên hết mọi thứ. Bạn có nhớ hệ thống chính xác mà HSN đã tách ra trước khi Silver King ra đời không? Ồ, tôi vẫn cố gắng để quên. Tôi không bao giờ để tâm đến điều đó. Sau khi được tách ra để trở thành một công ty con và cổ phiếu được giao dịch ở mức dưới 1 đô la một cổ phiếu trong một vài tháng, trong vòng một năm, giá cổ phiếu giao dịch là 5 đô trên một cổ phiếu và sau đó lại tăng gấp đôi trong vòng hai năm tới. Bạn không thể chiến thắng được họ. (Nhưng điều đó sẽ thật tuyệt vời!).

MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA CHÚA

Một trong Mười điều răn của Chúa là: “Hãy kính trọng cha mẹ anh”. Do vậy, về mặt logic mà nói, quan tâm tới những bậc sinh thành ra ta là một điều nên làm. Lời khuyên tương tự cũng có giá trị với công ty mẹ của các công ty vệ tinh. Có trùng hợp không? Tôi nghĩ là không.

Trong trường hợp của Mạng lưới mua sắm tại nhà, mặc dù bị hấp dẫn bởi sự ra đời của công ty vệ tinh nhưng sau khi đọc xong bài báo Smart Money cùng quá trình tự tìm hiểu suy ngẫm, tôi quyết định mua cổ phiếu của chính công ty mẹ. Trước khi Silver King được thành lập, giá cổ phiếu giao dịch là 5 đô la trên một cổ phiếu. Điều này sẽ dẫn đến giá giao dịch thực là 4,50 đô la một cổ phiếu (sau khi trừ đi giá giao dịch ban đầu của Silver King). Hãy xem, công ty con đã nhấn mạnh một thực tế là công ty mẹ, Mạng lưới mua sắm tại nhà, có giá cổ phiếu rẻ. Hơn nữa, vì mục đích so sánh các đầu tư thành công của Mạng lưới mua sắm tại nhà, tôi phải nghiên cứu đối thủ chính của nó, Mạng lưới QVC. Tôi nhận thấy mạng lưới bán hàng này rất rẻ. Thật không ngờ, giá của cả hai loại cổ phiếu hóa lại tăng gấp đôi trong năm tới.

Mục đích của tôi không phải là kể cho các bạn nghe về những người chiến thắng (hãy tin tôi, tôi cũng từng đứng trong hàng ngũ những kẻ bại trận), mà là chỉ ra rằng, khi đã thoát khỏi một số chi nhánh phức tạp của mình, những công ty mẹ cũng có thể là một cơ hội đầu tư khá thú vị.

NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG

Tập đoàn American Express/Lehman Brothers

Tháng 1 năm 1994, xuất hiện một thông tin lan rất nhanh là tập đoàn American Express tuyên bố tách Lehman Brothers thành một công ty hoạt động độc lập. Lehman Brothers vốn là một công ty đầu tư lâu đời trong lĩnh vực ngân hàng mà American Express đã mua vào đầu những năm 1980. Vào khoảng thời gian mua lại công ty này, dưới sự lãnh đạo của giám đốc điều hành trước đó, các nhà đầu tư có ý tưởng biến American Express trở thành “một thị trường tài chính lớn mạnh”. Sau một thập niên cố gắng tìm hiểu nhưng vẫn chưa tìm ra, ban giám đốc của American Express quyết định chuyển nhượng phần còn lại của Lehman cho các cổ đông. Khi hồ sơ được hoàn tất và phê chuẩn vào tháng 4 năm 1994, tôi quyết định nghiên cứu kỹ hơn về công ty Lehman Brothers mới được thành lập này.

Theo thông tin từ hồ sơ và các bài báo, Lehman Brothers luôn phải đầu tư rất nhiều để thu về được những khoản doanh thu tính bằng đô la trong lĩnh vực đầu tư của họ. Năm ngoái, họ đã mất rất nhiều tiền, và nổi tiếng vì có những khoản lợi nhuận cực kỳ bấp bênh. Các cổ đông của công ty không chỉ có những khoản lương thưởng rất lớn mà còn nắm giữ một số lượng cổ phiếu tương đối trong công ty mới thành lập. Trong hầu hết các công ty, và đặc biệt là ở phố Wall, người được tuyển dụng luôn mong muốn có được khoản lương thưởng lớn nhất. Hầu như tất cả các giám đốc điều hành cấp cao của Lehman đều không có mối dây liên kết nào gắn chặt với tương lai của cổ phiếu công ty. Tôi có thể giải thích thế này: Có một cơ hội tốt khi phân chia lợi nhuận giữa nhân viên và các cổ đông. (Cách thức chia là hai cho tôi – một cho bạn, hoặc một cho bạn – hai cho tôi, v.v…). Trừ trường hợp giá cổ phiếu của Lehman giảm nhiều (theo giá trị sổ sách), tạo cơ hội cho các doanh nghiệp đầu tư khác, tôi sẽ không còn muốn đầu tư vào đó nữa.

Nhưng có một điều gì đó đã hấp dẫn tôi. Theo nguồn tin từ một bài báo, American Express gặp phải khó khăn là các tổ chức đầu tư không mấy quan tâm về khoản doanh thu trong một khoảng thời gian xác định là bao nhiêu. Thủ phạm chính ở đây là quá trình ghi lại những khoản lợi nhuận cực kỳ không ổn định của Lehman. Điều duy nhất mà phố Wall ghét là sự không chắc chắn. Vượt qua khó khăn doanh thu không ổn định là mục tiêu trước mắt của công ty này. Đây cũng chính là mục đích ban đầu của Shearson, một công ty con khác của American Express. Sau khi chia tách, American Express hoạt động trong hai lĩnh vực chính. Cả hai lĩnh vực kinh doanh đó đều hoạt động rất ổn định.

Lĩnh vực kinh doanh đầu tiên được American Express phân loại là “những dịch vụ liên quan đến du lịch,” bao gồm thẻ thanh toán rất nổi tiếng và hãng du lịch lớn nhất thế giới, trong đó có cả lĩnh vực kinh doanh séc du lịch. Dưới sự chỉ đạo của Giám đốc điều hành mới, tất cả các nhân viên đều tập trung vào kế hoạch của công ty và phát huy những quyền bầu chọn cơ bản. Mặc dù sự cạnh tranh từ Visa và Master Card đã tác động đến một số lĩnh vực kinh doanh của American Express trong một vài năm trước, nhưng dường như mọi rắc rối xảy ra lại là do sự lơ là trong quản lý. Rõ ràng là ở đây không có trọng điểm mới trong lĩnh vực kinh doanh cơ bản. Vì sản phẩm chính của America Express là thẻ thanh toán, đòi hỏi phải thanh toán chi phí hàng tháng, nên phần lớn doanh thu dựa vào phí được trả bởi chủ thẻ và các thương gia. Lĩnh vực kinh doanh này dường như hấp dẫn hơn thẻ tín dụng, nhưng đồng thời phải gánh chịu những rủi ro lớn hơn về tín dụng. Tóm lại, với quyền quyết định và nhãn hiệu của riêng mình, American Express tỏ ra có nhiều ưu thế để đạt kết quả cao hơn so với thị trường chung. Trên thực tế, công ty này rất khó đạt mức tăng trưởng gấp đôi, nếu không muốn nói là không thể.

Lĩnh vực kinh doanh thứ hai là “Đa dạng hóa dịch vụ dành cho các nhà đầu tư” (IDS) đã đạt mức tăng trưởng 20% trong gần mười năm. Ngành kinh doanh này bao gồm tất cả những người lập kế hoạch tài chính, những người cung cấp cho khách hàng toàn bộ kế hoạch đầu tư và bảo hiểm (dựa trên nhu cầu khác nhau của từng khách hàng). Người lập kế hoạch là những người thường giới thiệu và bán nhiều sản phẩm cho công ty của họ, ví dụ như các quỹ tương hỗ hay quỹ trợ cấp hàng năm. Bởi vì các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kế hoạch tài chính không có quy tắc chặt chẽ, chịu sự chi phối của một nhà chuyên môn độc lập hay một nhóm các nhà chuyên môn, IDS (bây giờ là “Nhóm các nhà tư vấn của American Express”) có thể mang lại sự thoải mái, nguồn lực và những dịch vụ tài chính tối ưu, không dễ tìm thấy ở các tổ chức khác. Khả năng cung cấp tất cả các dịch vụ khác nhau chỉ bằng một gói dịch vụ đã giúp IDS tăng nhanh khối lượng tài sản của mình trong môi trường quản lý. Phần lớn doanh thu thu được từ mức phí hàng năm được tạo ra từ việc bán các sản phẩm đầu tư và bảo hiểm cho khách hàng. Điểm mấu chốt là: IDS cũng là tổ chức có lợi thế tăng trưởng nhanh và có vị thế cao trong con mắt các nhà đầu tư.

Điều thú vị là một vài tháng trước khi Lehman Brothers ra đời vào tháng 5 năm 1994, bạn có thể mua American Express với giá 29 đô la một cổ phiếu hay thấp hơn. Giá này bao gồm giá trị của công ty con Lehman. Giới báo chí ước tính giá cổ phiếu của American Express là 3 đến 5 đô la trên một cổ phiếu. Điều này có nghĩa là sau khi tách ra, giá cổ phiếu của American Express được giao dịch trong khoảng 24 và 26 đô la một cổ phiếu. Ước tính khoản tiền lãi mà American Express kiếm được trong năm 1994 xấp xỉ 2,65 đô la trên một cổ phiếu (không có sự tham gia của công ty Lehman Brothers). Điều này mang lại kết quả là giá mua thấp hơn mười lần so với doanh thu.

Hãy xem xét chỉ số Value Line tại một số công ty kinh doanh trong lĩnh vực thẻ tín dụng, bạn sẽ thấy chỉ số trung bình P/E của họ thấp hơn 10. Mặc dù vậy, tôi không chắc rằng đây là một sự so sánh hoàn hảo. Dường như là American Express có thể được định giá vào khoảng 30 đến 40% (trên cơ sở tương quan). Mặc dù doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thẻ, dưới sự quản lý của ban điều hành cũ, phải chịu nhiều sự đảo lộn nhưng một định hướng mới về nhãn hiệu của American Express là không thể thay đổi được và lợi thế thị trường cấp cao đã mang lại cho tôi nhiều sự thoải mái. Tương tự như đã đề cập từ trước, bản chất của loại thẻ thanh toán tại American Express dựa trên những khoản phí và một số lĩnh vực kinh doanh có liên quan dường như hấp dẫn hơn những rủi ro tín dụng có trong các công ty kinh doanh thẻ tín dụng mà tôi đang so sánh.

Chắc chắn là, IDS, chiếm xấp xỉ 30% thu nhập của American Express, trông giống như một lĩnh vực kinh doanh có giá trị cao gấp 10 lần so với những khoản doanh thu. Sau khi mức tăng trưởng đạt 20% một năm trong một khoảng thời gian dài và có nguồn thu nhập ổn định từ các tài sản được ban điều hành quản lý, việc mua doanh nghiệp này với giá ưu đãi lớn cũng giống như là hành động ăn cắp vậy. Mặc dù American Express cũng sở hữu một ngân hàng quốc tế (có lẽ giá trị doanh thu tăng gấp 10 lần) nhưng vẫn chiếm ít hơn 10% tổng số lợi nhuận.

Điểm mấu chốt là: Khi doanh thu giảm đi 10 lần, cổ phiếu của American Express rất rẻ. Một khi những khoản doanh thu dễ gây nhầm lẫn và liên tục biến đổi so với hình ảnh chung của công ty thì tôi nghĩ rằng, điều này sẽ trở nên rõ ràng với các nhà đầu tư khác. Vấn đề duy nhất là, tôi vốn không quan tâm đến Lehman, vì vậy tôi nên mua cổ phiếu của American Express trước hay sau khi công ty con được thành lập?

Thông thường, dù một nhóm các nhà đầu tư rất muốn đầu tư vào công ty mẹ nhưng vì một lĩnh vực hoạt động không mấy thành công đã bị tách ra khỏi công ty mẹ, họ sẽ chờ cho đến khi công ty con chính thức ra đời rồi mới mua cổ phiếu ở công ty mẹ. Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư tránh khỏi việc phải mua vào những cổ phiếu của lĩnh vực kinh doanh không mấy hiệu quả và loại bỏ được tất cả các rủi ro của việc công ty con vẫn chưa chính thức đi vào hoạt động. Thường thì các tổ chức hay mua cổ phiếu của công ty mẹ ngay sau khi công ty con có xu hướng tăng giá cổ phiếu. Đó là vì, nếu công ty mẹ là một môi trường đầu tư hấp dẫn,thì việc mua cổ phiếu tại công ty mẹ trước khi công ty con ra đời là hợp lí. Mặc dù vậy, sẽ có một chút rắc rối khi muốn tạo ra một giá hời bằng cách mua cổ phiếu tại công ty mẹ trước khi công ty con được chính thức ra đời, vì thế, chúng ta cần dành nhiều công sức để nghiên cứu – ngay cả khi bạn không nhận được giá đặc biệt trong lúc bán cổ phiếu của công ty vệ tinh.

Trong trường hợp của Lehman, tôi rất vui khi tạo ra giá cổ phiếu của American Express vào khoảng 24 và 26 đô la. Đó là một quyết định dễ dàng để có thể mua cổ phiếu với giá 29 đô la, trước khi tách ra trở thành công ty con. Cổ phiếu của Lehman, mà tôi vẫn tiếp tục theo đuổi, (tôi ghét bán cổ phiếu của những công ty con này), bắt đầu giao dịch với giá khoảng 18,50 đô la trên một cổ phiếu. (Bởi vì một cổ phiếu tại Lehman được phân phối tương ứng với 5 cổ phiếu tại American Express, nên sẽ tạo ra giá trị khoảng 3,75 đô la trên một cổ phiếu của American Express). Giá cổ phiếu của American Express đã tăng 1⅝ trong ngày giao dịch đầu tiên (sau khi Lehman phân bổ cổ phiếu), do vậy, mua cổ phiếu trước khi công ty con chính thức ra đời là một hướng đi đúng. Đó cũng là một hướng đi đúng cho mục tiêu lâu dài. American Express vẫn tiếp tục duy trì mức giá 36 đô la trên một cổ phiếu trong năm đầu tiên sau khi công ty con ra đời, đạt được mức lợi nhuận 40% một năm.

Nhân đây tôi muốn nói thêm rằng, sau khi công ty con này ra đời khoảng hơn 6 tháng, Warren Buffett thông báo rằng anh ta đã mua gần 10% lượng cổ phiếu của American Express. Rõ ràng là, chính công ty con này và doanh thu của những lĩnh vực kinh doanh không liên quan đã chỉ ra rằng American Express sẽ trở thành công ty mang tên “Warrren Buffett” – nơi mang lại cho các nhà đầu tư cổ phiếu giá cả hấp dẫn với một nhãn hiệu nổi tiếng và lợi thế lớn trên thị trường.

Bạn thấy đó, nghiên cứu kỹ tình hình làm ăn của công ty mẹ sẽ đem lại rất nhiều lợi thế – bạn có nghĩ đến chuyện đó không?

CÔNG TY BÁN VỆ TINH

Tôi chưa bao giờ muốn bỏ quá nhiều công sức để tìm hiểu một hạng mục đầu tư. Vì vậy, nếu thấy một hạng mục nào đó quá phức tạp hoặc khó hiểu, tôi sẵn sàng bỏ qua và tìm cơ hội nào đó dễ hơn. Đó là lý do tại sao mảng đầu tư vào công ty vệ tinh lại có sức hấp dẫn lớn đối với tôi. Đây là một lĩnh vực mà những kỹ năng toán lớp 1 (đặc biệt là phép tính trừ) chính là chìa khóa dẫn đến thành công.

Một công ty bán vệ tinh có nghĩa là một công ty chỉ tách ra hoặc bán đi một phần bộ máy hoạt động của mình. Thay vì bán 100% quyền sở hữu cho các cổ đông, chỉ một phần cổ phiếu được bán lại cho các cổ đông của công ty mẹ hay bán ra thị trường; công ty mẹ giữ số cổ phiếu còn lại. Chẳng hạn, nếu tập đoàn XYZ quyết định bán 20% lượng cổ phiếu của chi nhánh Widget cho các cổ đông, có nghĩa là 20% đó sẽ được mua bán tự do trên thị trường và 80% còn lại vẫn do XYZ nắm giữ.

Có một số nguyên nhân dẫn đến việc lựa chọn thành lập công ty bán vệ tinh. Đôi khi, đó là một công ty đang cần thu hút thêm vốn đầu tư. Bán đi một phần của chi nhánh trong khi vẫn giữ quyền kiểm soát là một lựa chọn hấp dẫn. Cũng có khi việc tách hẳn một chi nhánh là nhằm mục đích làm nổi bật những giá trị của nó trên thị trường, bởi rất có thể hào quang của nó đang bị lu mờ đi khi đặt trong một tổng thể cùng với những lĩnh vực kinh doanh khác của công ty mẹ. Một cổ phiếu riêng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư đánh giá độc lập chi nhánh đó. Mặt khác, cho phép người đứng đầu chi nhánh đó được đánh giá và có phần thưởng xứng đáng với hiệu quả hoạt động của chi nhánh mình. Lợi ích được nhân đôi khi ta để mắt tới các công ty.

Trước hết, trong trường hợp cổ phiếu của một công ty bán vệ tinh được phân phối trực tiếp đến các cổ đông của công ty mẹ, những cổ phiếu này sẽ mang lại lợi nhuận (với cùng một lí do như 100% các công ty bán vệ tinh khác). Trong trường hợp một phần của nó được bán thẳng ra thị trường (qua một “Giá thị trường niêm yết”, viết tắt là IPO), cơ hội của bạn có lẽ sẽ ít hơn. Đó là vì những người mua cổ phiếu niêm yết tự do chỉ mua những cổ phiếu mà họ muốn, do đó việc giá cổ phiếu giảm do mua bán thiên vị sẽ không thể xảy ra.

Cơ hội thứ hai của bạn lại đến từ một hướng khác. Đây chính là lúc tận dụng những kỹ năng toán lớp 1 của chúng ta. Một khi cổ phiếu của công ty con được mua bán công khai thì nghĩa là thị trường đã định được giá trị của nó rồi. Nếu chi nhánh Widget của XYZ có tổng cộng 10 triệu cổ phiếu và bán ra thị trường 2 triệu cổ phiếu với giá 20 đô la một cổ phiếu – nghĩa là XYZ vẫn sở hữu 80% cổ phiếu, trị giá 160 triệu đô la (8 triệu cổ phiếu nhân với 20 đô la một cổ phiếu – vậy đấy, toán lớp 2).

Cơ hội thứ hai của bạn là: bằng con tính đơn giản nói trên, bạn biết được hai điều.

Thứ nhất, dĩ nhiên bạn biết giá trị của Widget mà XYZ đang nắm giữ – 160 triệu đô la.

Thế nhưng ngoài ra bạn còn biết giá thị trường của toàn bộ phần còn lại của XYZ (trừ đi 160 triệu đô la). Nghĩa là thế này: Nếu XYZ có giá thị trường là 500 triệu đô la và 80% cổ phiếu của Widget có giá trị 160 triệu đô la, điều đó cho phép đưa ra kết luận: toàn bộ phần còn lại của XYZ có giá trị 340 đô la.

Câu chuyện tầm phào đó sẽ đưa bạn đến đâu? Để rồi xem.

NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG

Sears

Tháng 9 năm 1992, Sears công bố bán 20% cổ phiếu hai trong số các chi nhánh của họ ra thị trường. Đã nhiều năm nay, ban quản trị của Sears phải gánh chịu áp lực về vấn đề giá cổ phiếu của công ty. Sears cho rằng giá trị cổ phiếu của tập đoàn không phản ánh đúng giá trị hai chi nhánh của mình là Dean Witter (bao gồm cả Discover) và Công ty bảo hiểm Allstate. Riêng với Dean Witter, Sears cũng loan báo luôn ý định phân phối trực tiếp 80% cổ phiếu của công ty này cho các cổ đông của Sears vào năm sau đó, năm 1993.

Câu chuyện này có chỗ nào thú vị? Trước khi công bố ý định đó, Sears đã sở hữu cả Dean Witter, Allstate và chuỗi siêu thị nổi tiếng Sears’. Chẳng ai lạ gì việc Sears nắm quyền sở hữu những công ty đó nhiều năm nay. Vậy thì tại sao đây lại là một cơ hội đầu tư tốt? Như chúng ta biết, Sears chẳng hề bán hay phân phát quyền sở hữu của những công ty mà nó đã nắm giữ rồi.

Câu trả lời là: Động thái của Sears chẳng những làm nổi bật giá trị thị trường của Dean Witter và Allstate qua việc mua bán công khai hai công ty này mà nó còn hé lộ một điều khác nữa. Chúng ta lấy giá trị của Sears trừ đi giá trị số cổ phiếu còn lại của Dean Witter và Allstate mà nó nắm giữ để biết được giá trị phần còn lại (chủ yếu nằm ở chuỗi cửa hàng bán lẻ). Chuyện này có gì quan trọng không? Rất quan trọng. Chúng ta hãy xem tại sao.

Một số cổ phiếu tương đương với 20% giá trị của Sears đã được bán ra trong tháng 2 năm 1993. Ý định của Sears là sẽ tách 80% phần sở hữu còn lại của Dean Witter và Allstate (dưới hình thức bán trực tiếp cho các cổ đông của Sears). Đầu tháng 6, Sears đã bán 20% cổ phiếu của Allstate với giá 27 đô la một cổ phiếu. Đến đầu tháng 7, ngay trước khi Sears phân phối phần còn lại của Dean Witter, giá cổ phiếu của Dean Witter xấp xỉ 37 đô la một cổ phiếu; còn Allstate dao động trong khoảng 29 đô la và Sears khoảng 54 đô la.

Bài toán được giải thế này: Sears đã công bố sẽ phân phối 80% lượng cổ phiếu còn lại của Dean Witter. Theo đó, cứ trong 100 cổ phiếu của Sears sẽ có 40 cổ phiếu của Dean Witter được bán ra (Sears dự định bán 136 triệu cổ phiếu của Dean Witter và còn lại khoảng 340 triệu cổ phiếu. Như vậy, tỷ lệ phân phối là 136/340 hay 0,4). Chính vì thế, đến giữa tháng 7, mỗi cổ đông của Sears sẽ nhận được một số cổ phiếu của Dean Witter trị giá xấp xỉ 0.4 nhân với 37 đô la (giá thị trường của cổ phiếu Dean Witter), nghĩa là khoảng 15 đô la trị giá cho mỗi cổ phiếu Sears mà người đó nắm giữ.

Trước khi được bán rộng ra công chúng vì giá cổ phiếu của Sears là 54 đô la trên một cổ phiếu, điều này có nghĩa là giá trị ròng của những cổ phiếu Sears hạ 39 đô la một cổ phiếu. Những cổ phiếu hạ giá của Sears là cổ phiếu gì vậy? Trước hết đó là lượng cổ phiếu chỉ mang 80% giá trị của Sears tại Allstate, những ngành kinh doanh ở trong và ngoài nước, và những lĩnh vực kinh doanh bất động sản khác nhau (bao gồm giám đốc ngân hàng Coldwell). Tuy nhiên, chúng ta cũng biết một vài điều khác nữa: giá thị trường của loại cổ phiếu này chỉ còn 80% giá trị tại Allstate.

Tập đoàn Sears cũng sở hữu khoảng 340 triệu cổ phiếu của Allstate. Bản thân tập đoàn Sears cũng có khoảng 340 triệu cổ phiếu đang lưu thông. Điều này có nghĩa là nếu bạn sở hữu một cổ phiếu Sears thì bạn đang gián tiếp sở hữu một cổ phiếu nữa của Allstate. Có trong tay cổ phiếu Allstate có giá là 29 đô la, ít hơn 10 đô la một cổ phiếu (giá cổ phiếu ròng 39 đô la, ít hơn 29 đô la so với cổ phiếu tại Allstate), nghĩa là bạn đang tham gia vào lĩnh vực kinh doanh cửa hàng bách hóa trong và ngoài nước tại Sears cũng như lĩnh vực kinh doanh bất động sản. Liệu đây có phải là một kế hoạch kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận?

Michael Price, một nhà quản lý quỹ đầu tư nổi tiếng, trong bài phỏng vấn của Barron (ngày tháng 7 năm 1993) đã giải trình trường hợp này rất rõ ràng.

Trong 54 đô la trị giá của một cổ phiếu Sears có bao gồm một cổ phiếu của Allstate với giá 28 đô la, như vậy nó vẫn còn lại 26 đô la. Sau đó bạn mua 0.4 cổ phiếu của Dean Witter với giá là 15 đô la. Vẫn còn lại 10 đô la hay 11 đô la. Bạn có thể mua 2 hoặc 3 đô la cổ phiếu của Sears Mexico và Sears Canada. Bạn vẫn còn lại 5 đô la cho một cổ phiếu, hay một lượng vốn thị trường trị giá 1,5 tỷ đô la cho các doanh nghiệp bán lẻ – với 27 tỷ đô la doanh thu. Hệ thống quản lý mới có vẻ rất tập trung. Nó hầu như là một doanh nghiệp bán lẻ không mắc nợ với những cơ hội đầu tư bất động sản rất lớn.

Tôi đã nói với bạn rằng, tôi không thích làm việc quá vất vả chỉ vì muốn tìm ra những cơ hội đầu tư mới. Kiểm tra qua thì thấy rằng, quả thực, giá cổ phiếu ở đây là hoàn toàn chính xác. Cổ phiếu của Sear rẻ. Với 27 tỷ đô la toàn bộ doanh thu và 340 triệu cổ phiếu đang lưu thông, Sears có doanh thu là 54 đô la một cổ phiếu. Nếu những giao dịch có thể được thực hiện là 5 đô la một cổ phiếu, điều này dẫn đến kết quả là giá mua chỉ hơn 6% của giao dịch (5 chia cho 79). Mặt khác, hãy nhìn vào mức giá giao dịch 78 đô la một cổ phiếu và giá thị trường là 44 đô la một cổ phiếu – chiếm hơn 56% giao dịch. Tất nhiên, có nhiều thước đo khác nhau để đo giá trị tương đối (ví dụ như doanh thu), nhưng tất cả những điều đó đều cho thấy, lĩnh vực kinh doanh bán lẻ trong nước của Sears có thể có giá rẻ không ngờ.

Mặc dù tôi rất ủng hộ việc bạn hãy tự làm công việc của mình nhưng không có nghĩa là tôi chống lại việc “ăn cắp” ý tưởng của người khác. Một thế giới vĩ đại hiện ra trước mắt. Chỉ một mình bạn không thể biết hết mọi thứ. Đó là lý do tại sao, nếu bạn đọc về một tình huống đầu tư viết trong một phần nào đó của cuốn sách này, bạn sẽ thấy hữu ích hơn nhiều nếu tìm hiểu nó kỹ hơn. Nếu có được lời khuyên từ những chuyên gia có uy tín (sẽ được đề cập đến ở phần sau), việc “ăn cắp” có thể mang lại những khoản lợi nhuận lớn.

Tất nhiên, ở đây tôi đang đề cập đến việc ăn cắp ý tưởng (về mặt phương pháp mà nói, nó không hề dùng đến những cú đánh chết người). Thật không may, bạn vẫn phải tự làm công việc của mình. Trong tình huống của Sears, ngoài bài báo của Barron, Michael Price đưa ra một cuộc phỏng vấn tương tự với Tạp chí Fortune vào giữa tháng 6. Do vậy, cho dù bạn không theo dõi câu chuyện về Sears trong nhiều tháng, nó vẫn xuất hiện trên những bài báo về kinh doanh – hay bạn theo dõi câu chuyện nhưng bản thân bạn lại lờ đi những phép tính toán – có ít nhất hai cơ hội giúp tạo nên một ý tưởng hay. Nếu bạn biết những hình thức đầu tư mình đang tìm kiếm, chẳng hạn như các công ty con thì việc nghiên cứu những hình thức đầu tư này còn dễ dàng hơn nhiều.

Mua cổ phiếu của Sears cũng tạo ra những kết quả khá tốt. (Chúng ta sẽ có một vài kẻ bại trận… trong phần sau của cuốn sách này). Sau khi cổ phiếu Dean Witter được phân bổ, những cổ phiếu còn lại có giá 39 đô la ở Sears sẽ tăng 50% trong vòng một vài tháng tiếp theo. Giá cổ phiếu của Allstate cũng chỉ tăng từ 29 đến 33 đô la trong khoảng thời gian này. Rõ ràng là cuối cùng, thị trường cũng nhận ra giá trị vốn có của những tài sản khác tại Sears.

(Nếu có kiến thức và kinh nghiệm, bạn có thể đồng thời mua cổ phiếu của Sears và cổ phiếu ngắn hạn của Allstate (chỉ chiếm một phần cổ phiếu của Sears). Đó quả một cơ hội đầu tư béo bở. Trong một số trường hợp, đây là một cách làm khôn ngoan, đặc biệt khi giá trị của cổ phiếu đó rất thấp – cổ phiếu của ngành kinh doanh cửa hàng bách hóa chỉ có giá 5 đô la một cổ phiếu. Năm đô la chỉ là một con số nhỏ so với giá mua hiện thời 39 đô la, sau khi cổ phiếu Dean Witter được phân bổ. Tuy nhiên, trong trường hợp này, sự chênh lệch giữa giá hời khi mua cổ phiếu trong lĩnh vực kinh doanh cửa hàng bách hóa và giá thực là quá lớn, không có chiến thuật nào như vậy được coi là tuyệt vời và cần thiết).

MẸO DÀNH CHO NGƯỜI TRONG CUỘC: HƯỚNG DẪN BẠN TỰ LÀM MỌI VIỆC

Tôi từng có lần nói rằng tìm hiểu những người trong cuộc làm gì là một phương pháp tốt để tìm kiếm những cơ hội đầu tư mang nhiều lợi nhuận. Điều đó có nghĩa là nếu những người trong cuộc sở hữu một lượng lớn cổ phiếu hay quyền lựa chọn, lợi nhuận của họ và cổ đông cũng gần kề nhau. Nhưng, bạn có biết rằng có những thời kỳ, người trong cuộc có thể thu được lợi nhuận lớn (khi giá cổ phiếu của công ty con được giao dịch với giá thấp) hay không? Bạn có biết về những hành động mà người trong cuộc nghĩ đến khi bạn không mua cổ phiếu ở một công ty con mới thành lập hay không? Bạn có biết rằng bạn có thể có được một khoản lợi nhuận lớn khi phát hiện ra những hành động này hay không? Ồ, tất cả điều đó đều là sự thật.

Tìm hiểu những người trong cuộc làm gì là một phương pháp tốt để tìm kiếm những cơ hội đầu tư mang nhiều lợi nhuận.

Thông thường khi một công ty tuyên bố công khai bán cổ phiếu thì một cuộc đàm phán kỹ lưỡng sẽ diễn ra. Bên bảo lãnh (doanh nghiệp đầu tư mang danh nghĩa là công ty nhà nước) và chủ sở hữu của công ty sẽ cùng nhau bàn bạc, thống nhất giá cả của cổ phiếu sẽ được bán ra trên thị trường trong đợt công bố đầu tiên. Mặc dù giá cả được đưa ra dựa trên một số yếu tố thị trường nhưng thực ra, trong hầu hết các trường hợp, tính chủ quan lại rất lớn. Chủ sở hữu của công ty mong muốn cổ phiếu của họ được bán với giá cao, điều này sẽ giúp họ tăng thêm lượng tiền tệ cho công ty. Song bên bảo lãnh thường mong muốn một giá thấp hơn. Do vậy, các nhà đầu tư, người mua cổ phiếu trong đợt công bố đầu tiên này sẽ kiếm được một số tiền đáng kể. (Bằng cách đó, những điều khoản mới tiếp theo mà họ ký bảo lãnh sẽ giúp việc bán cổ phiếu trở nên dễ dàng hơn). Trong bất kỳ sự kiện nào, cuộc đàm phán kéo dài sẽ diễn ra và giá cổ phiếu được xác lập. Khi một công ty con được thành lập, sẽ không có sự bàn bạc nào xảy ra cả.

Thay vào đó, những cổ phiếu của công ty con được phân bố trực tiếp đến những cổ đông của công ty mẹ và giá cổ phiếu ở đây được xác lập dựa trên các nhân tố thị trường. Thông thường, kế hoạch lựa chọn hình thức khuyến khích mua cổ phiếu dựa trên giá giao dịch ban đầu này. Giá cổ phiếu tại công ty con càng thấp thì giá của quyền lựa chọn, khuyến khích mua cổ phiếu càng thấp. (Ví dụ, ban đầu nếu một công ty con giao dịch với giá 5 đô la một cổ phiếu, lực lượng quản lý chấp nhận quyền mua cổ phiếu ở giá 5 đô la; nếu giá giao dịch ban đầu là 8 đô la thì lực lượng quản lý sẽ trả 8 đô la cho cổ phiếu của họ). Trong những tình huống này, nhiệm vụ của đội ngũ quản lý là thúc đẩy lợi nhuận trong việc bán cổ phiếu của công ty con sau khi giá cổ phiếu được thiết lập trên thị trường (chứ không phải là trước đó).

Nói cách khác, đừng hi vọng sẽ có một lời tuyên bố chính thức hay giới thiệu về việc tăng giá cổ phần của một công ty con mới thành lập cho đến khi giá của quyền chọn mua cổ phiếu khuyến khích ban lãnh đạo được thiết lập. Giá này có thể được thiết lập ngay sau giao dịch một ngày, một tuần, một tháng, hay nhiều hơn nữa. Đôi lúc, một sự im lặng về thành quả của một công ty con mới thành lập có lẽ không phải là một tin xấu; trong một vài trường hợp, sự im lặng này thực sự quý như vàng. Nếu bạn bị lôi cuốn bởi một công ty con nào đó, bạn có thể tìm hiểu thêm thông tin về công ty đó bằng việc xem xét hồ sơ tại SEC và xác định khi nào giá quyền lựa chọn cổ phiếu của ban quản lý được xác lập. Trong tình huống khi chương trình quyền lựa chọn cổ phiếu của ban quản lý là có thực, có thể sẽ là một ý tưởng hay khi thiết lập một loại cổ phiếu mà bạn quan tâm, trước khi ban quản lý bắt đầu thúc đẩy việc bán cổ phiếu tại công ty con của họ. Cuối cùng, ban quản lý và các cổ đông cũng sẽ chơi trong cùng một đội, nhưng thường sẽ hữu ích hơn nếu chúng ta biết khi nào “trò chơi” bắt đầu.

Có rất ít khu vực đầu tư mà những người trong cuộc có thể kiểm soát từ một phía như vậy. Bởi vì việc phân tích hành động và động cơ của người trong cuộc ở những công ty con mang lại một lợi ích riêng biệt. Bởi vì tất cả các cổ đông của công ty mẹ, hoặc là nhận cổ phiếu của một công ty con mới thành lập, hoặc là có quyền tương đương trong việc mua cổ phiếu của một công ty con mới thành lập. Thực ra, có rất ít điều khoản công bằng trong việc phân chia tài sản và tài khoản nợ giữa công ty mẹ và công ty con. Tuy nhiên, có một vài cách mà những người trong cuộc có thể sử dụng quyền lực tương đối không bị ngăn chặn để xây dựng nên cơ cấu và những điều khoản của một công ty con nhằm mang lại lợi nhuận cho chính họ. Tất nhiên, bằng việc tập trung vào những động cơ của ban quản lý và những người trong cuộc khác nữa, bạn có thể biến thuận lợi của người trong cuộc thành điểm lợi của chính bạn. Điều này đặc biệt đúng khi chúng ta phân tích biện pháp thiết lập một công ty con mới.

QUYỀN MUA TOÀN BỘ

Đôi lúc, thay vì chỉ phân phối cổ phiếu miễn phí của một công ty con cho các cổ đông, công ty mẹ có thể đưa ra cho các cổ đông quyền mua cổ phiếu tại một trong những công ty phụ hay đơn vị của nó. Một cách để thực hiện điều này là thông qua hình thức phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu. Trong các quyền này, có những quyền mà hầu hết các nhà đầu tư đều quen thuộc, đó là: không liên quan đến các công ty con. Tuy nhiên, trong một số trường hợp hiếm hoi, việc trao quyền cho cổ đông là một cách tạo nên một công ty con. Điều này đáng để chúng ta phải lưu tâm nhiều hơn. Tại sao? Hãy tiếp tục nhé – bây giờ bạn nên biết điều này. (Ồ, đúng vậy. Suỵt, bạn có thể kiếm được rất nhiều tiền đấy!).

Phát hành quyền mua bán cổ phiếu là biện pháp được sử dụng thường xuyên nhất khi một công ty mong muốn tăng lượng vốn bổ sung. Thông thường, quyền này được phân bổ tới những cổ đông hiện hành của một công ty. Những quyền này, cùng với tiền mặt hay cổ phiếu cho phép các cổ đông mua cổ phiếu bổ sung (thường là có giá thấp hơn so với giá thị trường). Bằng cách mang lại quyền mua cổ phiếu cho tất cả cổ đông (nhưng không phải là bắt buộc) với giá thấp, một công ty có thể huy động lượng vốn cần thiết trong khi mang lại cho tất cả các cổ đông cơ hội mua cổ phiếu mới phát hành một cách công bằng. Nếu những cổ đông hiện tại chọn cách mua cổ phiếu bổ sung để tham gia vào đợt phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu thì lợi nhuận của họ không bị giảm bớt, cho dù có phải bán cổ phiếu với giá thấp. Thay vào đó, nếu cổ đông không muốn mua cổ phiếu bổ sung, họ có thể bán quyền đã nhận được để tham gia vào thị trường mở và mua những cổ phiếu có giá hời. Nếu không được thực ngay hoặc không được bán đúng hạn, những quyền này sẽ trở nên vô giá trị sau một khoảng thời gian nào đó.

Trao quyền cho các cổ đông cũng không mang lại may mắn cho các chủ sở hữu của những quỹ đầu tư khép kín. Những quỹ đầu tư kín, cho dù là quỹ đầu tư cổ phiếu hay trái phiếu, cũng giống như những quỹ góp chung, chỉ có lượng cổ phiếu của quỹ đưa ra là cố định (ví dụ, 20 triệu cổ phiếu được bán đại chúng với giá là 10 đô la một cổ phiếu và lượng cổ phiếu này cũng chỉ được mua và bán giống như cổ phiếu thường). Để giúp quỹ đầu tư kín tăng vốn bổ sung (và do đó tăng phí tư vấn của nhà quản lý). Công ty cần tung ra nhiều cổ phiếu hơn nữa thông qua việc mang lại quyền cho cổ đông. Theo quy tắc chung, chỉ nhà quản lý quỹ đầu tư khép kín mới thu được lợi nhuận từ hình thức mang lại quyền cho cổ đông này.

Nhưng bây giờ, hãy đến với những tin tốt lành. Khi cân nhắc đầu tư vào các công ty con thì việc trao quyền cho cổ đông có thể là một cơ hội rất tốt cho các nhà đầu tư doanh nghiệp giống như bạn. Việc trao quyền cho các cổ đông thường được ít người biết đến và khó hiểu. Các nhà đầu tư có chiến lược thường bỏ qua hay rất thờ ơ trước những công ty con. Thường thường, một công ty mẹ sẽ phân phối miễn phí quyền mua cổ phiếu của một công ty con tới cổ đông. Sau đó, những người nắm giữ quyền có thể mua cổ phiếu tại công ty con hay chứng khoán đó trong khoảng 30 hay 60 ngày sau với giá cố định. Thường, những quyền này có thể chuyển đổi được. Điều này có nghĩa là những cổ đông không muốn mua cổ phiếu của công ty con có thể bán quyền mua của họ trên thị trường mở, và các nhà đầu tư không phải là cổ đông của công ty mẹ có thể có quyền này khi mua lại nó trên thị trường.

Thời gian, điều khoản và chi tiết cụ thể của mỗi quyền rất khác nhau. Điều quan trọng mà bạn cần ghi nhớ là: Mỗi lần bắt gặp bài viết nào về một công ty con được thành lập thông qua hình thức phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu cho các cổ đông, dù lúc đó bạn đang làm gì, hãy dừng lại và đọc bài viết đó. (Đừng tiếc thời gian, số lượng những bài viết đó rất ít). Chỉ xem xét nó thôi cũng giúp bạn có thêm cơ hội thành công rồi. Nhưng quan trọng hơn là, từ bài viết đó, bạn sẽ tập trung nỗ lực nhiều hơn để nghiên cứu một lĩnh vực đầu tư béo bở và tiềm năng hơn so với những công ty con thông thường. Bạn cũng sẽ không cần lãng phí quá nhiều sức lực vào đó. Khi gặp phiền toái hay rắc rối trong một tình huống kinh doanh cụ thể, bạn hãy xem xét qua một số khía cạnh bên ngoài của những quyền này và động cơ của những người trong cuộc. Việc này sẽ giúp bạn có thêm niềm tin để làm thêm một số việc hay thuyết phục bạn đầu tư thời gian nghiên cứu những môi trường đầu tư khác.

Vậy tại sao việc kết hợp một công ty con với hình thức trao quyền cho cổ đông lại tạo ra cơ hội mang lại lợi nhuận lớn như vậy? Rốt cuộc, những nhân tố trong việc mua bán cổ phiếu tại một công ty con theo đúng tiêu chuẩn – ngoại trừ trường hợp bán cổ phiếu của công ty con không được cổ đông của công ty mẹ quan tâm – lại không có mặt trong quá trình phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu. Thực tế, trong hình thức trao quyền cho các cổ đông thường xảy ra các trường hợp đối ngược. Cổ đông – những người có thể sử dụng quyền của mình để mua cổ phiếu thực – vẫn cân nhắc việc mua cổ phiếu của một công ty con mới thành lập, ngay cả khi các nhân tố mua – bán của quá trình phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu theo đúng tiêu chuẩn không xuất hiện trong tình huống này. Không giống như việc trao quyền cho các cổ đông thông thường, những quyền này không đảm bảo một giá mua hời. Bởi vì, vào khoảng thời gian trao quyền, mọi người không biết rằng liệu công ty con đó sẽ giao dịch với giá cao hơn hay thấp hơn giá mua được xác định trong quyền phát hành. Vậy cơ hội lợi nhuận đến từ đâu?

Câu trả lời nằm ở bản chất của việc phát hành quyền mua hoặc bán cổ phiếu. Nếu cổ phiếu ở một công ty con được công ty mẹ bán (thông qua hình thức phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu), thì theo định nghĩa, công ty mẹ đã lựa chọn không mua những phương án khác. Những phương án này có thể bao gồm việc bán cổ phiếu của công ty con cho các công ty khác hay bán một lượng lớn cổ phiếu của công ty con ra công chúng (thông qua việc phát hành quyền mua hoặc bán cổ phiếu được bảo lãnh). Cả hai phương án trên đều yêu cầu giám đốc của công ty mẹ xác định giá bán những tài sản của công ty con với giá cao nhất có thể. Nhưng nếu công ty mẹ sử dụng việc phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu để bán công ty con cho cổ đông của mình thì nó không cần làm như vậy. Thực tế, việc giới hạn đối tượng người mua ban đầu của công ty con đến cổ đông của công ty mẹ và các nhà đầu tư (người vẫn hoạt động trong thị trường mở) thường không phải là cách tốt nhất để tối đa hóa doanh thu của công ty con. Tuy nhiên, trong quá trình phát hành quyền mua hay bán, tất cả các cổ đông đều được đối xử công bằng. Tất cả cổ đông của công ty mẹ đều có cơ hội ngang bằng nhau trong việc mua cổ phiếu tại công ty con, ngay cả khi giá mua rất hời.

Các công ty con thường có xu hướng chung là định một mức giá rất hấp dẫn khi phát hành quyền mua hay bán (Ghi chú: Những nhà đầu tư mua lại các quyền này trong thị trường mở phải cộng giá mua quyền đó với giá được đưa ra để tìm tổng chi phí). Họ cũng phải xem xét lại cơ cấu phát hành quyền mua hay bán để làm sao có thể mang lại những thông tin quan trọng. Một dấu hiệu của việc phát hành quyền mua hay bán với giá hời là bạn có thể đăng ký nhiều quyền mua hay bán. Quyền đăng ký nhiều mang lại cho các nhà đầu tư quyền mua những cổ phiếu bổ sung tại công ty con khi việc phát hành quyền mua không được thực hiện đầy đủ. Bởi vì những quyền này rất khó hiểu, nên luôn cần có hình thức thanh toán bổ sung, giao dịch với tổng lượng tiền nhỏ (so với giá trị của cổ phiếu công ty mẹ), và có khoảng thời gian “chết” khi người nắm giữ quyền không thực hiện hay bán những quyền đó. Trong trường hợp phát hành quyền mua 3 triệu cổ phiếu đã được phân bổ và quyền mua 1 triệu cổ phiếu đã hết hạn nhưng vẫn chưa sử dụng, thì quyền đăng ký nhiều sẽ cho phép những người nắm giữ – người mua cổ phiếu trong đợt phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu – có thêm một cơ hội mua 1 triệu cổ phiếu còn lại, dựa trên cơ sở chia theo tỷ lệ.

Những người trong cuộc, những người mong muốn tăng phần trăm quyền sở hữu trong một công ty con mới thành lập với giá hời, có thể làm như vậy (thực hiện quyền đăng ký nhiều trong đợt phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu). Trong một số trường hợp nhất định, những người trong cuộc có thể phải tiết lộ ý định đăng ký nhiều cổ phiếu ở một công ty con mới thành lập (trong hồ sơ SEC). Mục đích của việc tiết lộ những thông tin này đã quá rõ ràng. Hãy chú ý thêm một điều nữa: Khi quyền đăng ký nhiều được thực hiện thì việc phát hành quyền mua hay bán ra công chúng sẽ ít đi (giá giao dịch của những quyền đó cũng sẽ thấp hơn). Khả năng mua cổ phiếu của những người nắm giữ quyền này trong đợt phát hành quyền mua hay bán không còn chắc chắn. Cơ hội lựa chọn cổ phiếu giá hời ở những công ty con lúc này dành cho người trong cuộc và các doanh nghiệp đầu tư.

Mặc dù chúng ta có thể kể thêm một số cách đầu tư khác nữa nhưng quá trình phát hành quyền mua hay bán ở các công ty con rất dễ mang lại lợi nhuận lớn. Quan trọng hơn nữa, bạn phải ghi nhớ một khái niệm đơn giản: Cho dù giao dịch đó được cơ cấu như thế nào, nếu bạn có thể hiểu rõ những bên liên quan trong công ty con đó, bạn sẽ tìm được một trong những chìa khóa quan trọng nhất để lựa chọn cơ hội đầu tư tốt nhất. Ví dụ tiếp theo về một trong những giao dịch phức tạp nhất và béo bở nhất ở các công ty con đã chứng minh rằng: Chú ý đến những người trong cuộc là cách thức duy nhất để biết điều gì sẽ tiếp diễn.

Thực tế, cơ cấu của những công ty con giống như là những bộ thời trang phức tạp và không mấy hấp dẫn. Thậm chí, đôi khi, tôi còn phân vân liệu những người trong cuộc có thực sự muốn đi theo con đường đó hay không. Sau khi biết chắc những người trong cuộc có lý do để hy vọng rằng tôi sẽ không mua cổ phiếu của công ty con mới thành lập, tôi sẽ dồn toàn bộ thời gian và sức lực để tìm hiểu điều gì đang xảy ra.

Trường hợp này có thể quá phức tạp đối với các nhà đầu tư nhưng đó không phải là điều quan trọng. Thậm chí, nhiều khi, các chuyên gia cũng bỏ qua nó. Điều duy nhất mà bạn cần luôn ghi nhớ là: Đừng quên kiểm tra động cơ của người trong cuộc. Bạn cần hiểu rõ động cơ của họ là gì.

Vậy, hãy cùng tìm hiểu xem chúng ta có thể kiếm tiền bằng cách nào.

NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG

Hãng truyền thông Liberty Media/Tập đoàn viễn thông Tele-Communications

Câu hỏi: Làm thế nào để có thể kiếm được 500 triệu đô la chỉ trong thời gian chưa đầy hai năm?

Trả lời: Hãy bắt đầu với 50 triệu đô la và hỏi kinh nghiệm của John Malone. Ông ấy đã làm được điều đó.

John Malone, Giám đốc điều hành của Tele-Communications, đã tận dụng việc ra đời của những công ty con và biến chúng trở thành một cơ hội đầu tư được đánh giá là một trong những cơ hội đầu tư mang lại nhiều lợi nhuận nhất mọi thời đại. Bất cứ ai có quyền mua cổ phiếu của Liberty Media, một công ty con của Tele- Communications, trong đợt phát hành quyền mua và bán cổ phiếu đều có thể kiếm được khoản lợi nhuận gấp mười lần so với số vốn ban đầu bỏ ra. Tất cả các cổ đông của Tele-Communications (TCI) có cơ hội ngang nhau trong việc tham gia vào đợt phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu (và cả thế giới này cũng có cơ hội được mua những quyền đó). Việc phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu được thiết kế khéo léo nhằm mang lại tiềm năng lớn nhất cho tất cả những ai tham gia. Dù vậy, nó không hề khuyến khích các nhà đầu tư nắm lấy cơ hội này.

Toàn bộ hoạt động của công ty con này đều được tờ Wall Street Journal theo sát (phần lớn những hình ảnh đều được đưa lên trang nhất). Song, đa phần các nhà đầu tư chuyên nghiệp lại bỏ lỡ cơ hội kiếm được những khoản lợi nhuận kếch sù chỉ trong phút chốc đó. Hi vọng là, trong thời gian sắp tới, một cơ hội tương tự như vậy sẽ xuất hiện, và mọi người lại lờ nó đi, tất cả mọi người, ngoại trừ bạn.

Toàn bộ sự kiện này bắt đầu từ tháng 1 năm 1990. TCI, khi đó là nhà cung cấp truyền hình cáp lớn nhất nước Mỹ, thông báo sơ bộ về ý định tách những tài sản đang được lên kế hoạch (như QVC và Family Channel) và một số những tài sản sinh lợi trong hệ thống truyền hình cáp – những tài sản có giá trị ước tính gần 3 tỷ đô la. Thông báo được đưa ra với mục đích phản hồi lại những áp lực liên tiếp từ phía Washington. (Thực ra, Washington muốn giảm bớt ảnh hưởng của những nhà cung cấp đường truyền cáp lớn nói chung, và TCI nói riêng trong ngành cung cấp đường truyền cáp). Dưới sự dẫn dắt của John Malone, TCI trở thành một nhân vật cỡ bự trong ngành công nghiệp này, đã biết vận dụng nguồn sức mạnh sẵn có của mình, công bố những nhà cung cấp chương trình sẽ được tham gia vào hệ thống đường truyền cáp của nó và những điều khoản khi tham gia. Với quy mô rộng lớn (chiếm 25% trong số hầu hết các hộ gia đình sử dụng đường truyền cáp), TCI thường xuyên đưa ra kênh đường truyền cáp mới và trong một vài trường hợp, nó đã sử dụng mục đích của mình để theo đuổi lợi nhuận cổ phiếu. Đáp lại mong muốn kiểm soát toàn bộ ngành công nghiệp này, Washington đã thảo luận và đưa ra quyết định giảm bớt khả năng cung ứng của các nhà cung cấp hệ thống cáp, nhờ đó có thể sở hữu những khoản lợi nhuận khổng lồ từ phía các nhà cung cấp chương trình.

John Malone đã tuyên bố mục đích thành lập công ty con là giảm bớt một số áp lực từ phía Washington, và tăng cường khả năng hoạt động linh hoạt cho Tele-Communications. Cách làm là tách những tài sản đang được lập trình của công ty ra khỏi hệ thống đường truyền cáp đã được kiểm soát. Một lý do điển hình hơn cũng đã được đưa ra khi thông báo việc thành lập công ty con – đó là giá trị của các cổ đông. Hy vọng các công ty con sẽ làm tăng giá trị cổ phiếu của những tài sản đang được lập trình ở công ty mẹ và một số cổ phiếu trong những hệ thống đường truyền khác. Những cổ phiếu này đã được xem như là không còn tồn tại trong danh mục lớn về những tài sản đường truyền cáp của TCI.

Tháng 3 năm 1990, tờ Wall Street Journal đã thông báo một bước phát triển mới. Tele-Communications đã lựa chọn quyền phát hành cổ phiếu để gây ảnh hưởng với công ty con và những tài sản cáp. Các cổ đông cũng được phép đổi một vài cổ phiếu TCI để lấy những cổ phiếu trong một công ty mới. Việc phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu được lựa chọn chủ yếu dựa trên các lý do về thuế. (Nếu việc này được cơ cấu đúng đắn, các cổ đông chỉ bị đánh thuế dựa trên giá trị của những quyền mà họ nhận).

Thông báo vào tháng 3 cũng tiết lộ một vài thông tin khác. Công ty con không lớn như lời tuyên bố ban đầu. Chẳng bao lâu nữa, TCI sẽ có kế hoạch tách 1 tỷ đô la cổ phiếu của kênh phát thanh truyền hình Turner. Tháng 10 năm 1990, chỉ trước khi các hồ sơ SEC sơ bộ được thành lập, việc phân phối 50% cổ phiếu của Tele-Communications trong kênh Discovery cũng được đưa lên bàn thảo luận. Giá trị của toàn bộ tài sản dự định tách ra thành công ty con chỉ còn 50% so với sự mong đợi ban đầu. Thực tế, các hồ sơ SEC được lập vào tháng 11 năm 1990 và được sửa đổi vào tháng 1 năm 1991. Điều này chỉ ra rằng giá trị tài sản ước tính được dành cho công ty mới, Liberty Media, xuống còn xấp xỉ 600 triệu đô la. Bởi vì TCI có tổng lượng vốn trên thị trường là xấp xỉ 15 tỷ đô la (khoảng 6 tỷ đô la giá trị cổ phiếu và 9 tỷ đô la nợ), quy mô của Liberty sẽ giảm tương đối so với toàn bộ Tele-Communications. Nói cách khác, Liberty sẽ trở thành một công ty hoạt động thứ yếu, không mấy quan trọng cho đến khi hầu hết các nhà đầu tư quan tâm đến (và cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cổ điển có tiềm năng dành cho chúng tôi)

Theo những bài báo vào tháng 1 năm 1991, danh mục tài sản của Liberty sẽ bao gồm cả những lợi nhuận tối thiểu trong mười bốn cơ sở kinh doanh đường truyền hình cáp bao gồm 1,6 triệu thuê bao, và lợi nhuận trong 26 tổ chức khác (bao gồm mười một mạng lưới thể thao khu vực), cũng như lợi nhuận tối thiểu trên kênh Family, American Movie Classics, Truyền hình Giải trí đen, và Mạng lưới mua sắm QVC. TCI ước tính giá trị của những tài sản này xấp xỉ 600 triệu đô la. Tờ Wall Street Journal nhận định, “Quy mô của Liberty sẽ nhỏ hơn nhiều so với mong đợi của một số người. Số cổ phiếu nó phát hành chỉ dừng lại ở con số 2 triệu. Do đó, Tele-Communications chỉ có khoảng 415 triệu cổ phiếu lưu động. Trong một bài quảng cáo dài 400 trang trên The Journal, các nhà phân tích đã miêu tả công ty này là “một trong những giao dịch phức tạp nhất trong các hoạt động của lĩnh vực chứng khoán” và là nguyên nhân gây ra sự xáo trộn trong giới đầu tư. Ngoại trừ những khoản lợi nhuận của TCI ở Turner Broadcasting và kênh Discovery, một số nhà phân tích thấy rằng “Liberty là một môi trường đầu tư kém hấp dẫn”. Tờ Journal đưa ra một bài báo, viết rằng: “Theo những quy ước từ trước, trong vòng chín tháng và vào ngày cuối cùng là 30 tháng 9 năm 1990, Liberty thông báo về khoản thua lỗ trị giá 20,4 triệu đô la. Sau khi thanh toán mọi khoản cổ tức ưu đãi và khoản thuê lỗ, giá cổ phiếu sẽ xuống còn 9,77 đô la”.

Tóm lại, hình ảnh mà Liberty vẽ lên trong con mắt các nhà đầu tư không thể hiện chính xác tình hình hoạt động của nó. “Hãy lại gần đây, cơ hội đầu tư này thật tuyệt vời!”. Nếu những đặc tính cơ bản này không đủ sức thuyết phục các nhà đầu tư, thì vẫn còn nhiều điều hấp dẫn các nhà đầu tư. Ví dụ như, các cổ đông của TCI sẽ được nhận một quyền chuyển đổi cho 200 cổ phiếu mà họ sở hữu. Mỗi quyền này, cùng với 16 cổ phiếu của Tele-Communications, có thể được chuyển đổi cho một cổ phiếu của Liberty Media (những quyền này sẽ hết hạn sau 30 ngày). Với giá 16 đô la/một cổ phiếu TCI, giá cổ phiếu của Liberty sẽ là 256 đô la/một cổ phiếu. Theo thông báo, có xấp xỉ 415 triệu cổ phiếu bị giảm giá hoàn toàn, mỗi quyền (mua một cổ phiếu của Liberty) được phân phối cho 200 cổ phiếu TCI, có nghĩa là xấp xỉ 2,1 triệu cổ phiếu của Liberty sẽ được phát hành.

Với những tổ chức sở hữu khoảng 400 triệu cổ phiếu trong một tập đoàn, các công ty chỉ có khoảng 2 triệu cổ phiếu không những được xem như là không mạo hiểm và không phù hợp mà các danh mục đầu tư của họ cũng không dễ dàng đổi thành tiền mặt. Một cổ phiếu giá 250 đô cũng được xem như là rất khó khăn. Một vài tổ chức sẵn sàng giao dịch một lượng vốn dễ chuyển thành tiền mặt (với khoảng hơn 400 triệu cổ phiếu đang lưu thông) cho một lượng nhỏ cổ phiếu không dễ chuyển đổi thành tiền mặt. Việc nghiên cứu những hồ sơ của SEC đã chỉ ra mong muốn, mức giá cho 2 triệu cổ phiếu đang lưu thông của Liberty là 256 đô la/một cổ phiếu – trái ngược với hơn 20 triệu cổ phiếu thường chỉ xấp xỉ 26 đô la/một cổ phiếu, hay 40 triệu cổ phiếu có giá 13 đô la/một cổ phiếu. Từ đây có thể thấy: “Tỷ lệ trao đổi của cổ phiếu Liberty so với cổ phiếu TCI được lựa chọn là nhằm giảm thiểu tổng số lượng cổ phiếu thường (Liberty) – được phát hành lần đầu tối đa là xấp xỉ 2 triệu cổ phiếu. Tỷ lệ trao đổi này không phải là dấu hiệu thể hiện giá trị chứng khoán của Liberty”. Ở đây, chúng ta có thể tạm hiểu là “Chúng tôi chọn 2 triệu cổ phiếu bởi vì chúng tôi muốn. Cổ phiếu Liberty có vẻ không hấp dẫn với các cổ đông của TCI”.

Tại sao tôi lại nói điều này? Có những thuận lợi gì khi cổ phiếu của Liberty không mấy hấp dẫn? Đối với những người bắt đầu lĩnh vực này, việc phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu đang được cơ cấu lại, bởi vì lượng cổ phiếu của Liberty được phát hành sẽ tương đương với lượng quyền được đưa ra. Nói cách khác, nếu chỉ 1 triệu quyền mua cổ phiếu Liberty được thực hiện, chỉ 1 triệu cổ phiếu của Liberty sẽ được phát hành – chứ không phải là 2 triệu cổ phiếu theo lý thuyết, nếu tất cả những người nắm giữ cổ phiếu của TCI thực hiện quyền mua cổ phiếu của họ thì điều gì sẽ xảy ra. Giao dịch đổi 1 triệu cổ phiếu cho lượng cổ phiếu TCI trị giá 256 triệu đô la tương đương với quyền mua tất cả cổ phiếu thông thường của Liberty Media (thay vì chi phí tiềm năng là 512 triệu đô la nếu tất cả 2 triệu cổ phiếu được bán). Bởi vì Liberty vẫn sở hữu một lượng tài sản tương đương, bất kể là 1 triệu cổ phiếu thường hay 2 triệu cổ phiếu thường được phát hành, nên những ai quan tâm đến tiềm năng bề nổi của Liberty có thể cũng thích một số cổ phiếu khác, hoạt động tương tự.

Giao dịch này có một lợi thế nữa. Bất cứ cổ phiếu thường nào (cổ phiếu có bề ngoài được đánh giá là có giá trị của Liberty) không được bán trong đợt phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu sẽ được thay thế bởi một cổ phiếu ưu đãi của TCI. Bởi vì, theo thông báo, TCI đang chuyển đổi những tài sản tương tự sang Liberty bất kể là lượng cổ phiếu của Liberty trị giá 250 triệu đô la hay 500 triệu đô la. Sự thâm hụt này là do việc phát hành 250 triệu cổ phiếu ưu đãi của Liberty sang TCI. Những điều khoản của cổ phiếu ưu đãi được đưa ra rất có lợi cho Liberty. Điểm mấu chốt là: Càng có ít cổ đông tham gia vào việc phát hành, cổ phiếu Liberty càng có nguy cơ mắc nợ cao. Nguy cơ này xuất phát từ việc phát hành cổ phiếu ưu đãi với giá thấp. Bởi vì cổ phiếu ưu đãi không yêu cầu thanh toán tiền mặt trong vòng 15 năm, với tỷ lệ thấp 6%, và giá trị lợi nhuận không đổi (ví dụ, không có tiềm năng bề nổi), rõ ràng đây là một cách thức rất hấp dẫn để đạt được những lợi nhuận đòn bẩy đối với cổ phiếu thường của Liberty.

Những người trong cuộc của TCI đang làm gì trong bối cảnh hỗn độn đó? Chắc chắn, họ sẽ không phung phí lời khuyên. Theo Wall Street Journal, “Hai nhà quản lý cấp cao của Tele-Communications, Chủ tịch Hội đồng quản trị – Bob Magness và –Tổng Giám đốc điều hành – John Malone, đưa ra lời khuyên là mỗi công ty nên thực hiện 50% quyền trao đổi của họ”. Tất nhiên, đây không phải là một bằng chứng làm cho mọi người xáo động. Nhưng nếu bạn tìm hiểu sâu hơn một chút, bạn sẽ thấy có một gợi ý hữu ích cho bạn.

Trong bài quảng cáo Executive Compensation viết về đợt phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu, có một câu nói như thế này: “Theo một thỏa thuận trong hợp đồng tuyển dụng của công ty, thay vì những khoản thưởng bằng tiền mặt cho những gì cống hiến cho Liberty, Tiến sỹ Malone sẽ cho các bạn quyền lựa chọn mua 100.000 cổ phiếu của Liberty với giá 256 đô la một cổ phiếu”. Điều này có nghĩa là lựa chọn này không bao gồm tất cả các loại cổ phiếu của Liberty mà Malone mua trong đợt phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu. Lượng cổ phiếu của Liberty có giá trị là hơn 25 triệu đô la. Theo những hồ sơ SEC tương tự, Malone sở hữu một lượng cổ phiếu TCI xấp xỉ 50 triệu đô la. Thành công của Liberty có ý nghĩa quan trọng đối với John Malone. Nếu 2 triệu cổ phiếu của Liberty được phát hành, 100.000 cổ phiếu sẽ tương đương với 5% cổ phiếu của tổng công ty. Còn nếu lượng phát hành là 1 triệu cổ phiếu, điều này có nghĩa là nó sẽ chiếm 10% cổ phiếu bề nổi của Liberty.

Hãy nhìn xa thêm một chút. Bạn sẽ thấy Liberty không tồi tệ như nhiều bài viết trong một số tờ báo. Toàn bộ câu chuyện không có ý định nhấn mạnh vào sự thua lỗ đã được dự đoán trước (9,77 đô la một cổ phiếu) trong chín tháng gần đây. Doanh thu (hay thiếu doanh thu) được chỉ ra trong những báo cáo cũng bao gồm hoạt động của một phần nhỏ tài sản của Liberty. Lượng tài sản của Liberty là do cổ phiếu của những công ty khác cấu thành nên. Trong khi đó, doanh thu từ các khoản lợi nhuận này không được tổng kết trong báo cáo thu nhập của Liberty (những cổ phiếu này chỉ được đề cập trong bảng cân đối chi phí của Liberty). Ngay cả tạp chí Forbes (một tạp chí mà tôi rất thích đọc) cũng thổi phồng chuyện này lên. Về thông tin thu nhập và những khoản doanh thu thấp của Liberty, Forbes viết: “Nếu bạn là một cổ đông của TCI, đừng nghĩ tới chuyện trao đổi cổ phiếu TCI để lấy cổ phiếu Liberty thông qua việc phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu. Nếu bạn đang xem xét việc mua cổ phiếu của Liberty, hãy ngừng theo đuổi mục tiêu đó”. Đúng là, thật tuyệt vời khi được đọc những bài viết về kinh doanh để tìm ý tưởng mới, nhưng bạn luôn phải ghi nhớ một quy tắc: Hãy tự làm mọi chuyện, hay ít nhất là tự mình đọc các báo cáo tài chính của công ty.

Có một số vấn đề khá thú vị liên quan đến Liberty. Theo những bài giới thiệu về công ty, đội ngũ quản lý TCI mong đợi cổ phiếu thường của Liberty sẽ mang lại một chút lợi nhuận trong tương lai. Tập đoàn Tele-Communications nắm giữ khoảng 15 tỷ khoản tài sản đường truyền cáp. Liberty được coi là phương tiện dành riêng cho dự án của TCI. Nếu John Malone vướng phải một vấn đề hóc búa khó giải quyết trong, thì TCI có thể sử dụng một số sức mạnh đáng kể của mình để giúp phần nào cho Liberty. Chắc chắn, một kênh đường truyền cáp mới có thể thu được lợi nhuận từ việc tách Liberty trở thành một phần cổ phiếu của nó. Việc này sẽ giúp kênh mới có cơ hội hoạt động trong mạng lưới đường truyền cáp rộng lớn của TCI. Liberty cũng có thể thiết lập những kênh đường truyền cáp của riêng mình. Những kênh đường truyền cáp này sẽ có sự khởi đầu rất tốt đẹp nếu chúng được thực hiện đối với tất cả các thuê bao của TCI… Vậy có bao nhiêu cách để thực hiện ý định này?

Câu trả lời là: Nó phụ thuộc vào số lượng những cổ đông của TCI sử dụng quyền việc trao đổi cổ phiếu của TCI lấy cổ phiếu của Liberty. Một bài báo đã tổng kết: “Vấn đề của Liberty là ở chỗ, một loại cổ phiếu không dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt. Tài sản và cơ cấu vốn của nó cực kỳ phức tạp, và luồng tiền mặt ban đầu từ những nguồn đầu tư luôn không đủ. Nhà phân tích Bear Steams còn nói: “Việc phát hành quyền mua hay bán không mấy hấp dẫn với hầu hết các nhà quản lý quỹ đầu tư”. Shearson Lehman nói thêm: “Khả năng thanh khoản của cổ phiếu Liberty rất hạn chế, và gần như không thể lôi kéo các nhà đầu tư chuyên nghiệp mua hay bán cổ phiếu”. Điều đó lẽ ra không có gì đáng ngạc nhiên, khi mà chỉ có khoảng 36% những quyền mua cổ phiếu phù hợp được thực hiện, khiến Liberty chỉ có thể bán được hơn 700.000 cổ phiếu Liberty trong số 2 triệu cổ phiếu phát hành.

Những quyền mua cổ phiếu của Liberty đối với lượng cổ phiếu TCI trị giá 256 đô la được giao dịch tự do và bất kỳ ai muốn giai đoạn giao dịch kéo dài 30 ngày cũng đều có thể mua. Những quyền này có giá là gần 1 đô la một quyền – nghĩa là chủ sở hữu của 200 cổ phiếu của TCI sẽ sở hữu một quyền có giá trị chưa đến 1 đô la.

Hầu hết các cổ đông của TCI không thực hiện mà cũng không bán quyền của họ. Tất nhiên, là cuối cùng hai nhà quản lý cấp cao của TCI, Bob Magness và John Malone, cũng kết thúc quyền mua cổ phiếu của họ. Cùng với 100.000 lựa chọn của mình, Malone có thể giữ gần 20% tài sản của Liberty (chiếm giữ 2% cổ phiếu của TCI). Tất cả các cổ đông của TCI có cơ hội ngang nhau nếu muốn tham gia vào Liberty của tương lai – ngay cả khi họ không được hướng dẫn chính xác.

Theo tin từ Multichannel, một tờ báo chuyên nghiên cứu ngành đường truyền cáp:

Các nhân viên của TCI hy vọng dù tham gia ít hơn 50% cổ phiếu, họ vẫn có đủ tư cách. Nhưng khi TCI tiết lộ chi tiết của kế hoạch, Wall Street đã đề cập đến vấn đề: Cổ phiếu Liberty không dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt, lượng tài sản và cơ cấu vốn phức tạp, và thiếu luồng tiền mặt ban đầu.

John Malone, Chủ tịch của Liberty và cũng là Giám đốc điều hành của TCI cho biết ông không mấy quan tâm đến vấn đề này, và không thất vọng trước sự thiếu nhiệt tình của Wall Street.

Malone cũng cho biết khi cơ cấu lại giao dịch, các nhà quản lý của TCI nhận ra rằng nó không dành cho tất cả mọi người.

“Mọi người phải tự quyết định mọi việc”, Malone nói. “Bạn có thể gặp khó khăn khi thuyết phục mọi người tham gia vào một hoạt động nào đó”.

Chắc chắn là vậy. Điều đó có vẻ rất hợp lý. Khi bạn kiếm được gấp 10 lần nguồn vốn ban đầu của mình trong vòng chưa đầy hai năm (công bằng mà nói, thậm chí Malone có thể không chờ đợi kết quả đó), bạn có thể khiến các nhà đầu tư không còn nghi ngờ gì nữa.

Tái bút: Chưa đầy một năm sau đợt phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu, Liberty tách lượng cổ phiếu của mình – 20 cổ phiếu lấy một cổ phiếu. Khả năng thanh khoản lớn hơn đã hấp dẫn cả các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà phân tích.

TÓM TẮT NHANH: CÁC CÔNG TY CON

Trước khi kết thúc chương này, chúng ta hãy cùng nhau điểm qua một vài ý chính:

1. Nói chung, các công ty con hoàn toàn có thể chiến thắng trên thị trường.

2. Lựa chọn lĩnh vực đầu tư của mình trong các công ty con, từ đó có thể tạo nên những kết quả tốt hơn các công ty con thông thường.

3. Những đặc tính nhất định cho thấy công ty con có thể đem lại lợi nhuận khổng lồ:

a. Các tổ chức không muốn đầu tư vào những công ty con (lý do không phải bởi vì thành tích đầu tư).

b. Những người trong cuộc muốn đầu tư vào các công ty con.

c. Một cơ hội đầu tư tiềm ẩn trước đó không hiện ra trong các giao dịch tại công ty con (ví dụ, cổ phiếu rẻ, một ngành kinh doanh có nhiều triển vọng, tình huống mắc nợ rủi ro/phần thưởng)

4. Bạn có thể xác định và phân tích những bài giới thiệu bằng cách đọc những bài báo về kinh doanh và theo dõi hồ sơ tại SEC.

5. Hãy chú ý rằng “công ty mẹ” có thể trả cổ tức hậu hĩnh.

6. Những công ty con và việc phát hành quyền mua hay bán cổ phiếu tạo ra cơ hội đầu tư duy nhất.

7. Hãy chú ý đến những người trong cuộc (Tôi đã đề cập đến điều này chưa nhỉ?)


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.